4/5/13

Chữ




Song Thao

Chữ là thứ những người viết chúng tôi vầy vò hàng ngày. Nhà văn Hồ Đình Nghiêm dùng chữ "vọc". Viết văn, làm thơ là công việc "vọc chữ"! Nghe ra như trò chơi của con trẻ. Ngẫm ra thì đúng là một trò chơi. Ngẫm vào thì trò chơi này quả là mệt. Những con chữ như những con lươn. Chúng trườn, lách, quẫy, lủi bằng cái thân hình nhơn nhớt trơn tuột. Nắm được chúng mệt bở hơi tai. Chắc vì vậy nên chẳng có mấy nhà văn nhà thơ có được một bộ vó đầy đặn!

Nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc còn làm tới hơn. Ông mổ những con chữ để vạch bụng chúng ra xem trong bụng chúng có những gì mà rắc rối như vậy. Chẳng hạn như một chữ thông thường chúng ta gặp hàng ngày là chữ "vợ chồng". Chúng ta nói và nghe, người nói và người nghe ai cũng hiểu vợ chồng là cái chi chi. Như vậy chữ "vợ chồng" đã làm tròn nhiệm vụ của nó là biểu thị một ý niệm mà khi nói lên ai cũng hiểu. Dễ tính như chúng ta thì như vậy là đóng hồ sơ! Chẳng có gì phải bàn. Nhưng rắc rối như ông Nguyễn Hưng Quốc thì phải dò cho tới ngọn nguồn rạch sông. Do đâu mà việc hai người kết hợp với nhau trong hôn nhân lại được chỉ thị là "vợ" và "chồng". Theo Giáo sư Nguyễn Văn Trung thì "chồng" là chồng lên trên. Còn "chữ vợ phải chăng là vơ, vớ, đọc trại đi, theo giọng nặng; nếu thế, chữ vợ chỉ thị việc quơ lấy quàng lên, vơ vào, phù hợp với việc chồng lên trong hành động luyến ái?" Nghe ra cũng có lý. Nhưng ông Quốc vẫn còn ngờ vực. Ông đi tìm thêm. Ông đọc cuốn "Phương Ngữ Bình Trị Thiên" của Võ Xuân Trang mới biết là ở Bình Trị Thiên người ta thường nói trại âm "v" ra âm "b". Thí dụ như "vú" biến thành "bụ", "vá" áo biến thành "bá" áo, "vả" vào miệng biến thành "bả" vào miệng. Như vậy có sự hoán chuyển trong âm "v" và "b". Sự hoán chuyển này xảy ra rất thường trong những từ Hán Việt như "bái" chữ Hán sang "vái" chữ Việt, chữ "bích" sang "vách", chữ "bút" sang "viết" chẳng hạn. Ông Quốc lại đọc trong cuốn "Giáo Trình Lịch Sử Ngữ Âm Tiếng Việt" của Nguyễn Tài Cẩn để biết là sự hoán chuyễn "b / v" kéo dài khá lâu cho tới tận bây giờ vẫn còn có những từ tồn tại song song với nhau như "băm" và "vằm" thịt, "be" và "ve" rượu, "bíu" và "víu", "béo" và "véo" (đùi non?)! Và ông Nguyễn Hưng Quốc kết lại: " ‘Vợ chồng’ như thế thực chất là "bợ chồng". "Bợ": từ dưới nâng lên; "chồng": từ trên úp xuống. Danh từ "bợ chồng" diễn tả tư thế thân mật giữa hai người nam nữ khi ăn ở với nhau. Cách gọi tên khá thật thà như thế kể cũng thú vị đấy chứ?". Thú vị quá đi chứ. Tôi khoái chữ "bợ" này. Nó chỉ thị sự hưởng ứng tích cực của người…bợ!

Ông Nguyễn Hưng Quốc còn viết nhiều bài rất thú vị trên blog của ông nằm trong website của đài VOA để chẻ chữ ra. Như bụng, cọp và chó. Nhưng nếu cứ mải miết đi theo ông Giáo sư tài hoa này thì đến tết Congo cũng chưa hết chuyện. Nhưng bỏ thì tiếc nên theo ông một bước nữa thôi, bước…đút vào, rút ra! Chúng ta theo ông: "Mới đây, đọc báo, không hiểu tại sao, tình cờ tôi lại chú ý đến chữ "đút" trong một câu văn không có gì đặc biệt: "Chị ấy đút vội lá thư vào túi quần..." Từ chữ "đút" ấy, tôi chợt liên tưởng đến chữ "rút": cả hai từ làm thành một cặp phản nghĩa: đút (vào) / rút (ra).Ðiều làm tôi ngạc nhiên là cả hai từ đều có phần vần giống nhau: "-ÚT". Chúng chỉ khác nhau ở phụ âm đầu mà thôi: một chữ bắt đầu bằng phụ âm "đ-" (đút) và một chữ bằng phụ âm "r- " (rút). Hơn nữa, cả từ "đút" lẫn từ "rút", tuy phản nghĩa, nhưng lại có một điểm giống nhau: cả hai đều ám chỉ sự di chuyển từ không gian này sang không gian khác. "Ðút" cái gì vào túi hay "rút" cái gì từ túi ra cũng đều là sự chuyển động từ không gian trong túi đến không gian ngoài túi hoặc ngược lại. Tôi nghĩ ngay đến những động từ có vần "-ÚT" khác trong tiếng Việt và thấy có khá nhiều từ cũng có nghĩa tương tự. "Hút" là động tác đưa nước hoặc không khí vào miệng. "Mút" cũng là động tác đưa cái gì vào miệng, nhưng khác "hút" ở chỗ vật thể được "mút" thường là cái gì đặc. "Trút" là đổ cái gì xuống. "Vút" là bay từ dưới lên trên. "Cút" là đi từ nơi này đến nơi khác do bị xua đuổi. "Nút" hay "gút" là cái gì chặn lại, phân làm hai không gian khác nhau. "Sút" là tuột, là suy, là giảm so với một điểm chuẩn nào đó.Thay dấu sắc (ÚT) bằng dấu nặng (ỤT), ý nghĩa chung ở trên vẫn không thay đổi. "Trụt" hay "tụt" là di chuyển từ trên xuống dưới. "Vụt" là di chuyển thật nhanh, thường là theo chiều ngang. "Lụt" là nước dâng lên quá một giới hạn không gian nào đó. "Cụt" là bị cắt ngang, không cho phát triển trong không gian. "Ðụt" (mưa) là núp ở một không gian nào đó, nhỏ hơn, để tránh mưa ngoài trời".

Đút và rút, chúng ta làm rất thường và rất…vô tư! Nay vừa làm vừa phân tích coi bộ lấn cấn dữ. Nhưng phải công nhận là ông Nguyễn Hưng Quốc có cái nhìn rất tinh tế đánh thức chữ nghĩa dậy. Nhưng cũng rắc rối hơn! Chơi với chữ hàng ngày như chúng tôi tưởng nhẹ nhàng nay có phần vất vả. Ông Quốc bồi thêm: "Nếu chịu khó quan sát, chúng ta sẽ phát hiện trong những chữ quen thuộc chúng ta thường sử dụng hàng ngày ẩn giấu những quy luật bí ẩn lạ lùng. Tính chất bí ẩn ấy có thể nói là vô cùng vô tận, dẫu tìm kiếm cả đời cũng không hết được. Điều này khiến cho không ai có thể an tâm là mình am tường tiếng Việt. Ngay cả những nhà văn hay nhà thơ thuộc loại lừng lẫy nhất vẫn luôn luôn có cảm tưởng ngôn ngữ là một cái gì lạ lùng vô hạn".

Nhà văn hài hước nổi tiếng người Đức Moritj Saphir là người nắm đầu được con chữ. Chữ đối với ông chắc chẳng có gì lạ lùng. Ông dùng chúng một cách…đanh đá. Một lần kia ông cãi vã với một nhà thơ vốn không thích chi ông. Ông nhà thơ trịnh trọng nói: "Thưa ngài Saphir, ngài viết chỉ vì tiền, còn tôi viết vì danh dự." Nhà văn Saphir đớp lại liền: " Vâng, mỗi chúng ta viết chính vì cái mà chúng ta thiếu!"

Chữ từ miệng nhà văn mang tính gây hấn nhưng chính những con chữ không gây hấn như vậy. Chữ cũng như cục bột mặc bàn tay con người nhào nặn. Hiền lành hay dữ dằn đều do tay con người. Khổ một cái là con người có chữ hay không có chữ đều muốn…vọc chữ. Chữ viết cũng như chữ nói. Một sư ông tu trên núi, mỗi tháng một lần, sư cưỡi con ngựa cái xuống chợ mua thực phẩm. Trên núi cao ít cỏ nên con ngựa gầy nhom, xương khu lồi ra làm lộ hẳn bộ phận giống cái của con ngựa. Sư ông ngồi trên ngựa, vừa tới làng mạc thì bị dân làng bỉ thử: "Coi kìa, ông lão cưỡi con ngựa cái ốm nhom giơ cả khu ra!". Là người tu hành nhưng sư ông vẫn tức khí. Khi tới chợ ông ghé vào tiệm bán giấy viết mua một xấp giấy súc, ghé hàng bún mua một gói bún. Ông trở ra, trét bún vào khu ngựa rồi vỗ giấy dán kín lên. Dân làng thấy lạ, bu lại coi, có người hỏi xách mé: "Này lão hòa thượng, ông làm cái quái chi vậy?" Ông sư chẳng buồn ngước mắt lên, nhỏ nhẹ trả lời: "Có gì lạ đâu mà hỏi. Tôi chỉ che miệng thế gian ấy mà!"

Chữ nghĩa như vậy kể là sắc. Chữ nghĩa của ông bố vợ dưới đây thật đáng…đấm. Mùng một tết, anh con rể, vốn làm trong hãng rượu, mang chai rượu quý tới biếu bố vợ. Anh cung kính nói: "Thưa ba, con mang chai rượu quý nhất trong hãng tới chúc tuổi ba để ba dùng trong những ngày xuân". Ông bố vợ nhìn chai rượu, cắc cớ hỏi lại: " Thế sau những ngày xuân thì tôi không được dùng rượu nữa à?" Không hiểu do đâu mà có câu "bố vợ phải đấm" chứ ông bố vợ này xứng đáng với món quà thượng cẳng tay là cái chắc!

