Vai trò của Phật giáo trong xã hội đương đại
Pháp thoại của thiền sư Nhất Hạnh ngày 18.03.2005 tại Học Viện Quốc Gia Chính Trị HCM, Hà Nội
Lời giới thiệu
Kính thưa Thiền sư,
Thưa quý khách,
Thưa tất cả các nhà khoa học, các đồng chí và các bạn.
Hôm qua chúng ta đã thu được rất nhiều thắng lợi về mặt nhận thức cũng như những vấn đề thông tin thực tiển. Hôm nay chúng ta sang ngày làm việc thứ hai và cũng là ngày kết thúc, Thiền sư sẽ thuyết trình với tất cả chúng ta chủ đề: Vai trò của Phật Giáo trong xã hội đương đại. Với nội dung như thế, vẫn có hai phần: Phần một là Thiền sư thuyết trình và phần thứ hai là hội nghị. Các đồng chí, các bạn sẽ đặt câu hỏi để Thiền sư tọa đàm cùng tất cả chúng ta. Bây giờ đến giờ làm việc, xin kính mời Thiền sư và tất cả quý khách. Xin cảm ơn.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh thuyết giảng
Mời thính chúng cùng tăng thân Làng Mai xưng tán đức Bồ Tát Quan Thế Âm trước khi bắt đầu. Kính thưa liệt vị, hôm nay các thầy các sư cô của tăng thân Làng Mai sẽ xướng bài Nguyện ngày an lành, đêm an lành bằng tiếng Anh và sau đó sẽ xướng tụng bài Tào Khê một dòng biếc bằng tiếng Việt:
Tào Khê một dòng biếc
Chảy mãi về phương Ðông
Quan Âm bình nước tịnh
Tẩy sạch dấu phong trần
Cành dương nước Cam Lộ
Làm sống dậy mùa xuân
Đề hồ trong cổ họng
Làm lắng dịu muôn lòng
Nam mô Bồ Tát Thanh Lương Ðịa
Nam mô Bồ Tát Thanh Lương Ðịa
Nam mô Bồ Tát Thanh Lương Ðịa
(Chuông).
Tiếp xúc với tổ tiên trong từng tế bào cơ thể
Xin kính chào liệt vị.
Hôm qua chúng ta có những câu hỏi chưa được trả lời. Chúng tôi nghĩ, trả lời một vài câu hỏi của ngày hôm qua có thể tiếp nối được chủ đề của ngày hôm nay. Có một vị hỏi: Trong khi cúng lễ mình có sự cầu xin, vậy sự cầu xin đó có phải là mê tín hay không? Trước hết, tôi nghĩ cầu nguyện là một hình thức truyền thông. Thờ cúng tổ tiên là mình thực tập để có truyền thông với tổ tiên mỗi ngày: Mỗi khi chúng ta thắp một cây hương và cắm lên bàn thờ của tổ tiên hay mỗi khi chúng ta thay nước bình hoa trên bàn thờ tổ tiên là chúng ta có thể tiếp xúc được với tổ tiên, không phải trên bàn thờ mà là tổ tiên trong từng tế bào của cơ thể chúng ta. Điều này rất quan trọng. Mỗi khi có việc gì đó xảy ra trong gia đình chúng ta, chúng ta có bổn phận phải báo cáo lên tổ tiên và tổ tiên có quyền được biết. Ví dụ như chúng ta gả con gái cho một anh chàng ở làng bên hoặc chúng ta gởi con trai vào trường đại học, tổ tiên cũng phải biết những điều đó. Thắp một cây hương, dâng một cành hoa trên bàn thờ, đó là một hành động truyền thông, không có gì là mê tín hết và bàn thờ có nghĩa là trái tim của chúng ta.
Vì không có truyền thông cho nên xã hội ngày nay đã tạo ra không biết bao nhiêu là ma đói. Cha không truyền thông được với con, vợ không được truyền thông với chồng. Người trẻ không cảm thấy gia đình là tổ ấm hạnh phúc nên đã không tin vào gia đình. Nếu không tin vào gia đình, không tin vào cha mẹ thì làm sao tin được vào tổ tiên? Xã hội chúng ta ngày nay, mỗi ngày tạo ra hàng trăm, hàng ngàn những con ma đói. Những con ma bằng thịt, bằng xương đàng hoàng, họ đi bơ vơ trong cuộc đời, họ không cảm thấy có chút gì dính líu tới gia đình, tới truyền thống, tới tổ tiên. Đó là những con người rất đói, họ không biết họ thuộc vào một truyền thống, một gia đình, một nền văn minh nào. Họ khước từ tất cả những truyền thống, những cơ cấu, những cấu trúc xã hội mà họ đang có. Tại vì họ đã từng đau khổ nhiều vì những cái đó, vì gia đình, vì học đường, vì nhà thờ, vì chùa, vì xã hội, cho nên họ trở thành những con ma đói.
Nhìn quanh, chúng ta sẽ thấy có rất nhiều ma đói, ở Tây phương cũng như ở Đông phương. Họ đói cái gì? Họ đói hiểu, đói thương, họ cảm tưởng rằng không ai hiểu, không ai thật sự thương họ, từ cha mẹ cho đến bạn bè, anh em, tổ tiên, giòng họ. Họ hoàn toàn mất gốc. Ðó là hiện tượng phóng thể (Aliénation) 1*. Phóng thể tức là không còn thấy dính líu tới cái gì nữa. Chúng tôi gọi đó là những con ma đói. Những con ma đói không phải là những linh hồn đi vất vơ, vất vưởng trên mây mà là những con người bằng xương bằng thịt ngày hôm nay. Chúng tôi đã từng gặp rất nhiều những con ma đói như vậy. Chúng tôi đã đem tuệ giác và pháp môn của đạo Phật để cứu những con ma đói đó, đưa họ về với gia đình, với truyền thống, với nền văn hóa của họ.
Khi nhìn những con ma đói, chúng ta có thể nhận diện họ dễ dàng: Cách họ đi, cách họ nhìn, cách họ làm một cái gì đó cũng đủ chứng tỏ họ là một người không có gốc rễ, không có một dính líu gì với xã hội, với nền văn minh và với cấu trúc gia đình này. Tuy họ đói tình thương, đói hiểu biết nhưng giá như chúng ta đem tình thương, đem hiểu biết để tặng họ thì họ cũng không tiếp nhận được, tại vì họ có nỗi nghi ngờ rất lớn. Dù mình có tình thương, có hiểu biết đích thực hiến tặng cho những người đó, họ vẫn còn nghi ngờ. Vì vậy muốn giúp những con ma đói đó chúng ta phải có rất nhiều kiên nhẫn.
Chúng tôi đã đi ngang qua những kinh nghiệm đó, chúng tôi đã từng giúp những con ma đói gốc Âu châu, gốc Mỹ châu, gốc Phi châu, trung Á và Á đông. Bây giờ xã hội Á đông cũng đã bắt đầu sản xuất rất nhiều những con ma đói, những thanh niên và những thiếu nữ bơ vơ trong cuộc đời. Những con ma đói đó không có được sự truyền thông với gia đình, với truyền thống, với tổ tiên, với xã hội. Nếu họ cầu nguyện được tức là họ có thể nói chuyện được. Ví dụ như khi họ nói: Lạy các vua Hùng, chúng con rất đội ơn các vua Hùng đã dựng nước, đã giữ nước để cho chúng con hôm nay có một giang sơn. Nói như vậy tức là đã truyền thông rồi, mà nếu truyền thông được thì không còn bị bế tắc và người đó sẽ khỏi bệnh, không mắc bệnh tâm thần. Cho nên quý vị đừng vội vàng cho những lời cầu nguyện, những lời cầu xin đó là mê tín. Những bà cụ, những phụ nữ, những thiếu niên, thanh niên đó, nếu họ còn cầm được cây hương, cầu nguyện được với tổ tiên, tức là họ còn nói chuyện, còn truyền thông được. Chính cái đó giữ cho họ không bị bệnh tâm thần, không bị bệnh bế tắc. Chúng ta phải cẩn thận lắm mới được. Nếu thực sự có tình thương và sự hiểu biết lớn, chúng ta sẽ dung nạp được tất cả, chúng ta sẽ không vội vàng gán cho họ cái nhãn hiệu mê tín dị đoan.
Khi chúng ta có một đứa cháu bị ốm nặng, chúng ta cần phải lo nhiều chuyện. Chuyện thứ nhất là chúng ta gọi điện thoại cho bác sĩ. Chuyện thứ hai là chúng ta có thể nấu cháo cho cháu. Chuyện thứ ba chúng ta có thể làm là đốt một cây hương trên bàn thờ tổ tiên và cáo với tổ tiên là: Cháu đang bệnh nặng, xin tổ tiên ông bà phù hộ cho cháu. Đốt một cây hương trên bàn thờ tổ tiên để cầu sự che chở cho cháu, tôi nghĩ không là một sự mê tín. Ta thấy rằng: Tổ tiên không phải ở ngoài chúng ta, không phải ở trên bàn thờ mà tổ tiên ở trong từng tế bào cơ thể chúng ta. Đã biết bản chất của tổ tiên là không sinh, không diệt mà chúng ta lại nói tổ tiên không còn nữa thì đó là một sai lầm. Tổ tiên đang có mặt đích thực trong từng tế bào của cơ thể chúng ta vì vậy chúng ta có thể đối thoại, có thể nói chuyện với tổ tiên. Khi mà chúng ta nói với tổ tiên: Cháu nó ốm rất là nặng, xin ông bà, xin tổ tiên che chở cho cháu là chúng ta đánh động đến sự có mặt của tổ tiên trong từng tế bào cơ thể chúng ta và cơ thể cháu. Nếu chúng ta lắng nghe cho kỹ, chúng ta sẽ thấy có sự đáp ứng của tổ tiên.
Có lần một phụ nữ, người Tây phương tới khóa tu trong tình trạng có bệnh cancer (ung thư), trong lúc buồn chán, tuyệt vọng có tiết lộ cho chúng tôi biết rằng bà có ông nội sống đến chín mươi sáu tuổi. Tôi nói với phụ nữ Tây phương đó nên cầu nguyện với ông nội đi: Ông nội ơi giúp con! Con biết là ông nội đang có mặt trong từng tế bào cơ thể của con, ông nội giúp con đi! Con biết ông nội có một sức khỏe rất vững chãi. Con biết là những tế bào của ông nội đang có mặt trong tế bào của con. Tôi chỉ hướng dẫn cho người phụ nữ Tây phương đó cầu nguyện như vậy, cầu nguyện với ông nội của mình đã sống đến chín mươi sáu tuổi. Sau một thời gian cố gắng thì căn bệnh cancer của phụ nữ đó đã lành.
Mình đánh động được sự có mặt của ông nội trong từng tế bào cơ thể, mình tiếp xúc được và ông nội có thể đáp ứng được, tại vì những tế bào rất tốt, rất khỏe mạnh của ông nội cũng có mặt ở trong từng tế bào của chúng ta. Chúng ta biết những gen 2* mà tổ tiên để lại trong từng tế bào đang chờ đợi nếu có điều kiện thích ứng thì nó phát hiện, nếu không có những môi trường thuận lợi thì nó không phát hiện. Chúng ta ai cũng có những gen của bệnh tâm thần nhưng nếu chúng ta sống trong môi trường tốt, gen của tâm thần sẽ không bao giờ xuất hiện. Vì vậy vấn đề môi trường rất là quan trọng, đó là vấn đề hậu thiên. Tiên thiên (Nature) có đó nhưng phải có hậu thiên (Nurture) 3* mới có cơ hội phát hiện.
Có một hôm, tôi ngồi thiền, bỗng nhiên tôi thấy trong người rất khỏe và tôi nói chuyện với bố tôi. Tôi nói: Bố ơi, hai bố con mình đã thành công rồi! Tôi nói chuyện như vậy và tôi cảm thấy hạnh phúc của tôi lớn lao vô cùng. Quý vị hỏi thành công ở chỗ nào? Tôi sẽ nói: Trong giây phút ngồi thiền đó tôi cảm thấy hoàn toàn được tự do, tôi không còn một ước mơ nào nữa hết, tôi không còn một dự án nào phải theo đuổi nữa hết. Tôi thấy hoàn toàn thảnh thơi, hoàn toàn tự do, không có một cái gì lôi kéo được mình nữa. Mình ngồi yên như núi Tu Di, rất vững chãi, rất thảnh thơi. Sự thành công đây là tự do, tự do lớn. Mình không bị một hận thù hay một tham vọng nào kéo mình đi được nữa. Tại vì mình đã có được tự do, mình đã có được giải thoát.
Trước kia, bố tôi đã từng làm việc ở trong chính phủ Nam triều, đã có những lúc lên, lúc xuống và cũng đã từng đi tìm sự an bình của tâm hồn, cũng đã từng niệm Phật, tụng kinh nhưng chưa thành công. Đến đời tôi, tôi thực tập thành công. Tôi thấy rõ ràng là mỗi ngày mình đều được làm cái việc mình thích, mình được bước những bước chân thảnh thơi. Mỗi bước chân đưa mình tiếp xúc được những mầu nhiệm của sự sống, có tính cách nuôi dưỡng, trị liệu. Mỗi ngày mình tiếp xúc được với những mầu nhiệm sự sống bằng mắt, bằng tai. Mỗi ngày mình có thể trao truyền được những gì đẹp nhất, hay nhất, quý nhất mà mình chế tác được trong đời sống tu tập của mình cho những người đệ tử xuất gia và tại gia.
Tổ chức được những khóa tu cho người cư sĩ giúp cho họ thiết lập lại được truyền thông đem lại được sự hòa giải, nở lại được nụ cười. Những điều đó là những điều đưa lại cho chúng tôi rất nhiều hạnh phúc. Mỗi ngày đều được làm những gì mình thích thì mình đâu cần cái gì nữa. Mỗi hơi thở, mỗi bước chân, mỗi nụ cười, mỗi cái nhìn đều đem lại hạnh phúc thì rõ ràng mình không còn tham vọng, hận thù nào hay vướng mắc nào nữa. Đó là sự thành công của người tu cho nên tôi mới nói chuyện với bố là: Bố ơi, cha con mình đã thành công rồi! Bởi vì con thành công tức là bố thành công. Ngày xưa bố cũng niệm Bụt, cũng tụng kinh nhưng bố không thành công, chưa thành công nhưng con bây giờ có cơ hội làm thành công được. Như vậy, thành công cũng là thành công cho bố. Khi mình nói chuyện với bố như vậy thì đó là sự truyền thông, sự thông thương.
Tôi xin quý vị hiểu cho, nếu những người thực tập cầu nguyện, cầu xin chưa có được tuệ giác: Đối tượng cầu xin với chủ thể cầu xin là một. Nhưng trong hiện tại, họ đang có thể truyền thông được với tổ tiên tâm linh hay là tổ tiên huyết thống của họ, chính cái đó giữ cho họ không bị bệnh tâm thần. Khi mình còn nói chuyện được, dù nói chuyện với tổ tiên huyết thống tức ông bà hay tổ tiên tâm linh tức Phật, Bồ Tát hay các vị Tổ sư là còn có sự thông thương, mình chưa bị phóng thể, mình chưa bị mất gốc. Chúng tôi thấy rằng sự truyền thông đó rất quan trọng và mình đừng vội cho đó là mê tín.
