23/7/11

PHAN MỘNG HOÀN -BÔNG HỒNG CHO AI

PHAN MỘNG HOÀN



BÔNG HỒNG CHO AI

( Truyện ngắn trong HOÀNG HÔN THÔN VỸ )



Giữa tháng 11 dương lịch trời mát mẻ dễ chịu. Hàng phượng vỹ dọc theo bờ sông Hương xanh mướt. Những cây phượng cổ thụ đứng bên nhau trong kia sân trường Đồng Khánh, thân cong queo màu nâu sậm, cành mang đầy trái già khẽ đong đưa theo gió chiều dạt dào vừa xô lên từ mé sông. Quỳnh lang thang mãi, bước loanh quanh theo dãy tường rêu phong ủ dột, suy tưởng vu vơ. Lần nào về tới Huế là chi anh cũng tìm đến thăm trường xưa.

Hôm nay nhằm ngày Chuá nhật nên cổng lớn đóng im ỉm. Anh lách người qua cánh cửa phụ để vào. Sân trường vắng tanh. Quỳnh đi thẳng đến cột cờ giữa sân, ngồi xuống bậc thềm cao nhất. Anh ngó mông bao quát khắp nơi. Bụi mimosa mọc trước văn phòng Giám thị um tùm xanh đậm, không thấy đâu những nụ vàng tròn xinh. Có lẽ mùa thu nên hoa trốn biệt? Đám cỏ dại mọc cao quá đầu người ở cuối sân dãy lớp gần préau. Khuất xa hơn, thấy lấp ló những bông lau trắng ngã nghiêng. Hành lang rẽ lên nhà chơi buồn bã, Quỳnh nghĩ có lẽ vì vắng bóng học trò. Ngày xưa anh nhớ nơi ấy có treo cái trống đại. Có lần Quỳnh đã cùng mấy tên bạn rắn mắt thách nhau đánh trống sớm hơn giờ bãi học một khắc đồng hồ. Kết quả nhà trường phát giác trò tinh nghịch ấy nên cả bọn bị phạt cấm túc ngày cuối tuần. Quỳnh hồi tưởng và cười ra tiếng một mình. Thời niên thiếu hồn nhiên sao mà hạnh phúc!

Chiều xuống đậm, ngày mau tối, anh uể oải rời trường. Người gác cổng lầm lì khoá hai vòng khoá cánh cửa gỗ màu nâu bạc thếch và tiễn khách. Quỳnh tần ngần rời bước tưởng như vừa đánh mất cả thời tuổi trẻ mới tìm lại được. Ngày ấy, một nửa trường con gái dành cho bên Khải Định mượn học tạm dãy lớp tay phải nằm sát đường Nguyễn Trường Tộ. Đó là tên con đường tình sử phân chia hai ngôi trường nam nữ lớn nhất cố đô. Lớp Quỳnh gồm có mươi nữ sinh học chung. Các cô để tóc dài cặp gọn sau tấm lưng thon. Cô nào cũng xinh tươi. Riêng anh từ lâu để ý người thiếu nữ có khuôn mặt bầu bĩnh, lúm đồng tiền tròn hoay một bên má. Mắt cô đen lánh xênh xếch dáng thuyền. Nhất là miệng cười mím chỉ vì cố che chiếc răng khểnh. Gần 40 năm trôi qua...nay không biết đám bạn ngày xưa ai còn ai mất?

Về thăm Huế lần này, Quỳnh đã liên lạc được mấy người bạn thiết cốt, Nguyễn Minh Thế, Bảo Lâm và Trần Văn Triết. Các bạn gái thì chưa tìm ra ai. Anh định sẽ cùng các bạn họp mặt cuối tuần này.

Quỳnh nhận thấy bầy bạn cũ nay ai trông cũng khác xưa. Anh may nhờ ra nước ngoài nên trông còn gọn gàng trẻ trung, mái tóc muối tiêu thưa thớt nhưng khéo săn sóc ngó vẫn chững chạc. Lâm lí lắc ngày xưa thì gầy nhom, da co lại màu tái sậm trông giống hệt tên “Tôn Ngộ Không” già! Nguyễn Minh Thế thư sinh trắng trẻo thuở nào chừ vác cái bụng Đổng Trác, cặp kính lão gọng nhựa nâu to sù sụ che đôi mắt vẫn lim dim riễu cợt như thời trai trẻ. Triết gia của lớp B1 vẫn là anh chàng lơ đãng nhìn trời mây không khác chi ngày ấy. Họ nhâm nhi chai rượu mạnh Quỳnh đã chịu khó mang từ bên kia về. Cả bọn nhậu lai rai, chuyện vãn hồi chặp trưa cho tới chiều mà chưa thấy chán. Thời gian trôi chầm chậm. Bóng tối thập thò ngoài khuôn vườn ngôi Từ đường nhà Quỳnh. Khu vườn được rào kín bằng hàng rào chè tàu cắt xén cẩn thận. Thế lè nhè lên tiếng:

-Thúy Vân của thằng Quỳnh chừ ra răng rứa mi?

Anh ngẫng mặt ra và nghĩ thầm, không biết mỹ nhân B1 nay ở đâu kià? Cô nàng là hoa khôi của cả Khải Định, nên lớp Quỳnh hãnh diện ghê lắm vì cô nàng. Diệm Thúy tức Thúy Vân lớp Quỳnh, vì nàng có“khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang” thêm dáng dấp ẻo lả thướt tha, đã khiến bao chàng trai hằm hè nhau chiếm đoạt tình cảm. Cuối cùng Quỳnh được lọt mắt xanh. Anh học giỏi, con nhà giàu lại đẹp trai, nên đã “ắt có và đủ” điều kiện để chiếm lĩnh trái tim người đẹp. Học cùng lớp từ lúc ngồi đệ tứ mà mãi năm sắp thi Tú tài Toàn phần hai người mới dám ra mặt cặp kè với thiên hạ. Những chiều xuân mát mẻ họ thường rủ nhau đạp xe lên ngắm mặt trời lặn trên Đồi Vọng Cảnh. Dòng sông Hương trải dài và uốn khúc mềm mại như một dải luạ óng ả. Làn nước trong xanh phản chiếu ánh mặt trời lấp lánh, pha thành sắc tím biếc lung linh. Gió chiều lồng lộng, thổi tung mái tóc nàng thơm mùi chùm kết quẹt khẽ lên má anh. Quỳnh làm sao quên được kỷ niệm tuyệt vời ấy. Những trưa hè nóng nực đôi bạn lại tìm lên Lăng Tự Đức, vừa ôn bài vừa hóng mát. Trước Thủy tạ Khiêm Lăng, hoa sen nở trắng xóa, điểm xuyết những đoá sen hồng thắm, hương tỏa nồng nàn. Hương hoa tung lên thơm ngát khiến đôi bạn ngây ngất như tình yêu thắm thiết của họ. Mùa thi năm ấy Quỳnh chiếm bảng vàng, hạng ưu. Người yêu không may thi rớt. Luôn hai kỳ thi, tên Tôn Nữ Diệm Thúy vắng bặt. Về sau, Quỳnh từ giã Huế vào thủ đô học ngành Y khoa. Từ đó đôi bạn xa nhau.

Tại sao nhỉ? Tại sao hai đứa lại chia tay? Quỳnh nghĩ ngợi mông lung. Anh buột miệng hỏi trống không:

-Diệm Thúy bây giờ ở đâu?

Không một ai lên tiếng. Mãi mới nghe Thế chua chát trả lời;

-Nghe đâu người ta trôi dạt vào Tourane sau khi tên Sở Khanh mô đó xa chạy cao bay!

Quỳnh tái mặt. Anh hỏi bạn nhỏ giọng:

-Cô ấy bây giờ ra sao?

-Có trời đất biết!

Con khỉ già cay độc trả lời. Một khoảng im lặng kéo dài như bóng tối đang chiếm hẳn không gian u uẩn. Buổi họp mặt bỗng mất vui. Mấy người bạn cũ không hẹn cùng đứng lên từ giã ra về. Anh ngồi sửng và không dưng nuối tiếc. Một thoáng hối hận vương vào tim khiến anh ray rứt. Quỳnh nhớ rõ từng nét một ngày ấy...

Sáng hôm trường yết bảng kết quả kỳ thi Tú tài Toàn phần. Anh và đám bạn trai thân thiết xúm xít bên gốc phượng già chờ tin. Rồi loa phóng thanh dóng dã hô tên người trúng tuyển kèm với thứ hạng. Tên Nguyễn Thế Quỳnh vang lên, ưu hạng! Bảo Lâm-Bình thứ. Nguyễn Minh Thế- hạng Thứ, Triết -Thứ. Bốn chàng Ngự Lâm pháo thủ ôm choàng nhau la hét ồn ào. Và dù sau đó dù lắng tai, họ cũng không nghe loa đọc đến tên Hoa khôi trường Khải Định. Hôm đó, Quỳnh nhớ rõ bọn anh còn nán lại trường chờ xem danh sách thí sinh trúng tuyển dán lên bảng thông cáo rõ ràng mới rủ nhau đi khao thưởng.

Thoạt tiên ở quán Chè Ga mỗi tên một ly chè đậu xanh đánh ngọt bùi to tổ bố, do Tôn Ngộ Không bao, rồi hăng máu kéo về Thượng Tứ vô tiệm Lạc Thành kéo ghế, lần này là Quỳnh hào hoa đãi. Sau đó còn lang thang thêm vài quán nữa cả bọn mới chịu rả đám. Say men chiến thắng suốt cả tuần lễ, Quỳnh vẫn chần chừ không dám ghé nhà bạn gái. Anh tế nhị sợ chạm phải nỗi đau của người không may mắn. “Tiếu tợ thư sinh lạc đệ thì”, huống chi với người đẹp mau nước mắt của anh! Ngày thường chỉ cần sơ ý mếch lòng là nàng đã tấm tức khóc dỗ hoài không chịu nín! Cho nên anh ngán hết sức phải đối diện nàng. Mấy tuần lễ sau đó, Quỳnh phải vào Sài Gòn. Ba má anh muốn con trai qúy của mình chuẩn bị kỹ càng cho kỳ thi vào trường Y khoa, chắc chắn là nhiều cam go gấp bội phần so với lần thi Tú tài đôi. Thời gian trôi đi cùng với cảnh đời liên tiếp xảy ra với bao biến cố dồn dập. Và thế là họ xa nhau hẳn. Cho đến bây giờ quay lại cố hương sau gần 40 mươi năm chia biệt, Quỳnh ngậm ngùi tưởng đến người xưa, một thời anh từng yêu dấu.

Quỳnh ngập ngừng trước cổng nhà cố nhân. Ngôi nhà cổ kính giờ ủ dột buồn bã, ẩn sau tấm bình phong đồ sộ che chắn khuôn viên kín đáo ngày xưa có cô Tôn Nữ xinh đẹp. Anh nhìn cây cổ thụ dềnh dàng che bóng mát cả con đường chạy ngang trước nhà người yêu. Anh nhớ ngày ấy mỗi lần đến đây đón nàng, Diệm Thúy thường nhờ anh trèo lên cây Ngọc lan ấy hái cho cô mấy chùm hoa trắng muốt. Những cánh Ngọc lan thơm ngát e ấp, có lần anh đã dắt lên mái tóc nàng. Bông hoa trắng xinh nổi bật hơn trên nền đen huyền ảo mớ tóc nàng Tôn Nữ yêu kiều. Hồi ức ấy khiến tim Quỳnh nhói buốt. Anh ray rứt vì tuổi trẻ của anh sao hời hợt đến thế. Chút phù vinh của mảnh bằng nhỏ ngày ấy sao đã vội khiến tình họ chia lìa! Sao mình lại có thể tệ hại đến thế nhỉ? Anh âm thầm tự trách móc và càng chua xót nhớ đến thuở tóc xanh khờ dại đã không dưng đánh mất người bạn gái đáng yêu.

Một cậu con trai mặt mũi sáng sũa ra đón Quỳnh khi nghe tiếng chuông gọi cửa. Cậu bé trả lời anh, chủ nhân bây giờ là người từ ngoài Bắc vào và gia đình người chủ trước đây nghe nói đã dời đi tỉnh khác từ lâu, trước thời 75. Quỳnh dò hỏi thêm cũng không được chút tin tức gì. Qua mấy hôm sau, tình cờ anh gặp người bạn gái học cùng lớp khi dạo phố Trần Hưng Đạo. Uyển Chi là bạn thân của Diệm Thúy. Người bạn này giờ đã là một bà già thiệt sự, tóc muối tiêu búi thành búi tó sau ót. Chị cho biết Diệm Thúy về sau là giáo viên Tiểu học, đã lập gia đình muộn với một bạn đồng nghiệp cùng trường. Họ có hai con với nhau, gần đây lại nghe nói người chồng của bạn ấy đã qua đời vì bạo bệnh. Sau biến cố Mậu Thân cả nhà hoảng loạn dời vào Đà Nẵng, nhà cũ giao cho người bà con trông nom, cuối cùng thì bán đứt cho người bà con khác gốc gác lớn ngoài kia vào. Bà bạn già ân cần cho anh chi tiết, nhà của Diệm Thúy bây giờ nghe đâu ở gần Sân Vận động thành phố.

Quỳnh nấn ná vài hôm ở Huế. Một mình thuê chiếc xe đạp lang thang lên thăm Đồi Vọng Cảnh bát ngát trời mây. Thăm lại Khiêm Lăng nhiều kỷ niệm khó quên với cố nhân. Muà Thu trời xứ Huế thổn thức mưa rơi. Từng giọt mưa thánh thót thấm ướt mái tóc Quỳnh. Mưa ướt nhòe trên trán anh, làm mắt anh như hoen lệ. Hay là anh đã khóc nhớ tuổi xanh, thương tiếc mối tình thơ dại đã vuột mất từ ngày bảng vàng yết tên anh? Mưa lướt thướt bay trên sân chầu Đại nội, chốn Hoàng Cung thênh thang vắng người. Anh đã trầm ngâm ngồi ngắm mưa bay và tưởng tiếc quá khứ hồn nhiên tuổi học trò, có lẽ đẹp nhất một đời người. Mưa Huế đầu mùa nhẹ nhàng hôn lên môi má người xưa đã trở về. Mưa thì thầm an ủi anh, ngày đã qua đi, đời sẽ trôi theo năm tháng còn lại, tiếc nuối và thương nhớ không nguôi chẳng ích lợi gì.



Qua tuần lễ cuối còn ở lại quê hương, Quỳnh tìm vô xứ Quảng.

Cùng chiều tối ngày 20 tháng 11. Ở góc con đường rẽ vào sân vận động thành phố, hình như thấp thoáng bóng một người đàn bà luống tuổi, nhẫn nại ngồi bán những bông hồng đỏ thắm cuối cùng. Từ trưa, đám học trò nhỏ lau nhau thỉnh thoảng ghé qua đây mua một bông hồng đem tặng cô giáo. Bông hồng bọc kín trong giấy bóng trong trẻo, bông hồng tươi đẹp hơn, long lanh vì mấy giọt nước mưa tình cờ rớt xuống đọng lại, như khóc thương cho cô giáo cô đơn, nay đã về hưu, sống âm thầm bên dòng đời náo nức.



Không một bông hồng nào dành cho cô.





Phan Mộng Hoàn

Viết sau khi về thăm Huế mùa mưa tháng 11-năm 2002

Phan Mộng Hoàn - BÓNG CHIỀU

BÓNG CHIỀU

( Truyện ngắn trích trong tác phẩm Hoàng hôn thôn Vỹ )






Thanh dạo bước mãi khúc đường nhỏ vắng vẻ. Con hẻm quen thuộc này ngày xưa anh vẫn lui tới hàng ngày. Đường vào Thành nội loanh quanh qua những xóm nhà ngói, bây giờ mái ngói nâu đã hoá ra màu xám buồn nên ngó càng ủ ê hơn. Dạo ấy anh đạp xe đạp như một quán tính. Lảo đảo lượn lờ vài khúc quanh nơi mấy gốc đa cổ thụ, rễ nổi lên chằng chịt khắp mặt đường, bò ngoằn ngoèo như thân rắn mốc thếch. Bánh xe chồm lên hụp xuống nhiều đợt như thế là tới. Nhà người ta nằm khuất sau hai hàng dâm bụt rậm rạp uốn nửa vòng tròn, dày những lá xanh đen, thỉnh thoảng nở ra trên đó dăm bông hoa đỏ chói, nhụy vàng hoe lí lắc mọc vươn ra lộ liễu. Mảnh sân lát gạch vuông đỏ óng hồi trước nay đổi màu bẩn thỉu, xỉn lại và nứt nẻ. Thanh chưa vào trong đó, anh còn đứng ngoài lộ, nhìn vào quan sát cảnh cũ và không thấy dáng ai. Đang là mùa đông bên kia, anh về nước sau đêm thức trắng cùng vợ con đón chào năm thứ nhất của đệ tam thiên niên kỷ. Sáng tinh mơ, Tâm đưa anh ra phi trường khi Los Angeles còn mờ sương và tiết trời êm ả mát lạnh. Vợ anh người Bắc kỳ 54, sống ở Nam lâu ngày từ lúc gia đình chị mới di cư. Bản tính vốn hiền lành, chị hiếm khi thắc mắc về mớ dĩ vãng mù sương của người chồng thích làm thơ. Suốt một đời chỉ biết loay hoay lo cho chồng con, chu đáo và yên lặng. Nếp nhà của họ không gợn sóng có lẽ nhờ Tâm vô tư hay đúng ra là nép mình hy sinh. Cuộc sống là thế. Thanh lẩm bẩm triết lý vụn một mình, trong hai người phải có một kẻ chịu nhún nhường thua thiệt, thế là đời êm. Khi quay về cố hương, anh gom cả tâm tình mong sẽ sống trọn vẹn với tình cảm thời trai trẻ. Và thuở ấy sóng gió biết chừng nào. Bao nhiên bài thơ của anh đã vương vất những bóng hình kiều diễm của Huế. Hồn anh trào dâng để ngợi ca dáng dấp yểu điệu nàng Quỳnh Uyển, làn tóc mơ mòng của người đẹp Yên Chi, nét môi nũng nịu cô nàng Xuân Miên và những mắt nhìn long lanh hàng chục giai nhân khác...Huế của anh là tất cả núi sông linh động ấy.