Chữ có bên tối bên sáng. Bên sáng thì nói sao hiểu vậy, bên tối thì nói thẳng nhưng hiểu thì quanh co. Cái "miệng thế gian" của nhà sư xuống núi là một thứ chữ thuộc bên tối. Nói vậy mà không phải vậy. Chữ nghĩa như vậy là thứ lăng ba vi bộ. Nói bên này hiểu bên kia. Bến phà Cần Thơ nay đã bị khai tử khi chiếc cầu mới được khánh thành. Ngày còn phà, những cô bé bán hàng rong chạy đôn chạy đáo, vừa chạy vừa rao hàng. Cô bé bán ví bóp kháu khỉnh ngây thơ rao vang: "Bóp đi, bóp đi! Bóp trên 5 ngàn, bóp dưới 7 ngàn, bóp bên trái bóp bên phải cùng giá! Bóp da 7 ngàn, bóp lông 13 ngàn, bóp ngoài 3 ngàn, bóp trong 8 ngàn! Bóp đi, bóp đi! Mại dzô, mại dzô! Bóp em rẻ nhất rồi! Bóp đi, bóp đi". Chữ nghĩa của em bé nhẩy cẫng, tiếng rao là danh từ nhưng mọi người cười tủm tỉm. Trong đầu chữ đã hoán chuyển từ danh từ ra động từ. Bóp đi, bóp đi!

Viết là trải chữ trên giấy. Chữ nọ tiếp nối chữ kia. Nếu cứ trải liền tù tì thì chữ sẽ rối mù lên. Bởi vậy nên, trong cách viết, ngoài những con chữ còn có những thứ mà ta gọi là dấu để phân biệt ra câu ra đoạn. Thiếu chúng là chữ trở nên loạng quạng, nghĩa chữ sẽ vặn vẹo ra một hướng khác. Trong một nhà hàng ăn lớn và đắt khách, chủ nhân phải phân công cho các người làm bếp và phụ bếp rõ ràng hầu cho công việc chạy nhanh. Bản phân công trong bếp được viết rất chi tiết. Chỉ thiếu dấu. Người ta đọc được như sau: "Cô Lan cắt tiết anh Hùng nhổ lông cô Ngọc luộc trứng anh Sơn mổ bụng cô Đào lột da anh Hải rửa chim cô Lài bóp mềm cô Thắm bằm nhừ cô Tuyết xào giòn".

Ông chủ nhà hàng chữ nghĩa như vậy thì ông chủ garage sửa xe cũng chữ nghĩa không kém. Lại còn hơn đứt ở chỗ có dấu phân chia câu cú đàng hoàng. Ông chủ nhận xe của khách quen rồi ghi công việc phải làm trên bảng để công nhân cứ theo đó mà sửa. Nhìn lên tấm bảng, thấy như sau: " Thêm nhớt cho cô Liên. Hai lít / Bugi ông Hoàng yếu. Cạo / Bác Anh yếu điện. Sạc / Bà Thắm tuột dây ăm-bray-da. Thay / Rửa cô Hà".

Nếu đọc những hàng chữ trên mà bạn cười thì rõ ràng bạn đã không hiểu chữ nghĩa theo bên phải mà bẻ quẹo qua bên trái. Lỗi không tại chữ mà tại cái đầu bạn. Nhưng nếu cái đầu bạn cứ theo sát bên phải thì chán chết. Bạn biết đọc nhưng không thấu hết cái tinh quái của chữ.

Chữ là một thứ tinh quái. Có chữ…chính qui cũng như có chữ đi bên lề. Đó là trường hợp những chữ lóng. Chữ lóng là thứ chữ bạn bè với không gian và thời gian chúng được sản sinh. Thời nào có chữ đó. Như chữ "cảnh sát". Thời tây thuộc địa, cảnh sát luôn có cái dùi cui cài bên lưng, tiếng Pháp kêu là cái matraque. Cảnh sát dính liền với cái matraque nên ông cảnh sát biến thành "mã tà". Thời trước 75, sinh viên biểu tình liên miên khiến cảnh sát phải ra tay dẹp. Hình ảnh người cảnh sát đi đôi với sự hung hăng. Không khá! Bèn có sự…tâm lý chiến. Thành phố Sài Gòn bỗng nở rộ những tấm bích chương: "Cảnh sát là bạn dân". Anh bạn này khó thân quá nên tương kế tựu kế, để chỉ một ông mã tà, người ta mai mỉa dùng chữ "bạn dân"! Tới thời sau 75 thì mấy ông bạn dân này mất điểm nặng. Chuyên chặn xe đòi hối lộ, nhũng nhiễu dân và nhất là đuổi hàng rong. Cảnh sát thời này mặc quần áo vàng nên các anh chị em lao động bán hàng rong đã gọi mấy ông "bạn dân" này là "bò vàng". Nghe mà nhớ lại câu hát: một đàn bò vào thành phố!

Cuộc đổi đời tháng tư 75 kéo theo một loạt những chữ thấm thía. Để chỉ hành động của các cán bộ ngoài Bắc vào nhận họ hàng với những người trong Nam rồi xin đồ mang về, người ta có cụm từ: "người Nam nhận họ người Bắc nhận hàng". Chữ "họ hàng" được cắt ra một cách thâm thúy.

Có những từ mới do người Bắc mang vào. Người ta hay nhắc tới chữ KAMA do nhà văn Nguyễn Tuân mang vào Nam. KAMA không phài là tiếng ngoại quốc mà là chữ được ghép từ bốn chữ đầu của câu "không ai mời ai". Nghĩa là rủ đi ăn nhưng tiền ai nấy trả, hồn ai nấy giữ, cái mà dân chơi ngày xưa gọi là chơi theo lối Mỹ.

Dân Việt trong nước ngày nay rất sính nói tiếng Mỹ, thứ tiếng Mỹ rất sáng tạo. Có một chữ lóng trong nước tôi nghe được rất thường trong những lần về Việt Nam: chảnh! Lúc đầu nghe chẳng hiểu chi cả, được giải thích mới biết đó là chữ lóng có nghĩa là "kênh kiệu". Con nhỏ đó chảnh lắm! Với phong trào sính tiếng Mỹ cộng thêm với một chút óc…đố vui để học, chữ "chảnh" được Anh hóa thành "lemon question". Bạn có nhận ra chữ chảnh không? Đó là "chanh hỏi" thành ra chảnh!

Chữ nghĩa lang bang như vậy thật hết ý! Nhớ những ngảy mới ở tù gọi là cải tạo về, tôi cũng lang bang trong thành phố cũ của mình, không việc làm, không tiền bạc, không tương lai nhưng cái dạ dày của cả nhà vẫn đòi hỏi được lấp đầy mỗi ngày. Để lấy ngắn nuôi dài, chúng tôi chỉ còn có một việc làm: chà đồ nhôm! Đồ nhôm đâu mà chà. Đó là tiếng lóng của chữ "chôm đồ nhà". Gọi là chôm cho thêm phần bi thảm chứ thực ra mỗi ngày nhìn khắp quanh nhà xem có thứ gì bán được để mua…bo bo thì mang ra chợ trời phát mãi!

Chà đồ nhôm, chôm đồ nhà, thứ tiếng lóng này thực ra là tiếng nói lái. Hình thức chữ nghĩa vặn vẹo này đã có từ lâu. Chuyện nói lái nổi đình nổi đám nhất là chuyện bức hoành phi tặng Thủ Tướng Nguyễn Văn Tâm hồi tây lận. Chắc nhiều bạn đã biết chuyện này nhưng cứ kể lại cho chắc ăn. Nhân một ngày mừng chi đó của Thủ Tướng Tâm, một cụ đồ tặng Thủ Tướng một bức hoành phi trên đó có ghi bốn chữ Hán: Đại Điểm Quần Thần. Ông Thủ Tướng dân tây thích lắm, mang treo ở phòng khách. Sau có một vị thâm nho diễn nôm một cách vòng vo nhưng rất thâm thúy ý đồ của nhà nho tác giả bốn chữ hoành phi này. Dịch ra từng chữ: Đại là "to", Điểm là "chấm", Quần là "bầy", Thần là "tôi". "Chấm to" nói lái thành "chó Tâm", "bầy tôi" lái thành "bồi tây". Bức hoành phi là một câu mát mẻ: Chó Tâm bồi tây!

Đèo Ngang là cái đèo nằm ngang phè phè được Bà Huyện Thanh Quan bê vào văn học đâm ra nổi tiếng. Một anh cán bộ vượt đèo trên đường từ Bắc vào Nam chẳng thấy tiều cũng chẳng thấy rợ chi mà chỉ thấy vất vả. Bèn vặc: "Nước ta có cái đèo nằm ngang này nên làm ăn không khấm khá được! Đèo chó gì lại tên là Đèo Ngang! Vậy thì cả nước Đang Nghèo là phải. Chúng ta cần kiến nghị trên đổi tên coi có khấm khá hơn không?". Mọi người bàn cãi om sòm, một anh đề nghị: "Ta đổi quách thành Đèo Nghếch đi". Trước những bộ mặt ngơ ngác, anh giải thích: "Đèo Nghếch là Đếch Nghèo, thế thì nghèo thế đíu nào được!". Vậy là đổi tên. Cán bộ hết nghèo thiệt! Dân có còn nghèo hay không, đếch cần biết. Có tiền có bạc, ăn uống sung sướng, no cơm ấm cật dậm dật cả bầy. Vậy là bùng nổ dân số. Làm sao để kế hoạch? Lại phài tính tới chuyện đổi lại tên đèo. Anh cán bộ có sáng kiến đổi tên lần trước lại được hỏi ý kiến. Anh nhẩn nha: "Đổi quách là Đèo Đứng coi có khá hơn không?" Anh này lại chơi trò nói lái. Đèo Đứng! Không…trồng người thì làm sao ra baby được!

