30/7/10

Kiệt Tấn - Buồn nôn, Sartre thơ thẩn trước cổng chùa (1)

Kiệt Tấn
Buồn nôn, Sartre thơ thẩn trước cổng chùa


"Je comprenais la Nausée, je la possédais."
Sartre

"Xá lợi tử! Thị chư pháp không tướng"
Bát nhã Tâm Kinh



A. Dẫn nhập

L’existentialisme, Thuyết hiện sinh của Sartre là triết thuyết rất thịnh hành trong thập niên 1960. Buồn nôn, phi lý là thái độ rất thường thấy trong giới trí thức trẻ vào thời kỳ này. Lúc đó, người viết mới vào lứa tuổi 20 nên không rõ Thuyết hiện sinh là cái gì cho lắm. Bây giờ, hơn 40 năm sau mới có dịp trở lại tìm hiểu cái hiện tượng “buồn nôn, phi lý”, “rong rêu sỏi đá” của các bậc đàn anh mình thời trước.


Rồi buồn nôn chợt đến

[…] Như vậy, khi nãy tôi ở trong công viên. Rễ cây marronnier lặn sâu trong đất, ngay dưới băng ghế tôi ngồi. Tôi không còn nhớ ra đó là một cái rễ cây. Các từ ngữ đã tan biến, và cùng tan biến theo nó ý nghĩa của sự vật, cách sử dụng chúng, những dấu ghi mờ nhạt mà người ta đã vạch trên mặt chúng. Tôi ngồi, người hơi cong, đầu cúi, một mình đối diện với khối vật đen đúa và gút mắc, hoàn toàn thô thiển và nó làm tôi sợ. Và rồi trong tôi chợt bừng sáng. Điều đó khiến tôi ngộp thở. Trước những ngày gần đây, chưa bao giờ tôi linh cảm "hiện hữu" muốn nói lên điều gì. Nếu có ai đó hỏi tôi hiện hữu là gì, có lẽ tôi sẽ trả lời một cách thành thật rằng nó chẳng là gì cả, nó chỉ vỏn vẹn là một hình thể trống rỗng (forme vide) ghép lên sự vật từ phía bên ngoài mà không làm thay đổi một mảy may nào bản chất của sự vật. Và rồi thế đó; bất thình lình, nó có đó, sáng trưng như ban ngày: hiện hữu thình lình được vén màn. Nó đã đánh mất cái dáng vấp vô hại của thể loại trừu tượng: chính nó là cái chất bột (pâte) của sự vật, cái rễ cây này được nhồi nặn trong chất hiện hữu. Hoặc đúng hơn, cái rễ cây, hàng rào của khu vườn, băng ghế, loại cỏ mọc lơ thơ trên thảm cỏ, tất cả đều tan biến; cái đa dạng (diversité) của sự vật, tính cá biệt (individualité) của chúng chỉ là cái dáng dấp bên ngoài, một lớp sơn. Lớp sơn đã tan chảy, chỉ còn lại những khối chất (masses) quái dị và mềm nhão, hỗn độn – trần truồng, một sự trần truồng kinh khiếp và tục tĩu (obscène).

[…] Khoảnh khắc đó thật là phi thường. Tôi ngồi đó, bất động và lạnh cóng, đắm chìm trong một nỗi tê mê khủng khiếp. Nhưng, ngay trong lòng tê mê đó, một điều mới tinh khôi vừa chợt xuất hiện: tôi hiểu sự Buồn nôn, tôi mang nó trong người. Nói đúng ra thì tôi không tự diễn đạt các khám phá của mình. Nhưng tôi tin rằng, giờ đây, rất dễ cho tôi dựng chúng lên thành chữ. Điều cốt lõi là tính ngẫu nhiên (contingence). Tôi muốn nói, theo định nghĩa, hiện hữu không phải là điều tất định (nécessité). Hiện hữu là có đó, giản dị như vậy thôi; các thể vật hiện hữu (existants) xuất hiện, chúng để cho ta gặp gỡ, nhưng không bao giờ ta có thể diễn dịch (déduire) được chúng. (Trích La Nausée, J.P. Sartre, Gallimard xuất bản 1938)

Sartre (Jean-Paul Sartre / JPS) nổi tiếng là người có lối viết triết học vô cùng bí hiểm và tối tăm. Tác phẩm nền tảng của triết thuyết hiện sinh, L’Être et le Néant (Hữu thể và Hư vô) không có mấy ai đọc nổi và thấu triệt được hết những gì mà Sartre muốn thuyết giảng. Chẳng hạn như câu Sartre viết như sau về ý thức: "La conscience est un être pour lequel il est dans son être question de son être en tant que cet être implique un être autre que lui." (Cái gì être? Và être cái gì? Giống như là viết truyện trinh thám. Bí mật hoàn toàn). Theo sự hiểu biết thô thiển của người viết thì đại ý của câu nói "hoả mù" đó là: "Ý thức là ý thức về một cái gì đó khác hơn mình." Và cái ý này là của Husserl. Có thể là đã hoàn toàn hiểu sai ý của Sartre. (Nói khó hiểu thì bị người khác hiểu sai là điều… dễ hiểu). Có người đã diễu cợt: "Triết lý là gì ? Triết lý là nói thật rắc rối về những điều rất là giản dị." Có dụng ý gì trong cái "rắc rối" (cuộc đời) đó chăng?

Bởi lẽ đó, trước khi trình bày quan điểm của mình, người viết thấy cần lược dịch bài diễn giải bản văn trên của JPS, do Jean Vioulac (JV), một giáo sư và học giả am tường triết học Tây phương viết ra, để làm sáng tỏ những điều mà Sartre muốn diễn đạt.


Hữu thể trong trạng thái thô thiển (état brut)

La Nausée (Buồn nôn) mà Sartre viết ra trong đầu những năm 1930 vẫn còn là một trong những ví dụ thành công nhứt của thể loại "tiểu thuyết triết lý". Quyển sách được trình bày như là nhựt ký thân thiết của một người trai trẻ, Antoine Roquentin. Nó dựa trên một phần lớn đời sống của Sartre ở Le Havre, nơi mà ông được bổ nhiệm làm giáo sư trung học sau khi được nhận vào cấp thạc sĩ triết học.

Qua hành động viết lách, Roquentin cố thử tìm hiểu cái cảm giác bất ổn lan man đang làm cho mình khắc khoải, cái mà anh ta gọi là "buồn nôn". Trích đoạn trên là giải đáp cho sự bí ẩn, khoảnh khắc mà Roquentin chợt hiểu buồn nôn là gì: một kinh nghiệm hiện sinh, qua đó cái sự thật của hữu thể hiển lộ. thì ra buồn nôn là một kinh nghiệm của hữu thể trong trạng thái thô thiển (état brut), nơi đó con người đối đầu với thế giới mà không có sự trợ giúp của các điểm chuẩn (repères) quen thuộc, những chữ (mots) hoặc nghĩa (significations). Sự đóng góp có tính cách quyết định của khái niệm "ý hướng" (intentionnalité) chính ở chỗ nó chỉ cho thấy rằng các sự vật tự nó không có ý nghĩa (sens), chúng tiếp nhận một ý nghĩa từ một ý thức (conscience) nhắm vào chúng và quan sát chúng.

Như vậy, đối với một người đi dạo ngồi trong công viên, không có một cái cây nào tự nó, một cái cây bằng chính nó và bởi chính nó, và nó được người ngồi đón nhận y như vậy: thoạt tiên có một mớ dữ kiện thô thiển, những màu sắc và hình thể tiến đến với ý thức trong một luồng (flux) liên tục và không phân biệt, giữa những dữ kiện khác cũng không phân biệt như nhau. Rồi khi đó, ý thức sẽ sắp xếp các dữ kiện, phân biệt màu xanh lục của tàng lá với nền xanh lơ của bầu trời, nhưng lại nối liền nó với màu nâu sậm của thân cây và ban cho tổng hợp đó cái nghĩa (sens) "cây". [(NDT) sens: nghĩa, ý nghĩa].

Lúc đó, buồn nôn (nausée) chính là cái kinh nghiệm qua đó ý thức không thêm gì hết, không áp đặt một ý nghĩa (sens) nào hết lên thế giới, và chỉ bằng lòng đón nhận: kinh nghiệm đó cho thấy rằng hữu thể chẳng là gì khác hơn là sự hiện diện thuần túy ù lì (massive) và không nghĩa lý (insignifiante), cái "chất bột" (pâte) của sự vật có đó, giản dị như vậy, không nguyên do (cause), không lý do (raison).

Sartre định nghĩa cái đặc tánh (caractéristique) căn bản đó của hữu thể là "ngẫu nhiên" (contingence). Nó xuất phát từ tiếng la-tinh contingencia, sự "tình cờ" (hasard). Cái ý niệm triết học của "ngẫu nhiên" đối chọi với ý niệm "tất định" (nécessité): ngẫu nhiên là tất cả những gì cũng có thể khác hơn cái nó đang là (autrement qu’il n’est), tất cả những gì có thể không hiện hữu, và cũng không có lý do gì để hiện hữu (raison d’être). Như vậy, ngay từ trong yếu tính của mình, hữu thể là phi lý (absurde), và chính đó là kết luận của Roquentin trong La Nausée (Buồn nôn): "Khi nãy, tôi đã làm một kinh nghiệm về tuyệt đối (absolu): tuyệt đối hoặc phi lý". [(NDT) Absurde: phi lý, vô nghĩa]

L’Être et le Néant (Hữu thể và Hư vô) hoàn toàn đặt nền tảng trên sự phân biệt giữa hai vùng của hữu thể triệt để đối nghịch nhau, vùng của "être pour soi" (hữu thể cho nó, quy ngã) nghĩa là vùng của ý thức, và vùng "être en soi" (hữu thể tự nó, tự ngã) vốn là cái chất bột ù lì và phi lý mà ta chỉ có thể chứng kiến sự hiện diện của nó. Sartre ý niệm hoá như thế, cái điều mà buồn nôn là kinh nghiệm trực tiếp. (Jean Vioulac - trích Le Point HS. n° 17-2008)

Trích đoạn của Sartre và bài viết trên của Jean Vioulac xác định những từ ngữ thông thường và triết học sẽ được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong bài viết này: buồn nôn, chất bột, hình thể, khối chất, thô thiển, lớp sơn, có đó, hiện diện, hiện hữu, hữu thể, hư vô, ý thức, bản chất, ngẫu nhiên, tất định, ý hướng, phi lý, ý niệm, en soi, pour soi…

Đó là những từ ngữ và ý niệm khá phổ thông trong triết học tây phương. Bài viết này cố thử làm một cuộc đối chiếu các quan niệm và ý niệm của triết học tây phương với các quan niệm và tư tưởng đông phương. Đúng hơn là với giáo lý của đạo Phật. Và chính xác hơn nữa là với những luận thuyết được đưa ra trong Ma ha Bát nhã Ba la mật đa Tâm Kinh, gọi tắt là Tâm Kinh. Để cho việc đối chiếu được dễ dàng và mạch lạc, trước hết xin dẫn lại dưới đây một vài trích đoạn bằng Hán văn của Tâm Kinh, sẽ được bàn tới trong bài này.


Bát nhã Tâm Kinh

Quán tự tại bồ tát, hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.

Xá lợi tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị.

Xá lợi tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức […]; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới […] vô khổ, tập, diệt, đạo, vô trí diệc vô đắc.

Đối với các vị đã làu thông kinh Phật, người viết xin lãnh ý, không dám lạm bàn. Đối với các vị chưa có dịp làm quen với Phật pháp, quý vị có thể tìm hiểu Tâm Kinh qua những kinh sách bày biện trong các chùa hay trong các web sites về Phật giáo. Tuy nhiên, để cho người đọc bình thường có thể theo dõi việc đối chiếu và lý luận, người viết xin trình bày thêm bản dịch từ chữ Hán sang chữ Việt của Sa môn Thích Thiện Hoa, và tóm lược các khái niệm căn bản trong giáo lý nhà Phật liên hệ tới Tâm Kinh:

Ngài Quán tự tại Bồ tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát nhã rồi, ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát nhã) nên không còn các khổ.

Ngài gọi ông Xá lợi tử dạy rằng: "Này Xá lợi tử! Năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) chẳng khác với "không" (Bát nhã), "không" chẳng khác với năm uẩn; năm uẩn tức là "không", "không" tức là năm uẩn.

Này Xá lợi tử! "Tướng không" (Bát nhã) của các pháp đây, nó không sanh không diệt, không nhơ không sạch, không thêm không bớt.

Bởi thế nên, trong "Tướng không" (Bát nhã) này, không có năm uẩn là: sắc, thọ, tưởng, hành, thức […]; không có nhãn thức, cũng không có ý thức […] Không có "Trí" tu chứng và cũng không có đạo quả để chứng đắc.".

Giải thích các từ ngữ:

Bát nhã: Trung Hoa phiên âm chữ Phạn Prajnà, có thể dùng tạm nghĩa Trí huệ (có chỗ dùng Trí tuệ). Tiếng Anh gọi là Wisdom, tiếng Đức là Weisheit, tiếng Pháp là Sagesse.

Sắc, tức là Sắc uẩn: Các vật chất chứa nhóm lại thành ra những hình tướng, như thân thể và cảnh vật…

Tinh thần: gồm 4 uẩn: thọ, tưởng, hành, thức. Cộng với "sắc" thành ngũ uẩn.

Thọ, tức là Thọ uẩn: Sau khi tiếp xúc với cảnh rồi, sanh ra lãnh thọ (khổ, vui, buồn…)

Tưởng, tức là Tưởng uẩn: Tưởng là tưởng nhớ hình tượng của các cảnh.

Hành, tức là Hành uẩn: Hành là sự thay đổi, biến chuyển của tâm niệm.

Thức, tức là Thức uẩn: Thức là hiểu biết phân biệt.

Pháp: chỉ chung cho tất cả sự vật: tinh thần, vật chất, hữu hình, vô hình, hữu vi, vô vi, thánh, phàm, vân vân… Chẳng những bàn ghế là pháp, cho đến hư không cũng là pháp. Bóng trong gương, trăng dưới nước là pháp, mà lông rùa, sừng thỏ cũng là pháp, cho đến tư tưởng tâm niệm cũng là pháp. Phàm những cái gì, tự nó giữ được cái bản chất của nó, làm cho người ta biết được nó là cái gì, thì đều gọi là pháp.

Niệm: nghĩa là ý tưởng, ý nghĩ. Chánh niệm là nghĩ đúng. Vọng niệm là nghĩ sai, hoang tưởng.

Tướng: tướng của các pháp thì có hình tướng

Tánh: tánh của các pháp thì không có hình tướng

Sắc bất dị không, không bất dị sắc: Tướng của các pháp chẳng khác với Tánh của các pháp. Tánh của các pháp chẳng khác với Tướng của các pháp.

Sắc tức thị không, không tức thị sắc: Tướng của các pháp tức là Tánh của các pháp. Tánh của các pháp tức là Tướng của các pháp.

Nhãn thức: cái biết của mắt, phân biệt các cảnh sắc.

Ý thức: cái biết của ý, phân biệt các pháp trần (cảnh nội tâm)

Tướng không (Bát nhã): trong Bát nhã chơn không, không có các pháp thế gian, cũng không có các pháp xuất thế gian. Trong Bát nhã Tâm Kinh, sau rốt cũng không có quả vị Phật. Tóm lại, là "không có Đặng cái gì hết cả".

Cái không trong tướng không (không tướng) đây không phải là hư không, ngoan không hay là cái không đối đãi với cái có. Cũng không phải thủ tiêu hết các vật hữu hình mà nói là không. Và cũng không phải là cái không của Tiểu thừa (Thiên không).

Cái không đây tức là bản tánh thanh tịnh (bản tánh không), vì không có các hình tướng nên gọi là không tướng (tướng không). Vì nó không sanh diệt, không hư dối nên cũng được gọi là chơn không, hay thật tướng, chơn tướng, chơn tánh, chơn tâm, chơn như, vân vân…

Tóm lại Tánh của các pháp là "chơn tâm thanh tịnh sáng suốt" không có các hình tướng nên gọi là không tướng, hay Bát nhã chơn không.

Bát nhã Tâm Kinh: nội dung của bài kinh Bát nhã (gồm 260 chữ) mô tả về Có và Không, về Không và Có. Người nào nhận thức được rằng sự hiện hữu này là không thường còn (vô thường), không bất biến, luôn luôn thay đổi, thì đó là cái nhìn của Bát nhã.


Khuôn khổ bàn luận

Đã có rất nhiều bộ sách khảo cứu, tham luận được viết ra để diễn giải, giải thích và minh chứng Bát nhã Tâm Kinh. Bài viết này không có tham vọng lặp lại công việc đó. Tuy nhiên, nếu không có công việc tham luận và diễn giải thì khó lòng mà lãnh hội được Tâm Kinh. Đó là chướng ngại không thể nào tránh được. Bởi lẽ, đối với một người được đào tạo trong truyền thống tây phương, rất khó mà thấu triệt được và chấp nhận cái lý luận có vẻ đầy mâu thuẫn và bí hiểm của Tâm Kinh. Dù biết vậy, nhưng người viết cũng sẽ cố gắng hết sức mình để cho bài viết được mạch lạc, cũng như lập luận và dùng chữ sao cho một người bình thường cũng có thể theo dõi và hiểu được. Do đó sẽ không tránh được các đoạn dài dòng và lặp lại, hầu cho lý luận ở đoạn đó được liên tục và dễ lãnh hội. Các ý chính thường khi xen kẽ nhau, không thể nào tách rời minh bạch được, thành thử phải nhắc lại. Bài viết sẽ sử dụng nhiều ví dụ và ẩn dụ cụ thể để diễn đạt các ý niệm trừu tượng, hầu cho việc tiếp nhận các ý niệm và các lập luận được dễ dàng.

Trước tiên, người viết sẽ duyệt qua các quan điểm của Sartre và diễn giải của Jean Vioulac trong hai trích đoạn dẫn ở đầu bài. Sau đó, sẽ đem các điểm này đối chiếu với khoa học, đồng thời cũng đối chiếu với Tâm Kinh và nhãn quan của Phật giáo. Trong lúc đối chiếu, người viết sẽ đóng góp ý kiến và phát biểu quan điểm của riêng mình. Quan điểm nào cũng chỉ là một quan điểm. Nó có thể đúng, có thể sai, như mọi quan điểm khác. Nó có thể phù hợp hoặc không phù hợp với quan điểm của người đọc. Nó có thể được thảo luận thêm, bổ túc thêm, hoặc phản bác toàn bộ.

Cũng cần minh định là bài viết này chỉ giới hạn trong nội dung của trích đoạn La Nausée của Sartre và bài diễn giải của Jean Vioulac về quan niệm triết học của Sartre. Người viết không có tham vọng, và cũng không có đủ kiến thức để bàn về triết thuyết mà Sartre đề ra trong L’Être et le Néant. Người viết cũng không tập trung bài viết vào sự thuyết giảng giáo lý nhà Phật, bởi lẽ đó không phải là mục đích của bài viết này. Bài viết này không có tính cách khảo cứu chuyên môn. Vì vậy, sẽ có những sơ hở và thiếu sót không tránh được. Bài viết được phân làm 3 tiết mục chính. Người đọc có thể tìm hiểu thêm các đề tài thảo luận qua những sách vở chuyên khoa.

Bàn luận là bàn luận trên quan điểm. Sartre và Jean Vioulac chỉ là những cái tên được nêu ra để làm qui chiếu, chớ không phải để nhắm vào. Bàn luận quan điểm. Không đả kích cá nhân. Tuy nhiên…


MỘT: Lý do hiện hữu – Ý nghĩa – Phi lý / Vọng chấp – Hý luận

Đi vào vấn đề

Sartre: Hiện hữu là có đó, giản dị như vậy thôi; các thể vật hiện hữu xuất hiện, chúng để cho ta gặp gỡ, nhưng không bao giờ ta diễn dịch được chúng.

Đoạn văn cho thấy, khi bất ngờ đối diện với sự vật, công việc đầu tiên của Sartre là cố gắng diễn dịch sự hiện hữu của nó. Bởi có cố gắng diễn dịch nên mới thấy rằng nó không thể nào diễn dịch được. Diễn dịch là nỗ lực nhằm diễn giải, giải thích. "Hiện hữu là có đó". Đây là một ghi nhận, không phải là giải thích. Nhưng vì nguyên do gì và lý do gì mà thình lình sự vật xuất hiện và có đó? Nó không có đó không được sao? Đâu có gì bắt buộc nó nhứt thiết phải có đó. Vậy mà nó vẫn ngang nhiên có đó, ù lì, câm nín. Không tìm được giải thích, Sartre ớn lạnh. Và buồn nôn.