Cho tới buổi chiều thứ ba khi về Huế, anh quả quyết bước vào ngỏ ngôi nhà số 13 đường Âm Hồn. Thanh nhẹ gót điểm chân lên bậc tam cấp và đưa tay gõ lên cánh cửa gỗ lớn có lát kính, màu gỗ sơn loang lỗ, lớp sơn bong ra từng mảng. Dán mắt nhìn qua khuôn kính ố vàng anh ngó thấy sâu bên trong thấp thoáng những đồ đạc bằng gỗ âm u phủ lớp bụi mờ. Hình như không gian cũng già nua theo năm tháng. Bởi vì ngày ấy, căn nhà thênh thang, cửa nẻo luôn mở toang cho nắng sáng lòa tràn lấp vui tươi. Sập gụ nâu bóng lộn, trường kỷ chạm trổ hoa lá cầu kỳ, trên hàng cột gỗ lim đen ngời những câu đối hoành phi mạ vàng lấp lánh. Giữa phòng khách là bàn thờ tổ tiên đồ sộ chưng hoa tươi hái quanh vườn, cùng trái trăng mòng mọng thay đổi theo từng mùa. Thanh ngập ngừng gọi cửa lần thứ hai. Mãi mới nghe có tiếng người sai bảo. Rồi một chú bé trai loắt choắt từ đâu phía sau, nơi nhà ngang vụt chạy lên tiến ra mở cửa. Nó trố cặp mắt đen tròn như hai hòn bi nhìn khách. Anh hỏi:

-Đây có phải là nhà cụ Hường Phạm không?

Thằng bé lắc đầu thưa:

-Dạ con không biết, để con vào hỏi ngoại.

Thanh chờ. Anh quay ra ngắm vườn. Hàng nhãn phía sau xa nay già nua, cây nào cũng nổi lên những cục u và lá thưa thớt. Xa hơn ngăn cách với nhà hàng xóm là lũy tre xanh ngắt, cành mềm mại đong đưa theo gió chiều. Gần hơn, mấy cây mãng cầu ra lộc non trong veo lá xanh như ngọc. Giữa vườn nơi chiếc bể cạn bề thế, những cọng súng mảnh mai mọc vươn lên khỏi mặt nước lặng lờ, đang tươi cười nở những cánh hoa tím hồng. Thanh ngắm nghía những gộp đá xám sù sì xếp khéo léo thành hòn giả sơn gập ghềnh. Đây là chiếc cầu xinh xinh bắt qua con suối rì rào, kia là dáng trầm tư ông Lã Vọng đang ngồi câu cá. Cây tùng vặn vẹo đứng cạnh tháp chùa rêu phong có mái cong vút, anh như nghe vẳng lên mơ hồ hồi chuông đồng vọng. Thiên nhiên thu nhỏ này khiến anh mềm lòng. Hình như thời gian ngưng đọng nơi đây, anh ngẩn người nhớ tiếc mông lung.

Chú bé lon ton trở ra vòng tay lễ phép mời anh vào nhà. Trong nhà tối om dù chiều chưa tới. Thanh lần mò bước quanh theo lũ ghế bàn im lìm nơi phòng khách. Tuy không thấy chủ nhân đâu nhưng anh chợt nghe một giọng phụ nữ trầm đục khẽ khàng lên tiếng:

-Xin mời ông ngồi ạ. Dạ thưa, có phải ông muốn hỏi thăm cụ Hường? Nhưng thật không may, ông cụ chúng tôi đã mất từ mười năm trước!

Thanh quay đầu tìm kiếm. Một người đàn bà luống tuổi đang ngồi khum khum lưng trên bộ ngựa đặt cuối phòng. Anh thấy lập loè đốm lửa đỏ giữa lòng bà ta. Nhìn kỹ thì ra là than hồng đang âm ỉ cháy của chiếc lồng ấp. Huế mùa rét người già quen sưởi ấm bằng kiểu cách này. Nhìn cái lồng ấp Thanh chợt nhớ hồi còn bé tí, mỗi lần tay chân lạnh buốt vì hàng giờ mải mê chơi ngoài sân lạnh, anh lại chạy vào nhà để rúc vào lòng mẹ đòi hơi ấm. Me luôn ủ một trách lồng ấp ấm ơi là ấm, lớp than hồng tươi vui đỏ rực phủ hờ dưới làn tro xám nhạt. Thanh đã tinh nghịch lấy que củi khươi lên hòn lửa nhỏ xíu, rồi chúi mũi vào hít hà khoái trí. Nhiều bữa tóc tai Thanh khét lẹt vì bắt lửa mà cu cậu vẫn không chừa. Me mỉm cười âu yếm xoa bù mớ tóc tơ mềm mại của thằng con trai út cưng nhất nhà. Thanh ngửi mê mùi thơm và hơi ấm tỏa ra từ lớp áo len của me, vừa vòi vĩnh me cho bắp rang nhấm nháp. Thanh miên man nhớ về tuổi thơ dại... Chiếc lồng ấp là một cái nồi bằng đất sét nung già lửa, khi me vừa mới mua từ chợ Đông Ba về, Thanh nhớ nó có màu gạch cam tươi rói, chứa trong một cái giỏ đan bằng những thanh nan vót êm từ cật tre, xếp theo hình lưới xeo xéo và khuôn vừa khít cái nồi đất dáng bầu bầu. Lồng tre uốn thắt ở đáy nồi nhưng xòe ra vững chãi phía dưới chân đế. Me vẫn sai Thanh vào bếp tìm gắp những cục than đỏ rực bỏ vào nồi của lồng ấp. Cậu bé luôn đổ tro cũ đi và cẩn thận thay vào một lớp tro than mới khác, màu xám mịn. Sau đó gắp than chín đỏ vào, xong đâu đấy phải nhớ rải thêm lên trên mặt lượt tro mỏng để giữ cho lửa lâu tàn . Mùa đông xứ Huế lạnh căm nhưng tuyệt vời vì có chiếc lồng ấp, vì chảo bắp rang nóng hổi chờ đợi... Trời mưa trời gió tơi bời ngoài kia, trong nhà mình vẫn vui đùa sung sướng bên cạnh ba me và anh chị.

Thanh đến gần bộ phản. Và anh bước lùi lại. Trước mắt Thanh là bà cụ Thượng hay sao? Nhưng anh nhớ rõ mẹ của người ấy đã qua đời lâu rồi trước khi bọn Thanh leo lên bậc đại học mà! Thanh nghiêng mình tới cố nhìn cho rõ hơn. Anh thưa:

-Tôi là Thanh, Lê Kiêm Thanh từ xa về đây muốn hỏi thăm người thân nhà cụ Thượng Phạm ạ.

Chiếc lồng ấp bị đẫy ra xa, người đàn bà luống tuổi ngồi thẳng lưng dậy, ngẩng mặt nhìn chăm chăm vào ông khách. Anh sững sờ vì bà ta là người ấy. Thụy Mai của anh ngày xưa là đây, nhưng thoạt nhìn anh đã không thể nhận ra nàng. Vẻ ủ dột đan lên khuôn mặt thanh tú cô ấy những sợi chỉ mảnh hằn sâu quanh môi, nét trẻ trung không còn đâu nữa. Làn môi mọng chín đã bao lần anh tham lam tìm kiếm hương vị ngọt ngào nay khô héo. Thanh lắc lắc đầu, như cố xua đi nỗi đau vừa ập đến khiến nhói tim. Thanh hỏi:

-Thụy ... À... thưa bà, thưa chị, đã lâu quá bạn bè không gặp nhau. Chị và gia đình vẫn bình an ạ?

Bà già hay đúng hơn là Thụy Mai vội vàng rời khỏi bộ ngựa, rời chiếc lồng ấp, nhẹ nhàng bước ra chỗ đặt trường kỷ tiếp khách. Cô không trả lời câu thăm hỏi của khách, chỉ nói trống không:

-Đã hơn ba mươi năm ông mới về lại đây?

Thanh khe khẽ gật đầu. Không chờ bạn mời anh tự ngồi xuống chiếc đôn nhỏ đối diện người bạn gái cũ. Thanh nhìn quanh như để trấn tỉnh, anh thấy đồ đạc chưng trong phòng không thêm bớt chi nhiều, vẫn quen thuộc như xưa. Có khác chăng chỉ là người. Cụ Hường Phạm, chủ nhân đã khuất núi. Thanh đứng lên bước tới trước bàn thờ tổ tiên nhà nàng, thắp nén nhang mặc niệm. Qua làn khói hương ẻo lã, anh mơ hồ thấy lại hình ảnh phương phi của vị cử nhân cuối triều Nguyễn. Vị Hường lô này vốn là công chức hưu trí nhưng ngay sau đó phụ trách chứng chỉ Lịch Sử Triết Đông Phương ở Văn Khoa Huế. Anh là môn sinh tâm đắc của vị thầy khả kính họ Phạm. Lê Kim Thanh còn may mắn được cụ kết làm bạn vong niên. Hôm đầu tiên tìm đến nhà thầy để xin tra cứu tài liệu cho bài khảo luận về Văn học Nhà Trần; tủ sách Việt Hán của Giáo sư Phạm nổi tiếng với những sách qúy hiếm mà đôi khi ngay cả nơi Thư Viện lớn của Viện Đại học cũng không tìm thấy; Anh làm sao quên được “coup de foudre” hôm ấy.

Sau khóm tỉ muội trồng gần bễ cạn thấp thoáng dáng một thiếu nữ áo lụa vàng mơ, cô đang nghiêng đầu ngắm những nụ hoa trắng xinh vừa hé nở. Thanh không thấy rõ mặt nàng, nhưng đoán chắc là đẹp. Bởi vì mái tóc thề đen như mun nửa thả che chiếc lưng thon nửa hững hờ buông trước ngực khẻ gợn nét thanh xuân. Chừng ấy thôi đã khiến anh ngẩn ngơ hồn. Giữa lúc đó một con chó vện hung hăng từ đâu xông tới nhe nanh múa vút và gầm gừ trước chân Thanh. Anh hơi ơn ớn chú khuyển, kêu cứu người nhà nhốt chó. Cô gái rời khóm tỷ muội vội vàng chạy đến. Cô ta vòng tay ôm cổ con chó đang lồng lên xông vào đòi cắn khách. Tiếng cô suỵt suỵt con vện nghe vui tai. Rồi cô ngước mắt lên nhìn anh. Thanh chới với trước ánh mắt đen láy của thiếu nữ. Hương Giang khi nổi sóng e cũng không làm anh chao đảo như lúc nàng đăm đăm nhìn mình lúc ấy. Thanh khe khẽ chào. Anh hỏi:

-Giáo sư có ở nhà không ạ. Thưa chị, tôi là học trò của thầy, giáo sư có hẹn với tôi hôm nay đến lấy bài.

Cô gái mỉm cười. Thanh lần nữa xao xuyến. Trên đôi má phinh phính lúm xuống hai hạt gạo tròn xinh. Và nàng thỏ thẻ:

-Ba bận lên viện họp bất ngờ bữa ni. Nhưng ba dặn có anh sinh viên mô tới thì nói họ chờ ba về. Rứa ông là người nớ?

Thanh gật đầu. Cô gái đứng dậy nới tay giữ chó. Chú vện lại gầm gừ chưa chịu thân thiện với khách. Cô chủ liền mắng:

-Vện, im không! người quen mà!

Rồi cô lôi Vằn đi vừa quay lại nhìn anh, đưa tay chỉ vào nhà lớn:

-Mời ông, vô nhà ngồi chơi, chờ thầy về.

Thanh không vào nhà, đứng yên một chỗ nhìn theo “người đẹp và ác thú” đang tung tăng về cuối vườn cây. Anh thấy cô cúi xuống thầm thì với Vằn một lúc, sau đó cô cầm cây sào tre chọc chọc lên khóm cây ổi, có lẽ để tìm quả đãi khách (?) Anh cười thầm một mình. Thanh thấy trái tim mình đập rộn ràng. Thanh ngó trời, hôm nay sao xanh thế, mây trắng vờn bay, tiếng chim sẻ ríu rít khắp vườn. Thiếu nữ lát sau quay lại, hai tay ôm đầy một ôm cành ổi lẫn mươi trái ổi rám hồng. Cô tròn mắt vì thấy ông khách chưa chịu vô nhà. Cô lên tiếng:

-Xin lỗi ông, tôi quên đưa ông vào thư viện của thầy. Ba biểu, các ông khách trẻ là học trò phải đưa họ vào thư viện.

Nói xong cô ta xăm xăm dẫn lối. Thanh lần bước theo sau. Nhìn dáng thiếu nữ uyển chuyển. Hai bàn tay nàng bận ôm mớ trái trăng vòng ra đằng trước ngực. Mái tóc xõa xuống quá nửa lưng khẻ lệch một bên vì cô ta đi mà nghiêng nghiêng cái đầu nhỏ. Thanh mãi ngắm nàng nên suýt đâm sầm vào cô gái khi người đẹp chợt dừng lại bất ngờ nơi ngưỡng cửa phòng đọc sách. Thư viện tuy nhỏ nhưng quanh bốn bề là những kệ gỗ cao xếp đầy ắp những sách là sách. Không đợi mời, Thanh sà ngay vào ngăn bên trái đưa tay sờ gáy hàng sách cũ kỹ bìa được đóng bằng tay, kết bằng chỉ ngó thiệt công phu và quý giá hết sức. Thiếu nữ lặng lẽ rút lui như tôn trọng khách mê sách. Cô là con gái của vị thâm nho, nên cô từng hiểu rằng “Thư trung hữu mỹ nhân”.

Khi anh đang chăm chú đọc những trang chi chít của tập Văn học Thiền Tông, cô bé lỉnh kỉnh đem vào một tách trà nóng, cô đặt lên chiếc bàn nhỏ nơi góc phòng rồi quay ra ngay. Thanh chưa kịp cám ơn thì người đẹp đã mất dạng. Hương sen thoang thoảng bay lên, Thanh hớp chút nước trà thanh mà tưởng chừng như đang hít sâu vào buồng phổi hương sắc nàng. Sau đó anh tiếp tục làm việc quên cả thời gian. Mãi cho tới lúc mặt trời đứng bóng giáo sư Phạm mới trở về. Hai thầy trò bàn luận sôi nổi về chuyện gì trên trường đến quá giờ cơm trưa. Thiếu nữ xuất hiện mời:

-Thưa ba dùng cơm, và thưa ông...

Cô gái lễ phép quay qua người sinh viên:

-Vì không biết có khách để chuẩn bị nên cơm canh đơn sơ, xin lỗi ạ.

Cô ta tủm tỉm cười với giáo sư. Thanh luýnh quýnh vội đứng lên:

-Xin phép thầy cho con về. Con vô ý quá đã quấy rầy thầy và chị làm trễ giờ ăn, xin lỗi...

Vị giáo sư già phì cười trước vẻ bối rối ấy. Ông nói:

-Cậu ở lại dùng cơm mắm cơm ruốc với thầy cho có bạn nghe!

Thanh đỏ mặt vì cô gái cứ đứng đó nhìn như đợi anh trả lời để dọn ra bữa ăn. Anh gật đầu vừa lí nhí không rõ lời gì trong mồm. Thiếu nữ dăm phút sau lại quay vào phòng đọc sách, cô thưa là cơm canh đã sẵn sàng. Sau đó ba người ngồi xuống quanh cái bàn gỗ trắc đặt nơi phòng khách, trên đó bày một mâm mạ bạc có sắp mấy món rau dưa và thố cơm trắng đang bốc khói thơm mùi lá dứa đến gợi thèm. Anh cầm đũa và nâng chén:

-Xin mời thầy thời cơm.

Rồi hướng về cô gái, mặt Thanh đỏ bừng:

-Mời chị.

Cô bé cười khì đáp lễ:

-Không dám ạ! mời ...em!

Thầy Phạm trừng mắt mắng đứa con lí lắc:

-Thụy Mai không được giỡn hỗn! Nói năng cho đàng hoàng coi!

Thiếu nữ lý sự:

-Thì tại anh kêu con bằng chị mà!

Thanh lại đỏ mặt, nghĩ thầm con gái chi mà hung hăng...Anh cười nhẹ trả miếng:

-Cũng tại chị xưng tôi là ông.

-Rứa ông mấy tuổi rồi? Tui nghĩ là dám thua tui lắm?

Thầy Phạm tức cười trước hai người trẻ thoạt chưa quen đã gây gỗ, ông làm hòa:

-Cho hai người kết làm anh em là yên nhà lợi nước. Con Mai ban C, vài năm nữa lên Văn Khoa, ba nghĩ con là hàng em út của cậu Thanh, còn Thanh sang năm nữa mới ra trường, thôi thầy cho con làm sư huynh của Thụy Mai. Răng như rứa được chưa quý vị?

Họ như thế đã là tình thân sau buổi cơm được vị giáo sư già tuyên bố cho hai người kết làm anh em. Thời gian qua và tình cảm của Thanh-Mai càng đậm đà gắn bó. Khi Thụy Mai qua trường Quốc Học vào lớp đệ nhất cũng vừa lúc Thanh tốt nghiệp đại học. Anh nhận được sự vụ lệnh vào Quảng Nam phụ trách môn Triết lớp đệ nhất trường Trần Qúy Cáp. Hôm đưa tiễn Thanh lên sân ga xuôi vào xứ Quảng, Thụy Mai buồn rưng rưng nước mắt. Thế là từ đây cô không còn được nũng nịu với sư huynh, người anh kết nghiã luôn chìu chuộng cô. Dù không ai nói ra lời thệ ước, nhưng mỗi người đều thầm biết họ đã là của nhau. Một ngày không xa sẽ kết duyên giai ngẫu.

Dù hai người cách biệt nhau hơn trăm cây số ngàn đường chim bay, qua một con đèo bạt ngàn cỏ lau ngát xanh, qua ven bờ biển xôn xao sóng gió, nhưng tình họ vẫn gần trong gang tấc. Những lá thư xanh ngày càng đượm nồng và chất ngất niềm thương nỗi nhớ. Mỗi kỳ nghỉ lễ, Thanh vội vàng quay về Huế sống với ba me. Hằng ngày anh lui tới nhà giáo sư Phạm, để hàn huyên với vị tôn sư khả kính, nay mai sẽ là nhạc phụ, nhất là được quấn quýt bên người yêu xinh tươi. Gia đình đôi bên tuy chưa chính thức tổ chức lễ nghi đính ước, nhưng đã dự tính khi Thụy Mai tròn tuổi hai mươi vào sinh nhật lần tới. Tuy nhiên làng trên xóm dưới, họ hàng hai người đã mặc nhiên công nhận Thanh-Mai đã là của nhau.