Bắc , Trung, Nam, qua ba miền đất nước chữ nghĩa cũng biến dạng. Biến tới mức xa lạ với nhau. Kể từ cuộc di cư từ Bắc vào miền Trung và Nam, con người Việt Nam cùng chung nòi giống nay mới có nhiều dịp chung chạ. Chữ nghĩa tuy khác biệt nhưng lòng người không khác biệt. Em gái Bắc Ninh, anh trai Biên Hòa, em xứ Thanh Nghệ, anh nhà Cà Mau cứ loạn xạ mần ăn với nhau. Khác mà vẫn hòa đồng. Chữ nghĩa không làm mặt lạ.

Lấy chồng răng gọi mụ o ?
Anh trai lấy vợ, mình thành mụ o
Mụ o hiền hậu khỏi lo
Mụ o nhiều chuyện là mụ o "dọn" mồm
Tối qua thì nói "khi hôm"
Hoàng hôn : "Chạng vạng", nghe run quá trời
Sớm mơi mang "chủi xuốt cươi"
Sài Gòn nghe thấy thì cười bò lăn

Đó là thơ Huế- Sàigòn của ông Cai Vĩnh. Đoạn thơ Sàigòn-Hà Nội sau đây không có tên tác giả tôi nhặt được trên net.

Nam thời mập mạp, Bắc cho là béo

Khi Nam khen béo, Bắc bảo là ngậy

Bắc quậy sướng phê, Nam rên đã quá!

Bắc khoái đi phà, Nam thường qua bắc

Bắc nhắc môi giới, Nam liền giới thiệu

Nam ít khi điệu, Bắc hay làm dáng

Tán mà không thật, Bắc bảo là điêu

Giỡn hớt hơi nhiều, Nam kêu là xạo

Bắc nạo bằng gươm, Nam thọt bằng kiếm

Nam mê phiếm, Bắc thích đùa.

Bắc vua bia bọt, Nam chúa la-de.

Chữ nghĩa khác biệt nhưng không đối nghịch. Sau nhiều năm sống bên nhau, tiếng Bắc, tiếng Trung, tiếng Nam hình như mất đi cái ranh giới địa lý mà chỉ còn thân cận nhau trong tình đồng hương. Tổ tiên làm chi có Trung Nam Bắc! Chữ nghĩa của tổ tiên mà chúng ta trìu mến gọi là tiếng mẹ đẻ đã theo chúng ta trong bước chân di tản. Chúng ta đã có cả một nền văn học bên ngoài chốn quê cha đất tổ. Và những người viết từng sống với chữ nghĩa sẽ chẳng bao giờ rời xa những con chữ.

Chữ nghĩa và tôi sẽ xuống mồ

Mai này cỏ mọc sắc xanh mơ

Ai đi ngang để cành hoa xuống

Là cũng cho đời một chút Thơ!

(Trần Vấn Lệ)

Song Thao
 


Thơ & thủ bút của Trịnh Công Sơn


Thơ & thủ bút của Trịnh Công Sơn

BUT TICH .....jpg


3/5/13

Bến bờ viễn xứ






                       Cuồng Từ


Trên đỉnh thời gian mây trắng (*)
Cỏ cây rồi có hao gầy ?
sóng vỗ xanh xao bờ vực 
Cuồng vân hóa kiếp ngôn từ 
Trót theo mây về viễn xứ
Tư lương ngạo nghễ trời xanh
Cỏ cây đất đá trời mây
Tổ tiên hồn thiêng sông núi
Hoang vu sử lịch tiêu điều 
mắt rưng rưng chiều ngấn lệ 
Vời trông nhạn xoãi cánh bay 
Sầu bi thiên thu viễn mộng 
Tịch dương cô mộng trùng trùng 
Sắp sẵn cơn say vô tận 
Về đâu 
Duyên khởi trùng trùng
Cuồng từ ! Cuồng Từ 
Trong một sát - na
Buồn vô lượng kiếp
Hồn bay bay mãi 
Chưa hết hoang vu

---------------

(*) :  Chiều nay mượn chữ Cuồng Từ 
về thu xếp lại ,gửi mù sa bay . THD .
 

2/5/13

Đĩ thúi (1)




 3/5/ 2013

Nguyễn Viện

Tiểu thuyết

Trong cuốn tiểu thuyết phản lịch sử, phản hư cấu, phản hiện thực và phản tiểu thuyết này, các nhân vật chính của tác phẩm văn học Việt Nam nổi tiếng nhất, Truyện Kiều, và cả tác giả của nó, Nguyễn Du, bước thẳng ra từ hư cấu và lịch sử để lăn lộn trên một bàn cờ thế sự quái đản mà tất cả chúng ta dường như đều có mặt.

Bạn có thể thích hay ghét, rất thích hay rất ghét, khen hay chê tác phẩm Phản Kiều, hay Tân Đoạn trường tân thanh này, nhưng tôi tin rằng bạn sẽ không thể dửng dưng với nó. Tôi hân hạnh giới thiệu tác phẩm mới nhất của nhà văn Nguyễn Viện, đăng thành 5 kì trên pro&contra.

Phạm Thị Hoài

_______________

Gặp Mã Kiều Nhi trong một lầu xanh tại Bắc Kinh nhân chuyến đi sứ năm 1813, Nguyễn đã chới với. Đó là một kiều nữ tài hoa. Cầm kỳ thi họa đủ món ăn chơi vành ngoài bảy chữ vành trong tám nghề, đặc biệt là món thổi kèn điêu luyện theo đúng tinh thần Karma Yoga không phân biệt đối xử của nàng. Dẫu sao, Nguyễn cũng không tránh được cái mặc cảm của người tiểu quốc đi trả thù dân tộc. Vì thế, hành động vô cầu bất phân rất lương tâm chức nghiệp của Kiều Nhi khiến cho Nguyễn cảm động. Và chàng muốn chiếm lấy nàng, theo một cách nào đó tương tự như Từ Hải trong một giả định hóa giải oan nghiệp. Tất nhiên, khoản được gọi là “bo” của Nguyễn không thể so sánh với các hào phú bản địa, nhưng Mã Kiều Nhi thượng thừa bản lĩnh và thâm hậu nhân sinh hiểu được đây là cơ hội nàng bước vào một thế giới khác, mà ngay cả một hảo hán như Từ Hải cũng không thể làm nổi. Thế giới của ảo tượng văn chương.

Mã Kiều Nhi trốn theo Nguyễn về Việt Nam năm 1814.

Cho đến sau năm 1820, không còn ai ở Việt Nam biết Mã Kiều Nhi là ai nữa. Nàng đã có một khai sinh mới được gọi là Vương Thúy Kiều. Tôi chưa bao giờ ngưỡng mộ Truyện Kiều, nhưng tôi thích cái hệ lụy của Truyện Kiều.

Vì thế, có một Mã Kiều Nhi trở thành nhân vật văn chương và cũng có những Mã Kiều Nhi khác vẫn quanh quẩn đâu đó trong các lầu xanh. Nàng đi xuyên suốt dòng lịch sử từ những kỹ viện đầu tiên do Quản Trọng, Tể tướng nước Tề sáng lập khoảng 2700 năm trước đến các khu đèn đỏ đương đại. Đĩ là vĩnh cửu.

Sau khi vượt ải Nam Quan, Mã Kiều Nhi đã rũ bỏ bộ đồ hóa trang làm tên lính hầu của Nguyễn. Nàng trở lại là một cô gái xinh đẹp. Xinh đẹp và e lệ thì cũng đến lúc phải đi tiểu. Tiết tháng ba ở rừng biên cương mát mẻ và phong quang, vì thế nàng đã phải đi hơi xa để tìm một chỗ kín đáo. Kiều Nhi nhìn thấy một gò đất. Và nàng ngồi xuống. Cỏ vàng hiu hiu. Bỗng nhiên, Kiều Nhi nghe thấy tiếng nói sau lưng mình: “Cô đã đánh thức tôi dậy.” Nàng quay lại thấy một cô gái dường như rất quen. Đoán được điều ấy, cô gái nói: “Tôi là Đạm Tiên, cũng từng ở lầu xanh như cô ở Bắc Kinh. Tôi theo Mạc Đĩnh Chi sang đây.” Kiều Nhi hỏi ngay: “Sao chị không về Tràng An mà lại ở chốn hoang vu thế này?” Đạm Tiên bảo: “Chuyện dài lắm, không có thì giờ để nói đâu. Em hãy đi theo chị.” “Tại sao?”, Kiều Nhi hỏi lại. Đạm Tiên nói: “Vương phủ không phải là chỗ của chúng ta. Chị đã đến đó và chị đã quay về.” Kiều Nhi lại hỏi: “Chị muốn đưa em về?” “Không, không phải trở lại Bắc Kinh, mà là trở về con đường của mình”, Đạm Tiên giải thích.

Thấy Mã Kiều Nhi đi lâu, Nguyễn đích thân cùng vài tên lính đi tìm. Trong vòng vài dặm, không thấy một bóng nhà. Khi tối trời vẫn không thấy nàng đâu, Nguyễn và đoàn tùy tùng đều cho rằng Kiều Nhi có thể đã bị thú hoang ăn thịt.



1.

Mã Kiều Nhi đến một trong những trang trại ở khu vực rừng biên giới được các nhà đầu tư Trung Quốc thuê của Việt Nam. Đạm Tiên dặn Kiều Nhi: “Em không được nói tiếng Hoa.” Kiều Nhi thắc mắc: “Ở đây toàn là người Trung Quốc không mà?” Đạm Tiên bảo: “Tất cả bọn đàn ông đều thích của lạ. Bởi vậy em hãy nói tiếng Việt hoặc tiếng dân tộc nào ở Việt Nam cũng được.”

Chính sách mỗi gia đình chỉ có một con của Trung Quốc dẫn đến tình trạng đàn ông khó tìm được vợ. Đến Việt Nam không phải chỉ là lời mời gọi của miếng cơm manh áo mà còn bởi cơn quẫn bách thèm khát giống cái của lao động giống đực Trung Quốc đòi được giải quyết. Giống cái Việt vừa đẹp vừa nhiều vừa rẻ. Việt Nam trở thành thị trường giống cái của thế giới.