Jean Vioulac: Kinh nghiệm đó cho thấy rằng hữu thể chẳng là gì khác hơn là sự hiện diện thuần tuý ù lì và không nghĩa lý, cái "chất bột" của sự vật nó có đó, giản dị như vậy, không nguyên do (cause), và không lý do (raison) […] Như vậy, ngay từ trong yếu tính của mình, hữu thể là phi lý (absurde).

Khi đặt vấn đề nguyên do và lý do là ta muốn giải thích cái hiện hữu của sự vật: "Nó từ đâu đến? Đến để làm gì? Và đi về đâu?" Đại để là như vậy. Những câu hỏi muôn đời. Và mỗi người đáp một cách.

Trước hết, cần minh định một điều: Khi đặt câu hỏi, khi đặt vấn đề mà không có giải đáp, có thể là đã đặt sai câu hỏi, hoặc đã ngụy tạo ra vấn đề ngay từ đầu. Triết học và siêu hình có rất nhiều vấn đề ngụy tạo. Chẳng hạn hỏi: "Tại sao (vũ trụ) khởi đầu lại có một cái gì, thay vì không có gì hết?" Đáp: "Phải có một cái gì để cho ông mới có chuyện để mà hỏi!" Cũng giống như “To be or not to be, that’s the question”, thay vì “that’s not the question”. Phải “to be” thì ông mới có “question” chớ.

“Từ đâu đến?” Theo Thiên Chúa: “Con người đến từ cát bụi, và trở về với cát bụi.” Theo đạo Phật: “Con người lẩn quẩn trong luân hồi.” Hỏi: “Cái rễ cây này từ đâu đến?” Nó đến từ hạt mầm của cây. Hỏi: “Sartre từ đâu đến?” Sartre đến từ bụng mẹ. Nếu cứ hỏi tiếp và phăng ngược trở về nguồn, trở về khởi điểm, thì ta sẽ gặp cái “Big Bang”, một trong những thuyết về sự sáng tạo của vũ trụ. Đây là một giải đáp về nguyên do của hiện hữu.

“Đến để làm gì?” Đó là chất vấn về cái lý do hiện hữu (raison d’être) của sự vật. “Cái rễ cây có đó để làm gì? Sartre có đó để làm gì?” Đó là chất vấn về cái “lẽ sống”, cái ý nghĩa của hiện hữu. Nếu có ai đó cắc cớ hỏi Sartre: “Sartre có mặt trên đời này để làm gì? Cái lẽ sống, cái lý do hiện hữu của ông là như thế nào?” Chắc chắn Sartre sẽ nhíu mày và quắc mắt: “Từ từ đã nào. Chuyện đâu còn có đó. Anh phải để cho tôi sống hết cuộc đời của tôi đã, rồi mới biết tôi hiện hữu để làm gì, mới biết cái lý do hiện hữu của tôi là cái gì chớ.” Bởi lẽ đó, cái lý do để hiện hữu đầu tiên và trước tiên chính là hiện hữu chớ chẳng là gì khác. “L’existence précède l’essence”, Sartre cũng không nói gì khác hơn. Hỏi “Để làm gì?”, hỏi lý do hiện hữu là đặt cái cày trước con trâu! Ta thường tìm kiếm một cái gì bên ngoài hiện hữu để giải thích, để minh chứng, để ban ý nghĩa cho hiện hữu. Theo quan điểm của người viết: “Ý nghĩa của đời sống, chính là đời sống. Lẽ sống của “sống”, chính là sống. Cái lý do để hiện hữu chính là hiện hữu.”

Khi hỏi “Đến để làm gì?” và ban cho hiện hữu một ý nghĩa, thiết tưởng cái điều này chỉ có chính đương sự mới trả lời cho hiện hữu của mình được mà thôi. Còn như nếu trông mong vào tôn giáo, thì phải chờ đợi cho đến lúc cuộc đời ta hoàn toàn kết thúc, phải đợi đến phán xét cuối cùng của Thượng đế mới biết được. Khi đi từ cái rễ cây không lý giải được mà sang đến cái kết luận phổ quát: “Hữu thể là phi lý ngay từ trong yếu tính của nó”, Roquentin đã kết luận một cách hấp tấp, chủ quan, và cường điệu. Roquentin không phải là Thượng đế. Sartre cũng vậy.

“Đi về đâu?” Quo vadis? Cái thắc mắc và giải đáp cho thắc mắc này thuộc lãnh vực tôn giáo và siêu hình, xin miễn bàn. Một điều chắc chắn: Cuối cùng, mọi người đều đi về nghĩa địa, hoặc là giàn hoả. Không bàn chuyện siêu hình. Ở đây chỉ bàn những chuyện có hình. Dù biết rằng cái hình tướng đó chỉ là giả tướng. Có bàn, càng bàn, càng thấy nó là giả tướng.


Khoa học nói gì?

“Hữu thể có đó, không nguyên do, không lý do.” Tranh luận trong lãnh vực trừu tượng là tranh luận bất tận, và rất thường khi, lúc tạm kết, không thể nhứt quyết là ai có lý, và ai thắng ai bại rõ rệt như hai đội túc cầu trong một trận đá bóng. Bởi lẽ đó, trước hết nên bàn cãi trong lãnh vực cụ thể: khoa học. Đối với khoa học thì khi một vật có đó, là nó có nguyên do và lý do để có đó. Có điều là trong khả năng hiện tại (dụng cụ quan sát, đo lường, phương pháp khảo sát…), đôi khi ta chưa giải thích được, chưa biết được vì lý do nào mà nó có đó. Ta chưa giải thích được tại sao (pourquoi?), và như thế nào (comment?) mà nó có đó. Cái “như thế nào” còn mong có ngày biết được. Còn cái “tại sao” có lẽ ta sẽ không biết được bao giờ. Nhưng cái sự kiện ta không biết không có nghĩa là nó không có. Bằng chứng hiển nhiên: sự vật có đó. Vậy thì giải thích làm sao đây? Đáp: “Chưa giải thích được!” Và tạm đặt tên cho nó là bí ẩn (énigmes). Trong trời đất, trong cõi người, có những bí ẩn từ hàng trăm hàng ngàn năm nay, cho tới giờ vẫn còn là bí ẩn. Người ta gọi là bí ẩn chớ không gọi là phi lý. Kiên nhẫn thì gọi là bí ẩn. Hấp tấp thì la lên phi lý! Nếu tuyên bố vội vàng "Hữu thể là phi lý", thì cũng không có thể kiên nhẫn mà nhủ thầm "Hữu thể là bí ẩn". Cũng đâu có sao.

Những tình trạng "chưa giải thích được" này cũng không hiếm trong hai lãnh vực thiên văn và vật lý. Thiên văn: Trong vũ trụ người ta quan sát được những thiên thể và những hiện tượng mà tạm thời không lý giải được với những thuyết hiện có (thuyết tương đối, nhiệt động, điện từ, cơ khí lượng tử…). Vật lý: Có những hạt tử và hiện tượng nguyên tử mà khoa học, tuy rằng đã quan sát được, nhưng chưa hiểu được nguyên do và lý do xuất hiện của nó. Ngược lại, cũng có những vật chất, tuy rằng trên lý thuyết nó có, nhưng mà ta vẫn chưa quan sát được, như vật chất đen (matière noire), phản vật chất (antimatière)… Tuy nhiên, trong tinh thần khoa học thì không có gì có thể là ex nihilo, nghĩa là từ hư vô mà xuất hiện.

Nhân nói về vật chất, chính vật lý là khoa chuyên nghiên cứu về vật chất, hiện nay cũng không biết vật chất là cái quái gì hết. Hỏi các nhà vật lý đã đoạt giải Nobel: "Vật chất là gì?", các nhà bác học trứ danh này cũng ú ớ luôn. Vật chất là những hạt tử nhỏ li ti? Hay là một làn sóng? Hay là năng lượng cô đọng lại? Hay chỉ là một ảo tưởng do nhiều hiện tượng (nhiều nhân duyên) trong Trời Đất hiệp lại mà tạo ra? Một cái maya, một cái ảo tưởng, nói theo Phật ngữ. Hơn nữa, chính cái "sự thật khoa học" xưa nay được coi như là vững chắc nhứt, bây giờ cũng trở thành nghi vấn. Bởi lẽ các thuyết khoa học cũng đã "trợt vỏ chuối" nhiều phen. Trở lại cái rễ cây của Roquentin, tới khoa học cũng còn chưa biết nó là cái quái gì, mà bây giờ Sartre lại nói về cái bản chất, cái yếu tính và phán rằng "nó không có lý do để hiện hữu" thì quả thiệt là… phiêu lưu văn nghệ (hay triết lý? hoặc siêu hình?). Cái có hình còn chưa biết được, ở đó mà…

Hư vô (néant) khác với chơn không (vide). Hư vô (theo nghĩa của Sartre?) là cõi không còn gì hết, đi vào đó là biến mất tuyệt đối, "tiêu tùng" vĩnh viễn. Còn chơn không (phần nào hiểu theo nghĩa Phật giáo và Lão tử) là cõi không có giới hạn và cũng không có gì, vật chất lẫn không vật chất, nhưng lại có tiềm năng tái tạo hiện hữu (chơn không diệu hữu). Tiềm năng của chơn không nó vô biên. Một bằng chứng cụ thể: chơn không chứa được hết muôn vật, muôn loài, muôn pháp. Theo nghĩa này thì chơn không là "Mẹ của tất cả". Thí dụ: không có chơn không thì lấy gì mà chứa đựng vũ trụ? Lấy đất mà chứa sắt, phỏng đặng chăng? Ngay cả cho rằng quặng sắt "nằm trong" lòng đất đi nữa (thiệt ra thì sắt và đất trộn lẫn nhau, hoặc nằm cận kề bên nhau), thì lấy một chất khác (như không khí) mà chứa thì lại hỏi tiếp: "rồi lấy gì mà chứa?" rồi lại vân vân… vân vân…

Ngay cả Đấng Sáng tạo là Người (?) đã tạo ra vũ trụ (và muôn loài), nhưng thử hỏi Đấng Sáng tạo đứng ở đâu để mà tạo tác? Chẳng lẽ Thượng đế "vô gia cư"? Nếu cho rằng chính Đấng Sáng tạo đã tạo ra chơn không, thì cái chuyện này ai cũng có thể khoanh tay mà làm được. Mà thôi, bàn cái chuyện nầy chỉ là hý luận. "Bất khả tư nghì". Không thể nghĩ bàn.


Cho xem cái "lý do hiện hữu"!

Giờ đây, hãy rời lãnh vực "cụ thể" để đi vào lãnh vực "trừu tượng". Trước hết, tuyên bố "Hữu thể có đó là "ngẫu nhiên", do đó nó không có lý do để hiện hữu" là cướp đoạt ngay từ đầu quyền hiện hữu, quyền sống của hữu thể. Là ngăn chận ngay từ đầu, không cho nó thực hiện các dự tính qua đó nó chứng minh lý do hiện hữu của nó. Tuyên bố như vậy là mù quáng, ngớ ngẩn và độc đoán. Tuyên bố như vậy là tự phong cho mình làm một thứ "Thượng đế bỏ túi", một bạo chúa tự tung tự tác hoàn toàn trong hoang tưởng. Nó cũng giống như chận đầu một đứa nhỏ trước cổng trường, đốt bỏ cặp sách của nó rồi tuyên bố: "Học vấn là "ngẫu nhiên", không có lý do hiện hữu, hoàn toàn phi lý!" Đó là ngăn chặn ngay từ đầu không cho đứa nhỏ học hỏi trước khi ra đời và thể hiện học vấn của mình qua đời sống thực tiễn. Tất cả chỉ vì cái hoang tưởng bày đặt và nằm ở trong đầu của "Thượng đế bỏ túi"!

Kế đến ta lại tuyên bố "Hữu thể không nghĩa lý, không nguyên do, không lý do, phi lý". Đó là những phán xét mang nặng cảm tính và chủ quan. Sự vật có đó. Nhưng ta lại tuyên bố "nó không có nguyên do gì, và cũng không có lý do gì để có đó". Có thể hiểu là "lẽ ra nó không được (phép?) có đó". Nhưng nó vẫn lù lù có đó. Hai điều này nghịch lý. Chỉ một bên có thể đúng mà thôi. Vậy thì bên nào đúng? Cho dù sự vật không hề lên tiếng, nhưng sự hiện diện của nó là một bằng chứng hùng hồn và hiển nhiên cho cái lý do hiện hữu của nó. Nó bất cần cái lý do mà ta ban cho hoặc không ban cho nó. "Ông tuyên bố tôi không có lý do để hiện hữu, nhưng tôi vẫn hiện hữu, ông làm gì được tôi? Ông là ai mà đòi tước đoạt quyền hiện hữu của tôi? Ông là Thượng đế chăng?"

Nếu tuyên bố "nó không có lý do để hiện hữu", thì thử hỏi ngược lại: "Sao dám chắc là nó không có lý do để hiện hữu? Cái lý do nào bắt buộc nó không được (quyền) hiện hữu? Nhân danh gì mà tước đoạt quyền hiện hữu của nó?" Nhân danh một cái tín ngưỡng siêu nhiên? Hay một cái triết thuyết siêu đẳng nào đó? Liệu có thể minh chứng được hành động "phủ nhận" hiện hữu của một sự vật, một khi nó đã có đó chăng? Và liệu có thể trả lời những nghi vấn vừa đặt ra chăng? Hay chỉ đáp ngớ ngẩn rằng: "Tại vì tôi (chủ quan) cho rằng nó không có nguyên do và lý do hiện hữu. Không có gì phải chứng minh hết. Thế thôi!"? Bởi lẽ đó, tuyên bố sự vật không có nguyên do và lý do hiện hữu là một khẳng định hàm hồ và độc đoán. Tuyên bố như vậy là "không có lý do" gì vững chắc.

Giờ đây cái rễ cây nó có đó rồi. Bỗng nhiên ta tuyên bố: "Hữu thể là phi lý, ngay từ trong yếu tính của nó!" Rồi chỉ tay vào mặt cái rễ cây mà quát lớn: "Này! Cái rễ cây lạng quạng kia! Mày là ngẫu nhiên! Mày không có lý do gì để hiện hữu. Mày là hữu thể phi lý! Vậy đừng có láng cháng ở đây. Đi chỗ khác chơi!" Được chăng? Nhưng cho dù cái rễ cây nó có riu ríu tuân lịnh đại ca mà đi chỗ khác chơi đi nữa, thì khi di tản, nó cũng bê sự hiện hữu của nó theo. Có phủ nhận cái lý do hiện hữu của nó cũng chỉ là ngớ ngẩn và vô ích. Tuy nhiên, nếu vì cái đầu óc duy lý của mình mà đòi hỏi (mà xét giấy) cái rễ cây phải trình cái lý do (giấy tờ) hiện hữu của mình thì xin hỏi lại cho rõ: "Cái lý do nầy là do ai cấp phát, và của ai chế tạo? Của Thượng đế? Của Descartes? Của Karl Marx? Hay là do Sartre chế biến và độc quyền? Ai mới là người có thẩm quyền (và tại sao có thẩm quyền?) cấp phát lý do hiện hữu? Tại sao cấp phát? Và tại sao lại cấp phát cái lý do hiện hữu đó mà không là một lý do nào khác"? Trả lới được chăng?

Bởi lẽ đó, một khi sự vật đã có đó rồi thì chính sự vật tự khẳng định một cách hùng hồn cái lý do hiện hữu của nó: Nó hiển nhiên. Nó sờ sờ ra đó. Tuy nhiên, có lẽ vì cái nguyên do và lý do hiện hữu "thực sự và tối hậu" của nó vốn quá "bí ẩn", không thể nào diễn tả được bằng ngôn ngữ con người, cho nên ta mới mờ mịt không thể nào thấu rõ được đó thôi. Vả lại, nghĩ cho cùng, nó cũng đâu có cần gì tới một cái "lý do hiện hữu" le lói do một "đỉnh cao trí tuệ" nào đó ban phát mới có thể, có quyền và được phép hiện hữu. Không lẽ nó tự ý hiện hữu trước, rồi mới làm đơn xin cái lý do hiện hữu sau, để hợp thức hoá sự có mặt của mình? Cái rễ cây có đó! Như vậy là được lắm rồi. Và tự nó, cũng là đủ lắm rồi. Chớ có vẽ rắn thêm chưn, cho dù là 1.000 cái chưn tràn trề ý nghĩa, và lai láng lý do đi nữa. Chẳng có cái vấn đề "lý do / không lý do", cũng chẳng có cái vấn đề "ý nghĩa / phi lý" lộn xộn rườm rà rắc rối gì hết ráo. Cái rễ cây có đó. Có chịu hay không chịu gì thì cũng phải rán mà chịu. Ở đó mà "lẽ ra…" (lẽ vô) cũng vô ích. Nó có đó. Vậy thôi. Chấm. Và hết.

(Còn 1 kì)

14.7.2008

© 2008 talawas

Trịnh Lữ - Góp chuyện "quái trạng"

Trịnh Lữ
Góp chuyện "quái trạng"

Vào ngày 17.10.2008, talawas đăng bài viết của ông Hoàng Ngọc-Tuấn phê bình tiểu luận mang đầu đề "Góp chuyện Hậu hiện đại" của tôi mà ông Tuấn đã đọc trên Tia Sáng ngày 02.10.2008.

Theo tôi, phê bình của ông Tuấn có hai phần chính. Phần thứ nhất mang tính thuần túy học thuật, đơn giản và dễ hiểu: tôi đã sai khi nói rằng từ "Hậu hiện đại" (postmodern) "xuất hiện lần đầu" trong cuốn La Condition Postmoderne của Jean-Francois Lyotard. Phần thứ hai phức tạp hơn một chút. Nó liên quan đến cá nhân tôi nói riêng, và xã hội Việt Nam đương thời nói chung. Cụ thể, ông Tuấn cho rằng "chỉ có những cậu học trò trung học lười biếng, ẩu tả" thì mới viết như tôi, và tôi "chỉ nghe lóm hay chỉ nhìn thấy cái bìa sách" của Lyotard nhưng vẫn "tự tin tuyệt đối vào cái biết hạn hẹp đến kỳ quái của mình", để rồi "hiên ngang phun châu nhả ngọc" với một giọng điệu "đầy thẩm quyền". Mục tiêu phê phán của ông Tuấn còn bao gồm cả ông Hoàng Ngọc Hiến, và đại từ "các ông" trong đoạn văn sau của ông Tuấn có sở chỉ là tôi và ông Hiến: "Với cái mớ kiến thức như các ông, mà các ông dám nói thao thao bất tuyệt, suy diễn tràng giang về lịch sử và sự phát triển của mỹ học 'hậu hiện đại’ thì quả là một quái trạng văn hoá không thể tưởng tượng nổi." Theo ông Tuấn, sở dĩ cái "quái trạng văn hóa" này tồn tại được là do xã hội Việt Nam đương thời là một xã hội còn "quá lạc hậu về mọi phương diện", và vì vậy nên "chẳng mấy ai dám nghi ngờ hai ông nổi tiếng [...]." Đó là hai phần chính trong phê bình của ông Tuấn. Sau khi talawas đăng bài của ông Tuấn, đã có một số ý kiến khác xuất hiện liên quan đến chủ đề này, và có khả năng cuộc tranh luận sẽ còn tiếp tục trong thời gian tới.

Tôi xin đóng góp vài lời ngắn vào tranh luận này. Thứ nhất, tôi trân trọng cái nguyên tắc mà ông Tuấn tuân theo khi phê bình tôi, đó là lên tiếng phản đối một cách thẳng thắn khi thấy người khác nói sai. Thứ hai, tôi đồng ý với ông Tuấn rằng Lyotard không phải là người đầu tiên dùng từ postmodern, và cám ơn ông đã bỏ thời gian tìm và chia sẻ rất nhiều ví dụ thú vị để chứng minh điều này. Khi tôi viết, tôi có trong đầu cái ý của Gary Aylesworth: "The term 'postmodernism' first entered the philosophical lexicon in 1979, with the publication of The Postmodern Condition by Jean-François Lyotard." [1] Câu hỏi ai đã thực sự dùng từ 'postmodern' đầu tiên, không hiểu sao, không hiện ra trong đầu tôi lúc đó. Qua góp ý của ông Tuấn, tôi xin sửa câu văn của tôi từ (A) thành (B). Tôi in đậm chỗ có thay đổi.


(A) Từ "hậu hiện đại" (postmodern) xuất hiện lần đầu trong cuốn Hoàn cảnh Hậu hiện đại (La Condition Postmoderne) của Jean-Francois Lyotard và được ông định nghĩa ở đó là "thái độ hoài nghi đối với mọi lý giải lớn."