Khi chúng ta đến đền Hùng hay đưa những người trẻ lên thăm đền Hùng, đó là một sự thực tập truyền thông tiếp xúc với tổ tiên. Chúng ta thấy hình ảnh cụ Hồ, hình ảnh của một trong những vị tổ tiên còn trẻ ở những nơi gặp gỡ. Khi mình tiếp xúc được với cụ Hồ là mình cũng có thể tiếp xúc được với Lý Thường Kiệt, với Trần Hưng Ðạo, với các vua Hùng. Phải có truyền thông chúng ta mới không bị bệnh, không bị mất gốc. Số người bị bệnh tâm thần ở trong xã hội chúng ta hôm nay rất đông mà nguyên do sâu sắc nhất là bị mất gốc, là phóng thể, là không còn truyền thông được với cha mẹ, với tổ tiên, tổ tiên huyết thống và tổ tiên tâm linh. Thực tập như thế nào để giữ được truyền thông, tái lập được truyền thông rất là quan trọng. Trong đạo Phật chúng ta có rất nhiều phương pháp cụ thể để giúp tái lập truyền thông giữa cha mẹ, con cái, giữa vợ chồng và giữa mình với tổ tiên huyết thống và tổ tiên tâm linh.
Chúng tôi đã thiết lập ra sự thực tập: Ba cái lạy và năm cái lạy 4*. Người Tây Phương đã thực tập và đã chữa trị được nhiều nỗi cô đơn, bức xúc và giúp cho họ thiết lập lại truyền thông với truyền thống của họ và với gia đình họ. Quý vị hãy tưởng tượng một khu đồi rất lớn và năm ngàn người Châu Âu thực tập lạy xuống dưới sự hướng dẫn của một thầy gốc Việt Nam. Khi họ lạy xuống như vậy, đầu, hai tay, hai chân của họ dính vào đất, chúng ta gọi là ngũ thể đầu địa 5*. Họ buông hết ra những giận hờn, những tuyệt vọng để cho đất ôm lấy họ, họ tiếp xúc được với tổ tiên. Họ được hướng dẫn rằng: Tổ tiên có mặt trong từng tế bào của cơ thể và tất cả những đức tính của tổ tiên luân lưu trong dòng máu của họ. Với sự hướng dẫn của một thầy hay là một sư cô, họ có thể nằm trong tư thế phủ phục hai ba phút để quán chiếu, để thấy rõ ràng rằng họ có gốc rễ và họ tiếp xúc được với tổ tiên tâm linh, tổ tiên huyết thống. Khi họ đứng lên thì họ đã trở thành một con người khác, họ buông bỏ tất cả những hận thù, tuyệt vọng, giận hờn và họ tiếp xúc được với tổ tiên của họ.
Chúng tôi xin đề nghị, nếu có dịp quý vị nghiên cứu ba cái lạy, năm cái lạy mà chúng tôi chế biến từ những nguyên liệu trong kho tàng giáo lý đạo Phật. Chúng tôi đã chế tác ra để giúp cho những người Tây Phương móc nối được, tiếp nối được với tổ tiên huyết thống của họ. Chúng tôi có sáng tác ra lời cầu nguyện đầu năm cho người Tây phương vào ngày tết Tây. Thay vì mở nút chai champagne và chơi nhạc, họ có thể đốt hương, đứng chắp tay trước bàn thờ tổ tiên, đọc bài cầu nguyện và hứa với tổ tiên là trong năm mới họ sẽ sống một cuộc sống vững chãi hơn, thảnh thơi hơn. Ở đây chúng tôi chỉ có một lời cầu nguyện mà chúng tôi sáng chế cho các thầy các sư cô mỗi khi có buổi giỗ Tổ. Tổ này là Tổ tâm linh.
Lời cầu nguyện
Chúng con tăng thân xuất gia, hôm nay vào ngày giỗ sư tổ, tập hợp tới chùa, kính cẩn trình diện trước Tổ đường với tất cả lòng dạ chí thành của chúng con. Cúi xin các thế hệ Tổ Sư của chúng con từ bi chứng giám. Chúng con ý thức được rằng cây có cội nước có nguồn, chúng con biết Bụt và các thế hệ Tổ sư là cội nguồn của chúng con và chúng con là sự tiếp nối của liệt vị.
Chúng con nguyện tiếp nhận tuệ giác từ bi và an lạc mà Bụt và chư Tổ đã trao truyền, nguyện nắm giữ và bồi đắp không ngừng gia tài tâm linh quý giá ấy. Chúng con nguyện tiếp tục thực hiện chí nguyện độ sinh của quý vị, nguyện chuyển hóa những khổ đau trong chúng con, giúp được người đương thời chuyển hóa những khổ đau của họ và mở ra cho những thế hệ tương lai những pháp môn thích hợp có khả năng giúp họ đem đạo Bụt áp dụng được vào trong mọi lãnh vực của sự sống.
Chúng con nguyện thực tập để sống an lạc ngay trong giờ phút hiện tại để nuôi dưỡng chất liệu vững chãi và thảnh thơi trong chúng con và để giúp được những người chung quanh. Chúng con nguyện nhìn nhận nhau là anh chị em trong một gia đình tâm linh, bởi vì chúng con biết rằng tất cả chúng con đều là con cháu tâm linh của liệt vị. Chúng con nguyện sẽ chăm sóc cho nhau để thấy được những khó khăn và khổ đau của nhau để hiểu để thương và để giúp nhau trong công trình chuyển hóa.
Chúng con xin hứa sẽ tập sử dụng các hạnh ái ngữ và lắng nghe để nuôi dưỡng tình huynh đệ trong tăng thân. Nguyện chấp nhận sự soi sáng của tăng thân để nhận diện những khả năng cũng như những yếu kém của mình mà vun trồng hoặc chuyển hóa. Nguyện xóa bỏ mọi tỵ hiềm để có thể nương vào nhau mà đi lên trên con đường thành tựu đạo nghiệp. Chúng con biết chỉ khi nào chúng con làm được như thế thì chúng con mới xứng đáng là con cháu của Bụt và các vị Tổ sư. Chúng con cúi xin sư Tổ cùng tất cả các liệt vị Tổ sư từ bi chứng minh cho tâm thành kính và hiếu thảo của chúng con, những phẩm vật quý giá nhất của sự cúng dường trong ngày giỗ Tổ.
Khi chúng ta cầu nguyện như vậy thì làm gì có chất mê tín ở trong đó. Chúng ta chỉ truyền thông với tổ tiên tâm linh hoặc là tổ tiên huyết thống của chúng ta mà thôi. Chúng ta hứa với tổ tiên tâm linh và huyết thống là sẽ thương yêu nhau và chấp nhận nhau, tha thứ cho nhau. Đó là thứ truyền thông giúp cho tinh thần chúng ta được khỏe mạnh.
Tôi nghĩ rằng nếu trong mỗi gia đình Việt Nam, chúng ta duy trì được bàn thờ tổ tiên và mỗi ngày dành ra một phút để cha mẹ, con cái cùng đứng trước bàn thờ đó thắp một cây hương, chúng ta không cần nói gì hết cũng được, im lặng trong một phút. Cái đó đủ giúp cho chúng ta không lâm vào tình trạng mất gốc và phóng thể. Tôi nghĩ bàn thờ tổ tiên chứng tỏ chúng ta tin vào truyền thống, tin vào tổ tiên của chúng ta. Chúng ta như là cây có gốc, sông có nguồn và chúng ta sẽ không bao giờ đánh mất chúng ta. Chúng ta luôn luôn mang tổ tiên đi vào tương lai.
Tịnh Độ ngay bây giờ và ở đây
Tôi nghĩ một nhà thương gia, một nhà chính trị đều có thể làm được, ở Tây Phương họ đã bắt đầu làm như vậy. Hôm qua chúng tôi có nói rằng: Niết Bàn, Thiên Đường, Tịnh Độ là những cái mà mình có thể tiếp xúc ngay trong giây phút hiện tại. Cái mà chúng ta gọi là Thiên Đường của Xã hội Chủ Nghĩa, theo tôi thấy, nó cũng đã có rồi và nếu có tuệ giác thì chúng ta có thể tiếp xúc với nó ngay trong giây phút hiện tại. Chúng tôi có phương pháp thiền hành tức là thiền đi, đi như thế nào để mỗi bước chân đưa chúng tôi trở về giây phút hiện tại, để chúng tôi có thể tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống và thấy rõ ràng cái mà chúng tôi gọi là Niết Bàn, là Tịnh Độ, nó có mặt ngay trong giây phút hiện tại. Mỗi bước chân như vậy sẽ nuôi dưỡng, chuyển hóa, trị liệu được những khổ đau trong con người của chúng ta. Khi ngồi xuống uống một ly trà mà chúng ta thiết lập được thân tâm vững chãi ngay trong giây phút hiện tại thì hạnh phúc của chúng ta rất lớn.
Chúng tôi là một tăng thân gồm có người xuất gia và tại gia, sống ở những tu viện và những trung tâm thực tập ở Tây phương. Có nhiều người trong chúng tôi đã tốt nghiệp đại học, đã có văn bằng tiến sĩ y khoa hay luật. Chúng tôi đã ra đi làm, đã có lương cao và đã có nhà lớn nhưng khi tiếp xúc được với hạnh phúc của sự tu tập thì chúng tôi thấy rằng hạnh phúc đó lớn quá. Cho nên chúng tôi đã dễ dàng buông bỏ được những địa vị mà chúng tôi có trong xã hội để trở thành người xuất gia hay người tại gia tu học với nhau. Sự tu tập của chúng tôi là làm thế nào để mỗi giây phút trong đời sống hằng ngày đều có hạnh phúc. Vì vậy chúng tôi không đi tìm hạnh phúc trong tương lai mà chúng tôi đi tìm hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại.
Chúng tôi biết rằng xây dựng tình huynh đệ là sự thực tập để chúng tôi buông bỏ được những danh, những lợi ở ngoài đời. Chúng tôi gia nhập vào một tăng thân, mỗi ngày đều có cơ hội sống với nhau trong tình huynh đệ, mỗi ngày đều có cơ hội giúp đời, giúp người để họ có thể thiết lập lại truyền thông, nở được nụ cười và đem lại hạnh phúc trong gia đình của họ. Tuy rằng chúng tôi từ nhiều quốc gia tới, từ nhiều nền văn minh khác nhau nhưng với sự xây dựng tình huynh đệ đưa chúng tôi tới gần với nhau. Không ai trong chúng tôi có một trương mục ngân hàng riêng. Không ai trong chúng tôi có một xe hơi riêng, xe mô tô riêng hay điện thoại di động riêng. Chúng tôi hoàn toàn không có một cái gì hết, chúng tôi sử dụng những tiện nghi của đoàn thể thôi và chúng tôi sống rất hạnh phúc. Trước kia, chúng tôi đã từng sử dụng những số tiền lớn và có những chức vụ quan trọng trong xã hội nhưng một khi buông bỏ rồi thì chúng tôi không còn tiếc nuối gì nữa, tại vì chúng tôi đạt được tình huynh đệ. Tình huynh đệ có tính cách nuôi dưỡng, trị liệu và giúp cho chúng tôi có chất liệu đi tới trên con đường lý tưởng.
Chúng tôi đã từng thiết lập và tổ chức những khóa tu năm ngày, bảy ngày, hai mươi mốt ngày ở tại các nước Âu châu và Mỹ châu. Chúng tôi đã giúp cho vô số những cặp cha con, vợ chồng họ tái lập truyền thông và hòa giải với nhau. Mỗi khi thấy thành quả của sự thực tập được như vậy thì chúng tôi rất hạnh phúc và chính chúng tôi cũng được nuôi dưỡng bằng niềm vui đó. Hạnh phúc đó lớn quá cho nên chúng tôi có khả năng buông bỏ tất cả những danh lợi và uy quyền cá nhân. Chúng tôi làm việc và sống với nhau như một tăng thân, chúng tôi là những người vô sản thực thụ, chúng tôi là những người cộng sản thứ thiệt. Nếu quý vị tới ở với chúng tôi, quý vị sẽ thấy, chúng tôi là những người cộng sản chính hiệu. Chúng tôi không có ai có trương mục ngân hàng riêng, không có xe hơi riêng và chúng tôi chỉ sử dụng những tiện nghi của đoàn thể thôi và chúng tôi rất hạnh phúc.
Đối với chúng tôi, Tịnh Độ là cái chúng tôi đang sống trong mỗi giây phút của đời sống hằng ngày, chứ chúng tôi không tìm Tịnh Độ hay Niết Bàn ở một tương lai xa xôi. Cái mà quí vị gọi là Thiên Đường của xã hội chủ nghĩa thì quý vị cũng có thể đạt được ngay trong giây phút hiện tại, nếu quý vị biết thiết lập, tạo dựng, chế tác được tình huynh đệ. Nếu có tình huynh đệ rồi, quí vị sẽ không có ý hướng muốn loại trừ, tranh giành nhau nữa và quý vị có được Thiên Đường xã hội chủ nghĩa ngay từ bây giờ mà không cần phải đi qua những giai đoạn quá độ này, kia, nọ. Ngay trong hiện tại là chúng ta đã có Thiên Đường, nếu chúng ta biết chế tác tình huynh đệ, biết hiểu nhau và biết tha thứ cho nhau.
Tri giác sai lầm
Phương pháp quán chiếu của đạo Phật trước hết là nhận thức, nhìn nhận sự có mặt của khổ đau. Chúng ta phải công nhận có những khổ đau như là nghèo đói, ngu dốt, bệnh tật hay sự vô tổ chức. Nhưng nếu chúng ta có được tình huynh đệ, tay nắm tay nhau được như anh em một nhà, không vì quyền lợi hay địa vị cá nhân, chúng ta có thể chiến đấu để chiến thắng được bốn tệ nạn: Nghèo đói, bệnh tật, thiếu học và không có tổ chức. Chúng ta cũng biết có rất nhiều khổ đau không phải từ bốn lĩnh vực đó tạo ra mà là từ sự hiểu lầm, từ tri giác sai lầm. Cha hiểu lầm con, con hiểu lầm cha, vợ hiểu lầm chồng, chồng hiểu lầm vợ và đưa tới những bi kịch.
Quí vị chắc còn nhớ câu chuyện chàng Trương và người thiếu phụ Nam Xương 6*. Chàng Trương đi chinh chiến sống sót trở về, lần đầu thấy được đứa con trai của mình. Chàng dụ nó kêu mình bằng bố nhưng thằng bé nhất định không chịu: Ông đâu phải bố tôi, bố tôi là người đêm nào cũng tới. Mỗi khi bố tôi tới thì mẹ tôi nói chuyện hàng giờ với bố và mẹ tôi khóc. Mỗi khi bố ngồi xuống thì mẹ cũng ngồi xuống. Mỗi khi bố tôi nằm xuống thì mẹ cũng nằm xuống. Thằng bé báo cáo với chàng Trương như vậy. Chàng tin rằng, trong thời gian mình ngoài chiến trận, có người đàn ông khác xen vào nội bộ gia đình mình. Cho nên khi thiếu phụ Nam Xương đi chợ về, làm mâm cơm cúng, chàng không cho vợ lạy bàn thờ tổ tiên, không nhìn vợ và không nói chuyện với vợ nữa. Vợ hỏi câu gì, chàng Trương cũng im lặng, bởi vì chàng nghi vợ mình đã ngoại tình, chàng có một nỗi khổ và niềm đau rất lớn vì tri giác sai lầm của chàng.