Kiều Nhi và Đạm Tiên mở quán nhậu bán rượu Mao Đài. Mái tôn vách lá sơ sài. Nhưng chiều tối nào quán cũng đông nghẹt. Công nhân Trung Quốc cũng không khác Việt Nam, lao động cật lực rồi uống rượu. Rượu lên cơn thì gái nào cũng là gái, kể gì hàng dạt hàng xịn. Kiều Nhi thường tiếp khách suốt đêm, sáng ngủ bù. Khô rát âm đạo, để đỡ đau Kiều Nhi phải dùng gel bôi trơn. Bọn Trung Quốc bảo nàng không có chút biểu cảm.

Kiều Nhi từng là ngôi sao của vũ trường Kit ở Sài Gòn. Trong số những khách quen của nàng có Thiếu tá Việt Nam Cộng hòa tên Tùng. Tuy không oai phong ngang tàng như các sĩ quan Dù, Biệt động Quân hay Thủy quân Lục chiến, nhưng Tùng hào hoa đẹp trai và nhiều tiền nhờ bán hàng quân tiếp vụ cho Việt cộng. Tùng yêu và chiều Kiều Nhi. Nàng thích chàng không phải vì tiền mà ở những bước nhảy bay bướm cũng như thái độ sùng tín gái đẹp của chàng. Nhưng có một người đàn bà khác không cho đó là mối tình đẹp. Vợ Tùng đánh ghen bằng một lon acid và một bản án chung thân máng vào cổ nàng: “Hồng nhan bạc phận”. Sau này, Kiều Nhi đã giải phẫu thẩm mỹ khuôn mặt nhưng bản án “Hồng nhan bạc phận” nàng khắc vào miếng lắc đeo ở tay. Từ đó, không ai thấy được cảm xúc của nàng trên khuôn mặt nữa. Bù lại, thân thể của nàng càng ngày càng đẹp và quyến rũ. Kiều Nhi trở thành đĩ tinh ròng.

Vào đầu những năm 2000, khi nền kinh tế thị trường trong nước phát triển, những cô gái sở hữu một thân hình chuẩn có vơ vàn cơ hội kiếm tiền. Họ làm người mẫu trình diễn hoặc quảng cáo và được các đại gia theo đuổi. Những giá trị mới được xác lập. Kiều Nhi được một đại gia bao trong căn biệt thự tuy không lộng lẫy nhưng cũng đủ danh giá. Nàng tân trang lại trinh tiết. Thỉnh thoảng bán trinh tìm cảm xúc mới. Nàng phát biểu, nhận tiền từ tay những người đàn ông đi mua trinh nó khác hẳn làm điếm chuyên nghiệp. Không hẳn vì những số tiền lớn lao, mà nàng nhận được cả niềm tin thiêng liêng của người mua trinh về cái lộc của tạo hóa. Nàng bảo “lộc trời bao la, sao nỡ hẹp với mọi người”.

Đôi khi nhớ tới Nguyễn, nàng cũng muốn tặng chàng “chữ trinh còn một chút này” để cảm tạ tấm lòng tri kỷ. Nhưng dường như Nguyễn không quan tâm đến điều ấy. Chàng vẫn nói: “Lần nào đụ em, anh cũng tìm thấy cảm giác của sự trinh bạch.” Lần nào cũng là lần đầu tiên. Kiều Nhi cũng không hiểu được lòng mình, tại sao với Nguyễn, nàng luôn luôn trinh bạch. Nguyễn bảo “anh vẫn nhìn thấy khuôn mặt thật của em dưới lớp da nhân tạo.”

Hoài niệm vẫn là một khuynh hướng tự nhiên của con người. Thời kỳ chuyên chính vô sản xã hội chủ nghĩa, ai cũng khổ như chó. Kiều Nhi sống bằng cách tham gia đoàn văn công thành phố. Nàng có nhiều khách. Nhưng họ chỉ trả bằng tem phiếu hoặc nhu yếu phẩm. Không huy hoàng, nhưng vẫn được sống tiện nghi hơn người. Nguyễn có rượu ngoại uống và thuốc lá thơm hút cũng nhờ Mã Kiều Nhi từ bi nhân hậu chia sẻ.

Thơ mộng nhất trong cuộc đời Kiều Nhi có lẽ phải kể đến giai đoạn hưng thịnh của cô đầu. Phẩm chất nghệ sĩ hoang đường với cây tì bà của nàng cùng nhịp phách tiếng hát đa tình của Nguyễn Công Trứ quả là một cặp đôi hoàn hảo, anh hùng và mỹ nhân kinh điển cho mọi thời đại. Trong số những người tình của Mã Kiều Nhi, không kể Nguyễn Du, thì Nguyễn Công Trứ làm nàng say đắm nhất.

Không như Từ Hải, Trứ phụng sự triều đình tận tụy theo cốt cách của một quân tử. Và Trứ cũng trở thành một hình tượng đối nghịch với bọn văn nô nịnh thần trong thời đại của ông. Cùng với một đức hạnh ngay thẳng như Nguyễn Công Trứ, nhưng Kiều Nhi vẫn chan hòa với bọn văn nô dịch vật, bởi vì với nàng “tiền nào cũng là tiền” và nàng phục vụ theo đúng nghĩa vụ công bằng mà thiên hạ đã mua nàng. Kiều Nhi bảo “Em tam giáo đồng nguyên, vô vi theo Lão giáo, hành động mà không làm gì cả. Phục tùng ước muốn của đàn ông mọi lúc mọi nơi theo kinh tế thị trường định hướng Khổng Nho nên em đòi hỏi ăn bánh trả tiền. Đời là ảo tượng vô thường, vì thế không bám níu chấp trước để giải phóng oan nghiệp theo lời Phật dạy.”

Không hối tiếc. Đàn ông hay tiền bạc cũng là một thứ nhu cầu. Cũng chẳng thấy đâu là ngu muội hay minh triết. Nàng bảo “không có tiền thì cạp đất mà ăn à”. Vì thế, khi Nguyễn mang cho nàng đọc Truyện Kiều, nàng chỉ nói “em không biết mình có thiện căn hay không, nhưng em tin rằng em luôn sống thành thật.” Nguyễn biết điều ấy, chính vì thế Vương Thúy Kiều trở thành bất hủ. Sau 200 năm ngày sinh, Nguyễn Du được Hội đồng Hòa bình Thế giới phong tặng “Danh nhân văn hóa”.

Năm 2012, nhà văn đồng hương của Mã Kiều Nhi đoạt Giải Nobel Văn chương. Dư luận không thống nhất về kết quả này bởi thái độ chính trị của Mạc Ngôn đối với một chế độ toàn trị như Trung Quốc. Văn tài và nhân cách trở thành một vấn nạn thời đại. Bất cứ nhà văn nào cho rằng mình đứng ngoài chính trị đều là ngụy biện cho sự ẩn náu trước cái ác.

Kiều Nhi viết một status trên Facebook: “Nếu anh Mạc Ngôn muốn, em sẵn sàng chiêu đãi miễn phí món phong nhũ phì đồn đặc sản thiên nhiên của em để tưởng thưởng cho tinh thần đồng văn đề huề giữa đĩ hiện đại và truyền thống thập thành của Trung Quốc cố cựu.”

Tin Giải Nobel cho Mạc Ngôn tuy đến được với xóm lao động Trung Quốc trong rừng sâu đầu nguồn của Việt Nam, nhưng không ai quan tâm, ngoại trừ Mã Kiều Nhi. Đêm đó, nàng tiếp gần hai chục khách. Lần đầu tiên, nàng cảm nhận một cách khác thường về những con cu Trung Quốc. Tất cả đều vội vã. Tất cả đều tột đỉnh. Nhưng cũng tất cả tinh dịch đều khô như bột. Mã Kiều Nhi hỏi Đạm Tiên về hiện tượng này, Tiên cũng chỉ phỏng đoán: “Có lẽ đó là kết quả của một chính sách về toàn cầu hóa của người Trung Quốc. Chị ngờ rằng, đàn bà chỉ ngửi bằng mũi cũng có thể thụ thai.”

Tinh khí bay mù mịt. Những cô gái người dân tộc thiểu số sống ở quanh vùng đều mang bầu khống. Bụng của họ càng ngày càng to ra nhưng rỗng tuếch. Nỗi hoang mang lan tỏa khắp rừng núi. Nhưng hơn chín tháng sau, bụng của họ tự xẹp xuống như chưa có chuyện gì. Tuy nhiên, cái tai nạn kỳ cục đó đã để lại những vết nhăn di chứng không những trên bụng họ mà còn trên bụng của tất cả những bé gái sinh ra sau này. Các thày cúng đều cho rằng đó là hội chứng “thiên triều”.

Một trong số những cô gái từng mang bầu khống đã theo anh chàng buôn gỗ lậu về miền xuôi nói với Kiều Nhi: “Em hoàn toàn mất cảm giác về chuyện ấy. Nhưng em muốn theo chồng để phục hồi chức năng. Chị giúp em được chứ?”. Kiều Nhi bảo: “Không cần đâu. Cảm giác chỉ là sự bịa đặt của mấy ông nhà văn. Em muốn thế nào thì nó sẽ là như thế.” Cô gái không hiểu. Nhưng cô ta có bản năng của một thú rừng, vì thế sự hoang dã có bài học của riêng nó.

Những ngày hành nghề trong rừng với lao động đồng hương Trung Quốc, Mã Kiều Nhi không cảm thấy bị tổn thương như Nguyễn đã thương cảm một cây quế cao quí để cho mán mường trèo leo. Ngược lại, nàng hoàn toàn sống an vui với truyền thống “thập nữ viết vô” trong sự tồn tại của mình. Một cách nghịch lý, nó giải thoát nàng bằng thân phận một con đĩ. Đậm đà bản sắc Nho giáo.

Chính Nguyễn cũng đã không nhìn thấy tính phản động của tinh thần Nho giáo trong cuộc đời mình. Vì thế đã có lúc, Nguyễn muốn chạy vào Gia Định theo phò Nguyễn Ánh chống giặc Tây Sơn. Nhưng Nguyễn không bao giờ cảm thấy được hóa giải nghiệp chướng như con đĩ toàn phần Mã Kiều Nhi. Nguyễn lúc nào cũng là một hàng thần lơ láo thân phận trí thức.

Cuộc đời Mã Kiều Nhi không có biến cố, kể cả việc nàng phải bán mình chuộc cha và trở thành Vương Thúy Kiều như Thanh Tâm Tài Nhân hay Nguyễn Du đã mô tả. Từ trước khi nàng có mặt trên cõi đời, Mã Kiều Nhi đã là đĩ. Và cho đến muôn đời sau, Mã Kiều Nhi vẫn là đĩ.