(B) Từ "hậu hiện đại" (postmodern) xuất hiện lần đầu trong cuốn Hoàn cảnh Hậu hiện đại (La Condition Postmoderne) của Jean-Francois Lyotard với định nghĩa là "thái độ hoài nghi đối với mọi lý giải lớn."


Đó là tất cả những gì tôi nói để trả lời phần thứ nhất trong phê bình của ông Tuấn. Về phần thứ hai, có lẽ thông tin quan yếu nhất mà tôi có thể đưa ra ở đây là Tia Sáng đã cắt mất đoạn mở đầu trong bài của tôi. Nó như sau.


"Hậu hiện đại là một khái niệm đã được phân tích và bàn luận nhiều đến mức sự cần thiết của bất cứ một bài viết nào nữa về nó đều nên bị nghi ngờ, nhất là khi người viết là một kẻ hoàn toàn nghiệp dư về triết học như tôi. Vậy nên tôi xin nhấn mạnh rằng động từ 'góp chuyện’ trong đầu đề bài này nên được hiểu một cách toàn vẹn, với tất cả những hàm ý về sự nông cạn và vô thưởng vô phạt đi cùng với nó, và tôi cũng xin chân thành cảm ơn trước tất cả những ai giúp tôi nhìn ra những thiếu sót và sai lầm không tránh khỏi của mình trong những dòng ngắn ngủi dưới đây."


Tôi mở đầu bài của mình như vậy vì tôi không hề muốn giảng dạy cái gì cho ai. Tôi muốn góp chuyện và học hỏi, không muốn "hiên ngang phun châu nhả ngọc" với một giọng điệu "đầy thẩm quyền", như ông Tuấn nói. Tôi rất lấy làm tiếc vì ông Tuấn đã không hiểu tôi trong điểm này. Về phần tôi, tôi cũng phải công nhận là tôi không hiểu ông Tuấn khi ông bảo tôi "thao thao bất tuyệt, suy diễn tràng giang" về Hậu hiện đại. Bài của tôi rất ngắn, chưa đầy ba trang, và độ ngắn của nó cũng là cái mang lại cho cuộc tranh luận này một yếu tố hài hước nhất định: bài phê bình của ông Tuấn dài gấp ba lần cái bài mà nó phê bình, tức cái bài mà tác giả của nó bị ông kết tội "thao thao bất tuyệt".

Có thể khi ông Tuấn bảo tôi "tự tin tuyệt đối", ý ông là ngay việc một người như tôi "dám" góp chuyện về hậu hiện đại cũng đã là một "quái trạng văn hóa" rồi, và chỉ ở một nước "lạc hậu về mọi mặt" như Việt Nam mới có thể xảy ra những quái trạng như vậy. Tôi công nhận rằng giả sử có một hội thảo về Vật lý tại Hà Nội, và tôi được ban tổ chức rủ viết vài dòng đóng góp ý kiến, thì đó sẽ là một quái trạng văn hóa. Nhưng ta có thể yên tâm là cái quái trạng này sẽ không bao giờ xảy ra ở Việt Nam, và nó không xảy ra không phải vì Việt Nam đỡ lạc hậu hơn trong khía cạnh này, mà chẳng qua là vì Vật lý không phải Hậu hiện đại. Thật vậy, chỉ cần nhìn việc một nhà nghiên cứu Hậu hiện đại có tầm cỡ như ông Hoàng Ngọc-Tuấn đã bỏ công viết mười trang giấy để quát tôi vì tôi quên không google xem ai nói postmodern trước ai, là ta cũng đủ thấy rằng Hậu hiện đại và Vật lý khác xa nhau lắm. Để kết luận, tôi xin nói rằng phải, tôi dám góp chuyện về Hậu hiện đại vì tôi thấy nó không phải là Vật lý, và tôi nghĩ không chỉ tôi, không chỉ ông Tuấn, mà còn nhiều, rất nhiều người khác nữa, có thể vui vẻ "góp chuyện Hậu hiện đại" mà không ảnh hưởng gì đến hoà bình thế giới.

© 2008 talawas



--------------------------------------------------------------------------------
[1]Trích từ mục “postmodernism” trong Standford Encyclopedia of Philosophy.

Hoàng Ngọc-Tuấn -Một quái trạng văn hoá

Lý luận phê bình văn học

17.10.2008

Hoàng Ngọc-Tuấn
Một quái trạng văn hoá

Đọc internet, tình cờ thấy trên báo Tia Sáng ngày 2/10/2008 có một bài viết dưới nhan đề là “Góp chuyện hậu hiện đại“, tôi vào xem cho biết, thì vô cùng kinh ngạc, vì ngay câu đầu tiên của bài viết đã sai đến ngớ ngẩn như thế này:


Từ “hậu hiện đại” (postmodern) xuất hiện lần đầu trong cuốn Hoàn cảnh Hậu hiện đại (La Condition Postmoderne) của Jean-Francois Lyotard...


Câu tuyên bố (với giọng khẳng định như sách giáo khoa tiểu học, dứt khoát, ngắn gọn, không hề “có lẽ” hay “có thể” gì cả) này là do ai viết mà khủng khiếp đến thế? Tôi tự hỏi, và tôi kéo con chuột xuống cuối bài để xem, thì mới biết tác giả là Trịnh Lữ, và tôi càng thấy kinh ngạc khi bài viết này lại là một bài tham luận đọc tại Hội thảo Khoa học “Nghệ thuật Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá” do Viện Mỹ thuật và trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội tổ chức vào cuối tháng 9/2008.

Cái điều sai khủng khiếp này khiến tôi nhớ lại một cái điều sai khác, còn khủng khiếp hơn nữa, vừa xảy ra cách đây vài tháng. Trong Hội thảo “Lý luận Văn học Việt Nam thế kỷ XX” tổ chức ngày 7/6/2008 tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội, ông Hoàng Ngọc Hiến đọc bài tham luận “Tiếp nhận những cách tân của chủ nghĩa hiện đại và chủ nghĩa hậu hiện đại”. (Sau đó, bài tham luận ấy được đăng lại trên tạp chí Sông Hương ngày 16/7/2008.) Trong bài tham luận ấy, ông Hoàng Ngọc Hiến, cũng với thái độ đầy thẩm quyền, dứt khoát, không hề “có lẽ” hay “có thể” gì cả, khẳng định:


Thuật ngữ chủ nghĩa hậu hiện đại lần đầu tiên xuất hiện năm 1977, trong cuốn sách Ngôn ngữ kiến trúc hiện đại của Charles Djenks.


Như thế, ông Trịnh Lữ cho rằng Jean-Francois Lyotard đã đẻ ra từ “postmodern” vào năm 1979 trong cuốn La Condition Postmoderne; còn ông Hoàng Ngọc Hiến thì cho rằng ông Charles Djenks [khổ quá, tên của người ta là Charles JENCKS, thưa ông Hoàng Ngọc Hiến!] đã đẻ ra từ “postmodernism” vào năm 1977 trong cuốn Ngôn ngữ kiến trúc hiện đại [khổ quá, cuốn sách của người ta là Ngôn ngữ kiến trúc HẬU hiện đại, The Language of Post-Modern Architecture, thưa ông Hoàng Ngọc Hiến!]

Cả hai bài tham luận tại hai hội thảo cao cấp đều vấp phải vô số những cái sai về kiến thức và về lập luận, nhưng cái sai dễ thấy nhất là về thời điểm xuất hiện của các từ “hậu hiện đại” và “chủ nghĩa hậu hiện đại”. Thế nhưng, thật lạ lùng, có lẽ chẳng ai có mặt tại hai cái hội thảo ấy phát hiện ra cái gì sai, nên chẳng ai lên tiếng, và vì thế sau đó hai tác giả đã hiên ngang đem gửi đăng trên báo. Hoàng Ngọc Hiến đăng bài tham luận lên tạp chí Sông Hương (diễn đàn của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên - Huế); Trịnh Lữ đăng bài tham luận lên tờ Tia Sáng (tờ báo của Bộ Khoa học và Công nghệ, với cái khẩu hiệu “một góc nhìn của trí thức”). Và ban biên tập của cả hai tờ báo ấy cũng hoan hỉ tin là đúng, cho đăng tải nguyên văn những cái sai ấy, và tất nhiên rất nhiều những cái sai khác trong hai bài ấy, mà chẳng hề kiểm chứng hay thắc mắc.

Vì sao họ chẳng hề kiểm chứng, chẳng hề thắc mắc? Vì ông Hoàng Ngọc Hiến đã nổi danh như một giáo sư, học giả hàng đầu ở thủ đô nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam! Vì ông Trịnh Lữ cũng nổi tiếng ở thủ đô chẳng kém gì mấy: ông đã là dịch giả “đáng tin cậy” của một số sách của dăm ba nhà văn quốc tế, và ông đã nhận giải thưởng dịch thuật của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2005! Báo Thể thao & Văn hoá ngày 27/9/2008 nhấn mạnh rằng bài tham luận của Trịnh Lữ là bài “đáng chú ý”. Ký giả Vũ Lâm đã theo dõi cuộc hội thảo ấy, và viết bài tường thuật “Nói chuyện ‘hậu hiện đại’ và ‘toàn cầu hoá’“ trên báo. Ngay ở câu nhập đề, Vũ Lâm đã long trọng giới thiệu Trịnh Lữ trước tất cả những tên tuổi khác, chỉ vì “Dịch giả Trịnh Lữ từng sống ở Mỹ nhiều năm, và khá lịch duyệt văn hóa Âu–Mỹ”!

Trong một xã hội còn quá lạc hậu về mọi phương diện, có lẽ chẳng mấy ai dám nghi ngờ hai ông nổi tiếng, có bằng cấp cao, sành ngoại ngữ, từng chu du nước nọ nước kia rất nhiều, vì thế nên hai cái sai lố bịch ấy lan ra nhanh chóng như hai cái chân lý bằng dầu phộng.

Trong khi tôi đang viết bài này, tôi vào google để xem thử, thì thấy bài của Trịnh Lữ đã được đăng lại nguyên văn trên nhiều websites, đặc biệt nhất là website của Đại học Văn hoá Hà Nội (khoa Sáng tác & Lý luận phê bình). Thầy trò tha hồ mà tiếp thu! Bài của Hoàng Ngọc Hiến thì cũng đã được đăng lại nguyên văn trên nhiều websites, đặc biệt nhất là website của Trung tâm Văn hoá Hội Nhà văn Việt Nam vào ngày 15/9/2008. Văn giới Việt Nam tha hồ mà học hỏi!

Thế nhưng, đáng kinh ngạc hơn nữa, cái điều mà hai tác giả nói sai khủng khiếp ấy lại chẳng phải là điều gì khó khăn phức tạp đến mức khiến họ khó tránh nổi cái sai. Thật vậy, nếu ta thử hỏi một cậu học trò trung học có thái độ hiếu học và tư cách đàng hoàng, rằng: “Các từ ‘postmodern’ và ‘postmodernism’ đã xuất hiện từ lúc nào?”, thì cậu học trò (với cái màn hình internet trước mặt) sẽ có thể nhanh chóng cho ta một câu trả lời còn khá hơn hai ông học giả kia. Thật vậy, câu hỏi này chẳng có gì khó hơn bất cứ một câu hỏi khoa học phổ thông nào. Nó cũng phổ thông như câu hỏi “Những động vật nào đang có nguy cơ bị diệt chủng?”

Tôi thử bỏ ra chừng mươi phút để tìm trên google xem kết quả thế nào, thì đã nhặt được hàng loạt thông tin về xuất xứ và sự tái hiện của các từ “postmodern” và “postmodernism” (trước năm 1977 của ông Hoàng Ngọc Hiến và trước năm 1979 của ông Trịnh Lữ). Tôi chỉ xin liệt kê lại ngay ở đây một cách thô sơ những gì xuất hiện trên google (tất nhiên chẳng đầy đủ, và mức độ chính xác chưa được kiểm chứng):

Theo Perry Anderson ghi nhận trong cuốn The Origins of Postmodernity (1998), từ “postmodern” có lẽ xuất hiện đầu tiên trong thập niên 1870 (không nói chính xác năm nào, ở đâu), do John Waitkins Chapman (một hoạ sĩ người Anh) sử dụng để nói về một lối hội hoạ đã vượt qua khỏi phái ấn tượng.


Năm 1914, J.M. Thompson sử dụng từ “Post-Modernism” làm nhan đề một bài viết về tôn giáo, được in trên trang 733, tạp chí triết học The Hibbert Journal, Vol XII, No.4, July 1914.


Năm 1917, trong cuốn Die Krisis der europäischen Kultur (Nuremberg: Hans Carl, 1917), trang 64, Rudolf Pannwitz dùng từ “post-modernism” để mô tả dạng thức văn hoá diễn ra sau chủ nghĩa hư vô của Nietzsche.


Năm 1921 và 1925, từ “postmodernism” đã được sử dụng để mô tả những hình thức mới của mỹ thuật và âm nhạc. (Không rõ ai là những người sử dụng.)


Năm 1926, Bernard Iddings Bell đã viết từ “postmodernism” ngay trên bìa cuốn sách Postmodernism and other Essays (Milwaukee: Morehouse Publishing Co., 1926).


Năm 1934, trong cuốn Antología de la Poesía española e hispanoamericana: 1882-1932 (Madrid: Centro de Estudios Históricos, 1934) trang xviii-xix, Frederica de Onis dùng từ “postmodernismo” để chỉ chung cho một thời kỳ lịch sử và một phong trào văn học đã diễn ra giữa những năm 1896 và 1905, và sau đó thì đến thời “ultramodernismo”, từ 1914 đến 1932.


Năm 1939, từ “postmodernism” được dùng trong cuốn Religion for Living: A Book for Postmodernists (London: The Religious Book Club, 1939) của Bernard Iddings Bell, để nói đến sự thất bại của chủ nghĩa hiện đại thế tục và sự trở về với tôn giáo.


Cũng năm 1939, trong quyển thứ 5, trang 43, của bộ Study of History, sử gia Arnold J. Toynbee cho rằng Thế chiến thứ Nhất (1914-1918) là điểm khởi đầu của “Post-Modern Age”. Năm 1954, trong quyển thứ 8 và thứ 9, Arnold J. Toynbee tái sử dụng từ “post-modernism” và cho rằng thời “hậu hiện đại” có thể đã bắt đầu khoảng sau năm 1875, biểu hiện qua sự suy sụp của lý tính Khai sáng và sự nhiễu nhương của xã hội.


Năm 1942, H. R. Hays dùng từ “postmodernism” để chỉ một hình thức văn chương mới (không nói chính xác tài liệu nào). Tuy nhiên, Michael Koehler cho rằng Dudley Fitts mới là người sử dụng từ “postmodernism” trong một tuyển tập tiểu luận (không rõ tuyển tập nào) do chính ông làm chủ biên, chứ không phải H. R. Hays, người phụ tá của ông.


Ngày 20/8/1951, trong một bức thư gửi Creeley, Charles Olson viết: “any POST-MODERN is born with the ancient confidence that he does belong”, trong Olson-Creeley Correspondence (Santa Rosa, CA: Black Sparrow Press, 1980-96), vol. 7, p.115.


Cùng năm 1951, Pico Miran tung ra bản tuyên ngôn A Manifesto for Post-Modern Art (New York: American Art Gallery, 1951).


Năm 1959, có một tiểu luận của Irving Howe dưới nhan đề “Mass Society and Post-Modern Fiction”, đăng trong Partisan Review, XXVI (Summer, 1959), trang 420–436.


Năm 1960, Harry Levin dùng từ “postmodernism” trong tiểu luận “What Was Modernism?”, Massachusetts Review, vol. 1, no. 4 (August 1960).


Năm 1965, Leslie Fiedler dùng từ “postmodernism” trong tiểu luận “The New Mutants,” Partisan Review, vol. 32, no. 4 (Fall 1965).


Năm 1968, John Perreault sử dụng từ “postmodernism” (không rõ sử dụng ở đâu); và cùng năm ấy, Amitai Etzioni, trong cuốn The Active Society (New York: Free Press, 1968).


Năm 1969, có một số tiểu luận sử dụng từ “postmodern” ngay trên nhan đề, như: G. Feinberg, “Post-Modern Science”, Journal of Philosophy, 66: 19, 1969, pp.638-646; Vytautas Kavolis, “Revolutionary Metaphors and Ambiguous Personalities: Notes Toward an Understanding of Post-Modern Revolutions”, Soundings, vol. 52, 1969, pp.394-414; Herbert G. Reid, “Society in the Postmodern Period”, The Review of Politics, 1969, 31: 3, pp.427-429; và Theodore Ziolkowski, “Toward a Post-Modern Aesthetics”, Mosaic, 2:4, 1969, pp.112-119.


Từ năm 1970 đến 1979, có một số lượng to lớn tiểu luận, luận văn tiến sĩ, tạp chí và sách nói về “postmodern” và/hoặc “postmodernism”. Chỉ kể riêng những bài/cuốn có sử dụng các từ “postmodern” và/hoặc “postmodernism” ngay trên nhan đề, ta cũng có thể lập được một danh sách hàng trăm món. [Xin xem phần PHỤ LỤC ở cuối bài này].
Chỉ có những cậu học trò trung học lười biếng, ẩu tả, thì mới vội vã cho ta câu trả lời rằng: “Từ “hậu hiện đại” (postmodern) xuất hiện lần đầu trong cuốn Hoàn cảnh Hậu hiện đại (La Condition Postmoderne) của Jean-Francois Lyotard...”, hay “Thuật ngữ chủ nghĩa hậu hiện đại lần đầu tiên xuất hiện năm 1977, trong cuốn sách Ngôn ngữ kiến trúc hiện đại (sic) của Charles Djenks (sic).”

Những cái sai lố bịch ấy chứng tỏ ông Hoàng Ngọc Hiến chưa từng biết đến một tài liệu nào sử dụng thuật ngữ “chủ nghĩa hậu hiện đại” trước cuốn sách năm 1977 ấy (mà ông đã ghi sai cả tên tác giả lẫn tên sách), và ông Trịnh Lữ chưa từng biết đến một tài liệu nào sử dụng từ “hậu hiện đại” trước khi ông nhìn thấy cuốn sách Hoàn cảnh Hậu hiện đại (La Condition Postmoderne, 1979) của Jean-Francois Lyotard, do Phạm Xuân Nguyên dịch (nxb. Tri Thức, 2007). Cả hai ông đều không biết “hậu hiện đại” có cái gì trước 1977 và 1979, nhưng cả hai ông đều không hề có một chút thắc mắc nào cả.

Thậm chí, hai ông cũng chỉ may mắn lắm là trông thấy hai cái bìa sách ấy, hay nghe người nào nói loáng thoáng về hai cuốn sách ấy là cùng. Vì nếu hai ông thực sự có đọc hai cuốn sách ấy, thì hai ông sẽ tuyệt đối không thể tìm ra trong hai cuốn sách ấy có bất cứ dòng chữ nào ghi rằng hai tác giả ấy là những người đầu tiên đẻ ra các từ “postmodern” và/hoặc “postmodernism”!

Chưa đọc sách, chỉ nghe lóm hay chỉ nhìn thấy cái bìa sách, thế mà các ông tự tin tuyệt đối vào cái biết hạn hẹp đến kỳ quái của mình, và các ông hiên ngang phun châu nhả ngọc về “hậu hiện đại” tại các hội thảo khoa học cao cấp ở thủ đô! Thế là thế nào?

Nếu các ông đi thuyết giảng về “hậu hiện đại”, đem “chủ nghĩa hậu hiện đại” ra mà lý luận trong văn học, trong mỹ thuật, trong khi các ông chỉ biết đoán mò và nói bừa như thế, thì các ông thuyết giảng, lý luận về cái gì vậy? Với cái mớ kiến thức như các ông, mà các ông dám nói thao thao bất tuyệt, suy diễn tràng giang về lịch sử và sự phát triển của mỹ học “hậu hiện đại” thì quả là một quái trạng văn hoá không thể tưởng tượng nổi. Quả là một kiểu “múa gậy vườn hoang”, bất kể trong khu vườn ấy thật ra có hơn 80 triệu người đang sống!