Nhưng sự thật là làm gì có người nào đi vào trong nhà của thiếu phụ Nam Xương. Chồng đi chinh chiến, thiếu phụ Nam Xương cô đơn, một mình, một bóng thành thử hay nói chuyện với cái bóng của mình ở trên vách: Anh ơi, anh đi lâu quá, một mình em ở nhà làm sao nuôi con được? Rồi một hôm thằng bé đi chơi về hỏi: Ai cũng có bố hết tại sao con không có bố? Đêm hôm đó, thiếu phụ Nam Xương ngồi bên chiếc đèn dầu, nhìn bóng mình hiện lên vách rồi chỉ thằng bé: Bố con đó, con lạy ạ bố đi!
Thiếu phụ Nam Xương không biết tại sao từ khi đi chợ về, chàng Trương không thèm nhìn mặt nàng nữa, nàng hỏi câu gì chàng cũng không thèm trả lời. Nàng đã làm nên tội tình gì để bị chồng đối xử một cách tồi tệ như vậy? Nàng rất lấy làm tủi thân và nàng chỉ âm thầm khóc thôi. Chàng Trương thì cũng bị một vết thương rất là nặng: Người mà mình thương nhớ mỗi đêm, mong cho chiến tranh kết thúc để chóng trở về ôm trong tay mà người đó lại đi phản bội mình, cái nỗi khổ niềm đau này làm sao mà tiêu cho được. Chàng có nỗi khổ, niềm đau lớn quá. Cả hai bên đều khổ hết! Cuối cùng thiếu phụ Nam Xương chịu không được nổi oan ức đã phải nhảy xuống sông tự tử.
Sau khi hay tin vợ chết, chàng Trương trở về chăm sóc đứa con thì buổi tối hôm đó, khi chàng thắp ngọn đèn dầu lên thì đứa nhỏ nói: Ông này, bố tôi đây nè! Bố tôi thường tới mỗi đêm như vậy đó. Bây giờ chàng Trương mới thấy được sự thật nhưng mà đã quá trễ. Người vợ đã chết rồi.
Chúng ta làm khổ nhau tại vì chúng ta có rất nhiều vô minh, có rất nhiều tri giác sai lầm. Cha làm khổ con, con làm khổ cha, vợ làm khổ chồng, chồng làm khổ vợ. Tu tập là để quán chiếu, là để chuyển hóa những tri giác sai lầm, tại vì tri giác sai lầm là nguyên do, là thủ phạm của chín mươi phần trăm những đau khổ mà chúng ta phải gánh chịu. Trong đạo Phật gọi đó là vô minh, vô minh là thiếu hiểu biết, thiếu ánh sáng. Chúng ta sở dĩ sợ hãi nhau, nghi kỵ nhau, muốn loại trừ nhau tại vì chúng ta không hiểu được nhau. Trong chúng ta, người nào cũng có tâm niệm yêu nước yêu dân nhưng chúng ta nghi nhau. Anh đó có thật là yêu nước yêu dân không? Hay là anh có ý hướng muốn lật đổ tất cả? Chúng ta không thấy được sự thật, tại vì chúng ta có quá nhiều nghi ngờ và sợ hãi. Vì vậy tri giác sai lầm, vô minh là một trong ba chất độc, trong đạo Phật gọi là tam độc: Tham, sân, si. Tham tức là tham vọng, sân tức là giận hờn, si tức là tri giác sai lầm. Ngoài ba chất độc đó, còn có chất độc khác như ganh tị, như tuyệt vọng. Có rất nhiều khổ đau tới từ phía ngu dốt, bệnh tật, nghèo đói, vô tổ chức nhưng cũng có rất nhiều khổ đau đến từ vô minh, từ tri giác sai lầm.
Nếu gia đình chúng ta tan nát, không ai tin ai, đó có thể không phải vì nghèo đói, vì bệnh tật mà vì chúng ta không hiểu nhau, chúng ta lên án nhau. Sự thực tập làm tiêu tan những hiểu lầm, thiết lập lại truyền thông, đem lại hạnh phúc trong gia đình là chuyện chúng ta có thể làm được (chuyện này không thuộc phạm vi tôn giáo). Khi có những khổ đau chúng ta có thể tới chùa, tới nhà thờ để cầu nguyện, chúng ta cảm thấy được an ủi một phần nhưng đó chỉ là pommade để xoa dịu vết thương, còn muốn chữa trị chúng ta phải có những biện pháp cụ thể. Trong đạo Phật chúng ta có rất nhiều tuệ giác và những phương pháp để làm chuyện đó.
Thực tập lắng nghe và ái ngữ
Hôm qua tôi có dịp thưa trình với quý vị là trong đạo Phật có những biện pháp, những pháp môn giúp cho chúng ta đem tâm trở về thân để có mặt thực sự trong giây phút hiện tại. Mình có mặt thực sự trong giây phút hiện tại thì mình mới có thể đối phó được với những gì đang xảy ra. Nếu mình không có mặt thì ai giải quyết cho. Vì vậy có mặt trong giây phút hiện tại là viên gạch, là nền tảng của sự thực tập. Mình phải có mặt bây giờ và ở đây để giải quyết vấn đề. Trước hết sự có mặt của mình giúp cho mình tiếp xúc được với những mầu nhiệm của sự sống, để mình được nuôi dưỡng và được trị liệu. Thứ hai, khi có mặt trong giây phút hiện tại thì mình có thể nhận thấy những nỗi khổ niềm đau đang biểu hiện. Với sự thực tập mình có thể nhận diện, ôm ấp làm cho những nỗi khổ, niềm đau được nhẹ bớt, lắng dịu lại. Những điều đó trong kinh đã được chỉ dẫn rất đàng hoàng. Bằng hơi thở có ý thức, bằng bước chân có ý thức mình có thể nhận diện, ôm ấp và làm lắng dịu được những nỗi khổ, niềm đau dâng lên như là nỗi buồn, cơn giận, sự tuyệt vọng.
Khi quý vị tới một trung tâm thực tập, người ta chỉ dẫn cho quý vị những biện pháp rất cụ thể để nhận diện, ôm ấp, đối phó với những nỗi buồn, cơn giận của mình. Rồi sau đó với năng lượng của niệm và của định hùng hậu thì mình có thể chiếu ánh sáng vào trong bản chất của nỗi khổ niềm đau để tìm ra nguyên nhân xa gần. Một khi tìm ra gốc rễ thì mình thực tập quán chiếu và dùng trí tuệ nhổ tận gốc những tri giác sai lầm, nguyên do của những nỗi buồn, cơn giận. Đó gọi là tuệ giác của đạo Phật. Với những phương pháp thực tập như vậy chúng tôi đã tu tập, chúng tôi đã biến đoàn thể chúng tôi thành một gia đình tâm linh có hạnh phúc.
Chúng tôi đã từng đi, từng tổ chức tại chỗ những khóa tu cho thiền sinh ở các nước tới tu tập, có hàng ba bốn ngàn thiền sinh đến từ các nước Âu châu và Mỹ châu. Mỗi mùa hè như vậy chúng tôi thấy ít nhất bốn mươi quốc gia có mặt trong đạo tràng của chúng tôi. Sự tu tập đó giúp cho mọi người lắng dịu, mọi người được tưới tẩm những hạt giống của thương yêu, của hiểu biết, mọi người học phương pháp lắng nghe và ái ngữ để thiết lập lại được truyền thông và hòa giải với nhau. Không có khóa tu nào mà không có những phép lạ mầu nhiệm biểu hiện. Luôn luôn có những cặp cha con, cặp vợ chồng hòa giải được với nhau và đem lại hạnh phúc trong gia đình.
Tôi nhớ một lần có khóa tu cho sáu bảy trăm người tại Oldenburg miền bắc nước Ðức, toàn là cho người Ðức. Tới ngày thứ sáu tôi ra cho họ một bài tập là quý vị đã tiếp nhận pháp môn ái ngữ lắng nghe, quý vị đã biết nghệ thuật lắng nghe bằng tâm từ bi, quý vị đã biết sử dụng ngôn từ hòa ái để giúp cho người kia có thể hiểu được và có cơ hội nói ra những nỗi khổ niềm đau của mình. Tôi giao cho quý vị, nếu quý vị chưa làm được việc hòa giải đó thì quý vị phải hoàn tất trước mười hai giờ đêm hôm nay. Nếu người kia đang có mặt trong khóa tu thì rất dễ vì người kia cũng được đi ngang qua sáu ngày bảy ngày thực tập. Nhưng nếu người kia không có mặt trong khóa tu, quý vị có thể dùng điện thoại di động để làm công việc này.
Sáng hôm sau có bốn người thanh niên Ðức lên báo cáo với tôi là ngày hôm qua họ đã dùng điện thoại di động và họ đã hòa giải được với bố của họ. Trước đó họ không nghĩ rằng họ có thể nói được với bố những lời nhẹ nhàng và có tình nghĩa. Nhưng sau sáu ngày tu tập những hạt giống của hiểu và thương được tưới tẩm và tự nhiên họ có thể nói được ngôn ngữ đó: Bố ơi! con biết rằng trong những năm vừa qua, bố có nhiều khổ đau khó khăn, con đã không giúp được bố mà con đã làm cho tình trạng nặng nề hơn. Con hối hận quá đi, con muốn bố giúp con, bố nói cho con nghe đi tất cả những khổ đau, những khó khăn, những bức xúc của bố và những vụng về của con để con có thể hiểu được bố và con không có dại dột lặp lại những vụng về đó. Bố ơi, bố giúp con đi!
Những người thành niên đó đã có khả năng sử dụng ngôn từ hòa ái mà trước đó họ không làm được. Vì trước đó chưa có ai tưới tẩm hạt giống của hiểu và của thương nơi họ, giúp cho họ thấy rằng bố họ cũng là nạn nhân của những hiểu lầm, của những khó khăn. Pháp môn nầy rất mầu nhiệm. Nếu quý vị tham dự vào một khóa tu bảy ngày, quý vị sẽ thấy rằng tới ngày thứ sáu, quý vị đã thay đổi rất nhiều. Quý vị có thể lắng nghe được, quý vị có thể sử dụng ái ngữ và quý vị có thể mở được cánh cửa trái tim của người kia, lâu nay đóng im ỉm và nhất định không chịu mở ra. Chúng tôi biết rằng con số bốn chàng thanh niên Ðức lên báo cáo, không phải là con số đích thực, tại vì có những người đã thành công nhưng họ mắc cỡ, họ e thẹn, họ không lên báo cáo.
Chúng tôi gồm có những người xuất gia, những người tại gia đã được đào tạo theo mô thức này. Chúng tôi có thể tổ chức được những khóa tu tập, trong đó người thiền sinh tiếp thu những phương pháp thực tập để có thể thành công. Họ có thể tham vấn, chúng tôi có thể soi sáng và giúp cho họ giải quyết những mâu thuẫn, những khó khăn trong liên hệ của họ đối với con cái, đối với cha mẹ, đối với chồng vợ.
Mỗi năm, mỗi tháng, mỗi ngày chúng tôi đều học hỏi thêm tại vì chúng tôi chỉ làm mỗi việc đó. Chúng tôi nghĩ rằng vai trò của đạo Phật là phải giúp cho những gia đình trong xã hội thiết lập lại được truyền thông và đem lại hạnh phúc trong từng gia đình. Ví dụ như trong một thôn làng, một khu phố mà có một ngôi chùa thì ngôi chùa đó phải đóng vai trò lãnh đạo tinh thần, lãnh đạo đạo đức cho khu phố hay thôn làng đó.
Trong ngôi chùa đó thì các thầy sống với nhau như anh em trong một nhà, có tình thương, có tình huynh đệ và các thầy phải đem khả năng chuyên môn học được từ sự tu học của mình để có thể giúp cho những gia đình trong thôn làng đó, khu phố đó. Để làm được chuyện đó, ngôi chùa đó phải có danh sách và phải có hồ sơ của từng gia đình. Trong đó có những gia đình là Phật tử và những gia đình chưa phải là Phật tử hoặc không phải là Phật tử, người Thiên chúa giáo hay người Cộng sản nhưng họ vẫn có thể thừa hưởng được sự thực tập của đạo Phật.
Đạo Phật ứng dụng trong đời sống hàng ngày
Ở Tây phương chúng tôi đã thiết lập những trung tâm gọi là Mindfullness center, trung tâm Thực Tập Chánh Niệm. Trong đó không thờ Phật, không đốt hương, không tụng kinh nhưng tất cả mọi người đều được học hỏi phương pháp thở, phương pháp đi, phương pháp nhận diện những khổ đau, những khó khăn, được học những phương pháp ái ngữ và lắng nghe. Sự thực tập hoàn toàn không có tính cách tôn giáo, tín ngưỡng. Những Mindfullness center, trung tâm Thực Tập Chánh Niệm này chúng tôi lột hết màu sắc tôn giáo và chỉ để nguyên chất của tuệ giác Phật giáo mà thôi. Chúng tôi không sử dụng danh từ Phật học và chúng tôi đã thành công. Trong tương lai chúng tôi muốn mỗi thành phố lớn ở Âu châu, Mỹ châu đều có những trung tâm thực tập chánh niệm như vậy.
Nhà nước bây giờ hiện có chính sách xây dựng những thôn văn hóa, những khu phố văn hóa, những tổ văn hóa, ở trong đó không có những tệ nạn xã hội như mãi dâm, ma túy, như tội phạm, tham nhũng. Chúng ta thấy rằng trong Ðảng và trong nhà nước có những người đã giác ngộ, đã thấy rõ ràng là mình phải đối phó với những tệ nạn xã hội đó. Trên bước đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa xã hội, nếu chúng ta không có chiều hướng về tâm linh của đạo đức thì chúng ta sẽ thất bại. Vì vậy, sự xây dựng những thôn văn hóa, những khu phố văn hóa đó rất là cần thiết. Nếu không, chúng ta sẽ tạo ra một hoàn cảnh mà trong đó những hạt giống xấu, những cái gen xấu của chúng ta và của những người trẻ được tưới tẩm. Những đau khổ sẽ xuất hiện rất nhiều ở khắp mọi lĩnh vực cho nên phải có những cố gắng để xây dựng nếp sống văn hóa. Văn hóa ở đây có nghĩa là đạo đức, là sự vắng mặt của những tệ nạn xã hội.
Nhưng nhà nước với công an và cảnh sát có thể làm được gì ngoài cái chuyện kiểm soát và trừng phạt? Sở dĩ người trẻ họ sa vào vòng ma túy, sa vào vòng băng đảng tội ác hay là sắc dục là vì họ không cảm thấy thoải mái và hạnh phúc trong gia đình. Họ không truyền thông tốt với cha với mẹ, họ thấy cha và mẹ làm khổ nhau. Họ không có gốc rễ trong gia đình, trong văn hóa, trong truyền thống và họ trở thành những con ma đói. Biện pháp giải quyết là phải tận gốc, nghĩa là chúng ta phải làm thế nào để giúp được cho những gia đình đó thiết lập lại được truyền thông giữa cha với con, giữa vợ với chồng, đem lại hòa điệu, thương yêu và hạnh phúc. Đó là công việc mà Phật giáo có thể làm được.
Chúng tôi đã hiện đại hóa được Phật giáo, chúng tôi đã phục vụ được cho cộng đồng Tây phương và cộng đồng Việt Nam ở bên đó. Chúng tôi có niềm tin rằng nếu các thầy, các sư cô và các đạo hữu cư sĩ nắm được những pháp môn thực tập này. Tức là nhận diện, thấy được những gốc rễ của nỗi khổ niềm đau và có thể làm lắng dịu những nỗi khổ niềm đau đó. Giúp cho người ta thực tập được ái ngữ và lắng nghe, giúp cho cha con, vợ chồng tái lập được truyền thông và đem lại được hạnh phúc cho gia đình. Chúng tôi nghĩ rằng đó là công tác căn bản mà đạo Phật có thể đóng góp được.