Huế cỗ kính khắt khe đối với thứ tình cảm ngoài vòng lễ giáo, lại tỏ ra bao dung khi chứng kiến những đôi lứa yêu nhau trong sự bảo bọc của gia đình. Tình yêu của Thanh-Mai vì thế đã nở rộ như hoa mai ngày Tết, tươi thắm như sắc phượng mùa hè. Cố đô với biết bao phong cảnh hữu tình cho hai người tha hồ tìm đến để thề non hẹn biển. Những vòng nan hoa xe đạp loang loáng đưa đôi bạn rong chơi từ miền cát biển trắng xóa Thuận An, đến rừng thông Thiên An rạt rào mà yên tĩnh. Chùa chiền trầm mặc khi tìm đến làm cho tình họ thêm sâu lắng, lăng tẩm uy nghi giữa chốn núi non càng khiến tuổi trẻ của hai người nên thơ hơn...Đâu đâu cũng lưu dấu chân kỷ niệm khó phai của đôi lứa. Thời gian qua đi càng đong đầy tình cảm hai người. Cho nên sự xa cách người yêu khi Thanh quay về với nhiệm sở đã thôi thúc anh mong sớm đến ngày đám cưới để được chung sống không đứt đoạn với vị hôn thê đáng yêu.

Nhưng đến Tết năm sau không may mẹ của Thanh bất ngờ qua đời vì bệnh tim. Bởi chịu đại tang nên hai người không thể kết hôn như dự định vào mùa hè. Theo tục lệ nếu không cư tang ba năm, ít ra họ cũng phải đợi hết giỗ đầu. Cùng năm ấy, vào mùa thi Thanh được giao trọng trách làm Phó Chủ Khảo kỳ thi Tú Tài I ở Đà Nẵng, nên anh không trở lại Huế nghỉ hè suốt ba tháng như mọi năm. Sau đó thư từ cũng thưa thớt gửi về. Phần Thụy Mai, cô đang ráo riết lo chuẩn bị cho kỳ thi vào Sư Phạm Anh Văn, nên hằng tuần cô chỉ viết một thư ngắn cho chàng. Cô không cảm thấy việc nhận thư ngày một ít đi hoặc nếu không thì những lá thư xanh từ Hội An gửi ra cho cô hình như quá ngắn ngủi.

Mùa thu đến, Văn khoa Huế rộn rịp khai giảng, trường Sư phạm đón thêm cô sinh viên xinh tươi vào học. Thụy Mai yêu kiều nhưng đằm thắm thùy mị hơn bao giờ, đã khiến cho trái tim các chàng trai Văn khoa “Morin” thổn thức, muốn được làm quen, và tình nguyện đón đưa nàng. Nhưng thiếu nữ có vẻ xa vắng, hững hờ. Ánh mắt trong trẻo đôi khi thoáng chút đăm chiêu. Cô thích tìm ra bao lơn đứng một mình nhìn mông lung về phiá chân trời. Vệt núi Kim Phụng tím thẩm hơn trong ráng chiều lồng lộng, rọi xuống mặt nước Hương Giang gờn gợn sóng nhưng sao cô thấy im sửng và câm nín như lòng mình lúc ấy. Đã hai tháng qua Thụy Mai không có thư. Nhưng cô tự ái không viết gửi vào cho “ai” dù thời gian lúc này không còn bận rộn như trước kia nữa. Thụy Mai chờ đợi.

Mùa đông đến với gió lạnh căm căm. Trong khi hầu hết những bạn bè Văn Khoa của Mai nô nức tập dượt văn nghệ. Năm nay họ sẽ tham gia vào tổ chức ba đêm đại hội mừng Tết của toàn liên khoa đại học Huế. Thụy Mai dửng dưng, cô cảm thấy mình già nua giữa đám bạn bè trẻ trung. Cô sẽ tròn tuổi hăm mốt vào đầu mùa hè sắp tới, nhưng nay sao cuộc đời đã u ám? Chiều hôm qua, giáo sư Phạm tự dưng hỏi thăm con gái, bạn trai của cô năm nay có về quê ăn Tết không? Thụy Mai im lặng không biết trả lời sao với cha già. Mai bỏ đi ra vườn. Ngoài ấy, những cọng súng khô héo nằm gục xuống quăn queo từ lâu trong bể cạn. Khóm Tỷ muội không ra hoa và hiu hắt cành gầy. Cây ổi thì xơ xác lá. Xa xa rặng tre đứng buồn hiu. Không gian như lây vẻ phiền muộn cùng thiếu nữ. Giáo sư Phạm tinh ý nhận xét hai người trẻ thân yêu của ông hình như có sự gì không ổn đã xảy ra. Hè, vắng mặt cậu ta. Thư từ lại không có một chữ gửi thăm ai. Con gái cưng của ông trước kia yêu đời nhí nhảnh bao nhiêu nay âm thầm một bóng đi về. Không khí trong nhà trở nên ảm đạm. Giáo sư im lặng đợi chờ, nhưng mỗi ngày qua đi ông chỉ nhìn thấy vẻ ủ dột của Thụy Mai. Cứ thế mà dòng thời gian lặng lẽ trôi. Hè lại tới, Thụy Mai xin phép cha già vào Đà Nẵng ở chơi với người bạn gái đồng môn chừng tuần lễ. Bích Trâm là cô bạn Mai mới kết thân từ hồi hai người cùng đậu vào Sư phạm Anh văn. Quê ngoại Trâm ở đâu trong Hội An, ba má có cửa tiệm tạp hóa tại Chợ Hàn. Mai từ lâu ước ao du ngoạn cảnh chùa Non Nước, nổi tiếng với “Ngũ Phụng Tề Phi”. Luôn dịp sẽ thăm thú phố cổ Hội An. Từ thâm tâm Thụy Mai muốn tự tay “giải phẫu” cuộc tình của mình xem hư thực ra sao để đối phó. Phố Hội cũng là nơi chàng đang trú ngụ!

Đà Nẵng oi bức quá, chiều hôm đầu tiên tới đây, Trâm rũ Mai qua Sơn Chà tắm biển. Con gái Huế thường mắc cỡ đâu dám phơi bày thân hình lộ liễu trước mắt thiên hạ, nên Mai theo bạn sang đó chỉ để lang thang trên bờ ngắm cảnh hoàng hôn. Mây trời lớp lớp dồn dập từ núi xa kéo về, xây trùng điệp những thành quách hùng vỹ. Ánh mặt trời sắp giãy chết chiếu lộng lẫy muôn sắc huy hoàng, Mai muốn khóc trước cảnh thiên nhiên rực rỡ này. Sóng biển ầm ì, gió biển rạt rào thổi, Mai nép mình dưới gốc thùy dương nhìn đăm đăm ra khơi, nơi ấy một bóng hải âu đang soãi cánh, in lên nền trời nét buồn cô đơn. Bích Trâm ái ngại vì cảm thấy bạn mình hình như có tâm sự gì u uẩn. Nhưng cô không dám hỏi han. Trâm hiểu người Huế thường kín đáo. Và Trâm chỉ còn biết chờ đợi bạn chia xẻ tâm tình mà thôi.

Qua buổi sáng ngày thứ ba ở Đà Nẵng, đôi bạn rủ nhau đi ăn điểm tâm ở quán bánh bèo chén nổi tiếng góc trường Nam Tiểu học. Trong lúc Mai còn ngơ ngác tìm chỗ ngồi vì Bích Trâm bận ríu rít tay bắt mặt mừng với mấy cô bạn xứ Quảng. Nghe họ líu lo chuyện trò Mai không khỏi bật cười. Ở Huế, Bích Trâm ít át bao nhiêu thì nay rộn ràng liếng thoắng nói cười không dứt miệng. Trâm vẫn bị bạn bè tinh quái ngoài ấy chọc quê nhại theo giọng của cô nàng, nên Trâm đã quen im lặng, chỉ chúm chím cười nụ cho yên thân. Mai dành được một chiếc bàn còn trống. Từ góc này cô kín đáo quan sát mọi người trong quán, còn có thể ngắm cảnh vật ngoài cửa sổ. Một lúc sau Bích Trâm tìm đến với Mai, cô kéo theo chùm bạn ồn ào của mình. Ba người con gái trông mặt mày sáng sủa dễ coi. Họ nhìn Mai chằm chằm, có lẽ muốn phân tích phong cách con người cố đô, bạn của bạn họ. Mai đoán Bích Trâm chắc chắn đã ba hoa chích chòe quá lố về mình. Nếu không tại sao người ta lại săm soi nhìn ngắm Mai còn hơn xem xét trước khi mua một món hàng như thế. Trâm giới thiệu hai phe qua loa:

-Thụy Mai, bạn chí thân của tao ở ngoãi!

-Yến, Lan, Tuyết kết nghĩa với mình từ hồi Tiểu học lên hết Trung Học ở Faifo.

Mai nghiêng đầu duyên dáng chào và nói nhỏ:

-Mình nghe Trâm nhắc các chị mãi, nay mới hân hạnh được làm quen.

Thoáng thấy Trâm tròn mắt, vì hắn nghĩ thầm có khi nào mình nói chi với Mai về lũ bạn qủy sứ này đâu. Yến, cô gái đậm người, tóc cặp đuôi, thả dài lê thê. Cô ta có khuôn mặt tròn, làn da rám nắng màu bánh mật. Yến cười toe, láu táu nói một hồi:

-Chị là Thụy Mai, hoa khôi trường Văn Khoa phải không? Con Trâm khoe bạn bè ở Huế không hà! Phiá tụi tui thì tưởng hắn ra Huế học, tương lai là cô giáo đệ nhị cấp, quên hết trơn bạn bè, mô có thèm chơi với tụi này nữa!

Mai cười hiền lành và ân cần mời họ ra thăm Huế, Mai khoe nhà cô rộng rãi có thể tiếp đãi các bạn của Bích Trâm, vì nay tất cả sẽ là bạn Mai. Mọi người sau đó chia tay vui vẻ.

Trâm chưa cầm đũa ăn, nhìn Mai hoài rồi bật nói:

-Phải công nhận người Huế khéo léo quá chừng. Tụi nớ, hồi nãy nói chuyện ngoài sân có vẻ gờm Mai ghê lắm. Vậy mà chừ đã bị bạn “mua chuộc”.

Thấy Mai nhướng mày có vẻ thắc mắc, Trâm nói huỵch toẹt:

-Con Lan vừa méc với Trâm, ở Trần Qúy Cáp có ông Giáo sư Triết trẻ măng, người Huế cuả bạn, hấp dẫn lắm. Về dạy hai năm nay, y đã gây nên sóng gió và các “vòng tay học trò” đang săn đuổi anh thầy như điên!

Thụy Mai chợt thấy buốt tim, cô im lặng lắng nghe lời Trâm, cô ta hăng máu kể lể về thời sự nóng hổi ở Quảng Nam:

-Tụi nó phê bình dân Huế của bồ, xin lỗi nghe Thụy Mai, đàn ông Huế thì đễu cáng, con gái Huế ưa kiểu cách, yểu điệu thục nữ, làm ra vẻ qúy tộc... nhưng dù chi đi nữa cũng không địch nổi dân Faifo! Nhỏ Thúy, em con Lan đây nè, hiện đeo dính ông thầy. Nghe nói y đã có vợ sắp cưới, cô ta đẹp nữa kìa, thuộc cỡ hoa khôi lận đó, nhưng nay hình như xảy ra “accident” gì gì đó, húy tiếu lắm...nên coi bộ thầy giáo mình tắt thở tới nơi rồi!

Bích Trâm đang nói thì ngừng ngang, vì cô chợt thấy bạn mình tái xanh mặt mày như thể bị trúng gió. Trâm hốt hoảng vừa lục ví tìm lọ dầu Nhị Thiên đường vừa kêu bạn:

-Mai! có sao không? Ngồi yên Trâm xức dầu cho. Mai đừng làm mình sợ hỉ! Khỏe một chút là tụi mình về nghe.

Mai thương bạn, vì mình mà Trâm quýnh quáng cả lên. Trâm đón xích lô đưa bạn về nhà cho Mai nằm nghỉ. Tự dưng đang khoẻ mạnh Mai sinh ra yếu đuối như con cua lột thế kia làm sao Trâm không lo. Cô nhớ khi tiễn chân hai đứa ở bến xe An Lợi, ông cụ của Mai đã dặn Trâm phải ngó chừng con gái ông. “Từ lúc me nó mất, con Mai chưa hề xa nhà. Nó yếu đuối kiều nhược lắm!”

Mai kêu nhớ nhà, cô muốn rút ngắn chuyến du lịch này, nhưng trước lúc quay về Huế, Mai yêu cầu bạn cho mình sang viếng chùa Non Nước.

Hai người hai chiếc xe đạp, từ sáng sớm thong dong hướng về cầu De Lattres. Sông Hàn cuồn cuộn chảy dưới chân Mai. Dòng sông hung hãn xoáy quanh những trụ cầu thành những đám nước bọt ngầu lên trắng xóa, chứ không êm ả như sông Hương của cô. Ban mai nên trời mùa hè vẫn mát mẻ dễ chịu, lòng cô dịu xuống nỗi buồn bực không dưng dấy lên từ trưa hôm qua. Mai thầm trách mình, chưa chi đã nghĩ ngợi tào lao. Vô lẽ chỉ có người ấy là Giáo sư Triết. Vô lẽ không còn kẻ thứ hai nào khác nữa sao? Nhưng mà... mới về đó hai niên khóa, lại là người Huế, trẻ trung! Đầu óc Mai cứ thế mà xoay lung tung. Suy đoán, buộc tội rồi bênh vực. Bích Trâm nhìn bạn thẫn thờ mà càng thương Mai hơn. Người con gái Huế đáng yêu này trước đây, khi chưa vào thăm Đà Nẵng, lúc nào cũng liếng thoắng nói cười với mình, nay im lìm khép kín. Trâm không sao đoán ra nguyên cớ từ đâu.

Con đường lên núi với hàng trăm bậc đá xanh uốn éo quanh quất dẫn họ lên tới chùa trên. Hai người vừa leo lên núi vừa thở hổn hển. Gió núi mát lạnh. Mây trời trắng như bông bưởi sà xuống thấp, quanh Mai là hoa cỏ dại nở đầy những chùm tím phơn phớt. Cánh hoa mong manh nhụy đen thẫm. Những bông hoa xinh tươi bé bỏng nép mình bên gộp đá chênh vênh. Nắng hôn lên thêu những đốm long lanh cho loài hoa mộc mạc thêm nét kiều mị. Mai bâng khuâng nghĩ ngợi. Dưới kia cõi đời xao động những tranh chấp nhỏ nhen. Trên cao này mình bỗng thấy phiêu diêu vui thú, lòng nhẹ lâng lâng.

Khi từ Động Gió chui trở ra ngoài sân chùa nắng lóa, Mai chợt nhìn thấy trên vách đá dựng sừng sững mấy hàng chữ viết bằng sơn trắng. Nét bút nguệch ngoạc trông quen quen:

Tên em giấc ngủ ngoan hiền,

Nghìn sau mãi nhớ ưu phiền mình tôi...

MT



Cô tò mò đọc thấy gần đó những chữ ghi tắt quấn quýt vào nhau, thth, th2 Hè 62, rãi rắc khắp nơi và đều được lồng cẩn thận trong khuôn hình trái tim tròn trĩnh!

Họ là ai nhỉ? Lên đây thề non hẹn nước!









Đoạn kết



Năm 2000... Tách trà ướp sen nguội ngắt, hai tượng đá diện đối diện im lắng. Tiếng con tắc kè già cỗi lâu lâu chắt lưỡi từ trên kia rường nhà âm u vọng xuống âm thanh khàn đục nghe đến não nề. Ngọn đèn vàng vọt bật lên giữa phòng khách từ bao giờ. Thanh ngập ngừng đứng lên từ giã chủ nhân. Thụy Mai chợt tỉnh cơn mộng mị của gần 40 năm về trước. Cô khách sáo mời người bạn cũ ngày mai trở lại dùng bữa cơm hội ngộ. Ông khách bỗng tỉnh như sáo, vui vẻ nhận lời, xin hẹn hôm sau nữa sẽ cùng lên núi Ngự Bình thăm mộ thầy cũ.

Hai chiếc xích lô thong thả nối đuôi nhau chạy dọc theo bờ sông An Cựu. Con đường nhỏ gập ghềnh, nhiều đọan bị tróc lở nên xe chạy mà dằn xóc khách tưng bừng. Trưa Huế bát ngát xanh vì hàng cây phượng vỹ ven sông đong đưa những tàng lá che rợp bóng mát. Những đốm lửa đỏ rực, hoa phượng hớn hở cười vui trong nắng. Gió xôn xao kêu gọi lũ ve ngân nga điệp khúc hè về. Thanh nghiêng đầu vui thú ngắm đôi bướm chập chờn lượn bên bụi dâm bụt có mấy đóa hoa hé nụ đỏ thắm. Anh quay đầu nhìn những dây tơ hồng mảnh mai vương vất trên hàng rào chè tàu cắt vuông vắn của nhà ai bên kia đường. Trước hiên có chiếc bể cạn rêu phong, những gộp đá xếp hình non bộ ủ dột dưới nắng hè chói chang. Mái ngói buồn hiu giữa trưa hè yên lắng.

Khi xe chở Thanh rẻ trái để sắp sửa quẹo vô con đường dẫn lên dốc Nam Giao, anh ra hiệu cho chú xích lô trẻ dừng bên đường. Rồi anh bước xuống vẫy tay cho chiếc xe theo sau ngừng. Anh dúi vào tay anh xe xích lô ốm yếu một nắm bạc, tiền công hậu hĩ cho chuyến xe đi suốt hôm nay. Người phụ nữ luống tuổi, trông trẻ trung duyên dáng trong chiếc áo phin mỏng phơn phớt sắc lụa hồng, nổi bật trên chiếc quần xa tanh đen mượt. Thụy Mai ngơ ngác rời khỏi xe mình, ngập ngừng chờ đợi dưới gốc cây me cổ thụ mọc vươn lên từ mé sông. Thanh bước đến kề nàng, nói khẽ với Thụy Mai, chỉ cần một chiếc xe là đủ. Anh ngắm nghía Thụy Mai, cô ngó trẻ ra e đến chục tuổi. Chiếc nón lá mỏng tanh, in hai câu thơ lồng trong nắng khiến cho xinh tươi nhan sắc thuở ấy.

Thanh biểu chú xích lô đưa Thụy Mai đi trước, nhớ chờ anh ở đoạn đường ít dốc nhất. Còn Thanh bước nhanh một mình trên con đường Nam Giao thơ mộng, khi nắng trưa chưa “thắp nến lên hai hàng cây”. Anh dừng chân nơi một quán tranh nhỏ có bầy bán nhiều thứ trái cây muà hè. Anh mua hai chùm vải thiều đỏ thắm, mua mấy chùm nhãn lồng trái tròn cỡ ngón chân cái, rồi vội rảo chân theo bóng chiếc xe chở nàng đã mất hút trong tầm mắt. Anh bước gấp nhanh nhẹn như một chàng trai sung sức. Họ gặp nhau ở ngả ba Đàn Nam Giao.