Những cái sai ấy không phải do sơ suất. Là học giả, là giáo sư, thì người ta không ngừng tra vấn, thắc mắc, chứ ai lại có thể chỉ vừa nhìn thấy một cái bìa sách hay vừa nghe lóm là đã vội vàng tự xem là mình tìm ra đáp số! Là học giả, là giáo sư, thì ai lại dám tin tuyệt đối vào những thông tin sơ sài, thiếu thốn đến mức quái dị như thế, rồi nghênh ngang tung ra những cái sai lố bịch mà một cậu học trò trung học (nếu không lười biếng, ẩu tả) cũng không thể sai được! Các ông lại tuyên bố những điều ấy với giọng của sách giáo khoa tiểu học, ngắn gọn, dứt khoát, đầy thẩm quyền, không một chút phân vân “có thể” hay “có lẽ” nào cả. Thế thì chắc chắn những cái sai ấy là do lòng tự cao tự đại không bờ bến của các ông. Lòng tự cao tự đại ấy khiến các ông vớ được cái gì thì tin ngay rằng cái đó phải là cái trước hết, rằng cái đó là sự phát hiện đầu tiên, chính xác và đầy thẩm quyền của riêng các ông, mà thiên hạ cần phải lắng nghe các ông để học hỏi.

Điều tai hại nhất của cái thái độ này không chỉ ở chỗ nó làm hạ thấp tư cách của chính chủ thể, mà còn ở chỗ nó không ngừng làm hạ thấp dân trí. Vài ba người tuyên bố nghênh ngang như thế tại những loại hội thảo cao cấp giả hiệu (với mục đích giải ngân), mà không có ai phản đối, thì được báo chí ca tụng, truyền bá rộng ra, rồi hàng loạt người nhắm mắt tin theo. Cứ thế, nó lan dần ra và tạo thành cái “mặt bằng” tri thức của cả một thế hệ. Thử lấy ngay chuyện “hậu hiện đại” làm ví dụ. Suốt thập niên vừa qua, một số học giả nghiêm túc đã không ngừng nỗ lực truyền bá đến độc giả Việt Nam những kiến thức phong phú, đáng tin cậy và được giải thích mạch lạc về các phương diện của chủ nghĩa hậu hiện đại. Thế nhưng, cho đến hôm nay, đại đa số độc giả, ngay cả những người trong văn giới và môi trường học đường ở Việt Nam, vẫn hiểu rất mù mờ và lệch lạc về chủ nghĩa hậu hiện đại. Lý do là có một lực lượng những học giả khác chuyên đi gây nhiễu thông tin. Họ là những kẻ chỉ đọc láp nháp, tìm hiểu sơ sài, rồi tuỳ tiện diễn dịch sao cho vừa ý nhà cầm quyền và vừa ý mình, nhưng họ lại có điều kiện xuất hiện tại các hội thảo khoa học cao cấp giả hiệu để lên gân phun châu nhả ngọc, rồi viết thành tiểu luận, in thành sách, phát tán vô số điều lệch lạc đến độc giả. Trong tình trạng còn thiếu tài liệu, thiếu sách vở để nghiên cứu, giới hiếu học bị rơi vào một cõi hỗn loạn thông tin, toàn là những điều mâu thuẫn, chẳng còn biết đâu là đúng là sai nữa.

Cái quái trạng này đã diễn ra và lặp đi lặp lại trong suốt nhiều năm qua ở Việt Nam. Nếu không có cách nào thay đổi, thì cho dù các học giả nghiêm túc có nỗ lực truyền bá kiến thức đúng đắn đến cách mấy cũng thành vô ích, vì tất cả những nỗ lực của họ sẽ bị bóp méo, phá hoại không ngừng bởi những kẻ háo danh, tự mãn và vô trách nhiệm.

Sydney, 16/10/2008



Phụ lục

Dưới đây là bản liệt kê một số những tiểu luận, luận văn tiến sĩ, tạp chí và sách được công bố từ 1970 đến 1979 có sử dụng các từ “postmodern” và/hoặc “postmodernism” ngay trên nhan đề. Bản liệt kê này tất nhiên còn rất thiếu sót, vì chỉ là những gì tôi lọc ra từ những tài liệu mà tôi sưu tập được cho công việc nghiên cứu của riêng mình. Trong thập niên 70, những sách báo có sử dụng các từ “postmodern” và/hoặc “postmodernism” trong nội dung có lẽ đã chiếm một số lượng khổng lồ. Từ năm 1980 đến nay, số lượng sách báo (của các ngôn ngữ trên thế giới) có sử dụng từ “postmodern” và/hoặc “postmodernism” ngay trên nhan đề hoặc trong nội dung thì tất nhiên nhiều đến mức bất khả liệt kê!

1970:

Kavolis, Vytautas, “Post-Modern Man: Psychocultural Responses to Social Trends”, Social Trends, 17: 4, 1970, p.435.

1971:

Hassan, Ihab Habib, “POSTmodernISM: a Paracritical Bibliography”, New Literary History, 3: 1, Aug. 1971, pp.5-30.
Hassan, Ihab Habib, The Dismemberment of Orpheus: Toward a Postmodern Literature, New York: Oxford University Press, 1971.
New Literary History, 3:1, 1971. Special Issue: Modernism and Postmodernism.

1972:

Antin, David, “Modernism and Postmodernism: Approaching the Present in American Poetry”, Boundary, 2: 1, 1972, pp.98-133.
Boundary 2, Binghamton, Department of English: State University of New York, vol. 1, Fall 1972. Special Issue: Feminism and Postmodernism.
Kavolis, Vytautas, “An Alternative Postmodernity”, Journal of Aesthetics & Education, 6, Jan-Apr 1972, pp.125-137.
Spanos, William V., “The Detective and the Boundary: Some Notes on the Postmodern Literary Imagination”, Boundary 2: 1, 1972, pp.147-168.

1973:

Altieri, Charles, “From Symbolist Thought to Immanence: The Ground of Postmodern American Poetics”, Boundary, 2: 1, 1973, pp.605-641.
Galloway, Devid, “Post-Modernism”, Contemporary Literature, 14, 1973, pp.398-405.
Graff, Gerard, “The Myth of the Postmodern Breaktthrough”, TriQuarterly, 26, 1973, pp.383-417.
Hearron, William, “New Approaches in the Post-Modern American Novel”, Dissertation Abstract International, 34: 6, Dec 1973, p.3398 A.
Pütz, Manfred, “The Struggle of the Postmodern: Books on a New Concept in Criticism”, Kritikon Litterarum, 2, 1973, pp.225-237.
TriQuarterly, 26, 1973. Special Issue: On Postmodernism.

1974:

Kennedy, A., “Dramatic Action, the Modern and the Post-Modern”, The Protean Self, Columbia University Press, 1974, pp.27-61.
Modern Literature, 3, 1974. Special Issue: From Modernism to Postmodernism.
Olson, Charles, “The Act of Writing in the Context of Post-Modern Man”, Olson: The Journal of the Charles Olson Archives, 2, 1974, p.28.
Pinsker, Sanford, “ “Ulysses” and the Post-Modern Temper”, Midwest Quarterly, 15, 1974, pp.406-416.
Schmitz, Neil, “Gertrude Stein as Postmodernist: The Rhetoric of Tender Buttons”, Journal of Modern Literature, 3, 1974, pp.1203-1218.
TriQuarterly, 30, 1974. Special Issue: On Postmodernism.
Wasson, Richard, “From Priest to Prometheus: Culture and Criticism in the Post-Modern Period”, Journal of Modern Literature, 3, 1974, pp.1188-1202.

1975:

Alpert, Barry, “Post-Modern Oral Poetry: Buckminster Fuller, John Cage and David Antin”, Boundary, 2: 3, Spring 1975, pp.665-682.
Caliban, 12, 1975. Special Issue: Postmodernism.
Calinescu, Matei, “Avant-Garde, Neo-Garde, Post-Modernism: The Culture of Crisis”, Clio, 4: 3, Jun 1975, pp.317-340.
Davidson, Michael, “The Languages of Postmodernism”, Chicago Review, 27, 1975, pp.11-22.
Graff, Gerard, “Babbit at the Abyss: The Social Context of Postmodern American Fiction”, TriQuarterly, 33, 1975, pp.305-337.
Hassan, Ihab Habib, “Joyce, Beckett, and the Post-Modern Imagination”, Tri-Quartely, 34, Autumn 1975, pp.179-200.
Morrissette, Bruce, “Post-Modern Generative Fiction: Novel and Film”, Critical Inquiry, 2, 1975, pp.253-262.
TriQuarterly, 32, 1975. Special Issue: On Postmodernism.
TriQuarterly, 33, 1975. Special Issue: On Postmodernism.

1976:

Brummett, Barry, “Some Implications of “Process” or “Intersubjectivity” Postmodern Rhetoric”, Philosophy Rhetoric, 9, Winter 1976, pp.21-51.
Caserio, Robert, “Paracriticism, Postmodernism, and Prophecy”, Boundary 2, 5: 1, 1976, pp.167-173.
Cullum, J.W., “Nathan Scott and the Problem of a Postmodern Ethics”, Boundary 2, 2: 3, 1976, pp.965-972.
Noel, Daniel, “Tales of Fiction Power. Dreaming and Imagination in Ronald Sukenick’s Postmodern”, Boundary 2, 5: 1, 1976, pp.117-136.
Spanos, William V., “Heidegger, Kierkegaard, and the Hermeneutic Circle: Towards a Postmodern Theory of Interpretation as Dis-Closure”, Boundary 2, 4: 2, 1976, pp.455-488
Thiher, Allen, “Postmodern Dilemnas: Godard’s Alphaville and Two or Three Thinks That I Know About Her”, Boundary 2, 4: 3, 1976, pp.947-964.
Wilde, Alan, “Berthelme Unfair to Kierkagaard: Some Thoughs on Modern and Postmodern Irony”, Boundary 2, 5: 1, 1976, pp.45-70.

1977:

Amerikastudien, 22: 1, 1977. Special Issue: Postmodernism.
Benamou, Michel; Carmello, Charles, Performance in Postmodern Culture, Milwaukee: Centre for Twentieth-Century Studies, 1977.
Berryhill, Michael, “Walt Whitman and Post-Modern Consciousness”, Dissertation Abstract International, 38: 3, Sept 1977, p.1376 A.
Blake, Harry, “Le post-modernisme américain”, Tel Quel, 71-73, 1977, pp.171-182.
Davis, D., Artculture: Essays on the Post-Modern, New York: Harper and Row, 1977.
Deren, Jane, “Denise Levertov’s Postmodern Poetics: a Study in Theory and Criticism”, Dissertation Abstract International, 38: 4, Oct 1977, p.2111 A.
Hoffmann, Gerhard; Horning, Alfred; Kunow, Rüdiger, “ “Modern”, “Postmodern”, and “Contemporary” Criteria for the Analysis of 20th-Century Literature”, Amerikastudien, 22, 1977, pp.19-46.
Köhler, Michael, “Postmodernismus: Ein begriffsgeschichtlicher Überblick (Post-modernisme: vue d’ensemble: l’histoire du concept)”, Amerikastudien, 22:1, 1977, pp.19-46.
Kundow, R.; Hoffman G.; Hornung A., “Modern, Post-Modern and Contemporary as Criteria for the Analysis of 20th Century Literature”, Amerikastudien, 22: 1, 1977, pp.19-46.
Lodge, David, Modernism, Antimodernism and Postmodernism, Birmingham: University of Birmingham Press, 1977.
Jencks, Charles, The Language of Post-Modern Architecture, New York: Rizzoli, 1977.
Navero, William, “The Emergence of Mythopoetic Post-Modern Image and the Poetics of Charles Olson”, Dissertation Abstract International, 38: 3, Sept 1977, p.1393 A.
Palmer, Richard E., “Postmodernity and Hermeneutics”, Boundary 2: 5-2, 1977, pp.363-393.
Peper Jürgen, “Postmodernismus: Unitary Sensibility ?” Amerikastudien, 22:1, 1977, pp.65-89.
Rice-Savre, Laura, “Abra-Cadaver: the Anti-Detective Story on Postmodern Fiction”, Dissertation Abstract International, 37: 7, Jan 1977, p.4339 A.
Sonheim, A. (ed.), Individuals: Post-Movements Art in America, New York: Dutton, 1977.

1978:

Hassan, Ihab Habib, “Culture, indeterminacy and Immanence: Margins of the (Post-Modern) Age”, Humanities in Society, 1, Winter 1978, pp.51-85.
Hayman, David, “Double-distancing: An Attribute of the “Post-Modern” Avant-Garde”, Novel. A Forum on Fiction, 12, 1978, pp.33-47.
Gordon, Patricia, “The Function of Literature as Interpreted by Twentieth-Century Writers: the Postmodern Authors”, Dissertation Abstract International, 38: 8, Feb. 1978, p.4816 A.
Kern, Robert, “Composition as Recognition: Robert Creeley and Postmodern Poetics”, Boundary 2, 6: 3, Spring-Fall 1978, pp.211-232.
Knesl, J., “Post-Modern History Critique”, Architectural Design, 48:11-12, 1978, p.576.
Spanos, William V., “The Un-Naming of the Beasts: the Post-Modernity of Sarte’s La nausée”, Criticism, 20: 3, Summer 1978, pp.223-280.

1979:

Akin, O., “Style Named Post-Modern”, Architectural Design, 49: B-9, 1979, pp.224-226.
Altieri, Charles, “Postmodernism: A Question of Definition”, Par Rapport, 2, 1979, pp.87-100.
Altieri, Charles, “Modern and Post-Modern: Symbolist and Immanentist Modes of Poetic Thought”, in Enlarging the Temple, Charles Altieri (ed.), Bucknell: Bucknell University Press, 1979, pp.29-52.
Birnholz, A. C., “Artculture: Essays on the Post-Modern de D. Davis”, The Journal of Aesthetics and Art Criticism, 37: 2, Winter 1979, p.245.
Bleikastein, A., “The Paradox of True Lie: on the Fictionality of Fiction (Fiction et vérité chez les modernistes et post-modernistes)”, British Journal of Aesthetics, 20: 3, 1979, pp.229-236.
Blocker, H. Gene, “Autonomy, Reference and Post-Modern Art”, British Journal of Aesthetics, 20: 3, 1979, pp.229-236.
Bonta, J. P. “Modernism and Post-Modernism: a Semiotic View”, Proceedings of the 67th. ACSA Annual Meeting, M.J. Bednar (ed.), Wahington: Association of Collegiate School of Architecture Press, 1979, pp.145-153.
Canter, D.; Groat, L., “Does Post-Modernism Communicate ?”, Progressive Architecture, 60: 12, Dec 1979, pp.84-87.
Colvile, G., “Labor Delivered is Love Regained: Women’s Writing and Art in Postmodern America”, Revue française d’études américaines, 14: 8, 1979, pp.225-242.
Dahrendorf, Ralf, “Post-Modern Values”, New Society, 893,15 Nov 1979, pp.360-362.
Davern, J. M., “Postmodernists”, Architectural Record, 165: 2, Feb 1979, p.4.
Delbaere-Garant, P., “The Divided Worlds of E. Bronte, V. Woolf and J. Frame. (A Post-Modern Perspective)”, English Studies, 60: 6, 1979, pp.699-711.
Groat, Linda N.; Canter, D., “Does Post-Modernism Communicate ?”, Progressive Architecture, 60: 12, Dec 1979, pp.84-87.
Heim, Michael R, “Some Philosophical Proposals for the Role of the Humanities: Toward a Postmodern Logic”, Kinesis, 9, Spring 1979, pp.39-46.
Holdheim, W. Wolfgang, “Wilhelm Worringer and the Polarity of Understanding”, Boundary 2: A Journal of Postmodern Literature and Culture, 8:1, Fall 1979, pp.339-358.
Jencks, Charles, Le langage de l’architecture post-moderne, London: Academy Editions, 1979. [Bản dịch Pháp văn]
Kavolis, Vytautas, “Social Evolution of the Artistic Enterprise”, Research in Sociology of Knowledge, Sciences and Art, 2, 1979, pp.155-188.
Kearney Timothy, “The Poetry of the North: a Post-Modernist Perspective”, The Crane Bag, 3: 2, 1979, pp.45-53.
Krauss, Rosalind E., “John Mason and Post-Modernist Sculpture: New Experiences, New Words”, Art in America, 67: 3, May-Jun 1979, pp.120-127.
Levin, R., “Language of Post-Modern Architecture de C.A. Jencks”, The Journal of Aesthetics and Art Criticism, 37: 2, Winter 1979, p.239.
Lyotard, Jean-François, La condition postmoderne: rapport sur le savoir, Paris: Minuit, 1979.
Malmgren, Carl Darryl, “Fictional Space in the Modernist and Postmodernist American Novel”, Dissertation Abstract International, 40: 6, Dec 1979, p.3291
Miller, R. L., “Supermannerism: New Directions in Post-Modern Architecture de C.R. Smith”, American Institute of Architects, 68: 6, 1979, p.264.
Moffett, K. M., “Assessing Post-Modernism: an Overview”, Bednar, M.J. (ed.), Proceedings of the 67th. ACSA Annuel Meeting, Washington: Association of Collegiate School of Architecture Press, 1979, pp.164-168.
Müler, Heiner, “Reflections on Post-Modernism”, New German Critique, 16, Winter 1979, pp.55-58.
Obrien, D., “Call for Courage: Post-Modern Architecture”, Architectural Review, 165: 986, Apr 1979, p.192.
Par Rapport, 2:2, 1979. Special Issue: Postmodernism.
Parks, Michael E., “Art Education in a Post-Modern Age”, Art Education, 42: 2, Mars 1979, pp.10-13.
Schechner, Richard, “Postmodern Performance - The End of Humanism”, Performing Arts Journal, 4: 11, 1979, pp.9-22.
Schumacher, “Rome: Orphan of the Modern Movement or Cradle of Post-Modernism”, Architectural Design, 49: 3-4, 1979, p.91.
Schurmann, Reiner, “Anti-Humanism. Reflections of the Turn Toward the Post-Modern Epoch”, Man and World, 12: 2, 1979, pp.160-177.
Sexon, L., “First Act Repeated: Myth in the Postmodern Age”, Parabole, 4: 3, Aug 1979, pp.53-71.
Spanos, William V., “De-struction and the Question of Postmodernist Literature: Toward a Definition”, Par Rapport, 2, 1979, pp.107-122.
Spanos, William V., “Postmodern Litarature and the Hermeneutic Crisis”, Union Seminary Quarterly Review, 34: 2, 1979, pp.119-131.
Spanos, William V. (ed.), Martin Heidegger and the Question of Literature: Toward a Postmodern Literary Hermeneutics, Bloomington: Indiana University Press, 1979.
Stephens, S, “Beyond Fragments: Architectural Frame-work Necessary for Assimilating Elements of Post-Modern Period”, Progressive Architecture, 60: 12, Dec 1979, pp.88-90.
Thompson, W. W., “Johnson Original Thinking Post-Modernism”, Architects’ Journal, 196: 23, 6 juin 1979, p.1149.
Thornton, G., “Post-Modern Photography: It Doesn’t Look Modern at All”, Artnews, 78: 4, April 1979, pp.64-69.
Whelan, R., “Art-Culture: Essays on the Post-Modern” de D. Davis, Artnews, 78: 9, Nov 1979, pp.42-43.

© 2008 talawas

Thế Uyên - Những ý nghĩ của bọt biển (3)

Thế Uyên
Những ý nghĩ của bọt biển
(Thái độ II)

Lương đống


Trong xã tắc ra tài lương đống,
Ngoài biên thùy rạch mũi can tương.


Sau khi hai ông Nhu, Diệm chết rồi, kẻ sĩ nước Việt đua nhau phân tích tìm hiểu các lỗi lầm, các nguyên nhân đã làm tan rã Ngô triều. Người thì bảo tại áp dụng chính sách sai, kẻ thì bảo tại độc tài gia đình trị, người thì nói tại phong kiến quan liêu, v.v. Lắng nghe tất cả các phân tích tìm hiểu ấy, sau khi suy nghĩ, tôi đi đến một kết luận: có lẽ thực ra hai ông Diệm, Nhu thất bại chỉ vì lý do nhân sự và chính sách nhân sự của hai ông.

Khi hai ông nắm được chính quyền tại miền Nam, xã hội Việt Nam còn là một xã hội mang đủ thứ tính chất bán phong kiến bán thuộc địa: tại nông thôn, từ cơ cấu tổ chức tới lề lối sinh hoạt, còn y hệt như một thế kỷ về trước, tại thành thị, từ lề lối sinh hoạt tới cơ cấu tổ chức, tất cả y hệt như bất cứ một thành phố thuộc địa nào trên thế giới, nghĩa là có đủ từ một tầng lớp trưởng giả công chức do thực dân tạo ra để làm trung gian phục vụ đến các thương gia mại bản làm giàu cũng bằng cách trung gian phục vụ mẫu quốc.

Xuất thân từ hàng ngũ quan lại phong kiến, trước thực trạng xã hội như thế, thật không nên ngạc nhiên khi hai ông Nhu, Diệm thành lập chế độ là áp dụng một đường lối cai trị hình thức là tổng thống, thực chất là vua. Và hiển nhiên là thứ chế độ và đường lối này có thể giúp hai ông duy trì triều đại mình vài ba chục năm, ít nhất cho tới khi thế hệ mới hai mươi tuổi năm 1954 trở thành các ông già năm mươi, nếu không phạm lỗi lầm lớn về tôn giáo.