Trong hai tháng vừa qua, thăm viếng và tiếp xúc với cộng đồng Phật giáo chúng tôi có nhận thức rằng: Cái học của chúng ta đang còn có tính cách lý thuyết hơi nhiều. Tại các trường Cơ Bản Phật học, các trường Trung Học Phật Giáo của chúng ta rất còn lý thuyết, điều này cũng đúng không phải chỉ ở trong Phật Giáo mà ở mọi lĩnh vực giáo dục khác của đất nước cũng như vậy. Vì vậy chúng ta phải lập tức từ bỏ cái học từ chương. Phật học cũng như các ngành học khác phải có tính cách thực dụng. Học được cái gì thì chúng ta phải đem ra thực tập liền lập tức, đó là lời phát biểu của chúng tôi đối với các nhà lãnh đạo ở trong cộng đồng và đại gia đình Phật Giáo.
Ở Làng Mai hoặc tại các trung tâm tu học của chúng tôi, cái học của chúng tôi rất là thực tiễn. Mình giảng dạy cái gì, mình phải làm được cái đó. Nếu sống trong đoàn thể, trong gia đình, trong cộng đồng, mình không thực tập được sự hòa giải, thiết lập được truyền thông và giúp nhau khôi phục lại được tình thương và hạnh phúc thì làm sao mình có thể thành công được trong khi mình đi ra ngoài giúp những người khác? Chúng tôi nghĩ rằng nếu chúng ta thiết lập ra những cơ sở, ví dụ như những Viện Phật Học Ứng Dụng, trong đó chúng ta vừa học, vừa thực tập và làm cho được. Chúng ta sẽ có những người cán bộ, người xuất gia và người tại gia, đi ra phục vụ cho thôn văn hóa trong cộng đồng văn hóa, giúp nhà nước thành công được trong sự xây dựng một cộng đồng tốt đẹp thì sẽ không còn những tệ nạn như tham nhũng, tội phạm, xì ke, ma túy, đĩ điếm.
Trước khi về Việt Nam, phái đoàn chúng tôi đã nghe rằng nạn tham nhũng rất trầm trọng tại Việt Nam. Ðảng cũng như trong Nhà nước rất muốn đánh phá nạn tham nhũng đó. Trong đạo Phật, chúng tôi có nghe nói rằng: Sư tử là con thú rất có sức mạnh và không có con vật nào có thể chiến thắng con sư tử được. Chỉ có một con vật có thể làm con sư tử chết, đó là những con vi trùng, những con vi khuẩn phát triển và sinh sản ngay trong cơ thể con sư tử. Trong đạo Phật gọi đó là sư tử trung trùng (những con vi trùng trong thân thể con sư tử). Chúng ta có thể chiến thắng tất cả những chướng ngại, những khó khăn nhưng nếu để cho những con vi trùng phát triển trong cơ thể của chúng ta thì chúng ta sẽ chết vì những con vi trùng đó. Vì vậy cho nên chúng ta phải cẩn thận lắm mới được.
Trước khi về Việt Nam, chúng tôi đã phát nguyện rằng đừng vì muốn được đối xử dễ dãi và thành công mà mình đi theo con đường của sự tham nhũng. Có thể có những khó khăn khi đi vào phi trường, những cuốn sách đem theo để mình tặng muốn cho nó lọt mau thì mình phải đưa ra một bì thư hoặc ở các cơ quan, các cấp, các ngành, nếu mình muốn cho công việc được dễ dàng thì mình áp dụng các phương pháp mà đa số đều áp dụng, tức là đưa ra những bì thư. Chúng tôi đã bàn rất kỹ với tòa đại sứ Việt Nam ở tại Pháp, chúng tôi nói rằng chúng tôi không muốn nuôi dưỡng tham nhũng nữa và vì vậy chúng tôi cương quyết sẽ không áp dụng phương pháp đó, dù chúng tôi gặp những khó khăn, dù chúng tôi bị chặn lại ở nhiều chỗ. Chúng tôi về với mục đích đóng góp cho đất nước, nếu mà chúng tôi sử dụng biện pháp đó là chúng tôi đi ngược lại với chủ tâm của chúng tôi.
Chúng tôi đã được ông ủy viên chính trị của tòa đại sứ nói rằng: Khi nào có dấu hiệu của sự tham nhũng, quý thầy báo cho chúng tôi liền lập tức. Trong suốt hai tháng, chúng tôi đã thực tập là không bao giờ nhượng bộ, dù gặp khó khăn chúng tôi cũng không sử dụng những biện pháp đó, chúng tôi nghĩ đó là tấm lòng yêu nước thực sự. Nếu chúng ta vì muốn được dễ dãi, muốn được thành công mà áp dụng phương pháp đó thì chúng ta làm hư đất nước, chúng ta làm cho những con vi trùng trong cơ thể con sư tử lớn lên và chúng ta sẽ chết vì cái đó. Đây là sự thực tập của tất cả chúng ta. Chúng ta hãy ráng cắn răng chịu đựng đi ngang qua những khó khăn. Nếu chúng ta lựa con đường dễ dãi, con đường tham nhũng thì chúng ta sẽ làm hư sự nghiệp của các bậc tiền nhân, của những người đã ngã xuống để cho chúng ta có thể đứng dậy, buớc lên.
Chúng tôi nghĩ rằng chúng ta thiết lập được những trung tâm giáo dục đào tạo những cán bộ người xuất gia cũng như người tại gia có khả năng để giúp thôn làng củng cố lại được cấu trúc gia đình, tại vì gia đình là đơn vị căn bản của xã hội. Giúp cho cha truyền thông lại được với con, giúp cho con truyền thông lại được với cha, cho vợ với chồng truyền thông trở lại được và đem lại hạnh phúc trong gia đình là một trong những công tác yêu nước căn bản. Trong truyền thống Phật giáo chúng ta có phương pháp rất đầy đủ và rất cụ thể cũng như giáo lý cần thiết để có thể làm được công việc này. Chúng ta đã thành công được ở Tây phương thì không có lý do gì chúng ta không thành công được ở Việt Nam.
Chúng tôi cũng đã từng đi giảng dạy ở các nước Ðại Hàn, Trung Quốc, chúng tôi thấy học Phật ở các nước đó cũng còn lý thuyết. Nếu được nhà nước, được Ðảng yểm trợ cho công tác này thì chúng ta có thể thay đổi được bộ mặt của chúng ta một cách mau chóng với sự đóng góp của những người Phật tử. Tôi nghĩ rằng giới giáo chức trong các trường tiểu học, trung học có thể tham dự vào công trình này, tại vì nếu người trẻ thất bại trong gia đình thì còn cơ hội thứ hai là học đường. Các thầy, các cô giáo có thể đóng vai trò của cha mẹ cho người trẻ đó một cơ hội thứ hai để thành công. Vì vậy các thầy giáo, các cô giáo cũng có thể học được biện pháp này. Mình cũng có thể vừa là thầy, vừa là cha mẹ để giúp cho các em trở về được với gia đình và giúp được cho phụ huynh chuyển hóa.
Học đường phải có liên hệ mật thiết với phụ huynh học sinh. Sự thực tập của thầy giáo, của phụ huynh học sinh đưa tới sự chuyển hóa và bảo hộ học sinh cho nên tôi nghĩ rằng ngôi chùa, gia đình và học đường phải liên minh được với nhau để chăm sóc cho người trẻ. Chúng ta phải có một công thức, phải có một sự cộng tác rất chặt chẽ giữa giới phụ huynh, giới giáo chức và giới tu sĩ. Nếu đi theo được con đường này thì chúng ta có thể thành công được trong thời gian ngắn và tôi nghĩ rằng chúng ta có thể đi trước Trung Quốc tới ba mươi năm trên con đường hiện đại hóa đạo Phật.
Chiều hướng tâm linh đạo đức
Tôi đã từng đi giảng dạy tại các nước Á châu, tôi thấy rằng chúng ta có cơ hội, tại vì đạo Phật của chúng ta là đạo Phật Nhập Thế, là đạo Phật Đi Vào Cuộc Đời, là đạo Phật đối trị với những vấn đề có thật trong cuộc đời, chứ không phải là đạo Phật bay bổng trên mấy tầng mây. Trong truyền thống chúng ta đã từng như vậy. Hôm qua chúng tôi đã có dịp hàn huyên với chư vị về vua Trần Thái Tông, ngài mới hai mươi tuổi thôi mà phải đối diện với quá nhiều tuyệt vọng, quá nhiều đau khổ nhưng nhờ có một vị thầy rất vững chãi, tức là quốc sư Viên Chứng ở trên núi Yên Tử mà Trần Thái Tông đã vượt thắng được những khổ đau, những tuyệt vọng đó.
Trong bài tựa sách Thiền Tông Chỉ Nam, vua có kể lại rằng công việc triều chính rất là bận rộn nhưng vua đã tranh thủ để mỗi ngày học thêm đạo Nho, đạo Phật. Học thêm đạo Nho để làm chính trị, học thêm đạo Phật để làm đạo đức. Theo nghi thức gọi là Lục Thời Sám Hối Khoa Nghi thì vua Trần Thái Tông đã ngồi thiền và bái sám mỗi ngày sáu lần, mỗi lần mười lăm phút. Nhờ chiều hướng tâm linh, nhờ sự thực tập tâm linh mà vua Trần Thái Tông đã vượt thắng được những tuyệt vọng, những khổ đau của mình để trở thành một nhà chính trị giỏi, một vị vua lớn trong triều đại nhà Trần. Nhờ đạo đức mà vua Trần Thái Tông đã cảm hóa gia đình An Sinh Vương Trần Liễu. An Sinh Vương Trần Liễu đã từng tổ chức hải quân chống lại triều đình nhưng với sự can thiệp của vua Trần Thái Tông mà An Sinh Vương không bị kết tội mà còn được cấp đất cho ở yên một vùng. Nhưng An Sinh Vương vẫn còn ôm mối hận và dặn ba đứa con trước khi chết là phải trả mối thù này cho cha.
Ba đứa con của An Sinh Vương Trần Liễu là Trần Tung, Trần Quốc Tuấn và người con gái sau này là hoàng hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm, vợ vua Trần Thánh Tông. Ba người đó đều được vua Trần Thái Tông cảm hóa và tu theo đạo Phật. Trần Tung tức Tuệ Trung Thượng Sĩ. Nếu nghiên cứu Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục thì quý vị sẽ thấy năng lượng tâm linh của Tuệ Trung Thượng Sĩ không thua gì năng lượng của Tổ Lâm Tế Nghĩa Huyền. Sau này Tuệ Trung Thượng Sĩ 7* đã trở thành một vị lãnh đạo của Phật giáo trong khi ông chỉ là người cư sĩ bình thường thôi. Người em ruột của Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Tung là Trần Hưng Ðạo có công rất lớn trong việc chiến thắng quân Nguyên và người em gái là vợ vua Trần Thánh Tông. Như vậy, ba người đã không nghe lời cha để trả thù mà ba người còn cộng tác chặt chẽ với vua Trần Thái Tông trong việc đánh đuổi quân Nguyên và gầy dựng cơ nghiệp nhà Trần. Đó là nhờ sức cảm hóa của đạo đức Phật giáo và nhờ tu mà nhà Trần đã đặt được nền tảng vững chãi cho một triều đại huy hoàng trong lịch sử.
Nếu quý vị có đọc qua cuộc đời và sự nghiệp của vua A Dục 8*, quý vị thấy vua A Dục thành công rất lớn là nhờ chiều hướng tâm linh và đạo đức. Ban đầu thì vua A Dục rất là bạo động, trong cuộc chiến tranh vua đã tàn sát rất nhiều người và cuối cùng vua đã thống nhất lãnh thổ Ấn Ðộ. Sau khi thống nhất lãnh thổ thì vua đã thống nhất được lòng người. Thống nhất lãnh thổ đã là hay lắm rồi nhưng chưa hay bằng thống nhất được lòng người. Nhờ chiều hướng tâm linh mà vua đã thành công trong việc thống nhất lòng người. Trong hai mươi sáu năm đầu của triều đại A Dục vương, vua A Dục đã ra lệnh ân xá hai mươi lăm lần liên tiếp, vua đã quy y, tiếp nhận năm giới và vua đã thực tập năm giới đó rất đàng hoàng. Hoàng gia ngày xưa có thú đi săn với hàng trăm người cũng như hoàng gia Anh có truyền thống đi săn chồn. Mỗi khi săn chồn như vậy thì có hàng trăm con ngựa, hàng trăm cái kèn, hàng trăm con chó kéo theo. Thủ tướng Tony Blair trong những năm qua đã tìm cách chặn đứng thú vui đó của hoàng gia, tại vì dân chúng không thích chuyện đó. Nữ hoàng Anh cũng thấy rất rõ rằng đi săn chồn như vậy làm mất lòng dân chúng rất nhiều cho nên Nữ hoàng đã dặn hoàng tử Charles: Nên bỏ cái thú vui đó đi, làm mất lòng dân chúng lắm. Nhờ vậy đã có sự cộng tác giữa hoàng gia và thủ tướng Anh để chấm dứt truyền thống đó.
Từ khi vua A Dục quy y, thọ trì năm giới, vua thực tập tôn trọng sự sống cho nên vua giảm thiểu sự giết hại, ra lệnh rằng từ nay về sau hoàng gia không đi săn nữa và thay vì đi săn, hoàng gia sẽ tổ chức những cuộc hành hương để đi thăm những vị đạo cao, đức trọng ở trong nước. Ngày xưa, mỗi ngày ở trong cung giết hàng trăm con hươu, gà, công để làm thức ăn cho hoàng gia, nay giảm thiểu chỉ còn hai con công với một con hươu nhưng sau này vua cũng nói thôi và chấm dứt luôn. Vua ra lệnh đi tới đâu cũng phải trồng cây, phải đào giếng, phải thành lập những vườn trồng dược thảo. Vua đã cho khắc lên nhiều trụ đá những điều hướng dẫn: Xây dựng lòng từ bi, tình huynh đệ. Chính vua đã thực tập rất đàng hoàng theo con đường tâm linh đó. Tuy là phật tử nhưng vua tôn trọng tất cả những truyền thống tâm linh tôn giáo có mặt trên toàn cõi Ấn Ðộ. Vua ra sắc lệnh: Các truyền thống không được nói xấu nhau, không được tấn công nhau. Nhờ đem một chiều hướng tâm linh vào đời sống của nhà chính trị cho nên nhà vua đã làm gương cho dân chúng Ấn Ðộ. Vua đã thống nhất được lòng người.
Tôi nghĩ các nhà chính trị ở Việt Nam cũng có thể làm được như vua Trần Thái Tông hay vua A Dục. Tôi biết hiện thời ở Hà Nội, tướng Võ Nguyên Giáp mỗi ngày đều có ngồi thiền. Tôi không lấy làm lạ vì ngồi thiền như vậy nó đem lại thanh thản cho chính bản thân mình và mình có thì giờ tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống. Ngồi yên được là rất hay, ngồi yên thì cái tâm mình mới yên, tâm yên thì mình mới tiếp xúc được với những mầu nhiệm của sự sống. Tôi biết rằng thủ tướng Phạm Văn Ðồng cũng đã quy y ở chùa Ðậu, tôi cũng không lấy làm ngạc nhiên, tại vì cha ông chúng ta đều làm như vậy trong quá khứ. Nhưng điều tôi mong mỏi là chúng ta đừng đợi đến tuổi già rồi mới đem vào đời sống của mình một chiều hướng tâm linh. Năm hai mươi tuổi mình đã có thể làm như vậy và mình phải cho quần chúng thấy mình đang làm như vậy.