Đám xe thồ, vừa xe đạp vừa xe gắn máy, đậu kín góc đường tranh nhau xông tới mời mọc Thanh. Nhưng anh lắc đầu, ra dấu cho Thụy Mai rời khỏi xích lô mà cô đang ngồi. Còn Thanh vội leo lên chiếc xe nãy giờ vẫn lẻo đẻo theo sau anh, và ngồi lùi sâu sát vào lưng ghế. Anh đưa mắt ngầm tỏ ý cho cô cùng chung chuyến xe với mình. Sợ thiên ha chung quanh dòm ngó, cô mắc cỡ đỏ bừng mặt bước lên theo. Nhưng cô chỉ ngồi ghé tận ngoài mép nệm xe. Chú xích lô rướn người cho xe chuyển bánh đi. Thụy Mai chúi xuống vì tư thế ngồi thiếu cân bằng. Thanh nhanh tay ôm ngang eo cô, lôi sát vào với mình. Thụy Mai run lẩy bẩy trước sự đụng chạm vô tình ấy. Thanh tỉnh táo như không có chuyện chi. Da thịt cô ấy nóng hổi còn hơn người bị sốt. Anh nghiêm mặt, nhưng trong bụng vui vẻ hết sức. Chiếc xe có trớn lao đi, đổ xuôi xuống con lộ nhỏ rợp bóng tre im mát.

Trưa hôm ấy thật tuyệt vời đối với anh khi được gần gũi với cố nhân, nhưng vô cùng khó chịu về phía Thụy Mai. Cô ngồi không yên, cứ trăn trở khiến cho Thanh cuối cùng chịu thua vì thấy tội nghiệp nàng. Cô ta suốt một đời phòng the lẻ bóng, biểu làm sao quen nổi với cảnh thân mật này. Thanh nói chú xích lô ghé vô quán nhỏ anh vừa thấy hiện ra bên đường, nơi có mấy bộ bàn ghế bằng gỗ tạp đặt giữa sân đất nện phẳng phiu.

Quán tranh núp dưới bóng một cây phượng vàng cổ thụ, lá xanh mơn mởn, những chùm hoa gầy guộc rung rinh cười trong nắng. Thụy Mai nhìn những nụ hoa vàng mơ đang vươn cành phượng mà nắng trưa thêu những đốm long lanh cho sắc vàng rực rỡ hơn bao giờ. Thanh nhìn theo hướng mắt nàng. Anh nói, ở bên mình, cả hai lọai hoa phượng, vàng hay đỏ đều mất hút, chỉ có phượng tím đẹp nhưng buồn lắm. Nếu muốn ngắm phượng đỏ, thì bay qua Honolulu. Miền biển này ấm áp nên phượng vỹ ra hoa đỏ thắm lộng lẫy, đẹp như phượng vỹ ngày xưa của Huế. Mai chợt thắc mắc:

-Rứa anh thấy chừ Huế hoa phượng buồn lắm sao?

Thanh trầm ngâm một lúc rồi nói:

-Không buồn nhưng khép kín hết sức. Ở xứ Hạ Uy Di, hoa phượng tươi cười cởi mở như tuổi đôi mươi!

Thanh nói vừa đăm đăm nhìn bạn. Thụy Mai đỏ bừng hai má. Cô ngó lơ chỗ khác, lên tiếng gọi với vào trong xin cho nước uống. Một bà lão tóc bạc phơ, chắc là chủ quán, thủng thẳng đem ra hai chai nước khoáng. Bây giờ ở đâu người ta cũng uống thứ nước này. Thanh hỏi quán có bia không? Bà già đem ra một chai bia Larue , có vẽ hình đầu cọp nhe nanh cười, đem thêm hai chiếc ly cao với xô nước đá. Anh xích lô ngồi ở góc xa góp chuyện, uống bia cần có đồ nhắm. Thanh cười lớn với anh bạn trẻ, rồi gọi thêm cho cậu ta chai bia con cọp, gọi thêm mấy con khô mực nướng. Anh hỏi:

-Chạy xe có sợ uống bia không?

-Da không, ăn thua chi bác, phải hơn chục chai may ra!

Buổi trưa ngọai ô êm đềm. Tiếng ve rang rang trên ngàn cây, làm Thanh ngây ngây lòng trí. Trong hơi men dâng lên, anh thì thầm nói:

-Bạn có buồn giận tôi không? Ngày xưa, tôi gây ra lầm lỗi nhiều với Huế. Tôi khiến cho thầy thất vọng... Thụy Mai, anh xin em tha thứ cho anh.

Thụy Mai im lặng, cau mày, trái tim thắt lại. Cô tưởng vết thương cũ khép kín, thành sẹo. Không ngờ nó càng làm cô đau đớn, phiền muộn hơn. Thanh cúi đầu tiếp tục nói như độc thoại:

-Tai sao hồi ấy tôi điên khùng đến thế, ngu muội như một lọai người kém hiểu biết nhất. Tôi tin ngay những lời láo khoét bịa đặt của người ta. Tất cả góp sức phá hỏng đời tôi. Không, hủy hoại đời chúng mình! nhất là với em! Nhưng tại sao hồi đó, khi tôi tìm về thăm thầy, thăm em, em tìm mọi cách xa lánh tôi? Bao năm bỏ Huế đi, tôi khắc khoải buồn nhớ tuổi trẻ, tôi ghét hận chính mình. Về sau...

Thụy Mai nhìn người yêu cũ. Tội nghiệp anh, mãi gần 40 năm sau anh mới “xưng tội”. Cô nhẹ nhàng hỏi:

-Về sau anh đã lập gia đình với người ta và sống cho đến bây giờ?

Thanh chợt ngẩng đầu lên, nghiêm khắc nhìn thẳng vào mặt nàng:

-Làm sao cô có thể tưởng rằng tôi điên đến độ phải lấy “họ”?

Thụy Mai nhướng mày như muốn hiểu rõ hơn sự tình. Thanh buồn rầu thở dài:

-Về sau, tôi xin chuyển vào Nam. Vì tôi không thể sống nổi với những con người cùng nơi chốn tráo trở, lừa lọc mình. Mười năm sau tôi gặp nhà tôi bây giờ. Cô ấy người Bắc kỳ di cư, sống ở Nam từ thuở bé, nên hiền ngoan, đơn giản. Chúng tôi có với nhau 3 đứa con, hai trai một gái. Đứa con gái tên Thụy Miên lấy chồng hai năm trước, qua năm sau cho chúng tôi con bé cháu ngọai, nó dễ thương lắm.

Kể đến đây Mai thấy mặt Thanh tươi tắn, anh nhìn đăm đăm về phía xa, nụ cười đậu mãi trên môi. Tim cô nhói buốt. Anh ấy đã có một tổ ấm, mình thật sự không có chỗ đứng nào trong lòng Thanh.

Chặp sau, Thanh như tỉnh mộng, cơn mộng dữ của gần 40 năm qua. Anh ngồi thẳng người, rút ví đưa cho cố nhân xem mấy tấm hình nhỏ. Thụy Mai cầm lấy, cô ngắm thấy trong tấm hình, một cô bé con mũm mĩm, xinh như búp bê, tóc nó loăn xoăn ngộ nghĩnh. Một chiếc hình chụp con bé tròn quay được ông ngọai nâng niu bế, bên Thanh, người phụ nữ tươi cười phúc hậu. Trông họ đẹp đôi lắm. Thụy Mai nén thở dài. Cô nói nhẹ như hơi thở:

-Chúc mừng anh hạnh phúc.

Thanh nhìn Thụy Mai trìu mến, phân bua:

-Có lẽ chúng mình không có duyên phận. Nhưng Mai cứ tin rằng, trong tôi không bao giờ phai mờ kỷ niệm đẹp của Huế, của chúng ta thuở ấy...



Buổi chiều hôm đó đôi bạn còn tìm lên thăm phần mộ thầy Phạm, chôn cất gần chùa Từ Hiếu. Ngôi mộ nằm dưới rặng thông xanh trên một ngọn đồi nhỏ. Trong khi Thụy Mai lo sắp hoa trái để cúng, anh dạo một vòng ngắm nhìn phong cảnh chung quanh. Chiều nay Thanh thấy lòng mình thanh thản. Khi anh quay trở về, Mai đang sì sụp lễ thầy. Anh đứng kề bên Mai, lòng không chút bợn nhơ. Họ là anh em kết nghĩa, từng thương mến quý trọng nhau. Nay anh tìm về, chuyện buồn xưa dứt bỏ...Qua làn nhang khói nghi ngút bay lên, Thanh mơ hồ tưởng thấy hình bóng người thầy cũ hiện về. Anh thầm thì cầu nguyện xin thầy luôn phù hộ cho người con gái yêu của thầy, giờ đơn chiếc sống một mình nơi chốn quê hương yêu dấu, luôn được bình an.

Trên đường quay về thành phố, chiếc xích lô băng băng chạy. Hai anh em ngồi gần nhau chuyện trò vui vẻ. Nhạc ve râm rang, gió chiều vi vu thổi, hoàng hôn dần xuống đẹp hơn bao giờ. Hoa phượng mỉm cười lấp ló trong đám lá xanh tươi.





Phan Mộng Hoàn

Viết xong khi vừa thăm Huế về. Hè 2001





____________________________________________





Đọc truyện ngắn “Bóng chiều” của Phan Mộng Hoàn



Nhà văn Phan Mộng Hoàn viết như vẽ tranh, gợi cho độc giả những hình ảnh kiều diễm với màu sắc rực rỡ long lanh của thiên nhiên sinh động, tỉnh vật nổi bật đặc trưng. Đọc truyện nầy, tôi có cảm tưởng như sống lại trên đất Huế, vào những ngày tháng an bình êm ấm cũ, của nhiều thập niên xa xưa trước.

Chuyện tình nhẹ nhàng, e ấp, lãng mạn mang nhiều “chất Huế”, đưa độc giả vào thương nhớ miên man của thời trái tim non nớt vừa mới biết xao xuyến đập nhịp yêu đương.

Chỉ cần đọc vài trang, độc giả cũng có thể đoán trước nhà văn nầy đã từng là giáo sư dạy văn chương của một thời.



Tràm Cà Mau





Hoàng hôn thôn Vỹ

Phan Mộng Hoàn

PHAN MỘNG HOÀN - THƯ VỀ HUẾ (Cho Tôn Nữ Như-Ngân )

PHAN MỘNG HOÀN



THƯ VỀ HUẾ

Cho Tôn Nữ Như-Ngân



Ngân ơi! Rứa là coi như mình lỗ vốn rồi, bởi vì trong thư gửi về Huế cho Ngân có lần nào mình quên ép vô đó biết mấy là nhớ thương! Và gần nửa năm nay mình đâu còn thong dong tháng ngày nữa để tỉ mỉ ngồi ghi chép những mẩu đời vụn vặt ở quê hương mới này. Đong cho vun rót cho đầy những trìu mến chắt lọc từ những sáng lạnh lùng hối hả đến College. Với những chiều mơ hồ trong sương mù lãng đãng quấn quýt theo bước chân âm thầm từ lớp bước ra. Thời gian từ dạo ấy đã kín bưng không cho mình tìm ra một khe hở để dòng thương nhớ tuôn trào về chốn quê hương dấu yêu...

Thư mùa hạ thứ nhất ở xứ người, mình đã kể cho Ngân chuyến du lịch về thủ đô người Việt tỵ nạn. Vì ai ở bên này mà không cho rằng Nam Cali là nơi quy tụ dân Việt Nam tha hương. Me con mình đã thực sự xoá mờ phần nào nỗi hằn học gây ra từ người chủ mới khó thương sau 75. Mấy me con đã sống hồn nhiên trong xứ thần tiên thơ trẻ. Nơi Disneyland ấy, đất trời mở ra thế giới cổ tích êm đềm. Những lâu đài cao ngất có nàng công chúa xinh tươi. Những phép mầu biến ảo. Những uốn lượn bồng bềnh. Đêm thăm thẳm và trời vút cao. Từ rừng sâu nghe âm vang tiếng trống, giọng khèn. Chênh vênh trên lưng ngựa, chàng dũng sĩ da đỏ, mắt u buồn trông ngóng về một vùng núi đá mờ khuất. Mình nhớ đã kể không sót một chút nào mấy ngày rong chơi thú vị ấy. Về buổi trưa đọng tiếng cười của bầy học trò Đồng Khánh, bọn mình hơn mươi đứa đã gặp gỡ nơi “Rendez-vous Huế”. Có đứa nào không say sưa dành nhau kể lể những nỗi đời da diết đã gặp phải từ lúc rời xa mái trường thân yêu. Những chuỗi cười dòn tan ấy đã khiến mình trở lui lại tuổi 16 thơ ngây...

Lại thêm một mùa đông giá lạnh, dù cơn gió Bắc từ San Francisco thổi về không còn làm mình khiếp sợ nữa. Mình đã mon men làm quen với hắn. Giữa tiết đông mà nắng trong veo rắc sáng đọt cây ở ngã tư đường. Mình thích dừng lại dưới tàng lá chanh vò cho nát mấy cái lá tươi để ngửi không biết chán mùi thơm của quê nội Phường Đúc. Nơi đó từng ngát hương cau hương bưởi, và thời khắc tính toán ơi sao mà lãng mạn “hoa bưởi thơm rồi đêm đã khuya”. Mùa đông thứ nhất ấy, đi học ở trường dạy Anh ngữ gần nhà, mình vẫn thường tới lớp trễ chỉ vì cái tội ham để lòng trí lang thang mơ mộng.

Thiên nhiên rực rỡ quá đã làm mình mê mẩn quên cả trời đất. Có lần mình đã mất hồn sững sờ vì bắt gặp một vòm lá mùa thu còn sót lại. Vòm lá vàng nhạt viền hào quang sáng chói. Những trái nhỏ xanh non gắn lên những cành nâu mờ nhạt ngó vui mắt và dễ thương như trong một tấm thiệp Noel nào. Lá vàng kết thành một bức rèm châu long lanh cắt lên nền trời mùa đông xanh lơ một đường viền tinh xảo. Ngân không biết được đâu, lúc đó mình đã ước ao chết quách để được hoá thân làm sợi tơ trời mong manh khẽ bám lên bức rèm lá vàng mơ ấy; cho dù cơn gió lạnh từ núi xa kéo về cũng chỉ làm cho sợi tơ trời ấy lãng đãng quấn quýt hơn.

Đầu tháng hai, khi mùa xuân he hé mỉm cười với những nụ hồng phơn phơn sắc tím u uẩn, mình đã tập tễnh sống lại chuỗi đời sinh viên. Ở đâu loại người như mình lại không ưa tủi ưa hờn, cứ tưởng bị bỏ rơi, bởi quanh mình mọi người thân thuộc đều hối hả “đi cày” đi học. Mớ kiến thức của thời trẻ trung vun quén được ở quê nhà nhiều khi chỉ làm mình ngậm ngùi nuối tiếc. Kinh nghiệm của 10 năm vào đời làm một cô giáo trẻ và nhất là đoạn đời 15 năm chịu đựng trong lò luyện thép bất nhân của ai kia đã làm mình càng thêm thấy hụt hẩng khi trôi dạt tới xứ sở này.

Mình đã thử làm lại cuộc đời từ con số không. Mình đi học cho bỏ ghét khi chưa thể làm chi ngoài công việc lủi thủi vô ra nơi xó bếp. Dù có nhiều lúc tự an ủi, ví von một cách yêu đời rằng mình là một thứ nhạc trưởng tài hoa đang múa cây đũa thần giữa một giàn giao hưởng là nồi niêu soong chảo bóng loáng mà thịt thà, rau cỏ, trái cây ngập tràn trong tủ lạnh cũng chỉ làm tê cóng thêm nỗi buồn bị bỏ bê ở góc nhà mà thôi.

Và ở sân nhà ăn ngoài trời hôm ấy. Lần đầu tiên tới trường, mình đã nôn nao một cảm giác thơ trẻ, khi tự nhiên được trở lại làm cô sinh viên với nửa thế kỷ tuổi đời. Mình nhớ rõ đã viết về Huế một thư dài đến vô tận. Trong đó mình đã tỉ tê kể bao nhiêu ý tưởng vui lạ đã dồn dập kéo tới...Thế mà tức chưa, Ngân đã không nhận được, chỉ vì lá thư ấy do gửi người quen về thăm nhà, đã bị đánh cắp trên chuyến xe lửa Sàigòn-Huế. Số Ngân xui hay số mình đen đủi? Vì làm sao mình có thể moi óc nhớ lại những gì mình đã viết ra lúc xúc động!

Thư của Ngân vừa rồi nhắc nhở nhiều kỷ niệm thiệt dễ thương làm mình thấy nao nao, lại tưởng đến khúc phim quá khứ ấy “...mình nhớ từng góc sân cỏ, hoa tím bé xinh bị dẫm mỗi lần trống báo giờ chơi 15 phút, Tương Giang cứ xuýt xoa kêu van: ‘tụi bây tàn bạo quá! một bầy hoa nát bét dưới chân tụi bây tề, coi tau nì, tau đi tau tránh hắn...” và rứa là giờ chơi mô cả bầy Đồng Khánh cũng kéo đi vòng vòng trên các thảm cỏ trong trường...” Thư Ngân có đoạn kể “MH có biết tin tức chi về Đồng Khánh tổ chức 75 năm thành lập trường (1917-1992) không? Hôm đó các chị ĐK xưa từ Sàigòn-Hà Nội-Nha Trang...đều đổ về Huế! Ngân dù bận rộn việc nhà cũng có gắng góp phần trong “gợi giấc mơ xưa” với Hoàng Lan, Nhụ Hương, Sương, Đặng. Năm thế hệ mà lứa tụi mình thuộc thế hệ 54-60 ở Đồng Khánh và coi như “tra dứt” trong nhóm văn nghệ. Cả bầy còn hát “Tiếng sáo Thiên Thai’ với “Thương về xứ Huế” đó H! Có H chắc còn “quậy” hơn H hí!”...Đọc thư Ngân mà như thấy hiện ra cả trời Huế vào hè vì Ngân kể ‘phượng đã nhuộm đỏ vài nẻo đường trong Thành nội...’ Ngân còn kêu lên ‘Sáng ni trời nắng như thiêu đốt dù chỉ mới là đầu tháng 5!...”

Mình rất cảm động vì sự lo âu của bên nhà trước tin tức bạo động ở Los Angeles, động đất ở San Francisco. Ngân triết lý “Bạo động và động đất...động đất và bạo động...Thiên nhiên và con người cứ thay phiên nhau tạo ra bất an cho nhân loại. Coi TV mình thấy những đau thương đầy rẫy đó đây trên mặt địa cầu. Mong là VN đã vào hồi hòa bình, yên ổn xóm làng, thị thành không chao đảo trong bom đạn. Nhưng có cái kiếm sống răng mà tàn ác rứa? Tụi ăn cắp tài danh là tụi Fè, Fết và Fét thì sướng nhứt đời mới tức chớ, toàn những chuyện ‘thời lai đồ điếu thành công dị’ cả MH ơi!”