Đã chọn chế độ và thứ đường lối cai trị như thế rồi điều tất nhiên kế tiếp là về nhân sự, hai ông Nhu, Diệm phải trọng dụng các quan lại cùng viên chức hành chánh thừa hành cũ do người Pháp để lại. Nghĩ lại quá khứ, tôi thực đã quá ngây thơ khi đã có thời tự hỏi tại sao Ngô triều lại trọng đãi và sử dụng các quan huyện, quan phủ, đốc phủ sứ cùng các thư ký, tham sự, thông phán. Với thứ nhân sự ấy, dĩ nhiên mọi cách mạng, dù là cách mạng tư sản, cách mạng tiệm tiến, cách mạng nhân vị hay cần lao, v.v. đều không thể có được.

Tài lương đống của loại nhân sự này bất quá chỉ giúp được xã tắc trong cái thời mà “hai kinh phẳng lặng, bốn phương vững vàng” theo kiểu Gia Tĩnh triều Minh.

Bởi thế khi cộng sản nổi lên, hai ông Nhu Diệm không sao chống nổi, để quốc gia đi từ bước nhảy… lùi này sang bước nhảy lùi khác. Dĩ nhiên, với một quan thừa tướng thông minh như ông Nhu, chế độ cũ cũng đã đưa ra nhiều biện pháp đối phó. Trong địa hạt nhân sự, khi biết Trường Quốc gia Hành chánh huấn luyện lầm đường (người dân trước đây vẫn thường gọi đùa nó là trường đào tạo các quan huyện mới, khi biết các sinh viên tốt nghiệp ra không đủ khả năng làm quận trưởng trong cái thứ chiến tranh gọi là du kích hay cách mệnh này, chế độ cũng đã bắt các sinh viên phải theo học khóa huấn luyện sĩ quan trừ bị. Nhưng kết quả thu lượm được không đáng kể. Rút cục, trong suốt 9 năm cầm quyền, hai ông Nhu, Diệm không tạo được thứ lương đống thích hợp với nhu cầu đặc biệt của đất nước. Hơn nữa, ngay về lượng, cũng không đáng kể. Nếu xét cho thật rộng rãi, cùng lắm cũng chỉ khoanh cho chế độ cũ một điểm son về địa hạt đào tạo các chuyên viên, nạn nhân mãn kỹ sư gây ra tranh chấp gần đây tại khu vực của Bộ Giao thông Công chánh là một sự kiện chứng tỏ.

Đệ nhất Cộng Hòa sụp đổ, rồi đệ nhị Cộng hòa, đệ tam Cộng Hòa, đệ tứ Cộng Hòa, v.v. kế tiếp theo nhau thật nhanh. Quá nhanh đến độ không chính phủ nào có thì giờ nghĩ tới việc đào tạo những cán bộ mới làm lương đống cho xã tắc trong thời kỳ nghiêng ngửa. Hậu quả đương nhiên là với thứ nhân sự cũ, cách mạng ôn hòa của ông Thơ, cách mạng dân chi phụ mẫu của ông Khánh đều không thể đưa đến bất cứ một kết quả nào. Rồi để rồi tới lượt ông Kỳ tuyên bố làm cách mạng xã hội. Nhưng làm sao mà thay đổi khi không có cán bộ mới thay thế cho cán bộ cũ, lấy đâu rường cột mới kiểu tối tân để thay thế cho các rường cột cũ đã mục và lỗi thời để xây cất lại căn nhà Việt Nam. Quân Lực biết rằng với thứ chiến tranh này, chưởng chính trị cũng quan trọng như chưởng 105 hay B-52, rằng chưởng phản du kích chiến cũng quan trọng như chưởng chính quy chiến, nhưng thử hỏi đến giờ phút này, các quân trường đã đào tạo được bao nhiêu sĩ quan đa hiệu để hạ được các chính ủy đối phương. Bộ Thanh niên Thể thao có thể cũng biết rằng trong cái thời buổi này, vấn đề chính là làm sao tranh thủ thanh niên với Cộng sản còn để các huấn luyện viên giữ các chức vụ chỉ huy là lệch hướng. Nhưng tìm đâu ra cán bộ mới, giỏi về hoạt động thanh niên để thay thế? Từ trước đến giờ, đã có ông Tổng trưởng Bộ trưởng nào của các chính phủ tiền bối nghĩ tới việc đào tạo cán bộ thanh niên đâu – xin hiểu cán bộ thanh niên đây là những người được huấn luyện kỹ về chính trị và kỹ thuật tổ chức đoàn thể cùng động viên thanh niên.

Chính quyền của các Cộng Hòa kế tiếp nhau đã xao lãng việc đào tạo các cán bộ mới cho quốc gia như vậy, còn thanh niên bên ngoài thì sao? Dĩ nhiên, những kẻ có ôm chí lớn trong thiên hạ muốn trong xã tắc ra tài lương đống đã cố gắng tự đào luyện lấy mình. Kẻ thì lấy chiến trường làm trường học, kẻ thì lấy sách vở làm thầy, kẻ này lấy hoạt động xã hội làm trường thực tập, kẻ kia lấy việc xuống đường làm vôi tôi thép. Để rồi kết quả tới giờ phút này chẳng lấy gì làm khả quan.

Người lấy chiến trường làm trường học tuy thu được nhiều kết quả nhưng học phí thường quá đắt và thường chưa chắc sở học đã được đắc dụng vì e “chàng Siêu mái tóc điểm sương mới về”.

Người lấy sách vở làm thầy thì vì đọc quá nhiều sách Tây, hóa thành déracinien, cứ mưu toan đem lời dạy của các kẻ sĩ Pháp Lan Tây và Á Mỹ Lợi Ca áp dụng vào cái xứ thân phận nhược tiểu bốn bề thù địch này.

Người lấy việc xuống đường làm vôi tôi thép thì lại hay tưởng rằng thực hiện được dăm ba vụ tranh đấu tại thị thành, là mình đủ khả năng trở thành lãnh tụ sau này.

Người lấy hoạt động xã hội làm trường thực tập lại đôi khi ngộ nhận rằng làm Bộ trưởng trông coi một Bộ hay việc cai trị không khó hơn tổ chức hoặc điều khiển một phong trào hay trại công tác xã hội.

Rút cục vấn đề lương đống là thế nào? Tôi chịu không biết trả lời sao vì chính tôi cũng là kẻ đang đi tìm trường để học mà chưa tìm ra nơi thích hợp và trong lòng thì đang lo rằng không tìm được ra mau thì chí lớn không về, bàn tay không e cũng có lúc đựng không đầy hai con mắt mỹ nhân.


Hiện tượng chậm tiến trong bộ máy nhà nước

Trước khi người Pháp dùng võ lực làm Việt Nam trở thành một thuộc địa, bộ máy nhà nước tại xã hội xưa có truyền thống bắt nguồn từ Trung Hoa. Ý hướng chủ chốt của thành phần lãnh đạo là duy trì triều đại một dòng họ biểu lộ qua sự phát triển và củng cố ý niệm trung quân. Cơ cấu tổ chức tương tự như của Trung Quốc. Tại kinh đô có triều đình tập trung cả ba thứ quyền: hành pháp, tư pháp và lập pháp. Tại các địa phương có những quan đầu tỉnh, đầu quận, đại diện cho nhà vua cai trị dân theo những quy tắc luật lệ phát xuất từ triều đình. Phương thức cai trị được đề cao là phương thức nhân trị, lấy lễ nghĩa mà giáo hóa cho dân nhiều hơn là dùng chế tài – chính từ chủ trương này đã phát sinh thành ngữ quan là “dân chi phụ mẫu”. Về nhân sự, các quan (không kể các lại là nhân viên thuộc hạ), đa số xuất thân từ đại chúng. Với lề lối thi cử tuyển chọn trực tiếp nhân tài, dân Việt nào có học thì dù là quý tộc hay bạch đinh, đều có thể ra làm quan. Cứ ba hay bốn năm tùy triều vua, bộ máy hành chánh lại được tất cả một số viên chức mới từ đại chúng. Cứ mỗi một thế hệ, gần như nhân sự của bộ máy nhà nước lại được đổi mới trung bình tới 1/3. Từ dân mà ra, rồi lấy các quy tắc của Khổng Mạnh mà cư xử và trị dân, những ông quan thời xưa quả thật đã là những nhà cai trị khá (dù không được huấn luyện về hành chánh). Nhưng bộ máy nhà nước kiểu Khổng Mạnh này có nhược điểm là nương dựa trên hai yếu tố MINH QUÂN và TÔI HIỀN. Vua có sáng suốt và thương dân thì các quan mới khá và ngược lại, các quan có khá thì vua mới dễ trở thành minh quân. (Trong các triều đình Việt Nam, vua không có quyền tuyệt đối vì có sự hiện diện của các quan Đô sát Ngự sử và tại nhiều triều vua, thực quyền gần như do các đại thần nắm giữ). Nói một cách giản dị, sự hay dở của bộ máy nhà nước thời trước gần như tùy thuộc vào yếu tố nhân sự, nghĩa là tùy thuộc vào đức tính một người (vua) và sĩ khí của đẳng cấp trí thức trong nước. Vấn đề cơ cấu tổ chức được xếp xuống hàng thứ yếu. Cũng vì thế khi vua xấu, sĩ phu xuống dốc về tinh thần thì đương nhiên quốc gia lâm vào một thời kỳ đen tối, và sử chép rằng: “Vua thì ham mê tửu sắc bỏ việc triều chính, các quan tham nhũng, sưu cao thuế nặng, giặc cướp nổi lên như ong, trăm họ điêu linh…”.

Trong những năm cuối thế kỷ XIX, người Pháp đã có nhiều lần định thực hiện chế độ trực trị, sa thải quan lại cũ Việt Nam, tiêu hủy các cơ cấu tổ chức hành chánh cổ truyền tại Việt Nam, nhất là tại Nam Việt. Nhưng sang thế kỷ XX, với toàn quyền Paul Bert và vài toàn quyền kế tiếp, người Pháp đã áp dụng một chính sách khác khôn ngoan hơn. Về nhân sự, họ trọng dụng các quan lại cũ trong khi chờ đợi đào tạo được các quan lại mới theo tiêu chuẩn ấn định. Về cơ cấu tổ chức họ duy trì cơ cấu cũ từ cấp huyện trở xuống. Về phương thức tổ chức họ đã theo một phương thức làm cho bộ máy hành chánh ngược đầu: Tại các quốc gia độc lập, bộ máy hành chánh được thành lập như thế nào cho có lợi CHO DÂN, CHO QUỐC GIA. Tại Đông Dương cũng như tại các nước thuộc địa khác, bộ máy hành chánh được tổ chức SAO CHO CÓ LỢI cho nước thống trị. Nghĩa là không những có các cơ quan không có ích gì cho dân cho nước (công quản rượu, thuốc phiện, v.v.), tất cả các cơ cấu khác đều được hướng về quyền lợi của nước thống trị, lấy sự mang lợi cho mẫu quốc làm tiêu chuẩn chính.

Tháng 8-1945, Việt Minh thay thế người Pháp cầm quyền, hủy bỏ các cơ cấu cũ, loại trừ các quan lại khỏi các chức vụ chỉ huy, đưa ra một phương thức tổ chức mới. Vài tháng sau, vì chiến tranh Việt Pháp, bộ máy hành chánh được tổ chức lại cho thích ứng với công cuộc kháng chiến. Sau 1950, Hồ Chí Minh công khai áp dụng chế độ xã hội chủ nghĩa theo chiều hướng “tiến tới chế độ cộng sản”, bộ máy hành chánh được tổ chức lại một lần nữa theo mẫu của Nga Xô và Trung Cộng.

Bộ máy nhà nước của Việt Nam Cộng hòa

Tại miền Nam, cho tới 1954, bộ máy hành chánh là bộ máy cũ do chính quyền bảo hộ Pháp tạo lập trước kia. Sau 1954, ông Ngô Đình Diệm lên cầm quyền, có chú ý tới việc sửa đổi. Nhưng các sửa đổi chỉ có tính cách chi tiết và hình thức. Do đó bộ máy hành chánh Việt Nam Cộng hòa hiện nay vẫn giữ đủ các đặc tính chính yếu do chế độ thực dân mang lại. NGHĨA LÀ:

Về cơ cấu tổ chức

Bộ máy hành chánh vẫn được tổ chức ở thế tĩnh.

Tại Trung ương có các Bộ trưởng, Đổng lý, Giám đốc, Chánh sự vụ với các Bộ, Nha, Sở. Tại tỉnh có các Ty và Chi. Sở dĩ gọi là tĩnh bởi vì lối tổ chức này bao gồm các chức vụ ngồi bàn giấy và các cơ cấu có khuôn khổ nhất định không thuận tiện cho các hoạt động linh động đặc biệt.

Cộng hòa Việt Nam đang phải giải quyết một thứ chiến tranh toàn diện gọi là chiến tranh cách mạng hay chiến tranh nhân dân, tổ chức chính quyền thế tĩnh không còn thích hợp. Thí dụ trường hợp sau: Tại thị trấn A, Việt cộng nhân dịp Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ tới trú đóng, dự tính trong tháng sau sẽ xách động học sinh sinh viên biểu tình chống Mỹ. Để thực hiện dự định này, Việt cộng tăng cường cho Tỉnh ủy tỉnh A một đoàn cán bộ đặc biệt để trà trộn vào hàng ngũ học sinh sinh viên để tổ chức đoàn thể trung lập với chính quyền hoặc thân cộng. Cục An ninh và Cảnh sát Quốc gia theo dõi, tìm bắt cán bộ Việt cộng loại này thường thường chỉ đạt tới hiệu năng 50 phần trăm, do đó cuộc biểu tình vẫn có thể hình thành. Khi cuộc biểu tình hay xuống đường xảy ra dưới hình thức này hay hình thức khác, Cục An ninh phối hợp Công an lo tìm bắt những kẻ cầm đầu, Cảnh sát phối hợp với Quân đội lo giải tán. Nhưng dù dẹp được biểu tình, kẻ địch Việt cộng cũng đã đạt được mục tiêu tuyên truyền hoặc chính trị của họ rồi. Như vậy biện pháp hay nhất là các đoàn thể tổ chức thiên cộng để lũng đoạn và lôi cuốn họ về phía Quốc gia. Nhưng lấy đâu ra cán bộ chính trị có khả năng để làm công tác này?

Bây giờ chẳng lẽ gửi về địa phương các giám đốc, chánh sự vụ? Gửi nhân viên cấp nhỏ hơn thì vô ích vì những người này chỉ là những công chức hành chánh. Hơn nữa, bây giờ giả thử gởi được chăng nữa thì họ hoạt động theo phương thức, quy chế nào.

Bộ máy hành chánh không thích ứng với các công tác phối hợp.

Bộ máy hành chánh người Pháp lập ra theo thế tĩnh cũng có lý do chánh đáng: Họ thiết lập guồng máy cai trị cho thời bình. Thời bình đòi hỏi những phân nhiệm rõ rệt giữa các cơ cấu, các ngành, các bộ. Bộ Y tế lo chữa bệnh, công tác vệ sinh. Giáo dục lo việc dạy học, Quân đội lo giữ an ninh quốc nội, chống ngoại xâm, v.v. Người nào việc đó, cơ quan nào phân vụ ấy cứ thế mà làm, không ai giẫm chân lên ai cả và công việc công tác sẽ được thực hiện hay giải quyết êm đẹp. Các công tác phối hợp các ngành gần như không có và không cần thiết.

Hiện nay, cuộc chiến có tính cách toàn diện và thực chất chính trị, địch tấn công ta trên mọi lãnh vực và trên mọi thứ trận tuyến quân sự, tôn giáo, văn hóa, kinh tế, v.v. Một chiến dịch địch mở ra tự bao giờ cũng nhằm tối thiểu hai mục tiêu: mục tiêu thứ nhất là hoàn toàn quân sự nhằm tiêu diệt chủ lực hoặc cướp vũ khí ta, mục tiêu thứ hai sẽ hoặc là gây một tác động tinh thần, hoặc để hỗ trợ cho một đợt tuyên truyền, hoặc để yểm trợ gián tiếp cho một phù trợ đòi hỏi hòa bình với bất cứ giá nào hay đòi trung lập. Trong thời bình, một cây cầu gãy phải sửa là việc của Bộ Công chánh. Nhưng bây giờ, cây cầu vì địch phá sẽ đặt ra nhiều vấn đề. Quân đội cần cầu để chuyển quân, Bộ Kinh tế cần cầu đó để chuyển lúa về thị trấn. Tòa tỉnh địa phương sợ thị trấn bị cô lập với Sài Gòn, công chức mất tinh thần, vật dụng thiếu thốn. Cây cầu chiến lược này gãy rồi, mọi sự sẽ diễn tiến như sau: Phải mượn phi cơ USOM của không quân Việt Mỹ để tản thương, tiếp tế thuốc men, chuyển công văn giấy tờ cùng viên chức quan trọng. Đó là giai đoạn khẩn cấp. Giai đoạn sau, Công binh tác chiến sẽ cấp tốc làm cầu cho Quân đội sử dụng – trong khi chờ đợi Ty Công chánh địa phương trình một hồ sơ về Trung ương để bộ Công chánh lo sửa hay làm lại cầu mới. Trong tất cả các giai đoạn trên, công tác nào cũng gần như là công tác phối hợp giữa nhiều ngành khác nhau của guồng máy Hành chánh và Quân đội cả Việt Nam lẫn Hoa Kỳ. Một thí dụ khác: Tỉnh trưởng tỉnh Bình Định mở một chiến dịch bình định một quận đã bị địch lũng đoạn. Công tác phối hợp sẽ phải làm ngay từ giai đoạn soạn thảo kế hoạch. Và khi thực hiện, sẽ có nhiều ngành dân chính tham dự: Cán bộ tâm lý chiến, Cán bộ y tế, Cán bộ xây dựng hương thôn, v.v. cùng các binh chủng khác nhau của quân đội.

Những người đã soạn thảo ra những nét chính của cơ cấu tổ chức chính quyền hiện nay, tất nhiên không thể trù liệu tới thứ chiến tranh toàn diện đang tiếp diễn ngày hôm nay ở Việt Nam. Hậu quả là nếu cơ cấu tổ chức hiện hành không thích hợp cho mọi công tác phối hợp, cũng là điều đương nhiên. Ông Ngô Đình Diệm đã cố gắng giải quyết vấn đề bằng cách đưa quân nhân ra vài cơ quan mới. Các biện pháp này chỉ là vá víu, không có hiệu năng mong muốn. Gần đây hơn nữa, Nội các chiến tranh có tổ chức lại sự phân nhiệm, thành lập 5 Tổng Bộ để dễ phối hợp và thống nhất chỉ huy. Nhưng sự cải cách tiến bộ này mới chỉ ở cấp lãnh đạo tối cao. Còn từ cấp Bộ trở xuống Nha, Sở cho tới địa phương, chưa có gì thay đổi. Sự phối hợp vẫn chỉ trông cậy vào một vài văn kiện lẻ tẻ, vào sáng kiến cùng cố gắng của các cấp chỉ huy trung cấp.

Về thể thức điều hành

Trong thời bình, bộ máy nhà nước được lập ra để cai trị. Công tác quản trị, điều hành là chính. Trong thời chiến, bộ máy nhà nước là bộ máy chiến đấu chống địch và tìm cách thắng địch. Hai hoàn cảnh, hai chiều hướng. Chính vì thế, nhiều quốc gia, khi có chiến tranh, đã thành lập Nội các Chiến tranh, Chính phủ Kháng chiến, v.v. để có thể ứng phó được với tình thế. Bộ máy hành chánh Việt Nam, dù có những cải cách mới đây, vẫn giữ nguyên cơ cấu để chiến đấu. Chính vì thế, trong nhiều cơ quan, việc điều hành hoạt động vẫn theo thể thức có từ vài chục năm về trước.

Nhiều công chức cao cấp do Pháp đào tạo, thường chủ trương duy trì thể thức điều hành cũ, viện cớ các thể thức này thuận lợi cho việc cai trị và ngăn ngừa các tham nhũng. Cớ thứ nhất chỉ hợp lý một nửa vì như đã trình bày ở phần trên, bộ máy nhà nước hiện nay không những dùng để cai trị mà còn dùng để chiến đấu. Cớ thứ hai không hợp lý vì các thể thức chi tiêu xuất nhập và kiểm soát tiền bạc quốc gia hiện nay phức tạp và chi ly đến mức tối đa như từ năm 1954 tới giờ, thể thức này không hề tỏ ra hữu hiệu trong việc ngăn ngừa tham nhũng.