Tôi mong ước trong đảng, cũng như trong chính quyền nếu quý vị có khuynh hướng muốn sống đời sống tâm linh thì quý vị phải tự nhiên thôi. Nếu cần đi chùa thì cứ đi chùa, nếu muốn ngồi thiền thì cứ ngồi thiền. Tại sao phải ngần ngại? Phải cho quần chúng thấy là mình có một nếp sống tâm linh, mình có thể làm cho gia đình mình có hạnh phúc. Mình thiết lập được truyền thông giữa mình với những phần tử trong gia đình. Nhà chính trị cũng phải có hạnh phúc cá nhân, hạnh phúc gia đình. Khi chúng ta thấy rằng gia đình của nhà chính trị có hạnh phúc thì chúng ta tin tưởng nhiều hơn ở gia đình đó, ở nhà chính trị đó. Nếu nhà chính trị không truyền thông được với con, không truyền thông được với vợ hay chồng của mình và nếu nhà chính trị đau khổ, có nỗi khổ gia đình thì chúng ta không tin tưởng lắm vào nhà chính trị đó. Có một chiều hướng tâm linh đạo đức thì nhà chính trị có thể đem lại hạnh phúc trong gia đình, trong dòng họ và cả trong tổ chức chính trị của mình. Sự truyền thông có nhiều thì niềm tin càng lớn mà niềm tin càng lớn thì tình huynh đệ càng được phát triển và mình càng dễ thành công trong sự nghiệp chính trị của mình.
Lịch sử Việt Nam cũng như lịch sử quốc tế đã chứng tỏ như vậy. Chiều hướng tâm linh đạo đức vô cùng quan trọng, dù chúng ta là một nhà lãnh đạo, nhà thương mãi, nhà chính trị hay nhà giáo dục mà nếu có nếp sống tâm linh đạo đức thì chúng ta góp phần tích cực vào sự đánh phá những tệ nạn như tham nhũng, xì ke, ma túy, tội ác. Chúng ta làm gương, chúng ta dạy không phải bằng lời nói mà bằng sự sống hàng ngày. Trong đạo Phật có truyền thống An Bần Thủ Đạo, có nếp sống Tri Túc. Thanh niên bây giờ nghĩ rằng hạnh phúc là ở chỗ tiêu thụ, có nhiều tiền để mua những gì mình có thể mua. Chúng ta không thấy rằng tại các nước quá phát triển, tuy là tiêu thụ rất nhiều nhưng khổ đau cũng rất nhiều. Tôi đã từng tiếp xúc với những người tỷ phú, quyền lực rất lớn, tiền bạc rất nhiều, nhưng phần lớn đều sống cô đơn, sống trong tuyệt vọng, trong số đó có nhiều người tự tử. Những thầy, những sư cô có gốc Tây Phương sở dĩ xuất gia vì họ đã thấy rõ ràng rằng: Tiêu thụ, giàu sang, sắc dục không đưa lại hạnh phúc mà chính tình huynh đệ, lý tưởng độ đời, giúp đời mới đem lại hạnh phúc trong đời sống hằng ngày.
Chúng ta nghĩ rằng hạnh phúc có thể nắm bắt được trong hướng của uy quyền, của sắc dục, của danh vọng, của tiền tài là chúng ta lầm. Có rất nhiều người đã và đang đi về hướng đó và đang bị đau khổ tàn phá cả thân và tâm của họ. Trong khi đó thì tình huynh đệ, sự truyền thông và lý tưởng là những chất liệu đích thực của hạnh phúc. Những cái đó chúng ta không thể mua được bằng tiền mà chúng ta phải chế tác bằng sự tu tập của chúng ta. Chúng ta có thể sống đơn giản hơn, tiêu thụ ít hơn nhưng chúng ta có thể có hạnh phúc nhiều gấp trăm lần. Trong khi sống đơn giản như vậy chúng ta góp phần vào việc bảo vệ sinh môi.
Chúng ta khai thác nhưng bao giờ cho đủ với lòng tham của con người. Phát triển kinh tế, công nghiệp hóa là một chuyện nhưng mà học nếp sống hạnh phúc dựa trên tình huynh đệ, tình thương lại là chuyện khác. Chỉ có tình thương mới đem lại hạnh phúc, điều này chúng ta phải nói với tuổi trẻ. Nếu không có tình thương, nếu không có thì giờ để có mặt cho người thương thì chúng ta làm sao có hạnh phúc được?
Cả một nền tôn giáo như đạo Phật chỉ để dạy có một chuyện thôi. Đó là làm thế nào để có thể thương được và thương như thế nào để có thể hiến tặng cho nhau niềm vui, hạnh phúc mỗi ngày, mỗi giờ. Đó là giáo lý Thương Yêu trong đạo Phật.
Vấn Đáp
Ban tổ chức: Được thiền sư cho phép, bây giờ cử tọa có thể đặt câu hỏi hoặc chúng tôi sẽ thống kê một số những câu hỏi để có thể cho vào trong diện ưu tiên, xin Thiền sư cho ý kiến trước. Thưa Thiền sư đứng về phương diện nghiên cứu của trung tâm, chúng tôi có đặt ra một số câu hỏi tập hợp của các cán bộ nghiên cứu giảng dạy. Hôm qua Thiền sư đã trả lời được một số câu hỏi cho trung tâm rồi, hôm nay tôi thấy có một số câu hỏi nữa:
a. Câu hỏi thứ nhất: Xin Thiền sư vui lòng cho biết vai trò thờ cúng tổ tiên ở các nước trên thế giới hiện nay như thế nào và xu hướng của nó ra sao? Tất nhiên chúng tôi có ý nói ở các nước phương Tây.
b. Câu hỏi thứ hai: Cũng xin Thiền sư vui lòng cho biết một số nét rất cơ bản về đạo tràng Làng Mai của Tthiền sư hiện nay, những đặc điểm và xu hướng của nó, tất nhiên vừa qua chúng tôi đã được biết rất nhiều nhưng nếu có thể xin được biết thêm.
c. Câu hỏi thứ ba: Xin Thiền sư vui lòng cho biết những nội dung kế thừa và phát triển của thiền Làng Mai với thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
d. Câu hỏi thứ tư: Trong lịch sử dân tộc Việt Nam thì Phật giáo đã từng có những đóng góp đáng kể tạo nên sắc thái đặc biệt cho nền cho nền văn hóa Việt Nam. Vậy theo Thiền sư trong thời hiện đại Phật giáo có thể có những đóng góp gì cho sự phát triển của dân tộc, câu này vừa qua chúng tôi đã được nghe một chút.
e. Câu hỏi thứ năm: Chúng tôi biết trong buổi thuyết trình tại Phân viện của Học viện Hành chính Quốc gia tại thành phố Hồ Chí Minh thì Thiền sư cho rằng chính trị và tôn giáo là hai lĩnh vực khác nhau, nhưng cả hai đều có chung là sự hiện diện của đạo đức. Theo Thiền sư thì tôn giáo cũng như chính trị mà không đạo đức thì đều phá sản vì chính trị và tôn giáo đều có nền tảng chung, chắc chắn chúng sẽ có quan hệ mật thiết với nhau. Vì thế xin Thiền sư cho biết giữa chính trị và tôn giáo có quan hệ với nhau như thế nào? Xin Thiền sư vui lòng cho biết những ý kiến của mình, xin cảm ơn.
Quý vị nào có câu hỏi cứ chuyển dần cho chúng tôi, nếu tự đứng lên thì xin tự giới thiệu một chút.
Thiền sư Nhất Hạnh: Kính thưa liệt vị, người Tây phương rất có nhu yếu tìm về gốc rễ của họ. Nhu yếu đó cũng giống như nhu yếu của chúng ta là luôn luôn muốn tìm về gốc rễ. Hoa kỳ có những người có gốc Ái Nhĩ Lan, gốc Ðức, gốc Ý. Khi mới qua Hoa kỳ để lập nghiệp có thể họ chưa có nhu yếu đó hoặc là nhu yếu đó chưa đủ mạnh nhưng đến thế hệ thứ hai, thứ ba thì nhu yếu đó từ từ biểu hiện ra. Tất cả những người lập nghiệp tại Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ đều có chí hướng muốn tìm về gốc rễ của mình ở Âu Châu rất là rõ. Tuy họ không có an trí một bàn thờ tổ tiên ở nhà của họ nhưng trong nhiều nhà họ vẽ ra cái cây để thấy cái chi của mình tới từ những nhánh nào.
Thiền sinh tới Làng Mai được thực tập cụ thể hơn. Chúng tôi thiết lập một bàn thờ tổ tiên cộng đồng. Đến ngày thờ cúng tổ tiên, chúng tôi làm một bài vị rất vĩ đại. Có những tờ giấy được cắt thành hình trái tim hoặc hình trái cam và mỗi người viết xuống đó tên họ vị tổ tiên mà mình muốn tiếp xúc. Tất cả các thiền sinh đều dán bài vị của những người đó lên trên bàn thờ và chúng tôi cũng làm cỗ. Những người Hòa Lan thì tổ chức với nhau làm ra những món ăn đặc biệt Hòa Lan để dâng lên bàn thờ tổ tiên. Những người Pháp thì hợp lại với nhau làm ra món ăn đặc biệt Pháp để dâng lên bàn thờ tổ tiên cộng đồng. Sự thực tập ở đây không phải là khi đặt món cúng lên bàn, rồi thắp hương mới là thực tập. Thực tập là ngồi lại bàn với nhau những món nào mới là quốc hồn, quốc túy của nước mình, rồi cùng đi chợ mua những vật dụng để về làm những món đó. Khi ngồi bàn với nhau như vậy thì đã là thực tập rồi. Khi đi chợ có niềm vui huynh đệ, đến khi về thì các ông, các bà Hòa Lan hợp nhau lại để làm chung. Trong khi nấu thì mình đang tiếp xúc với tổ tiên, với truyền thống của mình rồi. Vì vậy không khí rất là vui, giống như không khí ngày hội. Ngày thờ cúng tổ tiên tổ chức tại đạo tràng Làng Mai là như vậy.
Đến giờ phút thỉnh chuông và thắp hương, mọi người đều ngồi thiền trước để cho tâm tư lắng đọng. Khi dâng hương xong, chúng tôi đọc lời khấn nguyện tổ tiên. Chúng tôi đọc bằng nhiều thứ tiếng. Chúng tôi không đọc hết các thứ tiếng được cho nên chúng tôi chỉ đọc tiếng Ý, tiếng Ðức, tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Việt, chừng sáu bảy thứ tiếng thôi. Chúng tôi có cảm tưởng rằng tuy từ 40 nước tới với nhau nhưng chúng tôi đích thực là một gia đình, một gia đình tâm linh. Đức Phật Thích Ca là một tổ tiên tâm linh của mình và các thầy Ca Diếp, A Nan cũng là tổ tiên tâm linh của mình. Khi các thiền sinh Tây phương về Việt Nam để tham quan những ngôi chùa xưa ở miền Bắc, miền Trung hay miền Nam thì họ cũng có cảm tưởng họ là con cháu trở về với quê cha đất tổ tuy rằng tổ đây là tức là tổ tiên tâm linh.
Tôi không biết sau này người Tây phương sẽ thờ cúng tổ tiên dưới hình thức nào nhưng tôi có thể nói rằng tiếp xúc với Phật giáo, họ thấy rằng: Sự thực tập ba cái lạy, năm cái lạy và thờ cúng tổ tiên giúp cho họ thiết lập lại được quan hệ với tổ tiên huyết thống, với tổ tiên tâm linh, giúp họ lấy đi cái cảm giác bơ vơ, lạc lõng, phóng thể và phục hồi lại được sức khỏe tinh thần của họ. Điều này rất quan trọng và đây là một đóng góp lớn của Làng Mai, của văn hóa Việt Nam cho thế giới Tây Phương. Sự thực tập tiếp xúc với tổ tiên, giúp cho con người lạc lõng, truyền thông lại được với tổ tiên, nói chuyện lại được với tổ tiên trong đời sống hằng ngày là điều rất quan trọng.
Thiền là văn hóa, là sự sống. Khi chúng ta đưa tâm trở về với thân, để có mặt đích thực trong giây phút hiện tại, đó là thiền. Nếu chúng ta quen, một hơi thở vào cũng đủ để giúp cho tâm trở về với thân và có mặt ngay trong giây phút hiện tại. Chúng ta biết rằng thương yêu có nghĩa là có mặt cho người mình thương yêu. Nếu anh không có mặt thì làm sao anh thương yêu được. Vì vậy điều kiện tiên quyết của sự thương yêu là mình phải có mặt cho người yêu. Món quà quý nhất mình có thể tặng cho người yêu của mình là sự có mặt của mình, chứ không phải là một món quà mua ở siêu thị. Sự có mặt của mình phải có phẩm chất, phải tươi mát, phải ngọt ngào và vì vậy phải làm thế nào để mình thật sự có mặt. Sự có mặt của mình tươi mát, ngọt ngào đó là thiền. Nếu mình cau có, giận hờn, buồn tủi, sự có mặt đó thực sự không có phẩm chất. Cho nên mình phải thực tập thiền đi, thiền ngồi để tiếp xúc với những mầu nhiệm của đất trời, để phục hồi lại sự tươi mát, sự nhẹ nhàng, sự ngọt ngào của mình và mình tặng cái đó cho người mình yêu, điều này quan trọng nhất.
Nếu quý vị đích thực thương yêu ai, quý vị nên nhớ tặng phẩm quý nhất mà mình có thể tặng cho người mình thương là sự có mặt của mình: Em ơi, em có biết rằng anh đang có mặt đích thực cho em ở đây không? Anh đang thật sự có mặt cho em là một câu thần chú và đáp ứng tự nhiên sẽ là: Anh ơi, em biết rằng anh đang sống bên em, em rất là hạnh phúc. Thiền trước hết là sự có mặt, sự có mặt đích thực của mình và sự có mặt của phẩm chất mình hiến tặng cho người yêu, người yêu đó có thể là bố mình, mẹ mình, vợ mình, chồng mình hay là con mình. Thứ nhứt, sự có mặt ngọt ngào tươi mát của mình. Thứ hai, khi mình có mặt thực sự rồi thì mình có thể nhận diện được sự có mặt của người yêu thương, có nghĩa là công nhận sự có mặt của người kia.
Nếu quý vị lái xe mà chìm đắm trong những suy tư, lo toan và hoàn toàn quên người ngồi bên cạnh thì quý vị đã loại người đó ra khỏi vùng chú ý của mình và người đó không có cảm giác được thương yêu. Cho nên thương yêu là công nhận sự có mặt của người yêu, người mình thương bên cạnh mình: Bố ơi, con biết rằng bố đang còn sống với con, con hạnh phúc quá. Đó là công nhận sự có mặt của người thương: Em ơi, anh biết rằng em đang có mặt đó bên anh và điều này làm cho anh rất có hạnh phúc. Đó là công nhận sự có mặt của người mình yêu thì những điều này đâu có tốn tiền nhưng nó đem lại hạnh phúc rất lớn. Hiến tặng sự có mặt của mình cho người yêu, công nhận sự có mặt của người yêu như là một phẩm vật quý giá cho mình đó là thiền. Khi người mình thương có những khó khăn, có những đau khổ, mình nói rằng: Em ơi, anh biết rằng em đang có những khó khăn, khổ đau vì vậy anh đang có mặt ở bên em đây. Nói một câu nghe rất là an ủi, đó là thiền. Thiền nghĩa là trước hết phải có mặt và sự có mặt của mình có thể là một phẩm vật quý giá để hiến tặng và thiền là công nhận sự có mặt của người kia. Khi công nhận như vậy, người kia rất có hạnh phúc và mình cũng rất có hạnh phúc.