Bản thân Khổng Tử hay Nguyễn Du cũng chỉ là những kẻ chạy theo quyền lực và phò quyền lực. Khổng giáo là tập đại thành của sự sa đọa trí thức.

Năm 1862, Hòa ước Nhâm Tuất được ký, tỉnh Gia Định được nhượng quyền cho Pháp cùng với Biên Hòa và Định Tường. Lúc ấy Mã Kiều Nhi đang sống trong Chợ Lớn. Trải nghiệm với lính Tây là một cảm giác rất kỳ quặc. Khi lính Tây xông vào nhà, Mã Kiều Nhi đang ngồi đan áo, nàng vội vàng đứng lên định cởi quần dâng hiến ngay, nhưng dường như bọn Tây không biết thế nào là phụ nữ Á Đông toàn tòng, xông vào với tất cả khí thế của kẻ đi chinh phục thuộc địa. Kết quả là Tây không tìm được sự thỏa mãn khai hóa, mà Ta cũng mất cơ hội thống khoái của thứ đức hạnh nhẫn nhục. Tây nằm bất tỉnh nhân sự thượng mã phong trên cái ngổn ngang giao lưu văn hóa. Tay vẫn còn cầm cây đan, Kiều Nhi đâm vào khúc xương cùng anh Tây, giải cứu chàng thoát khỏi nỗi ô nhục văn minh súng đạn.

Tỉnh dậy, Tây nhìn ra Tây và cũng nhìn thấy Ta. Từ đó, có kỹ nghệ lấy Tây và Xuân Tóc Đỏ của Vũ Trọng Phụng.

Năm 1975. Mã Kiều Nhi bất chợt cảm thấy mình trở thành nhân vật trung tâm của toàn bộ cuộc cách mạng do Karl Marx khởi xướng. Bản thân nàng là một tuyên ngôn “vô sản thế giới hãy đoàn kết lại” trong mọi góc độ, chủ thể và đối tượng. Khám phá này nâng tầm Mã Kiều Nhi thành một thương hiệu toàn cầu và mang tính phổ quát. Chưa bao giờ Mã Kiều Nhi lại nhận được một thứ tình cảm tương lân như thế với tất cả nhân dân khi trên giường cũng như ngoài đường phố.

Không có quần áo đại cán hay công nhân lao động. Cũng không có linh hồn hay bản sắc. Mọi thứ trở nên đơn giản lạ kỳ.

Và đến khi bước vào thế kỷ 21, Mã Kiều Nhi đã trở thành đĩ quốc tế.

Có lúc nàng phải đến tận Hà Khẩu của Trung Quốc hay các khu đèn đỏ ở Campuchia, Singapore và Malaysia kiếm ăn. Hộ chiếu Việt vẫn có sự hấp dẫn riêng của nó.



2.

Chuyện ở Hà Khẩu.

Có anh nông dân muốn mua nàng mang về quê. Kiều Nhi bảo anh: “Em là đĩ, không làm vợ được.”

Anh nông dân khẩn khoản: “Anh cần có con nối dõi, em đẻ cho anh một thằng con trai, sau đó tùy em.”

Tuy nhiên, Kiều Nhi bảo anh nông dân đồng hương: “Nếu em chỉ có thể đẻ cho anh toàn con gái thì sao?”

Anh nông dân điềm nhiên: “Thì em sẽ phải tự biết cách xử lý. Anh cần một thằng con trai.”

Kiều Nhi hỏi: “Em sẽ được đền bù ra sao?”

Anh nông dân vẫn bình thản: “Đủ để cho em có một kỹ viện ở Bắc Kinh hoặc Hà Nội.”

Kiều Nhi bảo: “Cho em vài ngày suy nghĩ và thu xếp công việc.”

Anh nông dân nói: “Không, đi ngay bây giờ. Mọi thứ anh đã chuẩn bị rồi. Em có thể ra khỏi đây mà không sợ phiền hà gì.”

Kiều Nhi hiểu ngay mình đã gặp một tay anh chị thứ thiệt. Có thể là Sở Khanh, cũng có thể là Từ Hải. Hoặc hai trong một, vì thế có thể gọi anh nông dân này là Sở Từ.

Sở Từ đưa Kiều Nhi ra xe hơi. Đi nửa ngày đường, họ đến một thị trấn trên núi và đi qua cái cổng cầu kỳ vào một biệt thự thuộc vào loại đẹp nhất khu vực. Sở Từ nói với Kiều Nhi: “Hoặc em là bà chủ của ngôi biệt thự này, hoặc em sẽ là một con nha đầu mãn kiếp ở đây.”

Ở trong nhà thì tuyệt đối sung sướng, muốn gì cũng được, nhưng bước ra khỏi cổng đều có người đi theo. Kiều Nhi buộc phải trở thành cái máy đẻ. Rồi nàng cũng mang thai. Sinh con gái, Kiều Nhi không kịp thấy mặt con. Nó bị bóp cổ chết và ngâm rượu. Đó là loại rượu chỉ dành cho các đại gia muốn tẩm bổ quả thận và cầu mong ân sủng của vận hạn. Lần đẻ con thứ hai, may sao là con trai. Sở Từ giữ đúng lời hứa, Mã Kiều Nhi được giải phóng. Nàng ôm một đống tiền về Hà Nội mở quán bia ôm.

Mã Kiều Nhi nhờ Đạm Tiên tuyển tiếp viên và giao Đạm Tiên làm má mì quản lý các em. Không ai xuất sắc hơn Đạm Tiên trong việc này. Các anh giai muốn chân quê hay hiện đại đều được đáp ứng. Các kiểu cung đình phương Đông hay quái dị bạo lực phương Tây cũng đều được phục vụ chu đáo. “Tất cả thế giới trong tầm tay”, đó là slogan của nhà hàng đặc sản Kiều Tiên.

Sự thành công của Kiều Tiên khiến các bà Hoạn Thư trong Hội Liên hiệp Phụ nữ ganh tị và phản ứng quyết liệt. Kiều Nhi và Đạm Tiên phải vào trường phục hồi nhân phẩm với quyết định cấm hành nghề mại dâm vĩnh viễn.

Kinh tế thị trường với qui luật cung cầu tự nhiên, mặc dù được định hướng xã hội chủ nghĩa cũng không thể ngăn cản Kiều Nhi và Đạm Tiên tiếp tục hành nghề. Bởi xét cho cùng, xã hội phong kiến Khổng Nho cũng như xã hội xã hội chủ nghĩa đương đại, trong bản chất luôn tiềm ẩn những ức chế nội tại một cách nóng bỏng nhất. Vì thế nhu cầu về sự phóng thể trở thành tất yếu đối với toàn xã hội. Thực hiện hành vi tình dục là một giải pháp thuận tiện và đơn giản để giải phóng năng lượng và an ủi bản thân mang tính cá nhân. Đồng thời nó cũng là một hòa giải với căn tính đĩ mang màu sắc xã hội.

Kiều Nhi không bao giờ chết. Nàng tồn tại vừa như một bản thể vừa như một hiện tượng. Ngay chính Vương Thúy Kiều cũng không thể vượt thoát được cái mệnh bạc mà tráng lệ ấy khi tìm đến với cái chết trên sông Tiền Đường.

Để trốn tránh chế độ quản thúc tại địa phương, Kiều Nhi và Đạm Tiên lên rừng đầu nguồn phục vụ các anh giai đồng hương Trung Quốc. Nhưng tình trạng mang bầu khống liên miên do tinh trùng bột của niềm kiêu hãnh Hán hóa rơi vãi vô tội vạ khiến Kiều Nhi và Đạm Tiên phải bỏ chạy. Các em lại về trong vòng tay âu yếm của anh trai Việt. Kể từ khi gặp Nguyễn, Mã Kiều Nhi đã là người tình muôn thuở của tâm hồn Việt. Nàng vẫn dzin trên từng cây số. Vẫn mẫu mực trâm anh văn hóa thuần Việt.



3.

Mã Kiều Nhi có phải là tín đồ của Linga không? Nàng chẳng bao giờ thắc mắc về điều ấy. Nàng có cái vốn tự có và để cho Linga có thể là Linga như nó phải thế, cái Yoni của nàng tung tóe từ ngõ hẻm đến đại lộ như nó vốn là thế. Nhân phẩm của nàng. Dâng hiến và bị hãm hiếp.

Từ sâu thẳm, tất cả đều tôn thờ nàng. Nhưng tất cả đều miệt thị nàng. Vì thế, để xác lập quyền tồn tại và mưu cầu hạnh phúc, thậm chí mang hạnh phúc đến cho người khác, nàng luôn bành hai chân dạng háng uy nghi trước mọi nền văn minh nhân loại.

Mã Kiều Nhi kéo đầu từng người áp dí vào hĩm nàng. Nàng bảo đấy là niềm ân sủng vĩ đại nhất mà con người từng biết đến. Chẳng có lãnh tụ nào muôn năm như nàng. Thế nhưng Nguyễn vẫn bảo nàng mệnh bạc. Cái hạnh phúc thật của con người không phải vì đám đông, cho đám đông. Lẽ ra Vương Thúy Kiều phải thuộc về Nguyễn, hay Mã Kiều Nhi phải thuộc về tôi chẳng hạn. Nhưng cả Vương Thúy Kiều và Mã Kiều Nhi đều là người của bá tánh, vì bá tánh và cho bá tánh. Hồng nhan đa truân.

Cả Vương Thúy Kiều và Mã Kiều Nhi đều không có quyền chọn lựa.

Vì thế, Vương Thúy Kiều lại từ phong tình cổ lục lặng lẽ bước ra phong trần. Thúy Kiều đi theo Kiều Nhi và Đạm Tiên mở quán cà phê ôm, hớt tóc massage trên mọi nẻo đường quê hương của Nguyễn.

Cả ba vừa trực tiếp hành nghề, vừa tuyển thêm đào nương khi họ làm ăn phát đạt. Đạm Tiên vốn là ma nên nàng biết đi đâu để tìm các cô gái có nhu cầu muốn làm gái báo hiếu song thân. Sau khi được Vương Thúy Kiều phỏng vấn, nhiệm vụ dạy nghề cho các cô là của Mã Kiều Nhi.