Về nhân sự

Năm 1954, khi ông Ngô Đình Diệm lập chính phủ bộ máy nhà nước hầu như chỉ gồm toàn các công chức hành chánh. Trong các Bộ, sự phân nhiệm các ngành đã có, nhưng nhân sự vẫn là thứ nhân sự do người Pháp đào tạo và tuyển mộ theo nhu cầu về cai trị. Như đã trình bày nhiều lần, đó là bộ máy nhà nước được tạo lập để cai trị và cho thời bình với thứ nhân sự đã được đào luyện cho thứ mục đích đó. Phân tích ra, thứ nhân sự này có những đặc điểm sau:

* Thuộc từng lớp tiểu tư sản thành thị do chế độ thuộc địa tạo ra

Tầng lớp này mang nặng tính chất phong kiến quan liêu, và theo nhận xét của giáo sư Nguyễn Văn Trung, họ có “một lý tưởng nhàn hạ, chiêm ngưỡng vô tri, khinh chê lao động sản xuất, coi việc ăn học chỉ như một lối thoát khỏi sự làm việc, nhất là sự làm việc mệt nhọc, cực khổ, không có hứng thú sáng tạo và thích sáng kiến”. Đó là dưới thời Pháp thuộc. Muốn phân tích và xác định đặc tính của tầng lớp này hiện nay, có thể dùng nhận định của ông Frantz Fanon: “Trưởng giả Quốc gia lên nắm chính quyền sau khi chế độ thực dân chấm dứt là một trưởng giả chậm tiến. Trưởng giả Quốc gia các nước chậm tiến không hướng về sản xuất sáng tạo, xây dựng, cần lao, mà hoàn toàn giới hạn vào những hoạt động trung gian, chỉ là sợi dây chuyền cho một chế độ tư bản bây giờ phải ẩn giấu dưới hình thức một thứ chủ nghĩa thực dân mới… Trưởng giả thuộc địa rất sáng suốt, thừa hiểu không thể kéo dài mãi tình trạng ưu đãi nên họ cố lợi dụng triệt để khi còn thời cơ. Tinh thần của nó là một tinh thần hưởng thụ...” (Les damnés de la terre).

* Chỉ được huấn luyện để trở thành nhân viên thừa hành trong bộ máy nhà nước

Hầu hết các công chức cao cấp hiện nay đều do người Pháp đào tạo từ 10, 15 năm trước. Họ có hai đặc điểm sau:

Chỉ được huấn luyện về địa hạt tạm gọi chung là thủ tục hành chánh

Chỉ được huấn luyện để làm nhân viên phụ tá hay thừa hành

Có thể chia công chức Việt Nam do Pháp đào tạo ra làm hai loại chính. Loại thứ nhất, rất đông đảo, chỉ được huấn luyện cho có khả năng hành chánh để ra làm thư ký văn phòng (dù tên gọi có nhiều và khác nhau, đi từ thông phán tới tham tá, v.v.). Loại này không được huấn luyện hay hướng dẫn một chút nào về địa hạt cai trị – có thể coi những viên chức này tương đương với các lại dưới thời phong kiến. Loại thứ hai, rất ít, được đào tạo ra làm cấp trung gian thừa hành (quan huyện, phủ, đốc phủ sứ, v.v.) và làm bác sĩ, y sĩ, thú y, giáo học, lục sự, luật gia, v.v. Gọi là chuyên viên phụ tá bởi vì sau khi có chuyên môn hầu hết các người này chỉ được phép bổ nhiệm vào các chức vụ phụ tá trong các ngành hay cơ quan chuyên môn.

Sau khi người Pháp rút khỏi miền Nam, bộ máy nhà nước được trao cho Việt Nam thì các cấp trung gian thừa hành (huyện, phủ, đốc phủ sứ, đốc sự, v.v.) và chuyên viên phụ tá, do hiện tượng lấp đầy chỗ trống, đã trở thành cấp lãnh đạo, các thư ký cũ được lên hàng cấp chỉ huy thừa hành. Tất cả những viên chức này, vì lý do không được huấn luyện về cai trị, điều khiển nên đã lấy kinh nghiệm thâm niên thay thế cho sự thiếu căn bản. Những người khá nhất của họ cũng chỉ đạt tới mức duy trì được sự điều hành thông thường của bộ máy nhà nước thời bình. Nhưng tình thế hiện nay, như đã trình bày nhiều lần đòi hỏi một hiệu năng lớn hơn và khác hơn nhiều.

Vấn đề cải tổ cơ cấu bộ máy nhà nước do đó trở thành vấn đề sống còn của Quốc gia. Nhưng tới nay không có cuộc cải tổ nào, dù chỉ là cải tổ thủ tục hành chánh, đã đạt được kết quả. Lý do thật giản dị: chính những viên chức có nhiệm vụ cải tổ lại không muốn cải tổ, bởi vì họ chỉ có thể giữ được địa vị hiện nay nếu cơ cấu cũ và thủ tục cũ còn nguyên - không ai hiểu rõ hơn họ tất cả các ngoắt ngoéo hiểm hóc rắc rối của bộ máy hành chánh hiện nay và họ là bậc thầy trong địa hạt này. Mọi sự thay đổi sâu rộng cơ cấu nhà nước phá vỡ cái khung cảnh hoạt động quen thuộc cũ sẽ làm họ sợ hãi, vì không còn duy trì được luật “sống lâu lên lão làng”, sợ hãi vì e phải nỗ lực học hỏi và chiến đấu để duy trì địa vị cũ – cuộc chiến mà họ ý thức được rằng thiên không thời địa không lợi nhân không hòa cho họ.

Hiện tượng chậm tiến trong bộ máy nhà nước là như vậy, là đến nỗi cải tổ cải cách cũng khó thực hiện. Do đó, quả thực là hai chữ không nên nói, viết tới và những vị lãnh đạo tối cao nào dự tính hay đã dự tính thực hiện cách mạng với bộ máy công quyền cùng nhân sự của nó, chỉ là những người không tưởng.


Trở lại miền Trung

Căn cứ vào địa thế, miền Trung phân ra làm hai miền rõ rệt: miền cao nguyên và miền duyên hải. Cách đây hơn một năm, tôi đã từng ở nhiều tỉnh trong cả hai phần đất ấy và mỗi khi có dịp được nghỉ vài ba hôm, tôi thường sử dụng hầu hết quốc lộ để trở về Sài Gòn, từ quốc lộ 13, 22 đến quốc lộ 1. Bây giờ có dịp trở lại các nơi cũ, tôi chỉ có thể sử dụng một phương tiện di chuyển độc nhất là máy bay. Chỉ xét vấn đề dưới một khía cạnh này, cũng đã thấy tình hình đất nước miền Trung đã thay đổi ra sao trong một năm vừa qua.

Phi trường Tuy Hòa nằm sát biển, biển thật xanh và những thuyền câu đậu trong những vụng nước phẳng lặng, những tấm lưới nâu trên cát dưới các hàng dừa lá lấp lánh hắt ánh nắng… tất cả cấu thành một miền có không gian đẹp và êm tĩnh nhất miền duyên hải Trung Việt, một không gian bất cứ một người thanh niên nào, mặc chiến phục hay không, nếu đã có dịp đi qua đều thấy muốn hứa với mình một điều: Khi nào chiến tranh kết liễu, sẽ mang người yêu tới sống trong một nhà tranh ở làng chài kia, sáng sớm cũng như hoàng hôn cùng nhau bơi lội trong vụng nước phẳng như mặt hồ và cát mịn như bột dưới gót chân… Tôi cũng đã từng có lần ao ước như thế đã từ lâu, nhưng khi phi cơ hạ thấp dần tới đầu phi đạo, không gian đẹp như một bức tranh Tàu ấy vẫn còn nguyên đó, nhưng thanh bình đã bị thu hẹp nhiều về cả không gian lẫn thời gian. Một chi đội thiết vận xa đậu cạnh phi đạo, quay tròn hướng súng ra tứ phương như đoàn ngựa kéo mui trắng của các người khẩn hoang Mỹ dàn trận chống lại mọi da đỏ trong những phim có đề tài về miền Viễn Tây. Gió ngoài biển thổi vào mạnh và đều, và đồng hồ mới chỉ 10 giờ sáng, không khí đã khô cứng như chứa những hạt cát nóng nhỏ làm mồ hôi toát ra và da miệng thèm chất lỏng mát. Trao bidon nước cho tôi, một sĩ quan bạn trú đóng miền này chỉ tay về những kiện hàng đang được khuân từ lòng hai chiếc C123 cục mịch xuống sân bay lát vỉ sắt, nói: “Cái gì thế mày? Cuốc, xẻng… toàn nông cụ. Lại sách vở nữa… Sài Gòn gửi những thứ này ra làm gì?” Tôi trao trả bidon, những giọt nước mát đã làm tiêu tan những váng vất của chuyến bay, trả lời: “Mày không trông thấy những bao cá khô và muối kia à?” Người bạn dùng tay bao quát cả những ngọn núi phía trong, nói như trách cứ: “Mày không hiểu tình hình ở đây. Dân tị nạn cộng sản kéo về đầy, họ chỉ cần có gạo. Nhất là đồng bào Thượng, họ ăn ngày một bữa cháo từ lâu… Cá khô để ăn vã sao?” Tôi nín thinh nhìn chiếc Jeep chạy lại gần, một thiếu tá ngồi trên nhìn các kiện hàng được xếp lên GMC, rồi hất tay cho tài xế rồ máy chạy đi. Đám cát trắng bay lên cuồn cuộn. Khi phi cơ cất cánh, tôi nhìn qua cửa sổ xuống, các đồng bằng thật nhỏ nằm sát chân các dãy núi, khoảng vàng của cát nóng nhiều hơn vệt xanh của cây cỏ. Tôi đã qua nhiều lần vùng này bằng xe, tôi biết rằng chưa nơi nào nhiều cầu lớn nhỏ bằng những đồng bằng miền Trung; người ta quý từng giòng suối nhỏ, không dám làm quốc lộ liền ngăn chặn một giòng nước ngọt nào. Bây giờ với chiến dịch phá hoại địch mở ra, quốc lộ chỉ còn là những khoảng rời rạc, tách biệt với nhau. Bão lụt rồi chiến tranh khốc liệt, đạn của địch, bom của ta và người dân thì ở giữa. Khi phi cơ lên cao trên lớp mây, tôi hiểu câu nói của người bạn buồn bực dưới kia: cày cuốc không có chỗ dùng vì đồng ruộng đã là chiến trường, sách vở không ích lợi bao nhiêu vì nhiều trẻ con đã không thể tới trường. Chỉ cần có gạo… Suốt những miền tôi tới trong chuyến đi này, nơi nào tôi cũng chỉ thấy có một câu một chữ: Gạo, chúng tôi cần có gạo. “Trời làm mưa lụt mỗi năm” cũng đủ làm miền này thành “xứ dân gầy” của Phạm Duy, không cần thêm chiến trận. Người Mỹ, Quân đội Việt Nam, Nội các Chiến tranh, v.v. tất cả đang nỗ lực đương đầu với kẻ địch cộng sản. Chúng ta sẽ kể là thắng nếu trong năm tới, phần đất không bom ta đạn địch tăng lớn hơn, số người dân ăn cháo ít hơn và tại các thị trấn số gái điếm gái Snack-bar giảm xuống. Chúng ta sẽ kể như là thua nếu trong năm tới, số cày bừa không dùng đến nhiều hơn, số dân kêu gào bát cơm nhiều hơn và tại các thị trấn, số gái điếm Snack-bar tăng gấp bội. Thắng hay bại, tiến bộ hay thụt lùi là ở những sự kiện ấy.


Hai thái độ

Từ khi chế độ động viên được ban hành, tôi có một thói quen là khi mở trang tư nhật báo, tôi tìm đọc ngay mục cáo phó để xem trong ngày vừa qua, có thêm một người bạn nào tử trận hay không. Đa số những tin tức buồn về bạn cũ, nhất là về các bạn đồng khóa, tôi thường biết được là qua những dòng cáo phó này – đôi khi đã xảy ra những trường hợp như có thằng bạn học đã ba bốn năm nay không gặp, buổi tối biết tin nó đi lính, đeo lon gì, đóng ở đâu đồng thời với tin nó chết ngày nào và tại nơi nào.

Cách đây vài tháng, một buổi tối ngồi nhà đọc báo, tôi thấy một cáo phó báo tin một đại úy tử trận, phía dưới tên họ là một vài con số ghi đơn vị ông ta phục vụ. Đơn vị này là đơn vị chót của tôi phục vụ trước khi thuyên chuyển về Sài Gòn. Các kết luận đầu tiên tôi rút ra từ cáo phó này là: Tiểu đoàn trưởng cũ của tôi đã đổi đi nơi khác, đơn vị cũ chắc vừa giao tranh lớn (nên tiểu đoàn trưởng mới có thể tử trận) và căn cứ vào tin tức chiến sự tổng quát, tôi suy đoán đại khái ra miền xảy ra đụng độ. (Có lẽ cũng vì e kẻ địch cũng suy đoán được như thế và hơn thế để phối kiểm tin tức, nên Quân đội đã cấm đăng cáo phó ghi rõ cấp bực và đơn vị của quân nhân chăng).

Các kết luận và suy đoán trên chưa làm tôi lo lắng cho những đồng đội cũ, bởi vì cũng rất có thể viên đại úy kia tử trận vì bị bắn sẻ hay bị phục kích – và như vậy chỉ liên quan đến riêng cá nhân ông ta. Hai hôm sau, một buổi sáng dậy sớm ngồi uống cà phê tại quán “Lão Tử” cạnh một hiệu phở nổi danh đợi tới giờ vào sở, tôi tự dưng thấy người ngồi cạnh reo lên kéo ghế mời một đại úy mới bước lên hè. Một câu hỏi thân mật làm tôi chú ý: “Sao? Tưởng toa bỏ xác ở Đ. rồi chứ. Tụi chúng bảo tiểu đoàn toa bị tiêu diệt kia mà!”. Viên đại úy trả lời liên tiếp làm tôi hiểu rằng ông hiện là Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn của tôi cũ, rằng các kết luận suy đoán của tôi hai hôm trước là đúng, rằng chính ông thoát chết chỉ bởi vì đi đợt trực thăng chót tới chiến trường, phi công thấy hỏa lực địch đàn áp toàn diện nên đã không đáp xuống. Tôi quay sang, tự giới thiệu và hỏi thăm trận đánh cùng tin tức bạn cũ. Sau cùng, khi biết có một thiếu úy về nằm Cộng Hòa, tôi lập tức đến sở xin nghỉ buổi sáng để đi thăm.

Tới cổng Tổng Y Viện, điếm canh không cho vào vì tôi mặc thường phục và vì luật lệ chỉ cho phép thăm thương binh buổi chiều. Tôi xuống nước năn nỉ viên trung sĩ điếm trưởng nhưng không có kết quả bởi vì “luật lệ là luật lệ”. Tôi bèn châm một điếu thuốc rồi xin phép được ngồi đợi một sĩ quan quân y bạn – kinh nghiệm nhà binh cho biết rằng vấn đề nào cũng đều có giải pháp, giải pháp hay hay giải pháp dở, miễn là kiên nhẫn chờ đợi và tìm tòi. Năm mười phút sau, một thiếu úy nhảy dù phóng xe scooter vào bị cản lại cùng đòi xuất trình sự vụ lệnh. Anh ta không có sự vụ lệnh và trình bày rằng anh là sĩ quan ban 5 thuộc tiểu đoàn dù vừa bị thiệt hại nặng tại Đồng Xoài, bây giờ vào thăm thương binh tiểu đoàn để lo các công việc thuộc phần vụ của anh. Chẳng biết quan điểm hai bên thế nào, vài phút sau giữa điếm trưởng và sĩ quan dù có sự to tiếng. Sĩ quan trực được triệu thỉnh, đó là một vị cao tuổi, tóc tiêu muối, dáng điệu có vẻ nghiêm khắc. Cuộc to tiếng bùng lớn hơn, và tôi nghe thấy thiếu úy dù kêu la đại khái anh đến đây không phải đi chơi, rằng quân tiểu đoàn anh thiệt hại thế nào, đau đớn ra sao mà bây giờ mang luật lệ thành phố ra gây khó khăn, v.v. Cơn tức của anh làm lời nói đi xa hơn nữa, anh nói luôn tới những bất công những người cầm súng phải chịu cho một hậu phương thế nọ thế kia, anh nói tới những tủi nhục của những người đã chết và bị thương cho những v.v. và v.v.

Mọi sự đến đây thực đã vượt khỏi thẩm quyền giải quyết của những người hiện diện. Sau cùng, thượng cấp tại quân y viện giải quyết bằng cách cho thiếu úy dù vào nhưng phải để xe ngoài cổng. Biết thời cơ đã thuận tiện, tôi lại tới bàn giấy xin vào một lần nữa, và lần này viên điếm trưởng cho vào ngay. Tôi và người bị thương trước kia đều là trung đội trưởng của cùng một đại đội. Anh xuất thân hạ sĩ quan, tốt nghiệp trường Nha Trang, người thấp và chắc như cối đá. Tính nết hiền lành và trầm tĩnh. Trong suốt thời gian gần anh, tôi chỉ thấy anh lộ vẻ lo lắng thực sự có một lần: lần vợ anh lên thăm tiền đồn bọn tôi và bị Cộng chặn đường về.

Khi bước vào phòng bệnh, tôi thoáng tưởng đã nhầm chỗ bởi vì không thể tưởng tượng anh bạn to chắc ngày trước lại có thể gầy tóp đi như vậy. Bằng một giọng yếu ớt, anh cho tôi biết rõ tình hình và tôi cảm thấy như có một nỗi nghẹn ngào đâu đây khi………. [1] Không muốn để những hình ảnh cũ lấn át, tôi xoay sang hỏi về trường hợp thoát nguy của chính người nằm đó. Bằng một giọng vẫn yếu, anh kể lại trận đánh. Hầu hết cấp chỉ huy của các đại đội đáp đợt trực thăng đầu đều bị loại ra khỏi vòng chiến[tlw1] [2] ………. Riêng anh, vừa nhảy ra khỏi trực thăng, địch bao vây bắn đạn thành lưới. Lăn vài vòng ngửng đầu lên thấy cách vài thước một khẩu đại liên địch đang nhả đạn, anh thẩy một trái lựu đạn phá hủy được ổ súng địch nhưng bị một binh địch nấp trên mái nhà kế cận bắn một phát xuyên từ ngực ra sau lưng. Anh kéo ngực áo cho tôi xem vết thủng và cười: “May là đạn carbine, nếu đạn MI thì tan ngực rồi!” Anh tiếp tục kể, và theo các câu nói, trí tôi lần theo cuộc chiến………. [3] Khi thoát khỏi vòng vây, anh bị địch chém cụt ngón tay. Máu chảy khắp lộ trình, mỗi lúc quá mệt ngồi tựa gốc cây thì kiến ngửi thấy hơi máu, kéo đến bu kín. Thế rồi anh cũng trở về tới cứ điểm cách chiến trường 7 cây số đường rừng cùng những người lính mệt nhoài… Khi anh ngừng nói, tôi cũng không nói gì. Khi tôi đứng dậy cáo từ, anh giơ tay bắt và nói: “Cám ơn anh!” Một nỗi xao xuyến lẫn hối hận làm tôi vội vã đáp: “Chính tôi phải cám ơn anh mới đúng… Anh đã chiến đấu thay cho tôi…” Trên đường về sở, nỗi xao xuyến hiện rõ hơn làm tôi buồn rầu. Thoáng đâu đây một chút hối hận, hối hận vì đã không có mặt với những đồng đội cũ trong những giờ phút lâm nguy ấy. Khi tìm cách về Sài Gòn, tôi biết rõ tôi muốn gì, biết rõ rằng với khả năng của ngòi bút, sự đóng góp của tôi ở hậu phương có ích hơn sự đóng góp của một thiếu úy ngoài đơn vị. Tôi đã cố gắng tối đa trong trận tuyến mở ra tại địa hạt văn hóa và cũng đã đạt được vài kết quả khả quan.