Nhiều khi tôi đi thiền giữa một đêm trăng, tôi ngẩng đầu lên, thấy trăng sao vằng vặc, tôi mỉm cười và nói chuyện với trăng sao: Cám ơn trăng có mặt cho tôi, cám ơn sao có mặt cho tôi, tôi rất là hạnh phúc. Mình công nhận sự có mặt của trăng sao, trăng sao có hạnh phúc rồi mình cũng có hạnh phúc. Người kia có thể là người yêu của mình, là cha của mình, là mẹ của mình, là ý trung nhân của mình. Nhưng người kia cũng là một bình minh sáng chói hay là một vầng trăng tròn hay là những ngôi sao sáng trên bầu trời. Đó là những mầu nhiệm của sự sống, khi mình thực sự có mặt rồi thì mình công nhận sự có mặt của kẻ kia, kẻ kia có thể là người thương của mình, kẻ kia có thể là những mầu nhiệm của sự sống như là trúc biếc, hoa vàng, trời xanh, mây tím.
Thiền tức là sống sâu sắc ngay trong giây phút hiện tại. Nếu mình đi thêm một bước nữa mình thấy thiền là khả năng nhận diện những nỗi khổ niềm đau. Nhìn sâu vào để thấy gốc rễ của nó và dùng trí tuệ, vô thường, vô ngã, tương tức để chuyển hóa những nỗi khổ niềm đau, đó gọi là thiền. Năng lượng chúng ta sử dụng trong thiền gồm có ba thứ: Niệm, Ðịnh, Tuệ. Niệm có nghĩa là ý thức được những gì đang xảy ra trong giây phút hiện tại, ví dụ như khi mình thở vào mình ý thức được hơi thở vào của mình, gọi là chánh niệm về hơi thở. Khi mình bước đi một bước chân, mình ý thức được mình đang bước đi một bước chân trên trái đất xinh đẹp này thì đó gọi là chánh niệm về bước chân. Khi mình uống trà và thân tâm mình hoàn toàn có mặt trong giây phút hiện tại và mình tiếp xúc được với chén trà một cách đích thực thì lúc đó gọi là uống trà trong chánh niệm.
Chánh niệm tức là sự có mặt của thân tâm và nhận diện những gì đang xảy ra ngay trong giây phút hiện tại và sống từng phút giây sâu sắc như vậy của đời sống hằng ngày. Trong chánh niệm có nghĩa là thiền và khi ta có năng lượng chánh niệm rồi, chánh niệm là năng lượng giúp cho mình có mặt thực sự, mình sẽ có năng lượng thứ hai là Ðịnh. Định là chuyên chú vào một cái và tâm mình không có bị tản mác lôi kéo theo những cái khác, đó gọi là Ðịnh. Khi có Niệm và Định rồi thì mình có khả năng quán chiếu nhìn sâu và phát kiến ra sự thật, đó gọi là Tuệ. Tuệ là cái thấy sâu sắc có khả năng chuyển hóa những nỗi khổ niềm đau của mình, vì những nỗi khổ niềm đau của mình phát sinh từ những tri giác sai lầm. Thiền là chế tác ra năng lượng của niệm, của định, của tuệ và sống sâu sắc mỗi giây phút của đời sống mình, nhìn sâu vào thực tại để thấy những gốc rễ của khổ đau và dùng tuệ giác của đạo Phật như là một thanh gươm báu chặt đứt những gốc rễ của những khổ đau đó. Gốc rễ của những khổ đau là vô minh, là tri giác sai lầm mà chúng ta là nạn nhân. Nói vắn tắt là như vậy.
Bất cứ ai trong chúng ta cũng có thể thực tập được thiền, nếu chúng ta từ nhà đi ra bến xe buýt thay vì suy nghĩ vẫn vơ theo đuổi những dự án, chúng ta có thể bước những bước thảnh thơi theo thiền. Chúng ta có thể phối hợp hơi thở với buớc chân, chúng ta thở vào một hơi và buớc một buớc: Ta đã về. Khi ta thở ra một hơi bước một bước nữa: Ta đã tới. Nếu chúng ta muốn buớc mau hơn nữa thì khi thở vào ta bước hai bước ta nói: Đã về, đã về và khi thở ra ta bước hai bước: Đã tới, đã tới. Về đâu? Tới đâu? Về với giây phút hiện tại, tới với giây phút hiện tại. Tại vì giây phút hiện tại là địa chỉ của sự sống đích thực: Quá khứ đã đi qua, tương lai thì chưa tới, sự sống chỉ có mặt đích thực trong giây phút hiện tại. Nếu chúng ta bỏ giây phút hiện tại thì chúng ta đánh mất ước hẹn, lỡ hẹn với sự sống. Chúng ta có ước hẹn với sự sống trong giây phút hiện tại và chỉ trong giây phút hiện tại mới thực sự có sự sống, đó là tuệ giác đạo Phật. Nếu chúng ta để cho tâm ta bị quá khứ lôi kéo, bị tương lai lôi kéo thì ta không còn an trú được trong giây phút hiện tại nữa.
Thiền có nghĩa là buông bỏ quá khứ, buông bỏ những lo lắng về tương lai, trở về và sống sâu sắc trong giây phút hiện tại. Mỗi hơi thở, mỗi bước chân, mỗi nụ cười, mỗi ánh mắt đều giúp cho chúng ta sống sâu sắc với giờ phút đó và đem lại hạnh phúc cho ta, cho những người chung quanh ta. Đây là một sự tập luyện, chỉ trong vài ngày là chúng ta thấy được hiệu quả và niềm vui của sự thực tập. Đó gọi là thiền duyệt, thiền duyệt là niềm vui của thiền định. Ngồi cũng hạnh phúc, đi cũng hạnh phúc, đứng cũng hạnh phúc, thở cũng hạnh phúc, ăn cơm cũng hạnh phúc, uống trà cũng hạnh phúc, chải răng cũng hạnh phúc, đi tiểu cũng hạnh phúc. Trong khi chúng ta chải răng, chúng ta chải như thế nào để có sự vững chãi thảnh thơi. Trong khi đi tiểu chúng ta đừng có vội vàng, tại vì đi tiểu là một phần của sự sống. Chúng ta phải có sự thoải mái, sự thảnh thơi và hạnh phúc trong khi chúng ta đi tiểu, đi cầu.
Chính vua Trần Thái Tông đã nói như vậy, không phải chỉ đọc kinh với ngồi thiền mới là Phật Pháp mà đi tiểu, đi cầu, giặt áo đều là Phật Pháp cả. Đó là những lời của vua Trần Thái Tông. Sự thực tập thiền xảy ra trong bất cứ giờ phút nào của sự sống. Bất cứ ở đâu, khi mà chúng ta bước những bước trên vỉa hè hoặc trong siêu thị hoặc ở phi trường thì chúng ta cũng có thể bước những bước chân thảnh thơi, bước như những con người tự do, không để cho quá khứ lôi kéo, không để cho tương lai làm lo sợ. Bước từng bước thảnh thơi, tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống, bước ở phi trường cũng là thiền, bước ở bờ sông cũng là thiền, đứng chờ đến phiên mình đi vào cũng là thiền, không để mất giây phút nào hết.
Tôi thấy rằng đạo Phật có một yếu tố rất quý, đó là thái độ bao dung, không giáo điều. Ngày hôm qua, tôi đã nói rằng những thế hệ Phật tử là sự tiếp nối của tuệ giác đạo Phật. Những thế hệ sau này theo đạo Phật phải đưa đức Thích Ca đi xa hơn, phải khai triển tuệ giác của đức Thích Ca để cho tuệ giác đó luôn luôn có thể thích ứng được và phục vụ được cho con người đương đại. Những người Mác xít cũng vậy, những người Mác xít là sự tiếp nối của Mác, phải đưa Mác đi về tương lai, phải khai triển tuệ giác của Mác, phải làm sao cho tuệ giác đó luôn luôn mới để có thể đáp ứng được với những nhu yếu của con người đương đại.
Tôi nghĩ rằng Việt Nam có khả năng chuyển hóa. Văn hóa Việt Nam có khả năng chuyển hóa rất là lớn. Tây phương có chữ transformation, tức là khi nào ăn vào một cái gì đó thì mình phải tiêu hóa được cái đó và nó trở thành một phần của cơ thể mình. Tất cả những yếu tố văn hóa mà chúng ta tiếp thu từ ở ngoài, Việt Nam có khả năng chuyển hóa nó trở thành Việt Nam. Tôi nghĩ rằng đạo Phật phải trở thành đạo Phật Việt Nam, đạo Lão phải trở thành đạo Lão Việt Nam, đạo Khổng phải trở thành đạo Khổng Việt Nam và truyền thống Mác cũng phải trở thành truyền thống Mác Việt Nam. Nếu làm được như vậy thì chúng ta không còn khó khăn nữa và chúng ta có thể nắm tay nhau đi một cách rất hài hòa với tình huynh đệ. Sẽ không có sự kỳ thị chống đối loại trừ nhau nữa. Hạnh phúc là điều mà chúng ta có thể có được ngày hôm nay, nếu chúng ta có được nhận thức khai phóng, cởi mở đó.
Truyền thống Trúc Lâm Yên Tử là một truyền thống có khuynh hướng tổng hợp. Trước khi có phái Trúc Lâm Yên Tử thì chúng ta có những phái thiền khác như là phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi, phái Tăng Hội, phái Vô Ngôn Thông, phái Thảo Ðường, rồi có phái Lâm Tế rồi bắt đầu có phái Tào Ðộng. Nhưng tất cả đều xuôi vào một dòng sông, trở thành thiền phái Yên Tử. Ngày đó chúng ta có một vị quốc sư có tên rất hay Nhất Tông Quốc Sư. Nhất tông nghĩa là một tông phái thôi, đó thật sự là Phật giáo thống nhất trong nội dung chứ không phải trong hình thức, tại vì chúng ta có khuynh hướng muốn đi với nhau như một dòng sông mà không có xé lẻ, không đi riêng. Khi đi được với nhau như một dòng sông thì chúng ta sẽ rất mạnh. Phương châm của chúng tôi tại Làng Mai là phải đi như một dòng sông. Khi đã được dòng sông chấp nhận rồi thì chúng ta thấy cộng đồng chính là thân thân thể của chúng ta. Chúng tôi gọi là tăng thân, tăng tức là đoàn thể. Chữ tăng không có nghĩa là người xuất gia, chữ tăng tiếng Phạn vốn là chữ Sangha 9*, có nghĩa là đoàn thể. Đoàn thể tổ chức tu theo đạo Phật gọi là tứ chúng, gồm bốn yếu tố: xuất gia nam, xuất gia nữ, tại gia nam, tại gia nữ.
Khi gia nhập vào trong đoàn thể tu học rồi thì đoàn thể đó trở thành hình hài của mình, tăng thân của mình. Cũng vậy, khi có tình huynh đệ rồi thì người nào cũng là thân thể của mình và mình thấy nỗi khổ niềm đau của họ chính là nỗi khổ niềm đau của mình, những khó khăn của họ chính là những khó khăn của mình. Khi thấy được như vậy rồi sẽ không còn có cá nhân chủ nghĩa, sẽ không còn có chuyện đi tìm hạnh phúc riêng hay có những ước mơ riêng.
Trúc Lâm Yên Tử là là một thiền phái có khuynh hướng ôm lấy tất cả mọi truyền thống và có tính cách nhập thế vào đời, chứ không phải đứng ra ngoài cuộc đời. Chúng ta hãy tưởng tượng ông vua con tức là vua Anh Tông ngồi trên ngai vàng để trị nước và vua cha Trần Nhân Tông trở thành một đạo sĩ, một người xuất gia. Vào thời vua Trần Anh Tông trị nước, thỉnh thoảng vua có mời các thầy vào cung thuyết pháp và trong đó chính đức vua Trần Nhân Tông đã tổ chức lễ quy y truyền giới cho các quan trong triều. Trong thời đại đó, vua Trần Nhân Tông đã trở thành Trúc Lâm Ðại Sĩ và là một ông thầy tu đi chân đất, không đi xe, không đi ngựa nữa. Đi tới đâu vua cũng khuyến khích dân chúng tu tập theo năm giới, xây dựng tình huynh đệ và bài trừ mê tín. Vua Trần Nhân Tông, với tư cách một thầy tu đã đi sang Chiêm Thành thương thuyết để cho hai nước cộng tác với nhau, chấm dứt những tranh chấp ở biên giới. Khi làm vua thì phục vụ cho hòa bình, rồi làm thầy tu cũng phục vụ cho hòa bình nữa, đó là công trạng của vua Trần Nhân Tông.
Chúng tôi nghĩ rằng chúng ta có những thiền phái rất là Việt Nam như thiền phái Tăng Hội. Xin nhắc cho quý vị nhớ thiền sư Tăng Hội, cha là người miền Bắc Ấn Ðộ di cư về miền Nam Ấn Ðộ, thân phụ của thiền sư Tăng Hội đã đi qua Việt Nam với tư cách của một nhà buôn, một thương gia trẻ, khi tới Việt Nam, thân phụ của thiền sư Tăng Hội yêu chuộng đất nước đó, muốn ở lại luôn ở đất Giao Châu cho nên ông ta đã cưới một thiếu nữ Việt Nam làm vợ, sau đó sinh ra chú bé tên là Tăng Hội, đó là khoảng đầu thế kỷ thứ ba. Thiền sư Tăng Hội đã tu học thành đạt như một vị thiền sư ở Việt Nam. Vào giữa thế kỷ thứ ba thiền sư đã đi sang Trung Quốc, tới vùng đất Đông Ngô (thời Tam Quốc) để giảng dạy đạo thiền, nghĩa là sớm hơn Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma 300 năm.
Chúng ta thường nghĩ rằng đạo thiền từ Trung Quốc truyền sang Việt Nam nhưng kỳ thực ban đầu là thiền sư Tăng Hội của Việt Nam, của Giao Châu đã đi sang truyền bá đạo thiền ở Trung Quốc, ở đất Ngô vào giữa thế kỷ thứ ba. Sách Cao Tăng truyện có cho chúng ta biết rằng khi thiền sư Tăng Hội đi sang nước Ðông Ngô, bên đó chưa có người Trung Quốc nào làm tăng sĩ và chính thiền sư Tăng Hội đã tổ chức giới đàn truyền giới đầu tiên để cho những người Ðông Ngô trở thành những vị xuất gia đầu tiên. Đó là vai trò của thiền sư Tăng Hội. Vì vậy chúng tôi đã khuyến khích những chùa thiền Việt Nam thay vì thờ Tổ sư Bồ Ðề Ðạt Ma là Tổ sư của thiền thì chúng ta phải thờ Tổ sư Tăng Hội là Tổ sư thiền Việt Nam. Tổ sư Tăng Hội lớn hơn Tổ sư Bồ Ðề Ðạt Ma 300 năm. Chúng tôi đã viết sách thiền sư Tăng Hội, đã xuất bản bằng tiếng Pháp, tiếng Anh và bằng tiếng Việt. Cũng đã có những nghệ sĩ, những nghệ nhân đã vẽ lại được hình tượng của thiền sư Tăng Hội để chúng ta có thể thờ trong các thiền viện Việt Nam. Cố nhiên thiền Việt Nam có bản sắc của Việt Nam và có khả năng phục vụ cho xã hội Việt Nam.