Thúy Kiều hoàn toàn thất vọng vì tấm gương báo hiếu bán mình chuộc cha của nàng đã trở thành một lý do chính đáng biện minh cho sự xả thân của các cô. Không một cô gái nào bày tỏ ý muốn làm gái vì vinh quang của nghề hay bản chất đĩ tính của mình. Tất cả vì hoàn cảnh.

Mã Kiều Nhi nói: “Không một ai nhận trách nhiệm do mình và vì mình.” Vì thế việc dạy nghề của nàng cũng trở nên khó khăn hơn. Các cô gái không nhận biết được cái phẩm chất và lương tâm nghể nghiệp là phục vụ một cách bình đẳng tất cả mọi khách chơi, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ.

Đạm Tiên cũng bảo: “Không một cô gái nào nhìn ra làm gái là con đường duy nhất của mình.”

Nghề làm gái mất đi chất hồng nhan bạc mệnh và cái tài tình công phu của nghề, mà chỉ còn là một thứ lao động giản đơn thuần túy kinh tế thị trường. Vì thế, gái bán dâm cũng không còn là một cảm hứng thi ca như các nàng kỹ nữ xưa kia.

Nhưng nó vẫn là một quá trình văn hóa hình thành bởi các cuộc cách mạng công nghệ và ý thức hệ.

Vương Thúy Kiều, Mã Kiều Nhi và Đạm Tiên không những hành nghề bán dâm mà còn luôn đi cùng và đi trước thời đại, các em có mặt trong mọi thứ văn hóa phẩm từ phim XXX dị tính, đồng tính và lưỡng tính đến quảng cáo sex toy đủ loại để quảng bá và tạo nên một thị hiếu nghệ thuật sống mang tính xã hội hài hòa theo tinh thần triết lý chính trị của Hồ Cẩm Đào tiên sinh.

Tứ hải giai huynh đệ của Khổng Tử là chuyện vặt.



4.

Trong lúc đó, Kim Trọng vẫn yên bề gia thất và trung quân ái quốc, bất kể vật đã đổi sao đã dời. Tuy thỉnh thoảng chàng cũng tìm cách mua vui với Vương Thúy Kiều một vài trống canh. Lỡ khi Thúy Kiều kẹt trong mùa kinh nguyệt thì chàng tìm Mã Kiều Nhi. Và để cho có ý vị nhân sinh cao cả, chàng cũng thường thoát tục với Đạm Tiên trong cõi thiền. Tóm lại, còn vua còn mình, chàng đề huề sinh thái.

Thật ra, chỉ có Mã Kiều Nhi mới biết Kim Trọng thực hư thế nào. Vương Thúy Kiều không phải không biết, nhưng nàng vẫn cố giữ thể diện cho chàng. Vì thế, Kim Trọng cho đến muôn đời sau vẫn là một anh trí thức mà Mao Trạch Đông coi không bằng cục phân. Những cục phân ấy luôn tự an ủi mình trong cõi ta bà rằng “ăn cây nào rào cây ấy” theo đúng đạo nghĩa Nho gia.

Những gì Mã Kiều Nhi biết về Kim Trọng chỉ là vấn đề chất lượng đàn ông. Cái mà Đạm Tiên biết về Kim Trọng mới thực là con người và niềm tin của chàng.

Bí thư Tỉnh ủy là một trong các chức vụ không phải cao nhất của Kim Trọng nhưng lại mang đến cho chàng sự viên mãn nhất. Với chức vụ này, chàng đủ điều kiện để hủ hóa mang tính chất mặt trận tổ quốc, đồng thời thu vén được cả một gia tài cho con cháu hưởng lộc đến muôn đời sau. Sử sách ghi chép về giai đoạn này không kể xiết, thế hệ độc giả thời Google.com có thể truy cứu tài liệu với các từ khóa như “dự án”, “đất đai”, “mua quan bán chức”, “tham nhũng”, “lợi ích nhóm” hoặc “đảng”…

Nhưng để đạt được vinh quang, Kim Trọng đã phải nhờ đến Đạm Tiên.

Cứ mỗi cuối tháng âm lịch, Kim Trọng cùng Thúy Vân đều đến trước mộ Đạm Tiên cúng vái và cầu cơ. Nể tình Vương Thúy Kiều, Đạm Tiên giúp Kim Trọng tất cả những gì chàng muốn với một điều kiện duy nhất, Kim Trọng phải tự làm hình nộm khỏa thân của mình và hóa vàng xuống âm phủ cho nàng. Không ai biết ở thế giới bên kia Kim Trọng và Đạm Tiên có làm gì với nhau không, nhưng con người còn lại của Kim Trọng trên dương thế hoàn toàn bị bất lực trong vòng nửa tuần trăng mỗi lần như thế. Vương Thúy Vân không ghen, bởi vì nàng cần những thứ khác cũng không kém tình yêu của Kim Trọng.

Giải thích về điều này, Đạm Tiên chỉ bảo: “Nếu không vong thân tuyệt đối, anh ta sẽ không thể thành công trên cõi đời.” Riêng Vương Thúy Kiều lại nhìn nhận vấn đề cách khác: “Thật ra, Kim Trọng cũng chẳng vong thân tha hóa gì cả, con người chàng nó vậy.” Mã Kiều Nhi thì đơn giản hơn, nàng nói: “Anh Kim Trọng lúc nào cũng bo rất đẹp.”

Trong lúc Kim Trọng vẫn là một kẻ sĩ mẫu mực phục vụ chế độ hết mình hết trí khôn, vợ đẹp con ngoan, lợi dụng chức quyền vun vén tài sản; thì Từ Hải đã trở thành nạn nhân trong các vụ cướp cạn giữa ban ngày của đám vua quan như Kim Trọng.

Không sống được ở Trung Quốc, Từ Hải trốn qua Việt Nam cũng chung thân bất mãn. Trải qua nhiều triều đại, từ vô sản bần cố nông chàng đã đổi đời thành trí thức tiểu tư sản. Karl Marx, Lenin, Mao Trạch Đông và công an nhân dân không biết xếp chàng vào loại giai cấp nào để xử lý cho đúng. Về bản chất, Từ Hải vẫn là kẻ vô sản về mặt kinh tế xã hội, nhưng thái độ chính trị của chàng lại có những biểu hiện của kẻ ngang ngược và bất định của tên trí thức tiểu tư sản thành thị.

Từ năm 1956, cùng với phong trào Nhân văn – Giai phẩm, Từ Hải đã làm những bài thơ mang tính phản kháng và giễu cợt, nhưng thơ của chàng chỉ được đọc trong những lúc rượu vào lời ra, vì thế Đảng không chấp. Cũng nhờ thế, thơ của chàng trở thành một thứ tài sản chung được truyền tụng từ bàn nhậu này tới bàn nhậu khác. Đó là những năm tháng cùng quẫn nhất của đời chàng. Bất cứ một ý tưởng hay hành vi nào mang tính khác thường đều bị qui kết là chống chế độ. Mà chàng vốn là con người mang mầm mống chống đối từ trong máu. Giữ cho dòng máu ấy không vọt ra là một cực hình. Sự phẫn uất của chàng biến thành thơ và nỗi cay đắng của chàng biến thành sự u mặc. Cơm áo gạo tiền biến chàng thành ma cô của Thúy Kiều. Chưa bao giờ chàng lại cảm thấy số phận mình và Thúy Kiều hòa trộn vào nhau đến thế.

Càng nghĩ đến tình cảnh của mình, Từ Hải càng u uất. Chàng chìm đắm trong rượu. Nhưng để có rượu uống không phải lúc nào cũng hào hùng.

Năm 1970. Sau khi từ chiến trường miềnNamtrở về, Từ Hải lấy một cô bạn cùng khóa ở Đại học Sư phạm làm vợ. Nhờ gia thế nhà vợ và cũng nhờ cái lý lịch cựu chiến binh, Từ Hải xin được một chân biên tập của Thông tấn Xã. Cũng từ đây, chàng bắt đầu viết văn theo đúng tinh thần cán bộ chiến sĩ thi đua người tốt việc tốt và sinh hoạt chi bộ Đảng. Chàng quên hết những bài thơ châm biếm xưa kia, phục vụ Đảng tận tụy. Chàng dễ dàng có một chỗ đứng trong hàng ngũ Hội Nhà văn Việt Nam. Mọi chuyện thật tốt đẹp và tiếp tục tốt đẹp cho đến cả sau khi thống nhất đất nước.

Năm 1976 chàng chuyển vào Sài Gòn công tác. Được tận mắt và tiếp xúc với hàng đống sản phẩm văn hóa đồi trụy của miền Nam bày bán ở khu chợ trời đường Đặng Thị Nhu, Từ Hải hoa mắt vì các tựa sách mà trước đó ở miền Bắc có mơ cũng không thấy. Càng đọc càng choáng váng. Từ Hải nhìn thấy ánh sáng của tự do. Chàng mơ hồ nhận ra con người thật của mình đã ngủ quên bao năm. Nhưng chàng biết không thể đánh thức nó bởi cái con người thật ấy có thể sẽ làm chàng mất tất cả.

Bà cô bên vợ chàng vốn di cư từ 1954 đón tiếp chàng nồng hậu. Biết chàng thiếu thốn vì mới chân ướt chân ráo vào miền Nam, bà cho vợ chồng chàng tất cả những thứ cần thiết, từ quần áo, giày dép đến giường tủ, thậm chí cả một chiếc xe đạp, quạt máy và cái TV. Đó là một gia tài vĩ đại.

Khi nhà nước cho phép cán bộ, công chức được quyền tham gia hoạt động kinh tế, Từ Hải liền cải biến căn nhà của mình thành khách sạn cho thuê giờ. Cả Mã Kiều Nhi, Vương Thúy Kiều và Đạm Tiên đều dẫn khách đến khách sạn của Từ Hải. Vừa là chỗ thân tình, vừa cũng là để giữ mối, giá thuê phòng của ba nàng được Từ Hải bớt 20%. Tuy nhiên, mỗi lần dẫn mối cho họ, Từ Hải đòi ăn chia 40% tiền cò.