Có những lúc thời tiết ở đây trở chứng làm mình choáng ngợp một nỗi nhớ nhà. Như thử cái lúc Bắc Cali đổ mưa đó. Mưa chi mưa mãi mưa hoài. Suốt ngày không gian mịt mù mưa bay và gió thổi. Đi học, mình nhìn trước mặt núi xám một màu buồn ảm đạm. Xe băng đi giữa dòng xa lộ nghe rào rào vì bọt nước dưới lòng đường bắn lên. Mình ngồi sững nhìn thiên nhiên đổi màu ngoài cửa kính xe. Đứa con trai lao xe vùn vụt cho kịp giờ học. West Valley College mơ hồ hiện ra trong bụi mưa. Đàng sau lưng là vạt núi ủ dột. Ven đường những cây thông ướt át đứng trơ vơ. Khi quành tới ngã 3 quen thuộc để rẽ vào trường, mình vẫn thấy thảm cỏ lục biếc và hoa vàng thì rực rỡ hơn khi nào hết. West Valley College xinh đẹp hiện ra ở giữa một vùng đồi núi chập chùng.

Cỏ non mơn mởn viền quanh những con đường nhựa đen loang loáng nước mưa. Mặt đường tuôn chảy những dòng sông nhỏ của cơn mưa lạ lùng. Mình len theo lối đi nhỏ qua chiếc cầu xi măng có lối kiến trúc gập khúc cầu kỳ. Phía xa mình thấy dãy nhà gỗ màu nâu của khu vực các lớp khoa học. Mình thì rẽ xuống ngã kia nơi một cây cổ thụ nằm uốn éo gợi cảm. Thân cây sù sì mốc thếch, vươn dài cánh tay lực lưỡng vẽ thành một vòm cổng cao thâm u. Thoáng chốc mình tưởng lạc vào một quê hương hoang tưởng, chợt một màu xanh thẩm lóe lên vì cơn nắng trong veo đã tới tự trời cao. Mình nghe vang lên từ cuối hồn tiếng một con chim thả giọng ríu rít, nỗi xôn xao oà vỡ khi cơn mưa dứt và thinh không rộn ràng lời nắng.

Thư Ngân dạo trước đầu tháng 12 nhắc, “ Cái Văn khoa Huế hồi 62-77 của tụi mình văn vẻ như thế mà chừ là một dãy cư xá tập thể...heo ỉa ‘trên lầu cao ngất ngây’ xuống thấu lề đường Lê Lợi...” Mình lại xót xa thương cho Huế mỹ miều chừ bị lấm lem tội nghiệp. Ngó xứ người ta này, để mình lại kể cho Ngân nghe.

Mỗi lần đi học, cứ lúc nào vào tới thành phố Saratoga chừng dăm phút là đã đến ranh giới trường West Valley. Hai bên đường hoa vàng như mơ. Màu vàng ngã về xanh. Hoa vàng cợt đùa trong nắng sớm, rạt rào uốn lượn theo ngàn cỏ lau mềm oặt xanh rờn. Nắng trong vắt. Trời xanh và mây chùng chùng ánh bạc. Mình im lặng chìm đắm trong thiên nhiên đang bủa vây mình. Thung lũng đầy nhưng hoa dại. Những bông hoa tím nhỏ nhoi, dịu dành nép mình bên lối đi. Những cây khô trụi lá xương xẩu. Cành gầy guộc nhú lên nền trời xanh những nét chấm phá cong queo và khắc khổ. Đồi cao cỏ non mượt nhung. Những lối mòn nâu thẫm đổ dốc xuống khe sâu khô cạn, vì Cali hạn hán từ 6 năm qua. Hàng thông biếc xanh cao ngất chen chân bên những cổ thụ kềnh càng già e đến một, hai trăm năm tuổi...Rừng nguyên thủy lạc loài nơi cuối thế kỷ 20, mà tuổi trẻ đến trường miệt mài đèn sách, trong gang tấc có thể ru hồn mộng vào cõi tĩnh mịch êm đềm.

Khi lớp tan học, đêm Cali lạnh vô cùng, đám cỏ tím thẫm long lanh mấy hạt sương. Con đường nhỏ êm cong cong dẫn mình đi. Đêm có lúc lạnh xuống e 2 độ C, mình vừa đi vừa chạy cho bớt rét. Một mảnh trăng xanh mướt lạc loài giữa trời đen bao la. Mình không sao tìm thấy lung linh một ánh sao hôm vì hình như đêm giá lạnh đã xua tan tất cả và ngôi sao lẻ loi không dám nở trên cõi trời đêm âu sầu. Những ngọn đồi uốn lượn chập chùng trong mù sương đang dâng lên...



Chừ là cuối học kỳ Spring, ở đây mình viết thư cho Ngân tại thư viện trường. Chung quanh mình hằng trăm sinh viên đang cắm cúi ôn bài lần chót vì nội trong 1, 2 hôm nữa họ phải chấm dứt những giờ thi cuối mùa. Riêng mình đã hoàn tất những Unit tràn ứ bài vở, đã vượt qua êm thắm trong nỗi chộn rộn của thời đến lớp ngày xưa. Và thư viết về Huế cho Ngân vì thế mới ngổn ngang những mớ tình cảm của lúc yêu đời trở lại khi được sống đời sinh viên. Bởi vì cuộc đời nếu có đầy đau thương biến đổi, mình còn thấy có một ý nghĩa để tồn tại khi biết tìm đến nét tinh khôi sẵn chứa trong môi trường phải từng lúc phát hiện ra cái Chân-Thiện-Mỹ.



Ngân ơi, cho mình gửi lời thăm tất cả về Huế thân thương của mình



Phan Mộng Hoàn

Tại West Valley College tháng 5- 1992



.
Excerp from :
Hoàng hôn thôn Vỹ

Author : Phan Mộng Hoàn

PHAN MỘNG HOÀN -THƯ VỀ HUẾ

PHAN MỘNG HOÀN



THƯ VỀ HUẾ

Gửi Cô Giáng-Châu





San Jose tháng 5- 1992

Sắp mùa Final



Cô Giáng Châu thương quý,



Em chợt quay quắt nhớ đến Huế của mình chỉ vì lá thư của cô.

Chiều hôm trước từ trường về em đang vui hớn hở, lòng phơi phới như đất trời mùa xuân ở đây - mây như trong hơn vì nắng vàng chói lọi, cỏ biếc hơn vì thiên nhiên như gấm dệt lộng lẫy những hoa đẹp đủ màu tươi xinh. Hơn nữa những bài vở của em đạt được bao nhiêu là điểm A. Thử hỏi tất cả những điều đó sao không khiến em yêu đời cho được. Xe băng đi trong dòng hối hả, vì lúc đó xa lộ ngập tràn, giờ tan sở mà! Em ngồi tỉ mỉ đếm dòng đường trôi đi không ngưng nghỉ. Những chiếc xe bóng lộn, kiêu kỳ màu trắng lấp lánh nắng chiều. Những xe Sport 2 cửa, trẻ trung. Những Truck kềnh càng. Em dòm kỹ chiếc Limousine dài ngoằn bay vút qua, cửa kính đen ngòm không cho mình soi thấu “hiện trường”của một “nội thất” di động. Thiên hạ nhiều tiền quá mà đời thì vắn vỏi nên họ cố tìm cách hưởng thụ cho hết. Lúc nào chạy xe trên Freeway người em cũng căng thẳng như sợi dây đàn, vì em tưởng chừng những xe đàng trước dâng lên và em sẽ lao vào chúng- bởi vì thưa cô, em không tự lái xe trên xa lộ. Qua đây hơn một năm rưỡi em vẫn chưa đậu được cái bằng lái. Cả nhà đổ vô cấm cản không cho em tự di chuyển. Họ quá rành rẽ về em, “tra” cái đầu nhưng khi nào cũng hăng tiết vịt như hồi còn trẻ dại 30 năm về trước.

Viết tới đây em giựt mình. Vì...làm sinh viên trở lại khi vừa bước vào nửa thế kỷ tuổi đời trên vai. Em bàng hoàng đọc thư cô. Xúc động vì những gợi nhớ của cô về quãng đời qua đi của em ở quê nhà. Em đã thưa với cô trong lá thư tìm lại thầy cũ, rằng quá khứ chỉ là một giấc mộng kê vàng, mà trong chớp mắt vinh nhục đời người thoáng qua tan biến. Có chăng chỉ còn lại một cánh bướm khẽ rung động trong ráng chiều hấp hối.

Ở trên trường West Valley, gần đây các cô cậu sinh viên rủ nhau ra các bãi cỏ mênh mông, quanh những lớp học, nằm ngồi phơi nắng trên ấy ngó bắt vui mắt. Em hay lén nhìn hai mái tóc vàng chụm lại rồi đỏ mặt khi biết rằng họ đang âu yếm nhau. Những nụ hôn tự nhiên như nắng, như gió, như mây trời, như cỏ thơm quanh đó. Tuổi trẻ ở đây hồn nhiên sống. Nhìn những người trẻ chạy nhảy, múa lượn trong buổi ăn Lunch ngoài trời, mà sân khấu lộ thiên rậm rật tiếng nhạc. Em bỗng xót xa nhớ tới bên nhà giờ này học sinh, sinh viên đang vất vả sống. Vì bao giờ dân mình lại không hiếu học- nên dù đói cơm, thiếu áo, hoàn cảnh chật vật khó khăn đến đâu cũng không chút sờn lòng. Thư thầy Phạm Kiêm Âu gửi cho em, kể là ở Huế, thầy sợ rằng ít lúc nữa số học sinh cấp 3 sẽ triệt tiêu. Lý do hiện tại con em nhân dân muốn vào cấp 1, cha mẹ phải kiếm cho ra trên 200 ngàn bạc nộp cho nhà trường. Trong lúc đó họ phải “chạy ăn từng bữa toát mồ hôi”, vì có gập đôi xương sống vẫn không đào đâu ra chừng đó một lúc, số tiền quá lớn đối với họ. Huế vốn có truyền thống học, là quê hương nổi tiếng một nền văn học cao thế mà bây giờ dần tàn lụn vì một chế độ kỳ quái! Thôi, em không thèm nhắc chi tới Huế thời hậu 75. Vì viết có cạn trăm cây bút bic vẫn không hết chuyện đau thương về Huế của em.

Ngoài cửa kính sau vườn em thấy trên lầu gỗ lũ bồ câu trắng đủng đỉnh dạo, lười mổ thóc, lười bay lượn. Bầy chim sẻ to gấp đôi chim sẻ bên nhà. Mớ lông tơ trên chỏm đầu nhuộm đỏ như làm dáng, đang chí chóe cãi lộn và dành ăn. Bụi trúc lá xanh rung rinh vì làn gió bắc thổi về. Sáng nay nghe như trời trở lạnh. Thời tiết se se khi Tết về của Huế làm em mơ màng nhớ quá sức cô ơi.

Vì cô nhắc đến tấm ảnh kỷ niệm của ban giáo sư niên khoá 66-67 của Đồng Khánh, chừ được in lại lên tờ báo “Đồng khánh, Mái trường xưa” gửi từ Huế qua cho cô- trong đó có hình em ngồi trên cỏ ở hàng đầu. Cô đã làm em nao nức sống lại thời gian đó. Dạo ấy, em từ Đà Nẵng ra Huế để học cho xong chứng chỉ cuối của mảnh bằng Giáo khoa Việt Hán. Em lấy chồng 2 năm và theo chồng vào xứ Quảng nên không cách chi để học tiếp. Vì thế em phải bồng hai con nhỏ về Huế gửi bà ngoại chúng nuôi. Và từ đó em vừa làm sinh viên vừa làm cô giáo ở Đồng Khánh. Năm đó, cô là Hiệu trưởng cao vời xa cách em quá, bởi do em chứ đâu phải tự cô muốn cô hí.

Em tất bật làm con thoi dệt cửi: 8 đến 10 giờ sáng có giờ học ở Văn khoa, chứng chỉ Ngữ học Việt nam. 10 giờ kém 15 phải có mặt ở trường Đồng Khánh để dạy Quốc Văn Tứ B2 hoặc Tứ B3. Vì thế em trở thành một tay đua xe đạp có hạng từ lúc nào. Có bữa đạp bở hơi tai, áo ướt đẫm mồ hôi thế mà khi xuống xe vô cổng, em còn bị bác cai già làm khó dễ không cho vô trường. Bác cai còn lạ mặt em, bữa đó nhằm lúc em mặc áo màu xanh da trời nữa, nên bác cai trừng mắt, mặt lạnh lùng vì ‘học trò đi học đã trễ lại còn không chịu đồng phục nữa!’ May quá gặp lúc bà Giám học có việc đi đâu ra cổng. Em mừng muốn khóc, kêu “Cô ơi, họ không cho em vô cho kịp giờ tề!” Cô Doãn, vì bà Giám học chính là cô giáo dạy Lý Hoá năm em 2A1. Cô chúm chím cười vẫn uyển chuyển bước chớ không thèm vội vàng chi. Cô nói mấy lời về em, thế là em bết bát leo lên xe lại, rồi đạp như bay vô phía cột cờ ở dãy lớp tay mặt. Từ xa, em đã thấy một bầy áo trắng im lặng xếp hàng chờ em...Chết cha chưa! Cái kiểu bắt học sinh xếp hàng là để giáo sư lộ mặt bê bối, trễ nải trong tác phong dạy học, đã làm em vô cùng mắc cở hồi đó cô ơi! Em hất tay ra dấu, học sinh ngoan ngoãn vào lớp. Và em chỉ kịp ném xe cái ầm bên hàng hiên lớp để nhảy mấy bước, thở như bò rống lên thẳng bảng xanh cầm cục phấn trắng, hào hển giảng bài giảng mới!!!

Làm cô giáo ở ngay ngôi trường mình từng mài đũng quần nhiều khi em không biết đó là một hạnh phúc nữa kià. Phải đợi đến lúc em đi xa, bỏ trường hẳn không quay trở về Huế nữa, em mới ngẩn ngơ nuối tiếc vì đã thực sự đánh mất một quãng đời dễ thương nhất của mình.

Em làm sao quên được năm bị đúp lớp Nhị A. Gần như mỗi kỳ thi Tú tài bán thuở đó, lớp chỉ dính bảng vàng cỡ 5, 10 đứa và trọn hai kỳ tính giỏi lắm chưa đầy 1/3 lớp chuyển qua Quốc Học! Đó là trường công, học sinh đã được tuyển chọn, sàng lọc mà còn như thế. Năm 2A1 của em, Lý Hoá không do cô Nguyễn thị Như Huệ dạy nữa, vì có giáo sư mới từ Trưng Vương đổi về. Tụi em hồi hộp chờ cô giáo mới. Té ra sau thở phào, vì cô giáo này cũng dân Huế thân thuộc. Cô Doãn người cao e đến...2 thước, tụi em kháo nhau như thế. Thiệt tình là cô mảnh mai, đài các lắm. Tóc luôn vấn cao lên đỉnh đầu cứ như đệ nhất phu nhân. nhìn bề ngoài cô có vẻ “phong kiến” như rứa mà không phải rứa mô tề. Trái lại cô Lý Hoá đã làm tụi em mê tơi vì sự gần gũi học sinh của cô. Tụi em hay kêu cô là chị Doãn- đó là cái mốt của Đồng Khánh những năm 60. Các cô giáo trẻ măng, suýt soát hơn học sinh 5-7 tuổi chơ mấy, nên tụi học trò Đồng Khánh thích quen kêu họ bằng chị.

Ở Đồng Khánh thời điểm sôi nổi nhất là mùa thi Nhứt và Nhị Lục Cá Nguyệt. Nhà trường ban lệnh ác ôn, trong suốt tháng sắp thi học sinh không được nghỉ học bất cứ giờ nào. Muốn không bị trừ điểm thi những giờ nghỉ, phải có giấy bác sĩ chứng nhận. Vì luật lệ gắt gao đó nên tụi em phải ‘tranh thủ’ giờ ôn bài bằng cách ở lại trường buổi trưa, hoặc về trễ, để từng đôi một sẽ dò bài cho nhau. Còn nhớ năm ngồi 2A, em ở trong nhóm ngũ qủy, MH-Oanh Thôi-Bạch Tiết-Sơn-Bút. Có lần vào mùa thi Lục cá nguyệt, cả bầy ham chơi ngoài vườn hoa Khải Định bên bờ sông Hương đến trễ mất giờ vào học. Thế là tụi em phải trổ tài thần thông. Cùng với lũ xe đạp lỉnh kỉnh, học trò Đồng Khánh dịu dàng, khép nép của cô đã leo tường vượt bức thành cao 3 mét êm ái lọt vô trường an toàn!

Riêng em thì vẫn có biệt tài lang thang buổi trưa trong sân trường mà không phải giam mình mãi nơi lớp học chật chội, nóng nực, ồn ào. Đó là một bí mật mà em vẫn độc quyền giữ lấy không chịu chia chác cho ai. Em thường thủ sẵn một lô giấy nháp trong người, để lỡ đụng đầu một bà Giám thị nghiêm khắc, luôn luôn là kỷ luật thép, để xoay sở, biện bạch tại sao đã không chịu ở yên trong lớp. Bà Giám thị khẽ hất đầu ra ý hỏi lý do. Em lễ phép đứng lại, tay lôi tập giấy vừa vò viên vừa tái xanh mặt mày, ngụ ý: Thưa cô em đau bụng! Rứa là thoát nạn! Tất nhiên em phải khôn ngoan để lang thang một cách có ý tứ, tránh chạm trán hoài những vị cảnh sát nghiêm minh này. Vì vô lẽ trưa nào con bé ấy cũng lâm nạn Tào Tháo rượt?