Nhưng cũng nhiều khi, như buổi sáng này, nỗi xao xuyến và buồn bã ấy vẫn tới làm tôi hoang mang, mất tự tin ở thái độ đã chọn lựa của mình. Trạng thái này nguyên do từ tình liên đới hay có thể do một nguyên do gì khác nữa, tôi không biết rõ, nhưng nó làm cho tôi cảm thấy rằng ngày nào tôi còn ở hậu phương, tôi phải tìm đủ đường đủ cách để phục vụ với hiệu năng tối đa. Có như thế họa chăng mới hy vọng tới lúc tôi có thể hoàn toàn tự tin để nói với những người như anh bạn kia rằng: Đừng cám ơn nhau. Chúng ta đều đã cùng chiến đấu, mỗi kẻ trên địa hạt đã chọn lựa hay bị phải chọn lựa…



*

Những tác phẩm đã xuất bản của Thế Uyên tính đến 1966: Những hạt cát, tập truyện, Thời Mới xuất bản lần 1 và 2; Mưa trong sương, Kịch, Thời Mới xuất bản; Ngoài đêm, Tập truyện, Nguyễn Đình Vượng xuất bản; Mười ngày phép của một người lính, Thái độ I, Nam Sơn xuất bản; Những ý nghĩ của bọt biển, Thái độ II, Nam Sơn xuất bản. Sẽ xuất bản: Nỗi chết không rời, Tập truyện viết chung với Duy Lam; Tiền đồn, Truyện dài; Chiến tranh cách mạng, Tiểu luận.



--------------------------------------------------------------------------------
[1]Đoạn bị kiểm duyệt (chú thích của talawas)
[2]Đoạn bị kiểm duyệt (chú thích của talawas)
[3]Đoạn bị kiểm duyệt (chú thích của talawas)

Nguồn: In xong tại nhà in Nam Sơn, 36 Nguyễn An Ninh, Sài Gòn, ngày 10-5-1966. Nam Sơn xuất bản. Giao dịch với nhà xuất bản: Trịnh Viết Đức, 36 Nguyễn An Ninh, Sài Gòn, ĐT: 21-026. Bản điện tử do talawas thực hiện.

Thế Uyên - Những ý nghĩ của bọt biển (2)

Thế Uyên
Những ý nghĩ của bọt biển
(Thái độ II)


Mười năm văn hoá kiểm duyệt miền Nam

Gần đây trên các tạp chí văn học có một phù trợ dịch thuật những bài tham luận, khảo luận, tự sự, hội thảo, v.v. của những nhà văn Tây phương, nhất là những nhà văn Pháp về các đề tài như: văn nghệ dấn thân hay không dấn thân, văn nghệ là vô bổ vô ích hay có tác dụng đối với xã hội, cái họa siêu hình đối với văn chương ra làm sao, văn nghệ có nên để chính trị theo đuổi hay không, v.v. Tôi theo dõi các bài ấy một cách khá chăm chú vì tò mò muốn xem thiên hạ nghĩ ngợi ra làm sao ở bên Tây, bên Mỹ, bên Tàu. Đôi khi, gặp mặt bạn bè, nếu có người nêu những đề tài ấy ra, tôi thường im lặng đứng ra ngoài cuộc bởi vì đọc những bài ấy để mở rộng thêm kiến văn thì nên, còn đọc chúng để rồi coi những vấn đề nêu ra ấy là những vấn đề của nhà văn Việt Nam thì lại là một lầm lẫn lớn. Lầm lẫn lớn bởi vì thân phận nhà văn Pháp ở giữa Paris trong một quốc gia tân tiến có chế độ tự do ngôn luận và tinh thần thái bình đã lâu không giống một chút nào thân phận nhà văn nhược tiểu Đông Nam Á. Những Grillet, Berger, Sartre, Camus đâu có phải tham dự thứ chiến tranh bi thảm, đâu có phải lo chế độ bị tiêu tan, đâu có nghèo khổ quá mức, đâu có phải chứng kiến cảnh tượng chua xót như… (Tôi xin miễn ghi tiếp bởi vì ghi tiếp thể nào cũng bị kiểm duyệt xóa bỏ. Vả lại, không ghi tiếp đầy đủ, chúng ta, những người Việt Nam, ai cũng biết rõ người cảnh tượng đó là như thế nào rồi).

Nhận xét như trên, tôi thấy rằng ở Việt Nam, vấn đề trọng đại đối với nhà văn không phải là vấn đề viết thế nào, viết để làm gì. Cũng không phải là vấn đề cái họa siêu hình, tiểu thuyết mới tiểu thuyết cũ, tiền chiến hậu chiến. Đối với nhà văn Việt Nam mang thân phận nhược tiểu Đông Nam Á, thực sự ra chỉ có một vấn đề cấp bách thường xuyên và trọng đại là VẤN ĐỀ KIỂM DUYỆT. Và nhà văn Việt Nam chỉ có một ám ảnh, thắc mắc, một vấn đề thực sự là: VIẾT THẾ NÀO ĐỂ KHỎI BỊ KIỂM DUYỆT BỎ.

Tôi không biết các cụ Nguyễn Trãi, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Gia Thiều, v.v. khi sáng tác thơ văn, có bị kiểm duyệt hay không. Tôi mở lịch sử ra đọc, và đọc mờ cả mắt mà không thấy triều đại nào đã thành lập một cơ quan kiểm duyệt. Mới đầu tôi cho rằng nhất định phải có, bởi vì không lẽ gì vào thế kỷ XX, chúng ta có cả một nền văn hóa kiểm duyệt rất phong phú mà lại không có một nguồn gốc truyền thống nào trong bốn ngàn năm văn hiến. Tôi tìm đến một vị thâm nho hỏi tiếp bởi vì tôi cho rằng quá kém chữ Hán, tôi đã không hiểu được những tên chức vụ xưa như Đông các đại học sĩ, Tả tham tri, Hữu tham tri, v.v. Hơn nữa, đọc sử, tôi đã thấy những ông đề đốc đô đốc của Quang Trung đã chỉ huy toàn đơn vị bộ binh, thì suy ra dám có một ông Chánh sự vụ Sở Kiểm duyệt nấp dưới tên một chức vụ như Đô sát Ngự sử Văn đàn chẳng hạn. Sau khi vị túc nho đã xác định là trong suốt lịch sử Việt Nam từ hồi Đinh Bộ Lĩnh cho tới khi Tôn Thất Thuyết xách gươm chạy sang Tàu, nhất định không có chức vụ kiểm duyệt nào, kể cả chức Đa sát (xin lỗi, Đô sát) ngự sử văn đàn, tôi chợt nghĩ ra một điều thực hiển nhiên là: Nếu trong quá khứ đã có những cơ quan kiểm duyệt, thì hẳn chúng ta ngày nay chưa chắc đã có Đoạn trường tân thanh, Chinh phụ ngâm hay Cung oán ngâm khúc. Bởi vì nếu có cơ quan kiểm duyệt, chắc Đoạn trường tân thanh bị cấm phổ biến vì “tả chân” quá, Cung oán ngâm khúc bị cấm vì “xúc phạm đến thuần phong mỹ tục” và Chinh phụ ngâm thì chắc chắn không những bị cấm ấn hành mà thôi, tất cả còn dám bị truy tố ra trước tòa vì tội “làm suy giảm tinh thần chiến đấu của quân đội”. Giả thử Nguyễn Du hay Nguyễn Công Trứ lấy tư cách ông bự, xin lỗi, lấy tư cách đại quan thần trong triều, gây áp lực với quan Đa sát ngự sử văn đàn, có thể những tác phẩm của các ông vẫn được lưu hành với những đoạn kiểm duyệt bỏ cần thiết. Và như thế, trong Đoạn trường tân thanh của chúng ta ngày nay, chắc chắn không còn có những câu như: “Rõ ràng trong ngọc trắng ngà, Dày dày đúc sẵn một tòa thiên nhiên” (Đa sát ngự sử văn đàn phê: “tả chân”, “khiêu dâm”) và trong Chinh phụ ngâm không còn có những câu “Bước đi một bước lại vin áo chàng”. (Đa sát ngự sử văn đàn phê: Tiễn chồng đi thi hành bổn phận quân đội gì mà lại thê thảm vậy, viết thế là “hại tới tinh thần chiến đấu của quân đội”). Càng nghĩ lại quá khứ, tôi càng mừng cho nền văn học, nếu không có ngày nay chúng ta còn gì? Vậy tôi tin rằng những người thường chê trách các cụ nhất, đến đây chắc cũng phải nghiêng đầu bái phục sự sáng suốt của tiền nhân bởi vì tiền nhân đã hiểu rằng văn hóa không thể đi đôi với chế độ kiểm duyệt.

Lịch sử đã chứng tỏ rõ khi Việt Nam còn độc lập, chúng ta không có cơ quan kiểm duyệt. Vậy có thể suy luận dễ dàng rằng chế độ kiểm duyệt hiện nay chỉ xuất hiện kể từ khi quốc gia này đi vào vòng nô lệ ngoại bang và nó thiết yếu gắn liền với sự nô lệ của dân Việt dưới một chế độ có hình thức cai trị khác nhau. Cơ quan kiểm duyệt đầu tiên của Việt Nam dĩ nhiên do người Pháp thiết lập. Tôi không được đọc những văn kiện căn bản quy định tổ chức điều hành và nhiệm vụ của cơ quan này nên không hiểu rõ thực sự người Pháp muốn gì. Nhưng căn cứ trên những sự kiện thực tế, tôi thấy người Pháp trọng văn hóa và vì thường rêu rao họ tới “khai hóa” dân Việt, do đó chế độ kiểm duyệt của họ trung bình không lấy gì làm khắt khe. Đôi khi còn có những thời kỳ thật cởi mở, người cầm bút là người đừng xúi dân nổi dậy chống chính quyền bảo hộ. Còn ngoài ra muốn viết gì thì viết tùy ý. Lắm khi, họ còn không cấm cả những cuốn đề cao con người cách mạng chống Pháp – bằng cớ là những cuốn như Đôi bạn, Đoạn tuyệt của Nhất Linh, v.v. đều ấn hành dưới thời Pháp thuộc.

Theo ý tôi, chính vì sự hiểu biết và chính sách cởi mở của các cơ quan kiểm duyệt dưới thời Pháp thuộc, dân Việt đã có một thời kỳ sinh hoạt văn hóa phong phú từ 1925 tới 1945. Dù không ưa gì người Pháp, tôi cũng phải ghi nhận rằng nhờ sự tử tế này, chúng ta mới có văn học sử cận đại đáng kể. Đọc đến đây, nhiều người có tinh thần bài Pháp hơn tôi chắc không đồng ý. Nhưng nếu những người đó làm một thí nghiệm giả tưởng là đem một vài tác phẩm của văn chương tiền chiến đưa ra kiểm duyệt theo các tiêu chuẩn hiện nay, họ sẽ đổi ý kiến. Cuốn Hồn bướm mơ tiên chẳng hạn, chắc chắn không thể được phép in vì nội dung thuật lại một tình duyên có tính cách ép liễu nài hoa dưới bóng từ bi của Phật tổ – nhân viên kiểm duyệt sẽ bôi bỏ. Cuốn Giông tố của Vũ Trọng Phụng chắc sẽ được truyền tay nhau đọc để rồi cũng bôi bỏ trọn cuốn vì nội dung “phương hại tới nền đạo đức truyền thống của dân tộc”. Cuốn Số đỏ cũng bị cấm không những vì cùng lý do trên, còn thêm lý do đả phá giai cấp thống trị. Nói một cách giản dị, một nhà văn như Vũ Trọng Phụng chắc chắn không thể ra mắt dân chúng và thành danh dưới chế độ hiện nay. Tôi đã một lần tình cờ tìm được hai cuốn kể trên ấn bản thời Pháp thuộc, đem so với những ấn bản mới phát hành gần đây tôi đã thấy cơ quan kiểm duyệt hồi tố nhiều đoạn trong ấn bản sau. Một giáo sư bạn tôi khi biết truyện này đã thốt ra một tiếng thở dài: “Cũng may là mấy ngài kiểm duyệt còn thương các cụ, đã buông tha cho các tác phẩm của thế kỷ XIX…”.

Sau khi người lính viễn chinh Pháp cuối cùng xuống tàu hồi hương, có một cơ quan do chính quyền bảo hộ để lại được chính phủ đầu tiên Việt Nam Cộng hòa nâng niu quý trọng nhiều nhất là cơ quan kiểm duyệt. Điều đó thực dễ hiểu vì thành phần lãnh đạo mới đa số là cựu quan lại và phong kiến cũ – những người đã từng bị nhà văn nhà báo tố cáo sự thối nát nhũng lạm ngay từ dưới thời Pháp thuộc. Do đó, các quan Tuần vũ, quan Huyện, quan Phủ, quan Đốc phủ sứ, v.v. ngay sau khi lên được địa vị chủ nhân ông nước Việt Nam, đã liên kết với nhau để thẳng tay triệt hạ sinh hoạt văn hóa – họ hy vọng làm im được tiếng nói của dân chúng biểu lộ qua các tác phẩm và báo chí, họ sẽ vĩnh viễn giữ được “triều đình mới”. Họ đã không thành công trong việc duy trì “triều đình” quá 10 năm, nhưng đã thành công trong việc làm tê liệt các sinh hoạt văn hóa và tạo ra cả một MƯỜI NĂM VĂN HÓA KIỂM DUYỆT MIỀN NAM.

Trước khi viết văn, tôi đã từng nghe thấy tiếng kêu la của nhiều nhà văn về sự khắt khe thiếu hiểu biết của Kiểm Duyệt. Và tôi va đầu vào bức tường kiểm duyệt ngay từ truyện ngắn đầu tiên. Nhất Linh khi còn chủ trương Văn Hóa Ngày Nay, nói: “Truyện cháu viết được nhưng kiểm duyệt không cho đăng đâu…”. Từ ngày ấy cho tới nay, mỗi khi cầm bút viết, tôi đều bị ám ảnh bởi một câu hỏi: “Làm sao đây cho khỏi bị Kiểm Duyệt bỏ?”. Theo lời khuyên của nhiều người giàu kinh nghiệm, tôi tránh viết những bài khảo luận bởi vì chế độ Diệm sẵn lòng cho nói chuyện văn chương chính trị bên Phú-lãng-sa, bên Mỹ, bên Brésil nhưng lại rất kỵ việc người cầm bút quốc nội đưa những ý kiến, bàn tới những lý thuyết đi ra ngoài khuôn khổ “Cần lao Nhân vị”. Nhưng rút lui vào địa hạt sáng tác cũng không xong bởi vì trong địa hạt này cũng có nhiều cấm điều. Chẳng hạn như muốn rủa Thượng Đế một câu cũng khó, muốn viết một chút về quân đội cũng không xong. Viết truyện tình cũng không yên thân vì Phủ Tổng Thống đã ban chỉ thị xuống cho các nhân viên kiểm duyệt biết chỉ cho phép yêu như thế nào. Tôi có một thời kỳ nhận thấy cứ tả hôn môi là bị bỏ nên đành viết đến chỗ chàng-bắt-đầu-cúi-xuống hay nàng-bắt-đầu-ngửng-lên là ngừng. Một thời kỳ khác tôi nhận thấy nhân vật cấm không được bàn cả đến vấn đề trinh tiết. Xoay sang viết về chiến tranh Việt-Pháp trước 1954, cũng bị Kiểm Duyệt bôi xóa… Có lần bực tức quá, tôi nghĩ: “Thôi, có lẽ cũng đành nghỉ viết cho rồi!”. Tôi đã nghỉ viết một thời gian khá lâu và khi bắt đầu lại, mỗi khi cầm bút lại tự nhủ: “Cứ viết để đấy, viết cho độc giả năm năm sau…”.

Nhưng chế độ của hai ông Nhu – Diệm đã sụp đổ sớm hơn lòng mong mỏi. Lợi dụng khí thế cách mạng những tháng đầu, tôi vội vàng cho đăng những truyện đã chuẩn bị sẵn. Nhưng thời kỳ cởi mở qua rất nhanh ............................ [1] Các sáng tác của tôi đã bắt đầu xuất hiện trên các báo với các vết đen ô nhục hay các khoảng trắng mỹ thuật. Nhưng tôi chưa chán nản như dưới thời Nhu Diệm dù bị va đầu vào một loạt cấm điều mới: cấm đả kích Viện Hoá Đạo, cấm đả kích Thiên chúa giáo, cấm tố cáo những xấu xa của nhà cầm quyền, cấm phê bình chính sách của chính phủ, cấm nói động tới các tướng lãnh ........................... [2] .

Tôi chưa chán nản bởi vì một buổi đi làm về tới nhà biết tin một người em họ khá thân vừa bị Việt cộng bắt không biết sống chết thế nào, tôi chợt hiểu một điều là tôi và các bạn tôi cần phải có bổn phận phải tiếp tục cuộc chiến đã mở trên địa hạt văn hóa ít nhất cũng bởi vì nếu miền Nam mất vào tay cộng sản, chúng tôi sẽ chịu cùng số phận với người em họ kia – chứ đâu có thể đáp phi cơ đi ngoại quốc sống ung dung như những vị đang tưởng rằng chỉ cần dollar và súng đạn là thắng được kẻ thù.


Văn hoá trong chiến tranh Việt Nam

Tại các nước có truyền thống dân chủ như Pháp, Anh, Hoa Kỳ, v.v. những người cầm bút thường được sử dụng ngòi bút của mình theo lương tâm của chính họ và dư luận quần chúng. Vì thế, những nhà văn nhà báo tại các nước Tây phương này có thể được coi như phát ngôn viên cho nguyện vọng nhân dân mọi tầng lớp trong xã hội. Cũng vì thế, dân mua báo, mua sách và kết quả là những người cầm bút có một mức sống khá cao và nguồn lợi tức không lệ thuộc vào chính quyền. Trong những điều kiện ấy, văn hóa (trong đó báo chí là một bộ môn) có thể coi như sinh hoạt và phát triển trong một chính sách văn hóa tạm gọi là TỰ DO. Quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận trở thành một thứ quyền thứ tư sau quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Những người hành xử thứ quyền thứ tư này được cả chính quyền lẫn dân chúng tôn trọng.

Tại các nước theo xã hội chủ nghĩa như Nga Xô, Ba Lan, Trung Cộng, Bắc Việt, v.v. những người cầm bút phải sử dụng ngòi bút của mình theo chỉ thị của đảng và giới hạn trong chính sách của đảng từng thời kỳ. Vì thế, họ không phải là phát ngôn viên cho dân, mà là phát ngôn viên cho đảng. Cũng vì thế dân ít mua sách, báo và cũng vì vậy, đảng phải bao dưỡng nhà văn qua cơ quan trung gian và thừa hành là Chính phủ, và hậu quả là nhà văn có mức sống khá cao và nguồn lợi tức hoàn toàn lệ thuộc vào chính quyền. Trong những điều kiện ấy, văn hóa có thể coi như sinh hoạt và phát triển trong một chính sách văn hóa tạm gọi là CHỈ HUY. Quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận bị tiêu diệt hay hạn chế tối đa và những người cầm bút được chính quyền đối xử như những cán bộ đặc biệt và đãi ngộ xứng đáng. Còn người dân thì thờ ơ.

Như vậy, xét về phương diện thuần túy vật chất và quyền lợi, người cầm bút trong chế độ dân chủ hay chế độ vô sản chuyên chính, đều được trọng đãi – dĩ nhiên trong những điều kiện khác nhau. Còn tại Việt Nam và tại những quốc gia cùng mang thân phận nhược tiểu Á Phi, chính sách văn hóa là gì và những người cầm bút được đối xử và đãi ngộ ra sao?

Nói tới chính sách văn hóa, cần phải tìm hiểu xem chính quyền ở Việt Nam, từ khi cựu hoàng Bảo Đại về nước làm Quốc trưởng cho tới gần đây, do thành phần xã hội nào nắm giữ – bởi vì quan điểm văn hóa biến đổi tùy theo tầng lớp xã hội. Điều hiển nhiên, nhưng cho tới giờ chưa ai nói ra, là các chính phủ quốc gia kế tiếp nhau 10 năm nay tại miền Nam Việt Nam đều là do thành phần cựu quan lại và phong kiến phối hợp với nhau nắm giữ. Đã là cựu quan lại và phong kiến, tất nhiên họ phải có một chủ trương tiêu diệt hay cản trở mọi phát triển hay sinh hoạt văn hóa, bởi vì yếu tính của văn hóa từ sau 1930 thường chống lại yếu tính của giai cấp phong kiến và quan lại. Hậu quả là để duy trì địa vị thống trị của mình, quan lại và phong kiến đưa ra một chính sách văn hóa tạm gọi là ngu-hóa-quần-chúng. Chính sách này trên thực tế được biểu lộ bằng những khía cạnh sau:

- Một chính sách kiểm duyệt khắt khe: Nói chung, quan lại và phong kiến cũ không cho phép ấn hành một nhận định, quan điểm, biên khảo, không cho phép xuất hiện một khuynh hướng hay trường phái tư tưởng nào xét ra có hại trực tiếp hay gián tiếp tới địa vị thống trị của họ.