Vốn trải nghiệm của Từ Hải về cuộc sống đặc biệt phong phú, nhất là với giới hồng nhan. Vì thế, Từ Hải vẫn ôm giấc mộng viết một tác phẩm lớn về cái gọi là Vina-đĩ như một biểu tượng văn hóa người Việt. Nhưng mỗi lần cầm bút, Từ Hải lại nhớ đến Hồ Tôn Hiến, nhớ đến cái nhục chết đứng của mình, chàng mượn rượu chém gió.

Năm 1972. Không biết từ nỗi ghen ăn tức ở nào, Từ Hải bị vu cáo đã hợp tác với địch khi cùng đồng đội chiếm đóng Huế năm 1968.

Tất cả bạn bè đều sợ hãi xa lánh chàng. Chi bộ Đảng họp kiểm điểm. Công đoàn họp kiểm điểm. Chi Hội Nhà báo họp kiểm điểm. Chi Hội Nhà văn họp kiểm điểm. Ai cũng cố tìm một điều gì đó để kết án chàng. Ai không phát biểu thì được yêu cầu phát biểu, nếu không có ý kiến sẽ bị qui kết thành đồng lõa.

Từ Hải không nhớ mình đã phải viết bao nhiêu bản tự kiểm. Từ Hải không biết phải chống đỡ kiểu gì. Chàng suy sụp. Nguy cơ bị đuổi ra khỏi cơ quan đã ở trước mắt, không kể chàng có thể bị bắt.

Từ Hải ngủ không được, nuốt không vô. Những ảo ảnh bay lượn. Hệ thống phản xạ của cơ thể bị tê liệt. Đàm rãi nhổ không ra, mỗi lần như thế chàng phải há miệng cho sự kinh tởm tự động rớt xuống đất. Chàng cũng không thể đứng đái. Nước tiểu chỉ có thể thoát được khi chàng ngồi xuống như đàn bà.

Tuyệt vọng và liều mạng, Từ Hải không đến cơ quan nữa. Chàng đến nhà Thúc Sinh tìm sự cứu giúp. Bấy giờ Thúc Sinh đã là một ông lớn trong Ban An ninh Nội chính. Bà Hoạn Thư tiếp đãi chàng ân cần như người nhà. Thuở ấy, gia đình bà có tiêu chuẩn vào cửa hàng mậu dịch quốc tế. Từ Hải biết bọn ở cơ quan chỉ là một lũ thượng đội hạ đạp, nên chàng bảo Hoạn Thư cần gì chàng đi mua giùm, rồi chàng mang đống đồ của Họan Thư mua theo chế độ đặc biệt đến vất trên bàn mình ở cơ quan. Bọn chúng nhìn thấy đống đồ xa xỉ và cao cấp ấy đều chóa mắt và xanh mặt, dù đó chỉ là mấy thước vải ni-lông, chai mật ong và dăm ổ bánh mì. Chúng hiểu thông điệp của chàng. Và rồi chúng biết chàng là chỗ quen biết với Thúc Sinh. Thế là án oan quan hệ với CIA của chàng tự nhiên chìm vào quên lãng.

Mọi mối quan hệ của chàng trở nên tốt đẹp hơn bao giờ hết.

Năm 1968, Từ Hải có mặt ở Huế. Không như những nhà văn, nhà báo ngồi ở Hà Nội thêu dệt về những người dân Huế mặc áo mới hân hoan đón đoàn quân giải phóng, dân Huế đã sợ hãi bỏ chạy như tất cả những nơi có chiến sự. Cho dù chỉ chạy loanh quanh. Nhưng quan trọng hơn, Từ Hải thấy dân chúng sợ Việt cộng, sợ mình. Hiện thân của súng đạn và tử thần. Rồi Từ Hải ngỡ ngàng. Chàng đâm ra trắc ẩn. Và chàng đã chia sẻ. Từ Hải nhường phần ăn của mình cho một gia đình đang đói. Chẳng may gia đình ấy là một gia đình “ngụy quyền”. Một đồng đội báo cáo cho cấp trên. Sự nhân đạo được suy diễn và nâng thành quan điểm. Nó trở thành một vết đen trong lý lịch của chàng. Và trở thành cái cớ cho những kẻ thù trong Đảng đánh chàng.

Không những thế, Từ Hải còn bị rắc rối vì một chuyện khác. Cũng năm 1968 ở Huế, chàng báo công đã cứu một anh cán bộ rất nổi tiếng trong phong trào đấu tranh của sinh viên Huế bằng việc dùng dao lam cạo râu mổ an toàn lấy viên đạn ra khỏi chân anh ta. Sau này, anh cán bộ nằm vùng cũng ra Bắc. Anh ta lại báo cáo một người khác đã cứu mình trong chiến dịch Mậu Thân ở Huế. Đó chính là  thủ trưởng của anh ta. Từ Hải nghe, chỉ còn biết chửi thề.

Từ Hải vẫn nhớ mãi tâm trạng hụt hẫng của mình khi rút khỏi Huế. Một số đồng đội của chàng rời hàng ngũ “hồi chánh” theo địch. Chính chàng cũng đã nhìn thấy một phần của một sự thật khác về cái miền Nam trong “kìm kẹp Mỹ ngụy” không như mình vẫn tưởng. Lá cờ Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam trên kỳ đài Ngọ Môn bị máy bay trực thăng của quân “ngụy” bắn tơi tả.

Từ đó, khi Thúc Sinh nhờ chàng đưa các em Mã Kiều Nhi, Vương Thúy Kiều, Đạm Tiên đến phục vụ các loại thủ trưởng, chàng đã rất thản nhiên.

5.

Mã Kiều Nhi nói với tôi: “Em tuổi gà và cũng như gà, em đi tìm giun, không thấy giun mà chỉ thấy dây thun. Biết là dây thun nhưng vẫn nuốt.”

Tôi nói: “Anh cũng chỉ là một thứ dây thun thôi. Nuốt vào thắt ruột chết đấy.”

Kiều Nhi bảo cũng chả sao. Nàng khoe vú: “Hàng chuẩn.”

Tôi nhìn-cười-bảo: “Tuyệt.”

Kiều Nhi nói: “Cho hôn đấy.”

Thúy Kiều bất ngờ xuất hiện: “Hàng của nó chỉ là thứ phẩm thôi. Đây mới là hàng xịn.” Rồi nàng cũng vạch vú ra.

Tôi bảo: “Siêu phẩm.”

Nhưng khi Đạm Tiên khoe hàng, ngôn ngữ bỗng trở nên ú ớ. Đạm Tiên dịu dàng: “Nếu anh không đủ đức tin thì cứ bóp thử.”

Tôi không phải Tô-Ma của Chúa Giêsu, nên tôi tin. Đây là thứ ảo tượng ma quái, nó chỉ tùy thuộc vào cái cảm thức tiên thiên về bản chất của hiện tượng. Vì thế, bóp hay không bóp cũng không khác gì nhau. Tôi nói: “Anh chỉ bóp khi biết chính xác nó là thật. Và vì anh biết nó là thật nên không cần bóp thử.”

Đạm Tiên hỏi: “Vậy thì anh muốn gì?”

Tôi nói như một người đàn ông chân chính: “Anh muốn nó là của riêng anh.”

Đạm Tiên cười: “Không bao giờ. Nó là của riêng em và em muốn phân phát nó một cách rộng rãi nhất. Nếu anh muốn, anh cũng có phần.”

Tôi lắc đầu: “Anh ăn bánh trả tiền.”

Đạm Tiên lại cười: “Anh là đồ dây thun. Nhưng em không xài tiền âm phủ.”

Bất ngờ, Thúy Kiều xen vào: “Em biết anh hợp với tuổi gà. Em cũng tuổi gà đấy.”

Đạm Tiên nói: “Em cũng là gà thích nuốt dây thun.”

Cái dây thun của tôi bị kéo căng ra. Ba con gà mái dầu mổ tôi gãy xương sườn.

Khi tỉnh dậy, tôi thấy mình nằm dưới đất trong một căn nhà trống trơn. Nhưng tôi lại nghe thấy những âm thanh kỳ lạ phát ra từ bốn bức tường, trên trần và dưới nền nhà. Đó là tạp âm không thể phân biệt giữa những tiếng rên sung sướng và đau khổ. Tôi cũng ngửi thấy mùi hiu hắt của đất thó, mùi tanh tưởi của tinh trùng, mùi nếp chín nồng nồng của âm hộ. Tôi có cảm giác như trong âm ty, nhưng ánh sáng bình minh đang rực rỡ chiếu qua khung cửa. Tôi đã qua một đêm hay nhiều đêm cũng không thể kiểm chứng. Tôi thử cử động chân tay. Rồi tôi xoay người ngồi dậy. Đây là thực tại. Những bức tường trắng vẫn rầm rì những âm thanh của thống khoái và đọa đày. Và tôi nhìn thấy những bức tường oằn oại. Không phải ảo giác.

Mã Kiều Nhi hỏi: “Anh nuôi em được không?”

Tôi nói: “Nếu em độ cho anh trúng số.”

Kiều Nhi nói: “Em chỉ có thể độ cho anh giải thoát thôi.”

Tôi bảo: “Nhưng anh còn muốn tục lụy.”

Kiều Nhi nói: “Vậy thì anh nên sống với Thúy Kiều.”

Tôi bảo: “Anh không thích tính cách của Thúy Kiều. Mặc dù Thúy Kiều là một mẫu đàn bà nhân hậu.”

Thúy Kiều bước ra khỏi bức tường. Tôi không còn nghe thấy những âm thanh rầm rì nữa. Thúy Kiều nói: “Em vẫn luôn là một người yếu đuối.”

Tôi nhìn Kiều. Giống như lúc Kiều ngồi ở lầu Ngưng Bích. Mặt nàng nhợt nhạt. Sương khói. Tôi cảm thấy ái ngại. Nhưng tôi có thể làm gì? Tôi không phải Thúc Sinh, Sở Khanh hay Từ Hải. Tôi không thể đeo mang số phận người khác. Tôi là kẻ nhìn ngắm. Kẻ chơi chạy. Kẻ phá hủy.

Đạm Tiên ở dưới đất chui lên. Nàng như lửa. Tôi nói: “Em biến anh thành kẻ tham lam.”