Nếu ở lại buổi trưa, tụi em đã có quán cơm của bà cai Đệ, phía dưới préau lo. Trống tan trường chưa dứt hồi, căn phòng nhỏ đã nứt ra vì lũ học trò ồn ào chí chóe cười nói giỡn cợt nhau. Đâu có kiểu văn minh xếp hàng chờ tới phiên mình. Tụi em cứ xô đẩy, mạnh được yếu thua để tới trước mặt vợ bác Cai, chìa tô không ra cho bác gái múc đầy nước canh bún. Cay xè, đỏ thắm những lớp màu mỡ màng bồng bềnh trên mặt. Nước bún có rải rắc ít lát thịt bò gân nhai trẹo quai hàm, nhưng với lũ em hồi đó sao mà ngon thế không biết nữa. Em mua thêm 1 đồng cơm, bát cơm trắng dẻo thơm bốc hơi , chan nước lèo đầy ớt cay xé họng, thế là đủ sức nuôi ăn buổi trưa tuổi con gái mới lớn yêu đời vui học. Đứa nào cũng eo hẹp tài chánh nên chỉ dám ăn bữa trưa như vậy. Còn phải để dành mỗi đứa vài đồng bạc lẻ. Buổi chiều khoảng xế xế, học hai giờ đầu xong là cái bao tử bắt đầu réo gọi rất khó chịu. Cả bầy không hẹn mà “tái ngộ” ở nhà bác cai. Mỗi đứa chia nhau cái bánh bột lọc bắt kiểu quai vạc nhân tôm thịt, nhai một miếng, nước thịt ướp đậm đà ứa ra đầy mồm, ôi sao mà hạnh phúc. Phải nhớ cẩn thận chấm bánh vào chén nước mắm đầy những lát ớt xanh đỏ đã xắt mỏng, ăn như thế mới thập toàn khẩu vị. Nhắm xong giấc chiều, môi đứa nào cũng đỏ tươi như mấy cô ca sĩ hoá trang lên sân khấu. Nhiều lúc giờ ra chơi trễ nên ăn vội vàng mà không kịp tráng miệng chén chè nhỏ thơm đậu ván nước, hay đậu ván đặc hoặc ly chè bột lọc nhân dừa, nhân đậu phụng; là chắc chắn khi vào lớp cả một vùng bốc mùi mước mắm hôi rình! Cô giáo trên cao chỉ chúm chím cười thông cảm. Vì làm sao bắt tội lũ học trò, bởi trong thời quá khứ 75% các cô từng xuất thân từ hội con yêu bánh nậm ăn quà vặt như ranh kiểu chúng em, phải thế không thưa cô thương quý?



Cô ơi, cô nghe em nhắc nhở tuổi hồng của thời xỏa tóc mà có thương nhớ đám học trò cũ không cô? Do có nhiều kinh nghiệm của thời đi học, nên khi trở thành cô giáo em khá “rành 6 câu” về lũ tiểu yêu dưới trướng của em. Em không suồng sã dễ dãi với học trò đâu nhé, em chỉ chia xẻ cho học trò mình những điều gì nên và không nên làm, miễn sao điều ấy không phá hoại tư cách, đạo đức thực sự của con người. Dạo đó, em tiếc ghê cô ơi. Vì ham học ở Văn khoa để lấy cho xong cái chứng chỉ cuối mà em đã phân tán con người mình làm hai mảnh. Em đã không đủ thời gian để sinh hoạt tận tình với các em học sinh của mình, không cả những kỷ niệm nho nhỏ về quảng đời làm thầy người ta ở trường Đồng Khánh. Trừ một lần, vào dịp lễ Hai Bà Trưng, em được cô Giám học biểu lên đọc diễn từ. Hôm đó, em ngu ghê không biết mặc áo dài trắng như thông lệ. Vì hằng năm khi một giáo sư lên đọc diễn văn kể công ơn Hai Bà, ngày đó thường mặc áo trắng đơn sơ tỏ ra thầy trò đều nhỏ bé trong trắng như nhau trước anh linh các vị anh thư. Em đã cảm động và run như đuôi thằn lằn đứt khi được vinh hạnh đại diện cho toàn giới phụ nữ ở Huế ngày lễ lớn ấy.

Phòng Giám học đã xếp cho em dạy Quốc văn ở 3 lớp, 2 đệ tứ và một lớp đệ lục 6. Em rất biết ơn nhà trường đã khéo thu xếp giờ giấc cho em để không bị lấn cấn với việc học hành ở đại học. Dạo đó, các cô giáo Đồng Khánh tưng bừng trở lại làm sinh viên để học thêm mãi vì đại học Huế hầu như mở đầy đủ các lớp cho các bộ môn học.

Tinh thần hiếu học và trẻ trung của đời sống sinh viên đã làm em muốn hòa đồng nhịp sống ấy với lũ học trò của em. Em khuyến khích các em học sinh phát triển năng khiếu trong khả năng mình đang hướng dẫn. Trường ĐK năm đó sinh hoạt tưng bừng. Tết có tổ chức đóng trại trong trường với đủ các bộï môn văn hoá văn nghệ nô nức. Thầy trò các lớp em dạy văn, thức đêm làm báo lớp. Học sinh đua nhau sáng tác, viết văn, làm thơ vui ghê. Em ra sức sửa từng câu văn, nắn nót lại những vần thơ để khi in lên tờ báo phải chiếm giải. Anh Hà Thúc Hoan là giáo sư Trưởng ban báo chí toàn trường, đã khen thưởng cho cả hai lớp mình phụ trách. Tờ “Cỏ thơm” của Tứ 3 và “Bước đầu”của Tứ 2 đều in bằng máy quay ronéo. Thầy trò em sau đó dắt nhau đi chơi dịp nghỉ tết. Cô giáo trẻ là em kéo cả bầy Tứ 3 lên quê nội Phường Đúc cùng nhau tắm mát bến sông Hương sau nhà. Khúc sông mùa xuân năm ấy sóng nước rộn ràng reo vui như tiếng cười trong trẻo của chúng em. Với Tứ 2, em đưa các em nữ sinh vào thăm Đại nội. Hoàng thành lộng lẫy những lầu son gác tía. Khi dạo trên sân chầu mênh mông, cô giáo nhắc nhở cho học trò mình ngày xưa nơi đây vua tôi triều nhà Nguyễn từng trải qua bao thăng trầm, khi tổ quốc đang phải trăn trở đối phó với một nước Pháp giàu mạnh muốn xâm lấn chủ quyền. Nhớ lại ngày vui thuở ấy em bùi ngùi luyến tiếc. Cơ chi tiểu gia đình của mình lập nghiệp nơi chốn này, em sẽ có dịp “đem quách cả sở tồn làm sở dụng”, sẽ sống hết mình cho nghề “godautre” thương qúy mình đã chọn làm lý tưởng lúc vào đời. Nhớ lại những kỷ niệm dễ thương khi sinh hoạt với các em học sinh, em lại bâng khuâng buồn. Thời gian sao qua mau, em chưa làm được chi nhiều mà mộng ước “nghề nghiệp” thì lăm le quá đỗi! Từ giã Huế để vào Đà Nẵng thực sự làm “thầy”, là từ giã Đồng Khánh, ngôi trường dấu yêu của lúc mình thơ ngây sống hồn nhiên tuổi học trò, và cũng là ngôi trường cho mình tập sự làm cô giáo trẻ với trái tim sôi nổi nhưng trong thực tế còn lắm vụng về!

Cô còn nhớ không nhiều thế hệ ở trường mình đã thay đổi. Các nữ chủ nhân trẻ của trường Đồng Khánh thường vẫn là các cô giáo bước lên. Thời em học là chế độ của cô Tiết. Đầu năm Nhị A, mới được vài tháng cô bỏ không dạy Vạn vật lớp em vì cô bước lên ngôi nữ hoàng. Cô Hiệu trưởng nhỏ nhắn, mảnh mai lướt đi với mái đầu hất cao, tà áo khẽ lay động theo dáng người có vẻ cứng rắn như đức tính của cô. Bầy nữ sinh nép mình đứng im mỗi lần thoáng bóng cô từ xa. Nhưng đến thời kỳ của chị Tịnh Nhơn thì khác hẳn. Công chúa Nhật Bản của bao nhiêu trái tim học trò Đồng Khánh, dù khi làm Hiệu trưởng vẫn nhu mì hiền dịu như lúc dạy Quốc văn. Em không được học với chị Tịnh Nhơn vì mãi đầu năm đệ tam em mới vô ĐK. Nhưng em đã như lũ bạn mình, đứa nào cũng thương chị vô cùng. Em là tay Phóng viên nhiếp ảnh khối đệ tam- nhị, nên dịp nào sinh hoạt trường, em cũng xách cái máy ảnh Roleiflex tòn ten chạy đua với thầy Minh để săn hình, nên chi các giáo sư trong trường ai mà không nhớ mặt em. Những lần Đồng Khánh tổ chức cắm trại toàn trường ở đồi thông Thiên An, ở bãi biển Cửa Thuận...Ở đâu em cũng tha hồ bắt tội các cô giáo mình, em làm đạo diễn mà! Cô Tịnh Nhơn, cô Túy Đại, cô Mộng Hà, cô Như Nguyện, cô Tuyết Mai, cô Tảo, cô Tần...Cô giáo nào thì ra cũng nghịch phá ồn ào, cãi nhau chí chóe không khác chi bọn học trò ĐK cô ơi. Nhắc lại em muốn khóc...Vào năm 82 em đã cùng bạn Bùi Ấu Lăng cũng như hàng trăm nữ sinh Đồng Khánh khác đã để tang cô Tịnh Nhơn. Định mệnh rất vô lý khi ép uổng bắt cô giáo mà hầu như toàn thể học trò ĐK thương qúy nhất chịu đựng một đoạn đời cuối vô cùng đớn đau...Hôm tiễn chân chị Tịnh Nhơn về với lòng đất, gần như học trò Đồng Khánh sinh sống ở Sàigòn đã hội tụ về khóc đưa...cả một trời áo trắng!

Thói thường của học sinh lúc nào cũng coi trọng môn chính. Trước tiên là Toán, Lý hoá, Quốc Văn đến Sinh ngữ. Cuối cùng mới ngó tới Sử Địa, Công dân, Nữ công gia chánh, Dưỡng Nhi...Nhưng riêng em, em lại mê học Công dân. Không phải em muốn ủ ấp mộng Luật sư tranh cãi với đời hay để sau này làm một tay mồm loa mép dãi! Mà lý do vì em...thương thầm cô giáo phụ trách. Không ai biết điều ấy đâu bởi vì em đã giữ kín tận đáy tim mình. Cái tụi bạn em thương ai là lộ rõ ra nơi mặt liền, nhiều khi còn cường điệu cho đối tượng soi thấu! Giờ Công dân nào em cũng hiền lành ngồi im nghe giảng bài. Trên bục cao ngời ngời thần tượng của em. Mái tóc kiểu Jacky ôm kín khuôn mặt xương xương kiêu hảnh. Ánh mắt cô giáo vẫn đẹp lạ kỳ, em thương cả những vết sẹo nhỏ viền trên bờ mi của cô và ngơ ngẩn nhìn dáng cô bước đi; một chút gì trẻ trung nhí nhảnh nơi gót giày cao gót tung tăng ấy! Và vì có cảm tình đặc biệt môn Công dân, em đã thân luôn con bạn Huyền Tôn Nữ Mai Hương học bên Tam B, bởi hắn là em gái cô Công dân yêu dấu của em đó mà! Em nghe nói cô giáo Công dân hiện đang hoạt động cho nhóm Phượng Vỹ để trút nhớ thương trìu mến về Huế nghèo khổ. Thế là từ nhỏ em đã chọn đúng thần tượng cho mình.

Học Đồng Khánh có ai quên được những trò ma giáo xảy ra trong giờ Nữ công, gia chánh. Bà Bửu Tiếp xinh đẹp, giọng cao vút như tiếng chim, đường bệ ngồi tỉ mỉ chấm điểm. Mỗi lần có chừng 15 mẫu thêu sẽ lần lượt hoá phép ảo diệu bay lên lượn xuống cho 45 con yêu bánh nậm hoán chuyển. Ai trong bọn em cũng biết thêu thùa chứ nhưng thường là xấu, vụng về nên đứa nào cũng chỉ đem lên cho cô chấm điểm mẫu thêu tinh xảo của những tên bạn...sắp lấy chồng. Tụi hắn mà cầm đến kim chỉ là mê tơi luôn. Cho nên trong lớp chỉ có 2 loại điểm mà thôi! Tiết lộ bí mật xấu xa ấy cho vui thôi chứ thật ra nhờ những giờ Nữ công mà lũ chúng em vẫn coi thường đó. Về sau này khi ra đời, làm vợ làm mẹ, em đã có dịp trổ tài may vá. Khi rời trường Đồng Khánh, hồi lên làm sinh viên Văn khoa, có lần em đã tự phục mình lăn chiêng đổ đèn. Vì cô biết không, em đã can đảm mạng cả một đường dài vạt áo sau lưng, tà áo lụa óng ả của em đã bị vướng lúc qua cầu Trường Tiền đến gần như bị đứt lìa! Và mỗi lần mặc áo dài lụa ấy, em lại bồi hồi nhớ thuở học may vá với bà Bửu Tiếp, mẹ của cặp sinh đôi xinh tươi Mai Liên- Mai Tâm. Đáng kể nhất là đoạn đời “giải phóng” đổi đời mình đến chóng mặt. Vì từ sau tháng Tư 75, những kiểu vá góc, mạng tròn, mạng vuông đều được tận dụng tối đa, để giúp cho mình tiếp tục che dấu những thiếu thốn nghèo nàn mà chế độ mới đã cố tình gây nên.

Kể về Đồng Khánh thì nói hoài không hết những kỷ niệm buồn vui. Em tạm lướt để nhớ tới năm học đệ nhất, bước ngoặt gắt gao của tuổi học trò. Đó là giai đoạn phải làm thiếu nữ nết na dịu dàng. Bởi vì đâu còn được tung hoành phá phách như thờì ở Đồng Khánh nữa. Đậu Tú tài bán là bước qua Quốc Học rồi, là thực sự chấm dứt tuổi hồn nhiên nghịch ngợm. Má em sắm cho em loạt áo sống mới từ trong ra ngoài. Bởi bây giờ là học chung với người khác phái, em phải tỏ ra duyên dáng chớ không được lôi thôi lếch thếch ẩu tả như trước kia nữa. Từ lúc rụt rè đạp xe đạp thêm một đoạn ngắn để rẽ vào cổng trường sừng sững đề 2 chữ đáng nể: Quốc Học, em ít còn bị những cái đuôi theo sau. Hôm em và Tường Nhi xếp hàng đầu dẫn hai hàng lớp đệ nhất A1 tiến ra cột cờ chính giữa sân để làm lễ chào cờ đầu niên khoá vì lớp em là đệ Nhất lại là chữ A số 1, nên coi như đại diện toàn trường; cũng là lúc em tự giới thiệu mình cho mọi người ở Nước Con trai này. Và từ đó, một số kẻ từng làm đuôi hát bài “Em tan trường về anh theo Ngọ về...” đã cụt hứng không còn mất công rò rò theo sau em. Hình như một hôm đi học trễ, lúc chạy băng qua dãy hành lang khối lớp đệ tam, em “chộ” một số người vẫn hâm mộ mình. A, té ra tụi hắn là đàn em của mình! Cho đáng kiếp nhé!

Hai trường của em ngăn cách nhau chỉ bằng một con đường nhỏ chừng một gang tay nếu ngó từ lầu cao nơi lớp IA1 của em! Những giờ ra chơi bọn em kéo ra đứng nơi cửa sổ lớp để ngắm về trường xưa, nơi đó là hình ảnh dễ thương của mình. Đám con gái lao xao nói cười, từng cụm một xúm xít chuyện trò, những mái tóc đen mượt, những mắt sáng long lanh. Ôi Đồng Khánh dấu yên, hồn ta mãi mãi quấn quýt bên mi! Những cành phượng lá xanh mướt đong đưa những bông hoa đỏ chói nắng hè, rực rỡ xao xuyến một mùa thi, đã từng chứng kiến bao mối tình thơ ngây của học trò hai trường.

Cô ơi, thư em viết cho cô mà toàn kể lể những kỷ niệm thời đi học. Nhưng em tin là cô sẽ vui khi đọc những dòng nhớ thương này. Ở đây, mùa hè rực rỡ kéo về với cái nắng chói ngời. Sáng nay em được nghỉ không tới College nữa nên thơ thẩn ra cửa đứng chơi. Nhìn cây mận trước sân lá tím như mực viết học trò lấp lánh dưới làn nắng sớm. Màu lá tím của màu nhung nhớ, một chút gì đỏ sậm của loài hoa phượng vỹ ẩn trong sắc tím ấy xui cho em bâng khuâng tưởng đến một mùa thi ở quê nhà. Nghe gió rì rào trên mấy tầng lá khe khẽ ru êm. Nhìn nắng lộng lẫy rắc lên thiên nhiên tươi mát yên tĩnh, lòng em chợt lắng đọng một nỗi nhớ khôn nguôi về Huế, quê hương tuổi học trò lòng em mãi mãi ghi khắc. Hình ảnh Huế vào mùa thi, thành phố tươi tắn vì hoa phượng thắm đỏ. Dòng sông Hương mơ màng soi bóng sáu nhịp cầu Trường Tiền...Giờ đây tất cả Huế dù có lùi xa như dĩ vãng vẫn đời đời in đậm nơi lòng kẻ tha hương này.

Thôi em dừng cô nghe, hẹn thư tới em sẽ kể về chuyện Đồng Khánh của em...



Phan Mộng Hoàn

San Jose cuối mùa thi học kỳ Spring, tháng 5- 1992





-----------------------------------
SOURCE :
Hoàng hôn thôn Vỹ

Trang Phan Mộng Hoàn



art2all.net

19/7/11

Biển Đông: Những diễn biến mới và tác động

Biển Đông: Những diễn biến mới và tác động
Tác giả: Trần Trường Thủy

19/07/2011

DOC đã được ký với mong muốn có thể cung cấp nền tảng cho sự ổn định lâu dài trong khu vực và thúc đẩy sự hiểu biết giữa các nước liên quan. Biển Đông đã tương đối ổn định trong nửa thập kỷ qua.


Tuy nhiên, sẽ là ngây thơ nếu tin rằng nhờ DOC, các bên đã ngừng các hoạt động làm phức tạp thêm tình hình. Theo DOC, các bên phải kiềm chế các hoạt động có thể làm phức tạp thêm tình hình hoặc khiến tranh chấp leo thang và ảnh hưởng tới hòa bình và ổn định, trong đó có việc ngừng mọi hành động đưa người đến sinh sống tại các đảo, bãi đá, bãi cát ngầm, đảo thấp nhỏ và các địa hình khác vốn không có người sinh sống, và giải quyết các bất đồng một cách mang tính xây dựng.

Tuy nhiên, Tuyên bố DOC không làm rõ những hoạt động nào có thể được coi là phức tạp và leo thang tranh chấp. Các bên đòi chủ quyền tiếp tục xây dựng nhiều công trình trong những nơi đang tranh chấp trên biển Đông và tuyên bố các quy định tài phán đơn phương nhằm chứng tỏ chủ quyền trong các khu vực tranh chấp.

Cách tiếp cận của Trung Quốc, trong vai trò nước mạnh nhất, trên biển Đông xác định bản chất của tranh chấp. Từ năm 2007-2008, khi Bắc Kinh sửa đổi chính sách đối với vấn đề biển Đông theo hướng quyết đoán hơn, tình hình đã căng thẳng trở lại.

Tháng 12/2007, Trung Quốc đã xây dựng thành phố Tam Sa để quản lý hành chính quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa (và bãi đá chìm dưới biển Macclesfield Bank), gây sự phản đối chính thức và mạnh mẽ của Việt Nam.