- Một chính sách bế quan tỏa cảng tinh thần: Các sách báo ngoại quốc chỉ được nhập nội sau những biện pháp ngăn chặn khắt khe. Không những tất cả những cuốn sách nào có nội dung hay đề tài về thế giới cộng sản bị cấm, hàng rào “quan thuế văn hóa” còn cản cả những cuốn có nội dung đi ra ngoài khuôn khổ chính trị chính quyền đã ấn định.

- Một chính sách văn hóa vị chính quyền: Chỉ nâng đỡ hay ưu đãi những người làm văn hóa nào hoặc chịu suy tôn chính quyền hay ít nhất cũng chịu im lặng phục tòng. Bỏ rơi, lơ là mọi hoạt động văn hóa thông thường mà một quốc gia trung bình phải tìm cách nuôi dưỡng, phát triển không ẩn ý chính trị nhất thời.

Chính sách văn hóa (xin tạm gọi như thế) của chính quyền miền Nam Việt Nam trình bày trên, đã được áp dụng tối đa dưới sự kiểm soát của Cố vấn Ngô Đình Nhu. Và hiện nay, dù ông Nhu đã chết, và dù có vài cởi mở đáng kể, miền Nam vẫn còn được thụ hưởng những điểm chính yếu của thứ chính sách trên.

Hiện nay có nhiều người trách ông Ngô Đình Nhu đã chỉ nghĩ tới địa vị cá nhân và dòng họ, đã quá chú trọng tới chính trị giai đoạn, v.v. nên đã không để văn hóa dân tộc phát triển – và như thế là làm hại tới một sinh hoạt có tính cách trường cửu của cộng đồng xã hội. Những vị này – cho tới nay vẫn nắm giữ những địa vị then chốt trong chính quyền, khi trách chế độ cũ như vậy, có ẩn ý cho rằng văn hóa không có ích cho việc tranh đấu chống Cộng hay việc tranh đấu nói tổng quát. Và ông Ngô Đình Nhu như vậy xét ra cũng có điểm có thể “thông cảm”, v.v.

Sự thực không phải như thế. Sự thực có lẽ chính những vị nghĩ như vậy đã bị ông Nhu, giai tầng phong kiến và trí thức vong bản phóng thể (tạm dịch chữ aliéné) mà không biết. Hơn nữa, chính một số trí thức không vong bản còn tự phóng thể lấy mình bằng cách chấp nhận không xét lại những lập luận của các nhà văn Pháp về sự không có giá trị chiến đấu của văn hóa. Những bài dịch thuật tham luận, khảo luận của các nhà văn Pháp về đề tài: “Que peut la littérature” xuất hiện khá nhiều ở Việt Nam gần đây chứng tỏ. Ít có ai đặt vấn đề lại như sau: Nước Việt Nam nhược tiểu Á Phi với một chiến cuộc 25 năm không phải là nước Pháp.

Những người chấp nhận luận cứ văn hóa không có giá trị chiến đấu có bao giờ đặt câu hỏi tại sao các nước cộng sản không những tiêu diệt văn hóa mà lại còn trọng đãi các nhà văn? Đặt câu hỏi này rồi, vấn đề đặt ra kế tiếp sẽ là: Chính quyền cộng sản ưu đãi nhà văn là tại họ trọng văn hóa, yêu chuộng nghệ thuật hay là vì tại các nhà văn chính là những cán bộ rất hữu ích và văn hóa chính là một thứ vũ khí lợi hại của chính quyền vô sản chuyên chính?

Mở các thánh thư của các đấng tổ phụ của chủ nghĩa cộng sản ra đọc, tìm hiểu mọi nguyên tắc căn bản quy định cơ cấu tổ chức và sinh hoạt điều hành của các chế độ cộng sản, thấy có một sự kiện hiển nhiên nữa là không có một khoảng đất nào dù nhỏ và khuất nẻo tại các nước “xã hội chủ nghĩa”, các cán bộ cộng sản lại chịu chấp nhận một người ăn rồi ngồi làm những việc vô ích theo quan điểm về lao động của họ. Vậy khó có thể chấp nhận luận cứ cho rằng cộng sản ưu đãi nhà văn (dĩ nhiên là những nhà văn không đi ra ngoài khuôn khổ Đảng đã ấn định) chỉ vì họ trọng nghệ thuật, yêu chuộng người cầm bút. Làm một suy luận đơn giản, sẽ thấy rằng cộng sản ưu đãi nhà văn, chú trọng tới sinh hoạt văn hóa, chính bởi vì các người cầm bút là những cán bộ tốt và sinh hoạt văn hóa là phương tiện tốt cho việc duy trì chế độ xã hội tại quốc nội, phát triển chủ nghĩa và chế độ xã hội tại quốc nội, phát triển chủ nghĩa và chế độ tại quốc ngoại. Nói một cách đơn giản coi như một vũ khí chiến đấu có hiệu năng ưu hạng. Vấn đề kế tiếp đặt ra là tại sao văn hóa lại được các lãnh tụ cộng sản coi như là một vũ khí chiến đấu có khả năng ưu hạng.

Trái với các ngộ nhận của người không cộng sản, chiến trường chính và đối tượng của sách lược cộng sản là Ý THỨC CON NGƯỜI. Đọc đến đây nhiều người sẽ không đồng ý bởi vì cho rằng cộng sản “chúng nó vô thần”, “chúng nó duy vật”, v.v. tất không thể chú trọng tới một cái gì “dính dáng tới tinh thần”. Sự thực ngược hẳn lại. Người cộng sản thắng chúng ta nhiều hiệp chính vì họ đã hiểu rằng chiến thắng tùy thuộc Con Người và Sự Chinh Phục Được Ý Thức Con Người. Năm 1938, Mao Trạch Đông, khi ấy còn ở mật khu đối phó với hai kẻ địch Nhật Bản và Quốc dân đảng Trung Hoa, đã viết như sau: “Trong một cuộc chiến tranh, vũ khí là một yếu tố quan trọng nhưng không phải là yếu tố quyết định. Yếu tố chính là người chứ không phải là vật. Tương quan giữa các lầm lẫn không phải chỉ được xác định là do tương quan giữa những sức mạnh kinh tế và quân sự mà cũng còn do tương quan giữa những tiềm lực nhân sự và tinh thần con người. Để điều khiển những sức mạnh quân sự và kinh tế, phải cần đến con người” (trích Trường kỳ kháng chiến). Hai mươi năm sau đại tá Ch. Lacheroy, chỉ huy Sở Tác động Tinh thần Bộ Quốc phòng Pháp, tuyên bố trong một hội nghị: “Ở Đông Dương cũng như Trung Hoa, cũng như ở Triều Tiên và tại các nơi khác nữa, chúng ta nhận thấy rằng kẻ mạnh nhất dường như đã bị đánh bại bởi kẻ yếu nhất. Tại sao vậy? Tại vì những tiêu chuẩn chúng ta dùng để đánh giá các lực lượng cho tới lúc này, những tiêu chuẩn cổ truyền ấy, chúng đã bị đào thải rồi. Chúng ta phải đối diện với một hình thức chiến tranh mới, mới trong ý niệm và mới trong áp dụng. Đấy là cái hình thức chiến tranh mà chúng ta gọi là chiến tranh cách mạng”.

Nói đến Ý Thức Con Người, lại sẽ có nhiều người thắc mắc: “Làm sao chống lại, làm sao diệt được ý thức hệ cộng sản?”. Những người thắc mắc này cho rằng ý thức hệ cộng sản phát sinh từ vô sản nông công, yếu tính của vô sản nên khó có cách gì hủy diệt được. Để giải đáp thắc mắc này, bây giờ nếu tôi, người viết bài, nói rằng vô sản công nông chẳng có ý thức quái gì hết, chắc những thắc mắc trên không ai chịu tin. Do đó, để đơn giản vấn đề, xin trích dẫn sau đây một đoạn, vẫn do chính Lénine viết từ 1902 trong cuốn Que faire?: “Còn về chủ nghĩa xã hội, nó thoát thai từ những lý thuyết triết học, lịch sử kinh tế do những đại biểu học thức của tầng lớp có của, do những người trí thức. Những người sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học hiện đại, Marx và Engel, đều là những trí thức trưởng giả xét theo địa vị xã hội của họ… Ý thức chính trị về giai cấp chỉ có thể mang đến cho những thợ bên ngoài, nghĩa là bên lề tranh đấu kinh tế và ở ngoài những tương quan chủ và thợ. Vậy ai đem ý thức chính trị về giai cấp đến cho người thợ, người vô sản? Những người trí thức ở tầng lớp khác”. Như vậy, những người trí thức đã đem ý thức chính trị (ý thức hệ cộng sản) đến cho công nông, nghĩa là đã tạo ra cách mạng vô sản và chế độ cộng sản, thì người trí thức cũng có thể tiêu diệt ý thức hệ cộng sản, hay mang lại cho người thợ, người nông phu một Ý THỨC HỆ MỚI chống lại hoặc phá hủy được chế độ cộng sản. Tất cả những điều đó thực hiện bằng gì? Dĩ nhiên không phải chỉ bằng dollar và súng đạn. Hiển nhiên là bằng cái mà những người không cộng sản thường gọi là VĂN HÓA và những người cộng sản thường gọi là TUYÊN TRUYỀN (hiểu theo định nghĩa của Trường Chinh: “Tuyên truyền thực hiện đến tuyệt đích là văn hóa”).

Xét như vậy, văn hóa nếu biết sử dụng nó, là một vũ khí chiến đấu có mục tiêu là chinh phục con người và ý thức con người. Vấn đề bây giờ là không nên nói thêm về phía địch, những kẻ đã đạt tới mức thượng thừa trong việc sử dụng văn hóa như một vũ khí, chỉ nên xét về phía chúng ta từ sau tháng 7.1954, và nhất là từ sau 1.11.1963, xem các chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã làm được những gì trong địa hạt này. Và vấn đề tương lai là làm sao trong một tương lai không xa lắm, tại một phòng họp tại Pentagone, thống tướng Westmoreland đừng phải nhắc lại câu nói của đại tá Ch. Lacheroy:

“Ở Đông Dương cũng như ở Trung Hoa, cũng như ở Triều Tiên và các nơi khác nữa, chúng ta nhận thấy rằng kẻ mạnh nhất dường như đã bị đánh bại bởi kẻ yếu nhất. TẠI SAO VẬY?”.


Quảng Ngãi tháng Mười

Quảng Ngãi có lẽ là thị trấn độc nhất có bãi cát ven sông tương tự Hà Nội ở miền Nam sông Bến Hải. Nhiều lần nhìn qua cửa phi cơ, thấy bãi cát lớn trắng chói êm ả, tôi đã ao ước sẽ có lúc được đặt chân lên nó vào một mùa lạnh nào đó. Bây giờ mới cuối tháng 10, khí hậu chưa lạnh nên tôi, trong suốt thời gian lưu lại tại tỉnh này, vẫn không thực hiện được cái thú ngày xưa, cái thú vị nghe gió rít quanh tai và tiếng cát khô cứng dưới gót giầy.

Thị trấn Quảng Ngãi cuối tháng Mười nắng chói chang, gay gắt trên gáy, bụi trắng bay từng lớp. Mùa mưa năm nay tới chậm. Người dân địa phương đã nói với tôi: “Trời không mưa mau, lấy nước đâu mà cấy. Mạ đã già cả rồi…”. Bắt chước dáng điệu người đối thoại, tôi cũng ngẩng đầu nhìn trời và cũng thoáng lo âu – một thứ lo âu của một người không ở trong mối tai họa đang đe dọa. Năm ngoái lụt, rồi chiến dịch lớn của Việt cộng, chiến dịch của ta, bây giờ nếu thêm nạn hạn hán, thì quả thật người dân tóc bạc này nói đúng: “Trời không thương dân nghèo miền Trung”.

Người dân Quảng Ngãi nói chung khác hẳn những người dân Sài Gòn. Hơn mười tháng trời phục vụ tại thủ đô, tôi đã quá quen với những thái độ chán chường tiêu cực, những hành động hư không, những thứ tranh đấu không liên tưởng và không cả nhiệt tình, v.v. nên khá ngạc nhiên khi biết rõ những người dân xứ Nam Ngãi. Ở nhiều nơi cát trắng chói đất cằn này, con người dứt khoát hơn với cuộc đời và những người đồng loại. Không có những vị trí mơ hồ, không có những hiệp hội đoàn thể, chơi với ai cũng được và thực ra chẳng chơi với ai hết. Bất cứ người dân nào đến tuổi đi bầu tại Quảng Ngãi, đều gần như đã chọn một lập trường chính trị.

Hoặc họ là Việt cộng, hoặc họ là Việt Quốc… Mà đã Cộng thì là thứ cộng trung kiên, và đã Quốc thì cũng quốc tới hai ba đời. Và ngay trong nội bộ Việt Quốc, ai đã thuộc hệ phái A thì nhất định là A, ai thuộc hệ phái B thì khăng khăng là B. Nơi đây chiến tranh quốc cộng mang hẳn một hình thái cá nhân, một thứ thù truyền kiếp. Đêm nay Cộng về giết hay mổ bụng hay chôn sống một bí thư xã Việt Quốc, thì ngày mai căn nhà của anh chàng chỉ huy vụ ám sát đêm trước sẽ bị đốt ra tro. Việt Quốc thù hằn Việt cộng và ngược lại. Và con người thật là nóng bỏng như thứ nắng chói chang đang chiếu đến nỗi rằng du kích cộng địa phương đã chôn sống cả tới những vợ con cha mẹ đối thủ khi họ thắng thế vào mùa mưa vừa qua. “Giết được một Việt Quốc bằng giết mười chính quy” là khẩu hiệu của Việt cộng nơi địa phương này.

Làng ta ta về… Trong phòng khách của tòa tỉnh, người thiếu úy bí thư thẳng thắn trả lời câu hỏi của tôi: “Mấy tháng trước, chúng ta chỉ còn giữ được thị trấn và vùng phi trường. Chính vì thế tỉnh chúng tôi mới phát động chiến dịch về làng”. Một thiếu úy khác vạch ba nét tượng trưng cho sông Trà Khúc, sông Vệ và bờ biển, giới hạn ranh giới khu vực chiến dịch về làng đã thành công.

Anh nói: “Chúng tôi đã đưa được dân hai xã về lấy đất hai xã đông nhất trong tỉnh. Trong tháng tới, hy vọng sẽ sang miền phía Nam sông Vệ”. Ngày hôm sau, mượn xe Jeep của sư đoàn, lấy khẩu colt của Duy Lam, tôi nhờ một người bạn giáo sư địa phương đưa về thăm miền ngoài thị trấn. Sau khi vượt dăm ba cây cầu tạm (cầu cũ đã bị Việt cộng phá hủy), rẽ vào con đường đất rộng đủ vừa bốn bánh xe; khung cảnh đột nhiên trở thành quen thuộc. Những ruộng nhỏ có bờ đất, những con đường làng sát cạnh các lũy tre – hình ảnh của quê hương ngoài Bắc. Dừng chân ở một ấp, một trưởng đoàn công tác của chiến dịch về làng nói với tôi qua ly trà nóng bỏng: “Sao thượng cấp không chịu phát cho chúng tôi súng lớn để giữ làng?”. Tôi lảng tránh câu trả lời dù rằng phát súng cho họ là đưa họ vào đất chết. Có trung liên đại liên những người dân sẽ chiến đấu đến cùng giữ mảnh đất riêng và trong nhiều trường hợp, họ sẽ không đủ sức chống chủ lực địch. Thà để đánh bằng lựu đạn và carbine để rồi phải phân tán mỗi khi địch về đông. Khi cho xe chạy qua một cây cầu dẫn sang quận Mộ Đức bên kia sông Vệ, tôi hơi ngập ngừng vì vùng này, theo lời dặn dò của người thiếu úy, khá thiếu an ninh cho một chiếc xe Jeep và khẩu súng 6 viên đạn. Nhưng khung cảnh quá đẹp làm tôi tiếp tục cuộc hành trình tìm tới một đoàn chiến dịch về làng đang công tác sát biển. Các cồn cát, hàng phi lao bắt đầu xuất hiện nhiều.

Sau khi ra khỏi một làng, cảnh sông và bãi cát dưới nắng đẹp rõ từng nét gần như bất động. Người hướng dẫn chỉ tay bên kia sông, nói: “Quê ngoại tôi ở trong làng kia…”. Nhìn cảnh người bạn ngồi cạnh, nghĩ tới các người dân lúc nào cũng tranh đấu chính trị miền này, tôi không chặn nổi một câu hỏi vẩn vơ: “Quê hương các anh đẹp thế, đáng lẽ phải sản xuất thi sĩ nhiều mới phải…”. Người bạn cười chỉ cất tiếng nói khi xe len lỏi vào trong một khu vực toàn nhà đổ nát, toàn những cột cháy đen: “Tụi Cộng tấn công hồi đó đấy!”. Khi tới gần sát biển, tại thôn An Chỉ, một thiếu úy than thở với tôi: “Anh đừng ngạc nhiên khi thấy tôi không đeo súng. Đeo, tôi sợ dám bắn chết cán bộ dân chính ba gai lắm. Số ba gai tí thôi, nhưng bực lắm! Hai trung đội B K của tôi nằm sương phơi nắng ngoài những cồn cát kia giữ an ninh, các ông cán bộ ba gai lại tà tà, chịu sao nổi!”. Bữa cơm thô sơ đã dọn ra vì tôi, vì lý do có buổi họp gần kề, rất tiếc không ở lại được để cùng chia sẻ, với những người đang vì dân chúng đứng đầu gió miền ven biển đất cằn.

Những Thanh niên Quảng Ngãi trong Ban Chấp hành của lực lượng thanh niên cách mạng, một đoàn thể tư bao gồm hơn 1.500 đoàn viên, đều rất trẻ.

Đa số dưới 25 tuổi. Họ liên tiếp trình bày về những hiện tượng thối nát tại địa phương, và sau mỗi sự kiện, họ lại hỏi một câu: “Sài Gòn có biết không?”. Tôi tránh né một câu trả lời dứt khoát vì trả lời “có” cũng kẹt mà trả lời “không” còn kẹt hơn. Không gian trong phòng họp đầy nghẹn ngào, đầy uất ức. Tôi cố giữ khỏi bị chìm đắm vào tình tự ấy. Và tôi đã thành công nếu không phải biết tới chuyện những bao gạo, bao cá khô, hũ nước mắm mà chính tôi, với tư cách một hộ tống viên, đã mang ra sau cơn lụt tới miền này.

Trở dậy từ 4 giờ sáng, cài chiếc bi đông nước vào thắt lưng (ngồi cả ngày trên phi cơ và hộ tống viên ít khi được phi hành đoàn cho uống nước) phóng xe tới cơ quan theo xe thực phẩm ra phi trường để rồi khi tối mờ mịt mới đặt chân mệt lử xuống Sài Gòn.

Tôi đã cứ tưởng như thế đã góp một phần nhỏ bé giúp dân cho tới lúc này, khi biết những liên tục cứu trợ ấy đã lạc đi nơi nào hầu hết trước khi tới tay người dân khốn khổ.

Khi rời phòng họp, trời đã về chiều nắng đã bớt chói trên cát nhưng tâm hồn tôi vẫn nóng bỏng. Nóng bỏng bởi những người thanh niên này đã đặt quá nhiều tin tưởng vào tôi và cơ quan tôi hiện đang phục vụ, khi tôi biết rằng, với tất cả nỗ lực và thiện chí cá nhân những nguyện vọng của họ chưa chắc đã được thỏa mãn.

Mà nguyện vọng của họ – những người trẻ tuổi kết hợp với nhau dưới đoàn kỳ gồm tới 7 ngôi sao trên nền đỏ ấy, có là gì đâu. Họ chỉ mong được giúp đỡ phương tiện để hoạt động xã hội (số tiền trợ cấp của chính quyền địa phương không nhiều) và nếu có thể được làm những kẻ trung gian chuyển những giúp đỡ của trung ương và các nước bạn tới tận tay người dân thụ hưởng.

Chỉ muốn giúp dân như thế cũng khó – khó bởi vì giả thử có quá nhiều người thiện chí thanh liêm thì những kẻ tham nhũng ở cái quốc gia này biết ăn chận để làm giàu vào đâu. Nghĩ như thế là bi quan quá chăng? Chưa chắc!



--------------------------------------------------------------------------------
[1]Đoạn bị kiểm duyệt (chú thích của talawas)
[2]Đoạn bị kiểm duyệt (chú thích của talawas)
Nguồn: In xong tại nhà in Nam Sơn, 36 Nguyễn An Ninh, Sài Gòn, ngày 10-5-1966. Nam Sơn xuất bản.