Nhưng Đạm Tiên cười: “Anh không biết lượng sức mình.” Ừ, có lẽ tôi chỉ nói cho sướng miệng. Tuy thế, Đạm Tiên vẫn đốt tôi bừng bừng cháy. Đạm Tiên là ân huệ, nàng đẩy tôi tới một cảnh giới trừu tượng mê hoặc. Không còn biết mơ hay thực. Và tôi không phân biệt được ai là Mã Kiều Nhi, ai là Vương Thúy Kiều, ai là Đạm Tiên. Tôi bơi trong một không gian lỏng. Mất trọng lực.

Thúc Sinh bảo sân khấu chính trị bây giờ chỉ toàn bọn sâu bọ và ngu dốt, thằng nào có tư cách một chút thì lại mê gái. Mã Kiều Nhi bảo: “Đàn ông mê gái mới là người có tư cách.”

Thúc Sinh nói thêm: “Thế nhưng, những người đàn ông đích thực ấy lại bị bọn âm binh biến thành nhơ bẩn.”

Đạm Tiên hỏi: “Anh không phải là phù thủy của bọn âm binh sao?”

Thúc Sinh nói: “Anh về hưu rồi.”

Đạm Tiên bảo: “Các bác về hưu đều rách chuyện.”

Thúc Sinh cười trừ: “Đấy là vấn đề thuộc về cơ chế em ạ.”

Đạm Tiên nói: “Em là ma nên em đi guốc trong bụng tất cả các anh. Các anh chỉ khác nhau ở chỗ thật hay giả.”

Thúy Kiều xen vào: “Em không quan tâm chuyện thật hay giả. Em tin tất cả những ai đến với em, cho dù họ cứng hay mềm.”

Tôi thường xuyên mất trọng lực.

Thúc Sinh quàng tay ôm vai Thúy Kiều, nói: “Nếu như có thể bắt đầu lại, chắc chắn tôi sẽ làm khác, sống khác.”

Từ Hải hỏi: “Anh biết sai từ bao giờ?”

Thúc Sinh đáp: “Ngay sau khi vào Đảng.”

Từ Hải lại hỏi: “Đảng sai từ bao giờ?”

Thúc Sinh đáp: “Ngay sau khi thành lập.”

Từ Hải hỏi tiếp: “Người thành lập Đảng sai từ bao giờ?”

Thúc Sinh im lặng một lúc rồi nói: “Từ Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp tại Tours tháng 12.1920, gia nhập Cộng sản Quốc tế thứ ba và trở thành một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp.”

Từ Hải nói: “Đáng lẽ chúng ta chỉ nên vui chơi.”

Thúc Sinh nói: “Cách mạng cũng là một cuộc chơi.”

Từ Hải bảo: “Chúng ta mất quá nhiều.”

Vương Thúy Kiều nói: “Cả hai anh đều không còn giống như hồi mới gặp em.”

Đạm Tiên nói: “Nếu không có Mao Trạch Đông thì các anh vẫn phong kiến.” Thúc Sinh cười: “Thời đại Mao Trạch Đông chỉ là bình mới rượu cũ. Vẫn là một thứ trung quân ái quốc vô điều kiện. Chuyên chính hơn vì thế cũng ít nhân tính hơn.”

Mã Kiều Nhi nói với tôi: “Từ Hải đã biến thái. Thúc Sinh cũng biến thái.”

Tôi bảo: “Anh cũng biến dạng.”

Mã Kiều Nhi cười: “Anh từ xấu giai đến xấu lão.”

Tôi cũng cười: “Lẽ ra, đàn ông khi về già thường đẹp hơn nhờ từng trải và tự tại.”

Mã Kiều Nhi nói: “Anh xấu vì lúc nào cũng thảng thốt.”

Tôi bảo: “Anh tưởng mình nham nhở.”

Mã Kiều Nhi xoa đầu tôi: “Thực ra, anh rất dở hơi.”

Tôi ngả đầu vào lòng Mã Kiều Nhi: “Đó là những vết thương. Những cơn đau bất chợt. Và ám ảnh bởi cái chết.”

Mã Kiều Nhi hỏi: “Tại sao lại có những vết thương. Chiến tranh ư?”

Tôi nói: “Không. Nạn nhân của hòa bình?”

Mã Kiều Nhi nói: “Em không hiểu.”

Tôi bảo: “Giết người hay phủ nhận người khác trong hòa bình bao giờ cũng tàn nhẫn hơn thời chiến, bởi nó vô lý và vô nhân tính. Chúng ta bị giết mỗi ngày. Điều này không phải ai cũng nhận ra.”

Mã Kiều Nhi lắc đầu: “Em không quan tâm. Nhưng em lo nghĩ về anh.” Nàng nói thêm: “Anh cần được thoải mái.”

Tôi không nói nữa. Và tôi nằm xuống.

Bốn bức tường xung quanh tôi lại rầm rì.

Tôi nghe những tiếng đàn ông huyên thuyên. Đè lên nhau. Đan xéo nhau. Mỗi lúc một dày hơn. Và rồi không còn những bức tường xi măng nữa, chỉ là những tiếng nói dựng lên, bao kín. Những bức tường tiếng nói che khuất tôi, hay che khuất chung quanh. Và rồi nó trở nên quá mức chịu đựng. Tôi muốn hét lên. Nhưng tôi hét không ra tiếng. Đúng lúc ấy, tôi thấy Mã Kiều Nhi đè lên tôi.

Rồi tôi nghe những tiếng chạy thình thịch trên mặt đất. Người tôi nẩy lên. Tôi cần thoát ra khỏi chỗ này. Tôi nghĩ thế, nhưng tôi bất lực. Mã Kiều Nhi vẫn đè trên tôi. Mùi của nàng thiên cổ.

Tôi mở mắt. Đạm Tiên đứng trên đầu tôi. Ở tư thế nằm, tôi thấy Đạm Tiên sừng sững và đang trút xuống, như thác.

Tôi muốn nói: “Em đừng biến đi”, nhưng tôi nói không thành lời. Rồi người tôi bỗng nhẹ hẫng.

Mã Kiều Nhi nói: “Anh cứ nằm nghỉ đi.”

Thế giới quanh tôi như không có, chưa có. Khởi thủy chỉ có lời. Nhưng lời không hiện diện. Tôi há miệng cho lời tuôn ra. Nhưng chỉ có gió. Gió thông suốt từ trong ra ngoài và từ ngoài vào trong. Tôi xoay người nằm nghiêng. Vẫn chỉ thấy gió.

Từ Hải hỏi Thúc Sinh: “Làm thế nào để sửa sai?”

Thúc Sinh nói: “Có hai cách. Một là ra khỏi Đảng. Hai là xóa bỏ Đảng.”

Từ Hải lắc đầu. Ý nghĩ ấy chưa bao giờ có trong đầu chàng. Từ Hải hỏi: “Không có cách thứ ba sao?”

Thúc Sinh nói: “Tất cả các cách còn lại đều vô ích.”

Từ Hải hỏi tiếp: “Anh chọn cách nào?”

Thúc Sinh nói: “Không chọn cách nào cả.”

Từ Hải hỏi mà dường như không nhắm vào ai: “Vậy thì chúng ta đang vui chơi, hay làm cách mạng?”

Thúc Sinh cười, nói: “Chúng ta đang kiếm ăn.”

Từ Hải bỗng tràn ngập một mối hoài cảm về cái ngày chàng đầu hàng Hồ Tôn Hiến. Niềm tin chỉ dành cho bọn ngây thơ. Cùng lúc, Thúc Sinh có một niềm hưng phấn khác, bảo: “Bất kể thời đại nào, buôn thần bán thánh, hoặc mua quan bán chức đều rất ngon ăn. Cậu nên theo tôi.”

Từ Hải nhớ lại việc Vương Thúy Kiều phải bán mình chuộc cha, chàng quyết định theo Thúc Sinh. Họ môi giới buôn bán từ một chỗ làm nhỏ mọn đến những địa vị cao sang nhất. Họ ăn tiền cò cả bên bán và bên mua. Và họ còn được cả ơn nghĩa.

(Còn 4 kì)

Source : pro&contra
 

Ở nơi không có gió thổi qua .



Tặng CT 


Ở nơi không có gió thổi qua . 
Những cánh bướm không còn chao lượn . 
Những cánh hoa  ủ rũ 
Ngọn cỏ hắt  hiu .

Ở nơi không có gió thổi qua
Không còn tiếng chim hót 
Mây ngừng trôi

Không còn nghe  tiếng ru hời của mẹ
gương mặt trẻ thơ
Bỗng trở nên già cỗi
Ở nơi không có  gió thổi qua
Không còn hoa cỏ mùa xuân
Không còn tiếng ve mùa hạ
Chỉ còn  mùa thu trút lá
trơ lại mùa đông
Em bé nức nở 
Cô gái  xuân thì thổn thức
mẹ già cúi mặt 
rưng rưng nguyện cầu 

Những cánh bướm
Những cánh hoa 
lá cỏ

Hãy đợi ! 
và đừng vội lìa đời

Ở phía chân trời 
tia chớp
báo hiệu 
cơn giông 

Gió sẽ trở lại  !


Mặt trời sẽ mọc ! 
và gió 
sẽ mang  đến niềm vui 
cho bướm ,hoa , lá cỏ

 Bé thơ ơi
 Em gái ơi
Thôi đừng khóc 

Gió sẽ  trở lại !
đem về hương sắc mùa xuân  
đem  lại nụ cười 
cho bé thơ  ,  em gái

Từ  vực sâu 
Hoa , cỏ sẽ mọc lên
Đón ánh mặt trời
Reo vui với gió  

Gió cũng sẽ lau khô
những dòng nước mắt 
đã chảy ngược rất lâu 
vào trong  lòng Mẹ

Trần Hồ Dũng

1/5/13

VÀNG PHAI





 vàng  phai


người nhặt chút tàn phai

ép vào trang thư cũ

mai này không gặp nhau

hương xưa còn đọng lại


                                người nhặt chút tro tàn

                                  thả vào lòng biển cả

                                 mai này không còn nhau

                                 còn biển khơi sóng vỗ

                                 tranhodung .washington.usa.