Tháng 1/2010, Trung Quốc đã quyết định thành lập các cơ quan chính quyền địa phương trên quần đảo Hoàng Sa và phát triển ngành công nghiệp du lịch tại đây, và hành động này đã bị Hà Nội lên án là vi phạm chủ quyền của Việt Nam. Sau đó, Trung Quốc thông qua "Đại kế hoạch xây dựng và phát triển đảo du lịch quốc tế Hải Nam 2010-2020", theo đó quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa sẽ được hợp nhất trong một tổ hợp đa chức năng trên biển, các tuyến đường du lịch biển và trên không tới Hoàng Sa sẽ được xúc tiến xây dựng, và khuyến khích người dân đăng ký sinh sống trên quần đảo này.

Tháng 6/2010, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam (MOFA) đã lên án kế hoạch của Trung Quốc vi phạm chủ quyền của Việt Nam và đi ngược lại tinh thần của DOC. Bà nhắc lại điều khoản 5 của DOC: "Các bên cần kiềm chế các hoạt động có thể làm phức tạp thêm tình hình hoặc leo thang tranh chấp và ảnh hưởng tới hòa bình và ổn định, trong đó có việc ngừng mọi hành động đưa người đến sinh sống tại các quần đảo, bãi đá, bãi cát ngầm, đảo thấp nhỏ và các hình thái địa chất khác vốn không có người sinh sống, và giải quyết các bất đồng một cách mang tính xây dựng".
Ảnh minh họa: Chinanews

Kể từ năm 1999, năm nào Trung Quốc cũng đơn phương tuyên bố cấm đánh bắt trên biển Đông trong hai tháng Sáu và Bảy. Để thực thi yêu sách quyền tài phán của mình trên biển Đông, Trung Quốc đã đưa nhiều tàu ngư chính đến tuần tra các vùng biển đang tranh chấp. Năm 2006 và 2007, có một số báo đưa tin về các sự cố của ngư dân Việt Nam bị bắt giữ hoặc bị thương bởi các tàu tuần tra và tàu chiến Trung Quốc.

Trong năm 2009, các lực lượng của Trung Quốc liên tiếp bắt giữ tàu cá Việt Nam gần quần đảo Hoàng Sa và đòi khoản tiền chuộc 10.000 USD đổi lại việc thả các ngư dân này. Đầu tháng 4/2010, Bắc Kinh thậm chí thông báo cử hai tàu tuần tra lớn đến quần đảo Trường Sa để bảo về các tàu cá Trung Quốc. Đây là lần đầu tiên việc này được tiến hành ngoài thời gian nước này đơn phương ban bố lệnh cấm đánh bắt trên biển.

Thỉnh thoảng Trung Quốc cũng tiến hành tập trận tại các khu vực đang tranh chấp nhằm gửi đi những dấu hiệu răn đe các nước đòi chủ quyền khác trên biển Đông. Mức độ thường xuyên và sự kết hợp các cuộc tập trận của Trung Quốc đã gia tăng đáng kể những năm gần đây.

Đối với việc phát triển năng lượng, Trung Quốc và các nước ASEAN đã tích cực thu hút các công ty quốc tế đến khai thác các nguồn năng lượng tại các vùng biển mình đòi chủ quyền nhằm đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế nhanh chóng trong nước. Thỉnh thoảng, khi các công ty năng lượng quốc tế tiến hành khai thác tại các khu vực của nước này nhưng bị nước khác coi là chủ quyền, đặc biệt trong khu vực đường chữ U của Trung Quốc, thì hoạt động này bị đình trệ vì các phản đối ngoại giao và thậm chí cả sự can thiệp của các tàu quân sự hoặc bán quân sự.

Đầu mùa hè năm 2007, Trung Quốc đã đề nghị một số công ty dầu và khí đốt nước ngoài ngừng khai thác với các đối tác Việt Nam trên biển Đông, bằng không sẽ phải chịu hậu quả trong công việc kinh doanh với Trung Quốc. Tháng 4/2007, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc phản đối việc Việt Nam nhượng quyền và hợp tác với tập đoàn Dầu lửa Anh xây dựng một đường ống dẫn khí đốt gần bờ biển phía Nam Việt Nam, mà Trung Quốc coi là "khu vực biển gần kề" với quần đảo Trường Sa.

Trung Quốc sẵn sàng trở lại đòi hỏi lịch sử rất mập mờ về mặt pháp lý của mình để đòi chủ quyền với hầu hết diện tích biển Đông. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Tần Cương nói: "mọi hành động đơn phương của bất cứ bên nào tại các vùng biển này đều bị coi là sự xâm phạm chủ quyền, quyền lãnh hải và quyền tài phán của Trung Quốc". Việt Nam khẳng định rằng khu vực nằm trong dự án với BP thuộc vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa của Việt Nam. Mọi hoạt động kiểm soát, quản lý đều phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế, đặc biệt là UNCLOS và tinh thần của DOC.

Mùa xuân năm 2007, dưới sức ép của Trung Quốc, BP đã ngừng các hoạt động khai thác tại các mỏ khí đốt Mộc Tinh và Hải Thạch thuộc thềm lục địa của Việt Nam. Năm 2008, báo chí đưa tin tập đoàn năng lượng Mỹ Exxon Mobil cũng bị Trung Quốc đe dọa.

Từ năm 2007-2010, Trung Quốc thường xuyên phản đối các hoạt động khai thác của các công ty năng lượng nước ngoài, trong đó có BP ở khu 117; PGS (của Na Uy) ở khu 122; Chevron (của Mỹ) ở khu 122; Pogo (của Mỹ) ở khu 124; ONGC (của Ấn Độ) ở khu 127; Indemisu (của Nhật Bản) ở khu 04-3; CoconoPhilips (Mỹ) ở khu 133; Pearl Energy (Mỹ) ở khu 06-1; Knoc (Hàn Quốc) ở khu 11-4; và Gazprom (Nga) ở các khu 111 và 113.

Người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Việt Nam khẳng định trong trường hợp của Exxon Mobile, "các khu này hoàn toàn thuộc chủ quyền của Việt Nam và phù hợp với Công ước của LHQ về luật biển" và "Việt Nam sẽ đảm bảo mọi lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư nước ngoài khi hoạt động tại Việt Nam". Việt Nam "hoan nghênh và sẽ tạo điều kiện hợp tác với các đối tác nước ngoài, trong đó có cả các nhà đầu tư Trung Quốc đang hoạt động tại Việt Nam, trên cơ sở tôn trọng đầy đủ chủ quyền của chúng tôi".

Năm 2009, Trung Quốc cũng phản đối việc Philippines khoan dầu ở khu vực Bãi Cỏ rong (Reed Bank), cách Palawan 60 hải lý về phía Tây, nơi có thể chứa 96 triệu mét khối khí và 450 triệu thùng dầu. Malaysia và Brunei cũng tranh chấp về khai thác một mỏ khí đốt tại một khu vực mà các đòi hỏi của hai bên chồng lấn nhau. Nhiều công ty khác nhau được giao cho những khu như nhau: Malaysia trao quyền khai thác cho Murphy Oil, trong khi Brunei trao quyền tương tự cho Royal Dutch Shell và Total.

Về phía Trung Quốc, nước này rất cần nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là năng lượng, để phục vụ nền kinh tế đang tăng trưởng nhanh chóng của mình. Trung Quốc từ năm 1993 đã là nhà nhập khẩu dầu. Theo ông Zhu Jianjun, thuộc Công ty dầu khí quốc gia Trung Quốc (CNPC), nếu như năm 2010, 50% nhu cầu về dầu của nước này phụ thuộc vào nhập khẩu, thì đến năm 2020 con số này sẽ là 60%. Vì vậy, việc đảm bảo một nguồn cung bền vững và đảm bảo an toàn các tuyến đường vận chuyển đóng một vai trò quyết định trong việc duy trì sự phát triển kinh tế bền vững của Trung Quốc.

Biển Đông được một số chuyên gia phân tích của Trung Quốc mô tả là vựa dầu, khí và nhiên liệu hóa thạch khổng lồ. Họ ước tính trữ lượng dầu vào khoảng 23-30 triệu tấn, tương đương 1/3 tổng nguồn tài nguyên dầu khí của Trung Quốc.

Ông Zhang Dawei, thuộc Bộ Tài nguyên Đất, cho rằng biển Đông sẽ trở thành một trong 10 địa điểm khai thác dầu khí chính của Trung Quốc: trữ lượng dầu ước đạt 23-30 triệu tấn hoặc 168-220 triệu thùng. Cũng như với dầu mỏ, ước tính trữ lượng khí tự nhiên ở biển Đông cũng rất lớn. Một ước tính của Trung Quốc cho thấy toàn bộ khu vực này có trữ lượng hơn 50 nghìn tỷ mét khối khí. Một báo cáo khác của Trung Quốc ước tính 225 triệu thùng dầu riêng ở quần đảo Trường Sa.

Tháng 4/2006, Husky Energy cùng với Tập đoàn Dầu khí hải ngoại của Trung Quốc thông báo phát hiện một túi khí tự nhiên gần quần đảo Trường Sa, có trữ lượng khoảng 186 triệu mét khối. Năm 2007, Bắc Kinh đã mời thầu 22 khu mỏ dầu ở biển Đông nằm trong các khu vực cách đảo Hải Nam hơn 1.000 hải lý. Các hoạt động mới đây diễn ra tháng 5/2010, khi Trung Quốc cử tàu thăm dò địa chất M/V Western Spirit đến nghiên cứu địa chất ở vùng biển quanh đảo Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa, trong khu vực chồng lấn với các khu đang khai thác dầu khí 141, 142 và 143 của Việt Nam. Đồng thời, Trung Quốc tiến hành các hoạt động san nền trên đảo Tri Tôn để chuẩn bị cho xây dựng. Ngày 5/8, Chính phủ Việt Nam đã chính thức phản đối và đề nghị lập tức ngừng các hoạt động này.

Trung Quốc xúc tiến các ý tưởng khai thác chung nguồn năng lượng trên biển Đông nhưng lại phản đối các hoạt động khai thác năng lượng của các nước khác trong khu vực hình chữ U (hay còn gọi là đường lưỡi bò) mà Trung Quốc đòi chủ quyền. Về nguyên tắc, các nước đòi chủ quyền khác không phản đối đề xuất khai thác chung của Trung Quốc, song việc xác định các khu vực mà các bên chấp nhận là thực sự đang có tranh chấp vẫn là khó khăn lớn nhất để đưa những ý tưởng này thành hiện thực. Các nước này không chấp nhận đề xuất của Trung Quốc tiến hành khai thác chung tại các khu vực nằm trong yêu sách đường lưỡi bò bao trùm cả những địa điểm cách đảo Hải Nam đến 700 hải lý và nằm trong vùng EEZ rộng 200 hải lý của các nước đòi chủ quyền khác.

Trong trường hợp Thỏa thuận Thăm dò địa chất chung trên biển Đông năm 2005 ký giữa các tập đoàn dầu lửa quốc gia của Trung Quốc, Philippines và Việt Nam, Philippines đã không gia hạn thêm văn bản này vì vấp phải sự phản đối trong nước, lên án chính phủ cho phép khu vực khai thác chung ngay trong vùng đặc quyền kinh tế của nước này.

Hồ sơ đệ trình đăng ký thềm lục địa mở rộng

Căng thẳng về thềm lục địa biển Đông cũng không phải là không có liên quan đến các diễn biến tại biển Đông trong 2-3 năm qua, xung quanh thời hạn 13/5/2009. Một thỏa thuận của các nước ký kết UNCLOS đã ra hạn chót là ngày 13/5/2009 để các nước đăng ký thềm lục địa mở rộng, nằm ngoài giới hạn 200 hải lý theo quy định của Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa (CLCS) của Liên hợp quốc.

Ngày 6/5/2009, Malaysia và Việt Nam đã trình một hồ sơ chung lên CLCS đối với một khu vực đáy biển ở biển Đông nằm ngoài giới hạn 200 hải lý EEZ của mỗi nước. Ngày sau đó, Việt Nam đã trình một hồ sơ khác liên quan đến phần phía Bắc biển Đông. Trung Quốc lập tức gửi công hàm phản đối cả hai bản trình, coi đó là vi phạm chủ quyền của mình và đề nghị Ủy ban của LHQ bác bỏ các hồ sơ này. Sau gần 3 tháng, ngày 4/8/2009, Philippines cũng gửi công hàm phản đối các bản đệ trình lên CLCS của Việt Nam và Malaysia. Hai nước này cũng lập tức phản đối các công hàm của Trung Quốc và Philippines.

Trung Quốc cũng trình lên CLCS một tài liệu sơ bộ liên quan đến biển Hoa Đông, trong đó tuyên bố rằng Trung Quốc bảo lưu quyền đăng ký thềm lục địa ngoài giới hạn 200 hải lý tại "các khu vực biển khác", có thể ý muốn nói đến các khu vực biển Đông.

Philippines cũng đã trình một hồ sơ chưa đầy đủ về các khu vực thềm lục địa nằm ngoài giới hạn 200 hải lý của EEZ ở khu vực Rãnh Benham trên biển Philippines. Tuy nhiên, nước này đã bảo lưu quyền đăng ký thêm đối với "các khu vực khác chưa xác định" trong tương lai. Các diễn biến xung quanh các hồ sơ đệ trình của các nước liên quan đã có một số tác động đến tình hình biển Đông nói chung, và đối với các hoạt động hợp tác nói riêng.

Các hồ sơ trình CLCS của Malaysia và Việt Nam đã làm rõ các ranh giới yêu sách về thềm lục địa của mình tính từ đường cơ sở. Hơn nữa, dường như Việt Nam và Malaysia không coi bất cứ hình thái địa chất nào trong quần đảo Trường Sa (và Hoàng Sa trong trường hợp hồ sơ trình của Việt Nam) là được mang quy chế đảo quy định trong điều 121 của UNCLOS. Nếu bất cứ đảo nào ở biển Đông đều có thể đi kèm với các quyền thềm lục địa và EEZ, thì không có khu vực thềm lục địa mở rộng để đệ trình lên CLCS. Việc Việt Nam không bình luận gì về thỏa thuận giữa Chính phủ Philippines và Energy Forum trong lưu vực Bãi Cỏ rong đã khẳng định lại cách nghĩ trên của Việt Nam.

Nếu sự rõ ràng trong yêu sách của Việt Nam và Malaysia liên quan đến các đảo tranh chấp nói trên được các bên ở biển Đông thông qua, nó sẽ đơn giản hóa đáng kể toàn bộ tranh chấp bằng cách thu hẹp căn bản các yêu sách biển gắn với các đảo đang tranh chấp. Sẽ có thể có hẳn một khu vực ở trung tâm biển Đông được coi là "chiếc bánh thềm lục địa" nằm ngoài giới hạn của thềm lục địa tính từ đảo gần nhất hoặc từ đất liền của các nước xung quanh biển Đông, mở cánh cửa hợp tác khai thác tài nguyên biển.

Cách hiểu đơn giản hóa và hướng tới giải pháp cho tranh chấp của Việt Nam và Malaysia về "quy chế của các hình thái địa chất" thuộc quần đảo Trường Sa như trên được các nước xung quanh biển Đông đồng tình, trừ Trung Quốc. Trong tài liệu phản đối hồ sơ đệ trình của Việt Nam và Malaysia, Trung Quốc khẳng định "chủ quyền không thể tranh cãi của mình đối với các đảo ở biển Đông và các vùng nước tiếp giáp, và quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng nước liên quan cũng như thềm lục địa và tầng đất cái của nó".

Đính kèm với hồ sơ của Trung Quốc là một bản đồ mô tả yêu sách đường lưỡi bò gồm 9 đoạn, bao trùm gần hết diện tích biển Đông. Điều này có nghĩa là Trung Quốc sử dụng một yêu sách thay thế, bên cạnh yêu sách lịch sử của họ, dựa trên một thềm lục địa và EEZ từ các đảo nhỏ của quần đảo Trường Sa mà họ cũng đòi là của mình. Gần đây nhất, trong công hàm gửi Tổng thư ký Liên hợp quốc đáp lại công hàm của Philippines phản đối đường lưỡi bò, Trung Quốc đã lần đầu tiên tuyên bố công khai và chính thức rằng "quần đảo Nam Sa của Trung Quốc có đầy đủ lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa".

Cần phải nói rõ rằng quan điểm của Chính phủ Trung Quốc về "quy chế quần đảo" trên biển Đông đi ngược lại với quan điểm của chính nước này đối với quy chế đảo Oki-no-Tori Shima của Nhật Bản, coi đây là một vỉa đá ngầm nhỏ và biệt lập có nhiều đặc điểm chung với các hình thái địa chất của quần đảo Trường Sa và nằm gần trung tâm khu vực biển Philippines ở Tây Thái Bình Dương. Trong công hàm của Trung Quốc gửi Tổng thư ký LHQ phản đối hồ sơ đệ trình của Nhật Bản về thềm lục địa 200 hải lý tính từ đường cơ sở là đảo Oki-ni-Tori Shima và thềm lục địa mở rộng bên ngoài 200 hải lý, Trung Quốc nói rằng "cái được gọi là đảo Oki-ni-Tori Shima trên thực tế là một bãi đá theo quy định trong điều 121(3) của Công ước".

Về quan điểm của Philippines, trong quá trình chuẩn bị hồ sơ về thềm lục địa mở rộng, Philippines đã thông qua luật Đường cơ sở Quần đảo vào ngày 10/3/2009, trong đó sửa đổi đường cơ sở thẳng hiện hành cho phù hợp với các quy định đường cơ sở quần đảo ghi trong UNCLOS. Theo luật mới, nhóm quần đảo Kalayan và Scarborough Shoal vẫn là một phần của lãnh thổ Philippines nhưng có "quy chế quần đảo".

Tháng 8/2009, trong các công hàm ngoại giao phản đối hồ sơ của Việt Nam và hồ sơ chung của Việt Nam và Malaysia gửi CLCS, Philippines không nhắc đến bất kỳ thềm lục địa nào phát sinh từ quần đảo Kalayan đang tranh chấp, nhưng nói rằng "hồ sơ về thềm lục địa mở rộng của Việt Nam nằm trong các khu vực đang tranh chấp vì nó chồng lấn với các khu vực của Philippines" (thềm lục địa mở rộng bên ngoài 200 hải lý tính từ đường cơ sở quần đảo) và "hồ sơ chung về thềm lục địa mở rộng của Việt Nam và Malaysia nằm trong các khu vực đang tranh chấp không chỉ vì nó chồng lấn lên thềm lục địa mở rộng của Philippines, mà còn vì tranh chấp liên quan đến các đòi hỏi chủ quyền của một số quần đảo trong khu vực, trong đó có Bắc Borneo".