Tôi nghĩ rằng trong công trình xây dựng một xã hội tốt đẹp của Việt Nam, đạo Phật có thể đóng một vai trò rất lớn nếu chúng ta ý thức được, nếu chúng ta có can đảm chấm dứt cái học từ chương của chúng ta và huấn luyện những người giáo thọ có khả năng đem đạo vào đời để giúp cho xã hội thiết lập lại được sự truyền thông, dựng lại cấu trúc gia đình. Đó là ước mong của chúng tôi.
Lời phái biểu và cảm tạ của ban tổ chức
Ông giám đốc trung tâm: Kính thưa Thiền sư Thích Nhất Hạnh, kính thưa quý tăng thân Làng Mai, kính thưa các nhà khoa học và các quý vị đại biểu. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc và đa tôn giáo, mỗi tôn giáo ở Việt Nam có đặc điểm riêng song đều giữ được truyền thống gắn bó với dân tộc. Hàng chục thế kỷ qua tồn tại của mình, Phật giáo đã ghi dấu ấn trong văn hóa trong lối sống của người Việt Nam. Thời kỳ phồn vinh nhất của văn hóa Lý Trần có sự đóng góp lớn lao của Phật giáo nước nhà cũng như một số tôn giáo khác đang tồn tại ở Việt Nam. Vai trò đạo đức văn hóa Phật giáo là vấn đề đang được nhiều người quan tâm. Đối với chúng tôi, cuộc tọa đàm cùng Thiền sư là một cơ duyên để hiểu thêm về vai trò Phật giáo trong đời sống hiện đại. Với kiến thức uyên thâm về Phật học và tri thức sâu rộng trên nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau, qua hai buổi thuyết trình và tọa đàm, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã đem đến cho thính giả một lượng thông tin phong phú đa diện, đồng thời đã thể hiện chính kiến của thiền sư về tôn giáo và những vấn đề của thời đại. Dù thời gian còn hạn chế song trên tinh thần cởi mở thân thiện dân chủ và tôn trọng lẫn nhau nên bước đầu Thiền sư và chúng tôi đã đề cập được một số vấn đề đang được giới nghiên cứu rất quan tâm. Đó là:
- Quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội,
- Quan hệ giữa khoa học và tôn giáo,
- Giữa khách quan và chủ quan,
- Vấn đề vô ngã vô thường,
- Giữa thân và tâm,
- Vấn đề mê tín trong họat động tôn giáo,
- Quan niệm về mê tín về Niết Bàn, về cõi Tịnh Độ, về Thiên Đường cũng như giá trị đạo đức, văn hóa, tín ngưỡng, thờ cúng tổ tiên.
- Vai trò Phật giáo trong đời sống hiện đại.
- Đặc điểm của đạo tràng Mai Thôn mà chúng tôi còn biết một cách khiêm tốn.
Cuộc tọa đàm đã gợi mở nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu và tiếp tục trao đổi. Với lối diễn đạt giản dị, dễ hiểu, khả năng khái quát rất cao, đồng thời biến trừu tượng thành cụ thể, với những ví dụ rất sinh động của Thiền sư, đã gây hứng thú và tập trung đối với thính giả. Chúng tôi cho rằng hai buổi tọa đàm cùng Thiền sư là bổ ích đối với những người nghiên cứu như chúng tôi.
Thưa thiền sư, quý đoàn và toàn thể quý vị đại biểu,
Nhận thức là một quá trình, quá trình ấy với mỗi cá thể có hạn chế vì lẽ đó chúng tôi đã tổ chức nhiều cuộc tọa đàm khoa học nhưng với Thiền sư đây là buổi đầu, chúng tôi hy vọng sẽ còn tiếp tục tiếp kiến thiền sư. Qua hai buổi thuyết trình và tọa đàm lần này, chúng tôi nhận thấy không chỉ trao đổi về học thuật, cung cấp những thông tin về tôn giáo mà còn góp phần tạo sự gần gũi hiểu biết lẫn nhau giữa Thiền sư với chúng tôi. Cùng đi với Thiền sư, chúng tôi còn nhận thấy sự hiện diện của các vị tăng thân thiền sinh thuộc nhiều dân tộc, thuộc nhiều quốc tịch khác nhau. Hình ảnh của đoàn tăng thân Làng Mai đã minh chứng cụ thể sinh động về pháp môn lắng nghe, dùng ái ngữ để xây dựng tình huynh đệ trong mối quan hệ giữa con người với con người.
Thưa Thiền sư và quý đoàn, chỉ sau một ngày đọc tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Ðình, ngày 2/09/1945, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị chính phủ tuyên bố tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết mãi mãi. Nhân dân Việt Nam ghi nhớ và luôn thực hiện di huấn của người. Những năm vừa qua, đồng bào các tôn giáo Việt Nam đã tích cực hưởng ứng tham gia phong trào thi đua yêu nước và xây dựng khối đoàn kết toàn dân tộc. Chức sắc và tín đồ các tôn giáo có những đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Ðảng và nhà nước Việt Nam trước sau như một luôn tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo và không tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân. Nhu cầu tâm linh của quần chúng tín đồ các tôn giáo, chắc Thiền sư và quý đoàn cũng đã được chứng kiến điều đó, qua những cuộc thăm viếng những cơ sở thờ tự của các miền của đất nước.
Một lần nữa, thay mặt cho cán bộ nghiên cứu giảng dạy thuộc trung tâm khoa học tín ngưỡng và tôn giáo của học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, tôi xin chân thành cảm ơn Thiền sư và đoàn. Chúc Thiền sư và đoàn tăng thân Làng Mai mạnh khỏe an khang, chúc chuyến về thăm Việt Nam của Thiền sư và đoàn đạt kết quả tốt đẹp. Xin cảm ơn các quý vị đại biểu đã đến tham dự đầy đủ hai buổi thuyết trình rất bổ ích này và nhân dịp này chúng tôi thay mặt cho trung tâm cảm ơn tất cả các cơ quan các đơn vị và cá nhân đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi tổ chức cuộc hội thảo rất là tốt đẹp. Để ghi nhớ chuyến thăm và làm việc của trung tâm giữa Thiền sư và các nhà khoa học, thay mặt cho trung tâm, chúng tôi xin kính tặng thiền sư bức tranh phố cổ Hà Nội, như một kỷ vật để chuẩn bị cho lễ kỷ niệm cho 1000 năm Thăng Long mà nhân dân cả nước đang đón đợi.
Chú thích
1* Aliénation, uprootedness: Vong thân, mất gốc. Buông bỏ mất các giá trị của gia đình, văn hóa, hay cộng đồng vì coi thường, không tha thiết với chúng nữa.
2* Gene: có gốc từ tiếng German Gen, chữ tắt của Pangen: Đơn vị của sinh học về di truyền – là các chuỗi nucleotides trong DNA hay RNA, chứa trong chromosome.
3* Tiên thiên / Hậu thiên: Nature / Nurture: Trong mỗi sinh vật, phần đến từ tự nhiên, do di truyền, như sẵn có, thường xem là bẩm sinh và phần đến từ hoàn cảnh, môi trường sống, phần tập thành.
4* Ba lạy & Năm lạy:
- Ba cái lạy: Lạy Phật, Pháp và Tăng (Tam bảo). Ba cái lạy cũng còn mang ý nghĩa lễ lạy ba ngôi quý báu bên trong chúng ta và trong mỗi chúng sinh, vì chúng sinh cùng chư Phật đồng một thể tánh sáng suốt (Phật tánh), đồng một pháp tánh từ bi và bình đẳng (Pháp tánh) và đồng một đức tánh thanh tịnh, hòa hợp (Thanh tịnh tánh).
Sau đây là hai bài viết của Thiền Sư Nhất Hạnh về ba lạy và năm lạy với nội dung mới: trong đó lạy thứ nhất là lạy Tổ Tiên, xin tổ tiên phù hộ độ trì, lạy thứ hai là lạy Phật và chư vị Tổ Sư...
BA CÁI LẠY
Thứ Nhất: (Xướng) Năm vóc sát đất, con tiếp xúc với tổ tiên và con cháu của con trong hai dòng tâm linh và huyết thống. (chuông) (lạy xuống)
(Quán niệm, trong tư thế phủ phục) Con có tổ tiên tâm linh của con là Bụt, các vị Bồ Tát, các vị thánh tăng và các vị tổ sư qua các thời đại, trong đó có các bậc sư trưởng của con đã qua đời hay còn tại thế. Các vị đang có mặt trong con, các vị đã truyền trao cho con những hạt giống bình an, trí tuệ, tình thương và hạnh phúc. Nhờ liệt vị mà con có được một ít vốn liếng của an lạc, tuệ giác và từ bi. Trong dòng tổ tiên tâm linh của con, có những vị mà giới hạnh, trí tuệ và từ bi viên mãn nhưng cũng có những vị mà giới hạnh, trí tuệ và từ bi còn khiếm khuyết. Tuy nhiên con cúi đầu nhận chịu tất cả là tổ tiên tâm linh của con vì chính trong con cũng có những yếu đuối, những khiếm khuyết về giới hạnh, trí tuệ và từ bi. Và cũng vì con biết con còn có những yếu đuối và khiếm khuyết ấy cho nên con mở lòng chấp nhận tất cả các con cháu của con, trong đó có những người mà giới hạnh, trí tuệ và từ bi đáng cho con kính ngưỡng nhưng cũng có những người còn đang chật vật khó khăn và trồi sụp không ngừng trên con đường tu đạo (thở nhẹ và sâu). Điều này cũng đúng về phương diện huyết thống. Con chấp nhận tất cả các vị tổ tiên huyết thống của con về cả hai phía nội ngoại với tất cả những đức độ, công hạnh và khiếm khuyết của các vị, cũng như con mở lòng chấp nhận tất cả các con cháu của con với những đức độ, tài năng và khiếm khuyết của từng người (thở nhẹ và sâu). Tổ tiên tâm linh và tổ tiên huyết thống của con, cũng như con cháu tâm linh và huyết thống của con, đều có mặt trong con. Con là họ, họ là con, con không có một cái ta riêng biệt, tất cả đều có mặt trong một dòng sinh mệnh đang diễn biến mầu nhiệm (thở nhẹ và sâu).
(Chuông) (Đứng dậy, chắp tay, thở nhẹ và sâu)
Thứ Hai: (Xướng) Năm vóc sát đất, con tiếp xúc với mọi người và mọi loài đang có mặt với con giờ này trong sự sống (Chuông) (lạy xuống)
(Quán niệm, trong tư thế phủ phục) Con thấy con là sự sống mầu nhiệm đang trải dàn trong không gian. Con thấy con liên hệ mật thiết tới mọi người và mọi loài; tất cả những hạnh phúc và khổ đau của mọi người và mọi loài là những hạnh phúc và khổ đau của chính con. Con là một với những người sinh ra đã có khuyết tật hoặc vì chiến tranh, tai nạn hay đau ốm mà trở thành khuyết tật. Con là một với những người đang bị kẹt vào những tình trạng chiến tranh, áp bức và bóc lột. Con là một với những người chưa từng có hạnh phúc trong gia đình, không có gốc rễ, không có bình an trong tâm, đói khát hiểu biết, đói khát thương yêu, đang đi tìm một cái gì đẹp, thật và lành để bám víu vào mà tin tưởng. Con là một với người đang hấp hối, sợ hãi không biết sẽ đi về đâu. Con là em bé sống trong nghèo khổ, tật bệnh, chân tay gầy ốm như những ống sậy, không có tương lai. Con là kẻ đang chế tạo bom đạn để bán cho các nước nghèo khổ. Con là con ếch bơi trong hồ mà cũng là con rắn nước cần nuôi thân bằng thân ếch nhái. Con là con sâu, con kiến mà cũng là con chim đang đi tìm kiếm con sâu, con kiến. Con là cây rừng đang bị đốn ngã, là nước sông và không khí đang bị ô nhiễm, mà cũng là người đốn rừng và làm ô nhiễm không khí và nước sông. Con thấy con trong tất cả mọi loài và tất cả mọi loài trong con (thở nhẹ và sâu).
Con là một với những bậc đại nhân đã chứng được vô sanh, có thể nhìn những hiện tượng diệt sinh, hạnh phúc và khổ đau bằng con mắt trầm tĩnh. Con là một với những thiện tri thức hiện đang có mặt rải rác khắp nơi trên thế giới, có đủ bình an, hiểu biết và thương yêu, có khả năng tiếp xúc với những gì nhiệm mầu, có khả năng nuôi dưỡng và trị liệu trong sự sống và cũng có thể ôm trọn thế gian này bằng trái tim thương yêu và hai cánh tay hành động của quý vị. Con là người có đủ an lạc và thảnh thơi, có thể hiến tặng sự không sợ hãi và niềm vui sống cho những sinh vật quanh mình. Con thấy con không hề đơn độc. Những bậc đại nhân hiện đang có mặt trên đời, tình thương và niềm vui sống của họ đang nâng đỡ con, không để con đắm chìm trong tuyệt vọng và giúp con sống đời sống của con một cách an vui, trọn vẹn và có ý nghĩa. Con thấy con trong tất cả các vị và tất cả các vị trong con (thở nhẹ và sâu).
(Chuông) (Đứng dậy, chắp tay, thở nhẹ và sâu)
Thứ Ba: (Xướng) Năm vóc sát đất con buông bỏ ý niệm về hình hài và thọ mạng. (Chuông) (lạy xuống)
(Quán niệm, trong tư thế phủ phục) Con thấy được thân tứ đại này không đích thực là con, con không bị giới hạn trong hình hài này. Con là tất cả dòng sinh mệnh tâm linh và huyết thống từ ngàn xưa liên tục diễn biến tới ngàn sau. Con là một với tổ tiên của con, con là một với con cháu của con. Con là sự sống biểu hiện dưới vô lượng hình thức. Con là một với mọi người và mọi loài, dù an lạc hay khổ đau, vô úy hay lo lắng. Con đang có mặt khắp nơi trong giờ phút này và từ quá khứ cho tới tương lai. Sự tan rã của hình hài này không động được tới con, như một cánh hoa đào rơi không làm cho sự có mặt của cây hoa đào suy giảm. Con thấy con là một con sóng trên mặt đại dương, bản thể con là nước trong đại dương. Con thấy con trong tất cả các con sóng khác và tất cả các con sóng khác trong con. Sự biểu hiện hay ẩn tàng của hình tướng con sóng không làm suy giảm sự có mặt của đại dương. Pháp thân và tuệ mạng của con không sinh và cũng không diệt (thở nhẹ và sâu).
Con thấy được sự có mặt của con trước khi hình hài này biểu hiện và sau khi hình hài này biến diệt. Con thấy được sự có mặt của con ngoài hình hài này, ngay trong giờ phút hiện tại. Khoảng thời gian tám mươi chín năm không phải là thọ mạng của con. Thọ mạng của con, cũng như của một chiếc lá hay của các vị Bụt, Thế Tôn là vô lượng. Con thấy con vượt thoát ý niệm con là một hình hài biệt lập với mọi biểu hiện khác của sự sống, trong thời gian cũng như trong không gian (thở nhẹ và sâu).