Có thể hiểu rằng điều đó có nghĩa là Philippines không coi bất kỳ hình thái địa chất nào trên quần đảo Trường Sa là đảo theo quy định trong điều 121 của UNCLOS. Như vậy các hình thái địa chất này không thể được hưởng vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.

Liên quan đến quan điểm của Indonesia, trong một văn bản lưu hành tại LHQ ngày 8/7/2010, nhằm phản đối bản đồ yêu sách 9 đoạn đính kèm với hồ sơ của Trung Quốc nói trên, Indonesia cho rằng "những hình thái địa chất rất nhỏ và xa xôi này trên biển Đông không xứng đáng hưởng vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa riêng ", và "cái gọi là bản đồ 9 đoạn đứt... thực sự thiếu cơ sở pháp lý quốc tế và như thể nhằm đảo lộn UNCLOS 1982".

Brunei cũng dường như chia sẻ quan điểm của các nước liên quan trong ASEAN. Trong tài liệu sơ bộ về thềm lục địa mở rộng trình CLCS ngày 12/5/2009, Brunei cho biết đã đạt tiến bộ đáng kể hướng tới việc chuẩn bị một hồ sơ đầy đủ, nhưng chỉ có thể cung cấp hồ sơ này sau ngày 13/5/2009. "Hồ sơ đầy đủ của Brunei gửi ủy ban sẽ chứng tỏ rằng mép ngoài của thềm lục địa, nằm ở vùng chuyển giao giữa Dangerous Grounds và lòng biển sâu ở biển Đông, thuộc khu vực 200 hải lý tính từ đường cơ sở được dùng để tính lãnh hải của Brunei. Điều này có thể được hiểu là Brunei sẽ xác định thềm lục địa mở rộng bên ngoài 200 hải lý mà không tính đến các đảo mà họ đang đòi chủ quyền thuộc quần đảo Trường Sa.

Còn tiếp...

* Châu Giang dịch từ CSIS

© TUANVIETNAM.NET

Thực thi tuyên bố DOC: Trung Quốc trở lại chủ nghĩa song phương -

Thực thi tuyên bố DOC: Trung Quốc trở lại chủ nghĩa song phương

Tác giả: Trần Trường Thủy
18/07/2011

Tuần Việt Nam xin giới thiệu bài viết có tựa đề Diễn biến mới trên biển Đông và tác động đối với an ninh khu vực của Tiến sĩ Trần Trường Thủy, Giám Đốc Trung Tâm Nghiên cứu các vấn đề Biển Đông, thuộc Học Viện Ngoại Giao Việt Nam (DAV), trong đó phân tích các nỗ lực của các nước trong khu vực nhằm ổn định tình hình và thúc đẩy hợp tác trên biển Đông; các tác động của những diễn biến gần đây trên biển Đông đối với an ninh và hợp tác trong khu vực, tại sao việc thực thi các tài liệu đã ký, đặc biệt là DOC, chưa được đầy đủ; và cuối cùng đưa ra một số gợi ý định hướng giải pháp nhằm thúc đẩy an ninh và hợp tác khu vực.

Tầm quan trọng của biển Đông đã được thừa nhận rộng rãi đối với ngành hàng hải quốc tế, an toàn biển, khai thác nguồn tài nguyên, bảo vệ môi trường, và hiệu lực pháp lý của luật pháp quốc tế. Các tranh chấp trên biển Đông liên quan đến quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa và các vùng nước xung quanh các quần đảo này vẫn là một trong những điểm nóng tiềm ẩn, có thể gây bất ổn khu vực.

Từ những năm 90 của thế kỉ trước, các nước trong khu vực đã nỗ lực ổn định tình hình và tìm kiếm cơ hội hợp tác trong khu vực biển Đông. Một trong các kết quả đạt được là Tuyên bố của ASEAN về biển Đông năm 1992, Tuyên bố ASEAN - Trung Quốc năm 2002 về Ứng xử của các bên trên biển Đông (DOC), theo đó tất cả các bên tham gia đều cam kết tìm các giải pháp hòa bình cho các tranh chấp và tiến hành hợp tác trên biển nhằm duy trì ổn định khu vực tại biển Đông. Tuy nhiên, sau khi ký DOC, các bên đã không ngừng các hoạt động làm phức tạp thêm tình hình. Đôi khi nảy sinh căng thẳng và các bên liên quan tiếp tục phản đối các động thái của bên kia trên biển Đông.

Môi trường an ninh biển Đông và các nỗ lực giải quyết tranh chấp

Trước khi ký kết DOC giữa Trung Quốc và ASEAN năm 2002, thì Hiệp ước Thân thiện và đối tác ở Đông Nam Á (TAC) và Hiệp định về khu vực Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân (được ký lần lượt trong các năm 1976 và 1995) là những văn kiện pháp lý điều chỉnh các hành vi của các bên liên quan trên biển Đông. Các nguyên tắc cơ bản hướng dẫn các bên tham gia ký kết trong TAC bao gồm giải quyết bất đồng bằng các biện pháp hòa bình, không dùng vũ lực hay sử dụng vũ lực và thúc đẩy hợp tác hiệu quả giữa các bên liên quan.

Trước tiên, các thành viên ASEAN đã thông qua quan điểm chung về tranh chấp trên biển Đông trong Tuyên bố của ASEAN về biển Đông, ký tại Manila năm 1992. Tuyên bố này thể hiện các mối lo ngại của ASEAN về căng thẳng giữa Việt Nam và Trung Quốc sau khi tập đoàn năng lượng Creston của Mỹ được phép khai thác dầu ở Bãi Tứ Chính (Vanguard Bank) thuộc thềm lục địa của Việt Nam, và việc Trung Quốc thông qua "Luật Lãnh hải và vùng tiếp giáp" ngày 25/2/1992 tuyên bố chủ quyền hoàn toàn của Trung Quốc đối với quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa). Các Ngoại trưởng ASEAN đã thừa nhận rằng "vấn đề biển Đông gồm những câu hỏi nhạy cảm về chủ quyền và quyền tài phán của các bên liên quan trực tiếp" và thực tế là "bất cứ diễn biến thù địch nào trên biển Đông cũng ảnh hưởng trực tiếp tới hòa bình và ổn định trong khu vực".

Tuyên bố kêu gọi các bên liên quan giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, thể hiện sự kiềm chế và hợp tác trong việc thực thi các nguyên tắc ghi trong TAC, coi đây là căn cứ để xây dựng một bộ quy tắc về ứng xử quốc tế tại biển Đông. Tuyên bố kêu gọi khai thác khả năng hợp tác tại biển Đông. Bên cạnh đó, tất cả các bên liên quan được mời tham gia Tuyên bố Manila. Việt Nam, khi đó chưa phải là thành viên ASEAN, đã ủng hộ tuyên bố này. Tuy nhiên Trung Quốc nhắc lại quan điểm của mình là phản đối việc thảo luận đa phương vấn đề này và khẳng định quan điểm của họ là quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa không liên quan đến ASEAN. Mặc dù vậy, Ngoại trưởng Trung Quốc khi đó Tiền Kỳ Tham nói rằng Trung Quốc ủng hộ các "nguyên tắc" của tuyên bố này.
Ảnh minh họa FP

Biến cố Mischief Reef (Đá Vành khăn) năm 1995 giữa Trung Quốc và Philippines đã tạo ra một thay đổi trong chính sách của Trung Quốc với biển Đông. Trung Quốc xây dựng cơ sở hạ tầng trên một bãi đá nổi nằm trong quần đảo Trường Sa và thuộc vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Philippines đã dẫn tới sự đối đầu thù địch lần đầu tiên giữa Trung Quốc và Philippines. Trước đó, Trung Quốc chỉ gây hấn với Việt nam, khi chưa phải là thành viên ASEAN, trong những năm 1974 và 1988. Sau biến cố Đá Vành khăn, ASEAN đã đưa ra các sáng kiến có thể ngăn chặn các tranh chấp hiện nay leo thang thành xung đột.

Tuyên bố về ứng xử của các bên trên biển Đông

Ý tưởng về một Bộ quy tắc ứng xử (COC) cho khu vực đã được đưa ra trong Tuyên bố ASEAN năm 1992 và được thảo luận sâu hơn trong hàng loạt buổi làm việc được Indonesia tổ chức nhằm giải quyết các xung đột tiềm ẩn trên biển Đông từ năm 1991. Ý tưởng COC đã chính thức nhận được sự ủng hộ tại Hội nghị Bộ trưởng ASEAN lần thứ 29 (tại Jakarta, ngày 21-27/7/1996) với hy vọng văn bản này có thể tạo nền tảng cho hợp tác lâu dài trong khu vực và thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau giữa các nước liên quan. Các Ngoại trưởng ASEAN đã bày tỏ lo ngại về tình hình biển Đông trong tuyên bố chung và nhấn mạnh rằng các bên liên quan nên áp dụng các nguyên tắc của TAC, coi đây là cơ sở cho một bộ quy tắc ứng xử khu vực tại biển Đông để xây dựng một môi trường khu vực an ninh và ổn định.

Dù một COC có ràng buộc pháp lý được coi là mục đích ban đầu, nhưng sau gần 5 năm thương lượng, ASEAN và Trung Quốc chỉ đạt được một thỏa thuận mang tính chính trị. Ngày 4/10/2002 tại Phnom-Penh, ASEAN và Trung Quốc ký Tuyên bố DOC. Đây được coi là một bước hướng tới việc thông qua một COC mang tính ràng buộc hơn, trong đó xác định các quyền và nghĩa vụ của ccs bên liên quan nhằm thúc đẩy hòa bình, ổn định và phát triển trong khu vực.

Việc Trung Quốc tham gia DOC đánh dấu một thay đổi lớn trong cách tiếp cận của nước này đối với tranh chấp biển Đông, từ song phương sang "bán đa phương". Trước kia, Trung Quốc chỉ ủng hộ các cuộc đàm phán song phương nhằm giành lợi thế về vị trí của một cường quốc khu vực và tránh mọi mặt trận ASEAN thống nhất chống lại các lợi ích của mình.

Dù Trung Quốc đã vẫn quả quyết duy trì các yêu sách của mình trong các khu vực tranh chấp, nhưng dường như họ chuẩn bị để gia nhập các cơ chế đa phương và tôn trọng các quy tắc và giá trị của trò chơi. Bằng việc chấp nhận các cuộc đàm phán đa phương với ASEAN về COC và DOC, Trung Quốc tìm cách khai thác sự chia rẽ giữa các nước thành viên ASEAN. Hơn nữa, với DOC, Trung Quốc có thể thắng về chính trị và kinh tế và xoa dịu lo ngại của ASEAN về Trung Quốc. Đáp lại thuyết "mối đe dọa Trung Quốc" Trung Quốc đã ủng hộ học thuyết "sự nổi lên hòa bình" và các chính sách "phát triển hòa bình" như định hướng phát triển quốc gia để làm an lòng các nước láng giềng.

Đông Nam Á là một trọng tâm của chính sách thân thiện của Trung Quốc. việc ký kết DOC một phần giúp Trung Quốc giành được niềm tin và sự tín nhiệm của các thành viên ASEAN, đặt nền móng cho sự phát triển kinh tế và quan hệ thương mại. Hơn nữa, DOC, một tài liệu mang tính chính trị và không bị ràng buộc pháp lý, không ảnh hưởng chút nào đến các yêu sách của Trung Quốc, và vì vậy sẽ không gây ra phản ứng tiêu cực trong nước.

Tình hình an ninh khu vực sau sự kiện 11/9/2001 cũng góp phần dẫn tới việc ký kết DOC năm 2002. Sau sự kiện trên, Mỹ tuyên bố Đông Nam Á là mặt trận thứ hai của cuộc chiến chống khủng bố, việc này đã đánh thức mối lo ngại của Trung Quốc đối với vị trí địa chính trị của Mỹ trong khu vực. Các quan hệ giữa Mỹ với Philippines, Malaysia và Việt Nam đã được cải thiện và tăng cường. Ba nước này đều là thành viên ASEAN và liên quan trực tiếp đến tranh chấp biển Đông với Trung Quốc. Các thành viên khác trong ASEAN như Thái Lan, Singapore và cả Indonesia, quốc gia Hồi giáo lớn nhất thế giới, đều đã ủng hộ cuộc chiến chống khủng bố của Mỹ.

Tháng 8/2002, Tuyên bố chung Mỹ - ASEAN về Hợp tác chống chủ nghĩa khủng bố quốc tế đã được ký kết. Hợp tác tăng cường giữa Mỹ với các đồng minh ở Đông Nam Á đã gây ảnh hưởng đến các tính toán chiến lược của Trung Quốc. Dù Trung Quốc ủng hộ Mỹ trong cuộc chiến chống khủng bố, nhưng Bắc Kinh cũng lo ngại rằng sự hiện diện quân sự ngày càng lớn của Mỹ tại khu vực có thể dẫn tới cam kết của Mỹ trong vấn đề biển Đông. Kết quả là Trung Quốc lo ngại rằng vấn đề biển Đông sẽ bị đa phương hóa và quốc tế hóa.

Theo Leszek Buszynski, lý do chính khiến Trung Quốc tham gia DOC là nước này nhận ră tầm quan trọng của bộ quy tắc ứng xử khu vực trong việc khuyến khích các nước thành viên ASEAN giảm quan hệ chính trị và quân sự với Mỹ, từ đó tránh sự can thiệp của Mỹ vào tranh chấp biển Đông cũng như tránh tạo lợi thế của Mỹ trong vấn đề Đài Loan.

Tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc được ASEAN xem là một cơ hội cho các nước thành viên của mình. Ngày 5/11/2002, tại Phnom Penh, Thỏa thuận khung Trung Quốc - ASEAN về Hợp tác kinh tế toàn diện đã được ký kết, mở đường cho một Khu vực Thương mại Tự do Trung Quốc - ASEAN năm 2010. Đây là một bước tiến quan trọng trong quan hệ Trung Quốc - ASEAN. Lợi ích mà buôn bán hai chiều mang lại đã góp phần ký kết DOC. Về điểm này, Amitav Acharya viết "từ một góc độ chính trị, việc hiện thực hóa một thỏa thuận khu vực tự do Trung Quốc - ASEAN cho thấy các gian lận trong lịch sử và xung đột chính trị giữa các thành viên ASEAN và Trung Quốc sẽ không còn là nhân tố lớn nhất ảnh hưởng tới quan hệ Trung Quốc - ASEAN nữa".

Tại Hội nghị cấp cao Trung Quốc - ASEAN ngày 8/10/2003 ở Bali (Indonesia), hai bên đã ký Tuyên bố chung của các nguyên thủ quốc gia về Đối tác chiến lược vì hòa bình và thịnh vượng với mục đích thúc đẩy quan hệ bằng hữu, hợp tác đôi bên cùng có lợi, và quan hệ láng giềng tốt giữa ASEAN và Trung Quốc bằng việc mở rộng và làm sâu sắc thêm quan hệ hợp tác Trung Quốc - ASEAN một cách toàn diện trong thế kỷ 21. Cùng ngày, Trung Quốc chính thức trở thành nước ngoài ASEAN tham gia TAC, nhờ vậy khuyến khích Trung Quốc cam kết giải quyết tranh chấp một cách hòa bình và tránh đe dọa hoặc sự dụng vũ lực.

Các nước ASEAN đánh giá cao các diễn biến này, góp phần chính cho hòa bình, an ninh và ổn định khu vực. Năm 2005, Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào đã thăm Indonesia, Brunei, và Philippines nhằm thúc đẩy tình bằng hữu và hợp tác, và xoa dịu những lo ngại về các ý định của Trung Quốc. Tất cả các diễn biến này, cộng với các hoạt động khác trong chính sách "thế công mê hoặc" của Trung Quốc đối với Đông Nam Á, trong đó có đề nghị thiết lập Khu vực Thương mại Tự do Trung Quốc - ASEAN (CAFTA) năm 2001, đã giúp giảm bớt suy nghĩ của khu vực coi Trung Quốc là một mối đe dọa.

Thực thi tuyên bố DOC: Trung Quốc trở lại chủ nghĩa song phương

Để đưa các điều khoản của DOC vào các hoạt động hợp tác cụ thể, trong Kế hoạch Hành động thực thi Tuyên bố chung 2003 về Đối tác chiến lược vì hòa bình và thịnh vượng, vốn được đưa ra nhằm phục vụ kế hoạch lớn hơn là mở rộng và làm sâu sắc thêm quan hệ và hợp tác ASEAN-Trung Quốc, hai bên đã tuyên bố theo đuổi các hành động và biện pháp chung để thực thi DOC "một cách hiệu quả". Các hành động và biện pháp đó bao gồm: tổ chức định kỳ Hội nghị cấp cao (SOM) Trung Quốc - ASEAN về việc thực thi DOC; cung cấp các chỉ dẫn và đánh giá việc thực thi DOC; và thành lập một nhóm làm việc để soạn thảo các hướng dẫn của hai bên về thực thi DOC và cung cấp các khuyến cáo cho SOM Trung Quốc - ASEAN về các vấn đề chính sách và thực thi.

Tại hội nghị SOM Trung Quốc - ASEAN về thực thi DOC lần đầu tiên ở Kuala Lumpur ngày 7/9/2004, các bên liên quan đã quyết định thành lập một nhóm làm việc chung (JWG) để nghiên cứu và khuyến cáo các hoạt động nhằm xây dựng lòng tin. JWG Trung Quốc - ASEAN có nhiệm vụ hình thành các khuyến cáo về: a) các hướng dẫn và kế hoạch hành động để thực thi DOC; b) các hoạt động hợp tác rõ ràng tại biển Đông; c) một danh sách chuyên gia giỏi có thể cung cấp các dữ liệu kỹ thuật, quan điểm chuyên môn hoặc khuyến cáo chính sách cho JWG Trung Quốc - ASEAN; và d) việc triệu tập các hội thảo khi cần thiết.

Tại hội nghị đầu tiên của JWG Trung Quốc - ASEAN ở Manila ngày 4-5/8/2005, ASEAN đã đề xuất một dự thảo Hướng dẫn thực thi DOC để thảo luận. Tuy nhiên, vấn đề chính là điểm 2 của dự thảo này. ASEAN muốn ứng xử với Trung Quốc trong vai trò một nhóm và "tự tham vấn nội bộ" trước khi gặp Trung Quốc, trong khi Trung Quốc muốn tiến hành các cuộc tham vấn với "các bên liên quan", không phải với cả khối ASEAN. Sau một số cuộc họp của JWG Trung Quốc - ASEAN, vẫn không đạt được đồng thuận về điểm 2 của hướng dẫn này, và 6 dự án hợp tác chung trong các lĩnh vực ít nhạy cảm hơn vì vậy cũng vẫn chỉ nằm trên giấy.

Còn tiếp....

* Châu Giang dịch từ CSIS