(Chuông) (Đứng dậy, chắp tay, xá ba lần rồi lui ra)
ÐẢNH LỄ (NĂM LẠY)
Lạy thứ nhất: Trở về kính lạy, liệt vị tiền nhân, dòng họ tổ tiên, gia đình huyết thống, hai bên nội ngoại.
"Con thấy cha mẹ và xương thịt và sự sống đang có mặt và lưu nhuận trong từng tế bào và mạch máu của con. Qua cha con và mẹ con, con thấy ông bà, bên nội cũng như bên ngoại, đã và đang đi vào con với tất cả mọi năng lượng, mọi trông chờ, mọi ước mơ, cũng như tất cả trí tuệ và kinh nghiệm của tổ tiên trải qua bao nhiêu thế hệ. Con mang trong con sự sống, dòng máu, kinh nghiệm, tuệ giác, hạnh phúc và khổ đau của các thế hệ tổ tiên. Những yếu kém, những tồn tại và những khổ đau truyền đạt lại, con đang tu tập để chuyển hóa. Những năng lượng của trí tuệ, của kinh nghiệm và của thương yêu mà liệt vị truyền đạt lại, con đang mở rộng trái tim con và xương thịt con để mà tiếp nhận. Con có gốc rễ nơi cha, nơi mẹ, nơi ông bà, tổ tiên. Con chỉ là sự nối tiếp của tổ tiên và dòng họ”.
Xin cha mẹ, ông bà và tổ tiên hỗ trợ cho con, che chở cho con, truyền thêm năng lượng cho con.
“Con biết rằng con cháu ở đâu thì tổ tiên ở đó, con biết cha mẹ nào, ông bà nào cũng yêu thương, đùm bọc và hộ trì cho con cho cháu khi sinh tiền có lúc gặp phải khó khăn hay rủi ro mà không bộc lộ được niềm thương yêu và sự đùm bọc đó. Con thấy cha ông của con, từ Lạc Long Quân qua các vua Hùng và biết bao nhiêu thế hệ những người khai sáng đất nước, mở rộng cõi bờ, gìn giữ núi sông và un đúc nên nếp sống Việt Nam có thỉ, có chung, có nhân, có hậu. Con cúi rạp mình xuống để đón nhận năng lượng của dòng họ và tổ tiên của gia đình huyết thống của con”.
Xin tổ tiên phù hộ độ trì cho con.
Lạy thứ hai: Trở về kính lạy Phật và Tổ sư, truyền đăng tục diệm, gia đình tâm linh, qua nhiều thế hệ.
“Con thấy thầy con, con thấy sư ông của con, người đã dạy cho con biết hiểu, biết thương, biết thở, biết cười, biết tha thứ, biết sống trong giây phút hiện tại. Con thấy, qua thầy của con, qua sư ông của con, con tiếp xúc được với các thế hệ Thánh Tăng qua các thời đại: Các vị tổ sư Tăng Hội, Tỳ Ni Ða Lưu Chi, Vô Thôn Ngông, Vạn Hạnh, Ðại Ðăng, Tuệ Trung, Trúc Lâm, Pháp Loa, Huyền Quang, Nguyên Thiều, Liễu Quán, con tiếp xúc được với các vị Bồ Tát và với Phật Thích Ca Mâu Ni, người đã khai sáng gia đình tâm linh của con, đã có từ 2600 năm nay. Con biết Phật là thầy con mà cũng là tổ tiên tâm linh của con. Con thấy trong con có chất liệu nuôi dưỡng của Phật, của Tổ, của các thế hệ cao tăng và năng lượng của liệt vị, đã và đang đi vào trong con, đã và đang làm ra sự bình yên, an lạc, hiểu biết và thương yêu trong con. Con biết Phật đã giáo hóa cho gia đình huyết thống của con, đã làm đẹp, làm lành nếp sống đất nước của con và của dân tộc con. Phật đã làm cho dân tộc con trở nên một dân tộc thuần từ và văn minh, điều này con thấy rõ trong nền văn minh Lý Trần. Con biết nếu không có Phật, có Tổ, có thầy thì con không biết tu tĩnh và thực tập an lạc cho con và cho gia đình con. Con mở rộng trái tim và xương thịt con để tiếp nhận kinh nghiệm, tuệ giác, tình thương, sự che chở và năng lượng từ bi của Phật và của các thế hệ thánh tăng, gia đình tâm linh của con. Con là sự tiếp nối của Phật và của các thế hệ tổ tiên tâm linh của con”.
Xin Phật và chư Tổ, xin sư ông và thầy truyền cho con nguồn năng lượng thương yêu, an lạc và sự vững chãi của liệt vị. Con nguyện tu tập để chuyển hóa và để truyền về cho thế hệ tương lai năng lượng của Phật, của Tổ và của thầy.
Lạy thứ ba: Trở về kính lạy, liệt vị tiền nhân, khai sáng đất này, sông núi khí thiêng, hàng ngày che chở.
“Con thấy con đang đứng trên đất nước này và tiếp nhận công ơn khai sáng của tiền nhân đất nước này, trước hết là các vua Hùng, rồi các vị lãnh đạo các triều Tiền Lê, Tiền Lý, Ngô, Ðinh, Lý, Trần, Hậu Lê, Nguyễn cùng với các thế hệ tổ tiên và biết bao nhiêu người có tên tuổi và không có tên tuổi đã đem tài trí, kiên nhẫn và chịu đựng để làm cho đất nước này trở nên nơi nương náu của bao nhiêu giống dân đủ các màu da, đã lập nên trường học, nhà thương, xây dựng cầu cống, đường sá, chợ búa, đã thiết lập nhân quyền, luật pháp, phát minh khoa học làm cho mức sống được nâng cao. Con tiếp xúc được với những thế hệ tổ tiên ngày xưa đã sinh sống trên đất nước này và đã biết sống an lành với mọi loài và với thiên nhiên, với con người và con cảm thấy năng lượng của đất nước này đi vào trong con, yểm trợ con, chấp nhận con”.
Con xin nguyện tiếp tục giữ gìn và làm tiếp nối những dòng năng lượng ấy. Con xin nguyện góp phần chuyển hóa những bạo động căm thù và vô minh còn tồn tại trong xã hội này. Xin phù hộ độ trì cho chúng con.
Lạy thứ tư: Trở về kính lạy, gia đình huyết thống, gia đình tâm linh, gia hộ độ trì, cho người con thương.
“Những nguồn năng lượng vô biên mà con vừa tiếp nhận được, con xin truyền đạt cho cha con, cho mẹ con, cho những người con thương yêu: những người đã từng khổ đau, đã từng lo lắng, đã từng buồn khổ về con vì những vụng về và dại dột của con trong quá khứ và cũng đã từng lo lắng buồn khổ vì buồn khổ và không may của các vị. Con xin truyền đạt nguồn năng lượng ấy để nguyện cầu và tiếp sức cho cha con, cho mẹ con, cho anh chị em của con (cho những người thân của con, cho chồng con, cho vợ con, các con của con), cho tâm hồn họ lắng dịu lại, cho khổ đau trong lòng (những) người ấy được chuyển hóa, cho (những) người ấy nở được nụ cười, cho (những) người ấy cảm nhận được niềm vui sống, cho (những) người ấy được nhẹ nhàng trong thân thể và an lạc trong tâm hồn. Con hết lòng cầu mong cho (những) người ấy có hạnh phúc và an lạc. Con biết nếu (những) người ấy có an lạc thì con cũng có an lạc. Con cảm thấy trong lòng con không có oán hận trách móc những người ấy một mảy may nào. Con lạy tổ tiên, ông bà trong gia đình huyết thống và trong gia đình tâm linh của con phù hộ độ trì cho người con thương, cho những người mà con đã nguyện thương yêu và chăm sóc. Con thấy con không là một cái ta riêng biệt mà con đã trở thành một với những người con thương”.
Lạy thứ năm: Trở về kính lạy, gia đình huyết thống, gia đình tâm linh gia hộ độ trì, người làm khổ con.
“Con mở rộng lòng ra để truyền đi năng lượng hiểu biết và lòng xót thương của con tới những người đã làm con khổ đau và điêu đứng. Con biết người ấy cũng đã đi qua nhiều khổ đau, đã chứa chấp quá nhiều cay đắng và bực bội trong trái tim nên đã làm vung vãi những khổ đau và bực bội của người ấy lên con. Con biết những người ấy không được may mắn có thể là từ hồi còn bé thơ đã thiếu sự chăm sóc và thương yêu, đã bị cuộc đời dằn vặt và ngược đãi bao nhiêu lần. Con biết những người như người ấy chưa được may mắn được học, được tu, đã chứa chấp những tri giác sai lầm về cuộc đời, về con, nên đã làm khổ con và làm khổ những người con thương. Con xin gia đình huyết thống và gia đình tâm linh của con truyền năng lượng cho người ấy, (cho những người ấy) để trái tim của họ được tiếp nhận giọt nước cam lộ mà nở ra được như một bông hoa. Con chỉ cầu mong cho người ấy được chuyển hóa để người ấy tìm ra được niềm vui sống, để không còn giữ tâm thù hận mà tự làm khổ mình và làm khổ người. Con biết vì những người ấy khổ mà không tự chủ được nên đã làm khổ con và làm khổ những người con thương. Con cũng cầu mong cho tất cả những ai đã làm cho gia đình con khổ, dân tộc con điêu đứng, kể cả những kẻ xâm lăng, cướp nước, những người hải tặc, những kẻ ích kỷ, dối trá và tàn bạo được nhờ ơn Phật, ơn Tổ, ơn tiền nhân mà cải hóa. Con thấy họ khổ và nỗi khổ ấy đang kéo dài qua nhiều thế hệ và con không muốn giữ tâm niệm sân hận, oán thù. Con không muốn cho họ khổ. Con có gốc rễ nơi tổ tiên, nơi dòng họ huyết thống và dòng họ tâm linh: trái tim con đã nở ra như một đóa hoa, con xin buông bỏ tất cả mọi niềm hận, một lòng cầu nguyện cho kẻ đã làm khổ con, làm khổ gia đình và dân tộc con được thoát khỏi vòng tai nạn và đớn đau, để họ có thể thấy được ánh sáng của niềm vui sống và an lạc như con. Tâm con không còn mang một mảy may trách móc và oán thù. Con xin truyền đạt năng lượng của con cho tất cả những người ấy”.
Lạy Phật, lạy Tổ, lạy ông bà chứng minh cho con.
5* Ngũ thể đầu địa: Phật giáo Việt Nam thường lạy theo phương cách Ngũ thể đầu địa, tức là làm thế nào cho hai tay, hai chân và cái đầu đụng mặt đất. Đây là một phương cách lạy tôn kính nhất trong tất cả các cung cách lễ lạy. Khi lễ lạy, người Phật tử đứng ngay thẳng, hai chân khép sát vào nhau, hai bàn tay chắp sát lại nhau cho khít theo thế hiệp chưởng (không phải thế hình búp sen) tiêu biểu cho sự nhất tâm. Khi lạy Phật có người để hai tay trước ngực lạy xuống. Cũng có người đưa hai tay lên trán rồi mới lạy xuống theo phương cách ngũ thể đầu địa, tức là khi lạy phải quỳ xuống, ngửa hai bàn tay ra như đang nâng hai chân Phật và cúi lưng xuống đặt trán mình lên trên hai lòng bàn tay. Đối với phụ nữ, thường là quì thẳng lưng rồi lạy, chứ không đứng, vì hình thể đặc biệt của phụ nữ, khác với nam giới nên thế đứng thẳng không thích hợp.
(theo http://www.thuvienhoasen.org/phathocvandap-10.htm)
6* Thiếu phụ Nam Xương - hay vợ chàng Trương - Nguyễn Dữ có chép lại thành "Nam Xương nữ tử truyện", trong tập Truyền Kỳ Mạn Lục. Bà tên thật là Vũ thị Thiết, chồng họ Trương (Trương Sinh), quê làng Vũ Điện, huyện Nam Xương (nay là phủ Lý Nhân) tỉnh Hà Nam. Tại địa phương này, dân chúng có lập miếu thờ. Vua Lê Thánh Tông (1460-1497) tuần thú đi qua miếu, đã làm một bài thơ vịnh rất nổi tiếng, được khắc vào bia đá năm 1471 và truyền tụng đến ngày nay:
"Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương,
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương.
Ngọn đèn dù tắt đừng nghe trẻ,
Làn nước chi cho lụy đến nàng.
Chứng quả có đôi vầng nhật nguyệt,
Giải oan chi mượn đến đàn tràng.
Qua đây mới biết nguồn cơn ấy,
Khá trách chàng Trương khéo phủ phàng!”
7* Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230-1291) tên thật là Trần Quốc Tung, con cả của Trần Liễu, anh ruột của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn và Hoàng hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm - vợ của Trần Thánh Tông. Thượng Sĩ tham gia chống giặc Nguyên Mông, tích cực ở cả ba trận chiến (1257,1285 và 1288). Sau ngày kháng chiến thắng lợi, Thượng Sĩ được phong Tiết Độ Sứ, trấn giữ Thái Bình. Sau đó không lâu, Thượng Sĩ lui về Dưỡng Chân Trang tham cứu Phật học. Từ trẻ, Thượng Sĩ học đạo dưới sự dẫn dắt của thiền sư Tiêu Dao, ngài sáng tác nhiều thi, kệ, một số được truyền trong "Thượng Sĩ Ngữ Lục".
8* A-dục vương (zh. 阿育王, sa. aśoka, pi. asoka)- cũng gọi là A-du-ca, dịch nghĩa là Vô Ưu, không ưu sầu, lo nghĩ; Tên của một vị vua xứ Maurya miền Bắc Ấn Ðộ, trị vì từ năm 272 đến 236 trước Công nguyên, mất năm 231. Trong lịch sử Ấn Ðộ, ông đã để lại nhiều dấu tích quan trọng. Sau một cuộc viễn chinh đẫm máu năm 260 ông có dịp được nghe Phật pháp và tỉnh ngộ, quyết định thành lập một Vương quốc phụng sự Phật pháp. Ông đích thân đi khắp các miền trong nước để bảo vệ luật lệ và chính pháp. Ông cũng là người cổ vũ việc ăn chay và chống tệ nạn giết thú vật cúng tế. Trong thời A-dục vương, đạo Phật phát triển mạnh ở Tích Lan. Người con trai của A-dục vương là Ma-hi-đà (Mahinda) cũng góp phần rất nhiều trong việc truyền bá đạo Phật. Aśoka đã thống nhất toàn cõi Ấn Độ. Với cách sống cùng những thông điệp khắc trên các trụ đá dựng lên khắp nơi trong đất nước, vua đã nỗ lực xây dựng một niềm tin nơi hướng đi nhân ái và bất bạo động. Trụ đá của vua dựng ở vườn Lumbini (bây giờ là Rummindai, Nepal), nơi Bụt Thích Ca giáng sinh, mang những dòng chữ Brahmi và ngôn ngữ Magadhi, còn đứng vững cho đến ngày nay.
9* sangha : 僧 伽; S, P - Tăng-già: Chỉ hội đoàn của các vị Tỉ-khâu (s: bhiksu), Tỉ-khâu-ni (s: bhiksuni) Sa-di (s: sramanera). Trong nhiều trường hợp, các cư sĩ cũng được liệt vào Tăng già (từ điển Phật Học – Chân Nguyên).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét