Giáo Sĩ
Trần Vũ
Alexandre Lucien Abel de Rhodes mang gương mặt thống khổ và si mê của
oan hồn chưa hề biết đến tình yêu. Những ai bắt gặp giáo sĩ những năm
thánh chiến, thảng thốt nhận ra bóng ma mang nỗi buồn chín thối ruột gan của
một người đàn ông chưa toại nguyện thân xác. Hôi thối đến nỗi những người
lính Marốc của tiểu đoàn 10 Tabor tăng cường cho trung đoàn 3 Lê Dương phải
bịt mũi trước xú uế nồng nặc bốc toả từ nhà thờ chính toà Cao Bằng. Thời kỳ
đường thuộc địa số 4 chưa bị cắt, con đường hun hút treo vắt qua những triền
núi thăm thẳm, các chuyến quân xa hãy còn tấp nập đổ những đám lính say rượu
ầm ĩ xuống xóm nhà thổ, pháo đài đầy rẫy hiện tượng. Mỗi khi Alexandre de
Rhodes thăm các họ đạo, các ruộng mạ mới xanh mơn mởn bỗng dưng héo úa hoá
ra cằn cỗi rồi đổ rạp xuống thành đống rạ cũ mốc như đã cháy khô từ bao kiếp
nào. Các gốc sữa chai sần không thể trổ hoa và ngay đến con sông Hiểm nổi
tiếng hung dữ, mặt nước bình thường cuộn siết xoáy nhận chìm biết bao bè gỗ
cũng vụt trở nên lặng lờ thiu chảy. Nỗi buồn thống thiết trống vắng tình
yêu ở cha cố lây lan đến khắp vạn vật, kể cả con người. Mỗi sáng chúa nhật
rước lễ, trông thấy De Rhodes hiện hình trên bục giảng, các con chiên giáo
xứ oà khóc vật vã tức tưởi như vừa trông thấy chính đấng Chirst đang chịu
thương khó trên thập tự giá. Chứng trầm uất Thừa Sai phủ trùm lấp pháo đài
đến mức những tháng sau cùng trước trận đánh đường biên giới, đại tá
Antoine Marie Pierre Charton chỉ huy trung đoàn 3 Lê Dương và cố thống chế
Ney tư lệnh khu biên thùy đông bắc phải nghiêm cấm các binh sĩ lui tới nhà
thờ để tránh hội chứng cô buồn giáo sĩ. Ðó là thời kỳ Cao Bằng thác loạn với
những trận làm tình thâu đêm của lính Lê Dương, những trận cười suốt sáng
ở xóm thổ, những viên thuốc tẩy não vong bác sĩ Louis Pasteur phát cho các
đứa bé mắc chứng trừu run chân, của bệnh viêm khứu giác Marốc không chịu nổi
xú uế, của những cô gái Mèo khâu vá màn trinh vội vã và của cả những linh
hồn sĩ quan da trắng thất lạc trong kế sách bình định của tổng chỉ huy
Carpentier.
Vương cung
thánh đường thị xã mang kiến trúc Y Pha Nho thời Phục Hưng pha lẫn kiến
trúc nặng nề Áo Phổ. Thời đó, các xóm lương đã gọi giáo đường là Lăng Cha
Cả, ai cũng biết giáo sĩ De Rhodes chết từ lâu lắm, vong hồn chưa siêu
thoát, còn đợi ngày phán xét cuối cùng chưa xẩy đến, hãy còn quyến luyến
Ðông Dương vùng đất ông đã đến truyền giáo và lập chữ viết bản xứ. Tất cả
giáo dân kính trọng quyết định của toà thánh, cho phép vong giáo sĩ trở về
cai quản địa hạt Cao Bằng, nhưng nhà thờ chính toà đã mục nát lắm. Ngoài
mùi xú uế xông từ nỗi buồn chín thối ruột gan của cha cố, hình như không
còn thứ gì tươi tốt. Từ những nhành huệ đã tàn rữa rụng chậm chạp, những
trang kinh thánh đã hoá tro, các chân nến đã hết sáp nhưng vẫn tiếp tục
cháy ngọn lửa leo lét mà không ai hiểu vì sao, đến các băng gỗ cũ mục mối
mọt kê dưới chân tượng thánh Michel đã bắt đầu nổi ghẻ và tháp chuông thẳng
đứng cao vút cũng chìm trong vũng mây xiêu đổ hoang tàn. Alexandre de
Rhodes chui rúc trong nhà nguyện. Giáo sĩ mặc cảm với tất cả mọi đàn bà
sinh sống trong pháo đài từ lúc nhận chân ông đã bị thượng đế tước mất chức
năng đàn ông, từ lúc khám phá rặng sữa sau nhà thờ không bao giờ có thể
đơm hoa trắng và vườn cà ông trồng đã ba trăm năm không thể cho trái. De
Rhodes chỉ còn một nỗi đam mê cuối cùng duy nhất. Nỗi đam mê tiểu thuyết.
Hiếm ai biết
những cuốn tiểu thuyết An Nam diễm tình dịch sang tiếng La Tinh và Bồ Ðào
Nha bày bán ở hiệu sách Tôn Thọ Tường những tháng đầu năm 1950 do chính
tay Alexandre de Rhodes chuyển ngữ. Giáo sĩ kinh hoảng khám phá thứ chữ
ông ký âm ba thế kỷ trước đã trở nên lúc nhúc đông đúc thoát ra khỏi quy tắc
văn phạm do chính ông thiết lập trong tự vị Việt Bồ La. Lúc sinh tiền, De
Rhodes đã nhận ra mọi thứ biến hoá cấp kỳ ở An Nam. Lần chứng kiến cố Du tử
đạo, De Rhodes đã để ý những khóm dứa trồng quanh pháp trường chỉ cao bằng
đọt măng tây, đã lớn nhanh như thổi từ lúc đao phủ của Chúa Nguyễn hươi
đao cho đến khi chặt thủ cấp cố Du, đã đơm trái chín vàng ngọt rụng xuống
các gánh hàng rong xăm que bán cho khách đi xem hành quyết. Mãi về sau ông
mới hiểu, khóm dứa nhờ thấm phân cố Du quá sợ hãi vãi đái mà lớn nhanh như
vậy. De Rhodes cũng chứng kiến sắc tộc Kinh có khả năng học ngoại ngữ rất
nhanh. Những ngày ở Ðàng Trong, khuyến khích các con chiên vừa mới theo đạo
xưng tội, De Rhodes để ý các cô gái chỉ biết khai bằng tiếng Khmer ông
không sao hiểu, nhưng cũng các cô gái đó, khi lập gia đình đến nhờ ông làm
phép giao, đã nói lưu loát tiếng Trung Hoa và khi De Rhodes rửa tội cho đứa
con đầu lòng, các cô dâu trẻ đã biết nói merci và xin pourboire.
Thời kỳ trông coi giáo phận Cao Bằng, De Rhodes quyết tâm dành hết thời
gian khám phá những bí ẩn trong con người An Nam. Ông không còn ăn bổng lộc
của hội Thừa Sai và có đủ thời gian cần thiết cho đến ngày chúa sống lại.
De Rhodes tin bí mật sắc tộc Kinh chỉ có thể phô diễn và lưu lại qua chữ
viết. Ông bắt đầu lùng sục những chợ sách, nhưng rất nhanh De Rhodes ngạc
nhiên thấy tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh in hệt tiểu thuyết Pháp, tiểu thuyết
Phạm Duy Khiêm, Nguyễn Trọng Quản không khác mấy thời ông viết Phép Giảng
Tám Ngày và tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng châm biếm nhức nhối ông không sao
hiểu hết. Giáo sĩ bắt đầu tuyệt vọng, ông ợ hơi thum thủm và nỗi buồn chín
thối ruột gan càng lúc càng nồng nặc thối hoăng khắp vùng. Các họ đạo xa
lánh dần nhà thờ, mỗi lúc làm lễ De Rhodes phải giảng kinh Sám Hối ven
sông Bằng Giang để gió xua bớt mùi thối. Giáo đường mỗi lúc một hoang vắng,
ngay cả dì phước Louise Marie de Bourbon, nữ tu không còn chức năng đàn bà,
cũng không dám thường xuyên đến chăm sóc cha cố, chỉ liên lạc với cố đạo
qua thư tín. Tấm áo chùng gai của Alexandre de Rhodes không còn được dì
Louise giặt giũ, mỗi lúc một cũ nát, bẩn thỉu và chảy nước vàng của chứng
thối ruột. Nhà thờ chính toà trở nên thê lương, mối ăn ruỗng các cột quân
và vòm mái đìu hiu leo lét tim đèn không còn dầu. Các xóm đạo chung quanh
đã phải dọn đi vì sợ giáo đường sụp đổ bất cứ lúc nào. Cho đến ngày vong cố
Du Paul Marchand ghé thăm, thâm tạ De Rhodes đã tiễn đưa ra pháp trường Thọ
Ðức lúc lâm chung, đã mách chỉ cho giáo sĩ thư viện to lớn cổ xưa của nhà
thờ xây chìm sâu trong một căn hầm đá, lúc đó, Alexandre de Rhodes mới
khám phá ra Tự Lực Văn Ðoàn.
Alexandre
Lucien Abel de Rhodes đọc miên man những cuốn tiểu thuyết diễõm tình. Giáo
sĩ không ra khỏi hầm đá, ăn uống tiêu tiểu ngay bên cạnh giá sách Tự Lực.
Thậm chí ông không có thì giờ vén áo chùng mỗi khi đại tiện. De Rhodes đọc
đi đọc lại những cuốn tiểu thuyết, đọc hết chương này sang chương khác, đọc
hết cuốn này sang cuốn khác, ông vừa tra tự vị mỗi khi gặp những chữ mới
không do ông ký âm, vừa phiên dịch sang tử ngữ La Tinh và tiếng Bồ Ðào Nha,
ông bắt gặp trở lại niềm đam mê cuồng nhiệt nồng thắm ngôn ngữ thời trẻ,
và càng đọc De Rhodes càng cảm văn phong trong sáng rất gần gũi Tây Phương
vừa đầy tâm lý ý nhị An Nam. Giáo sĩ dịch bốn cuốn Bướm Trắng, Ðôi Bạn,
Anh Phải Sống và Gánh Hàng Hoa gởi cho các nhà xuất bản Âu Châu nhưng ông
chỉ nhận được những hồi âm thờ ơ của nhà Pléïade cho biết thị trường tiểu
thuyết Ðông Dương không chạy, nhà xuất bản Plon trả lời thẳng truyện dài
An Nam còn quá phôi thai chỉ sao chép lại tiểu thuyết Pháp, và nhà
Flammarion chê bản dịch chưa chuẩn. Nhưng giáo sĩ không nản chí, ông gởi
bán ở hiệu sách Tôn Thọ Tường bên hông Pharmacie de Garde thị xã. Thỉnh
thoảng De Rhodes cũng nhận được thư độc giả của các sĩ quan trung đoàn 3
phê bình này nọ. Thư của cố hải quân thiếu tá Henri Rivière khen ngợi văn
rất mạch lạc, gẫy gọn, khúc chiết, chỉ ít scène gây cấn. Thư của cố hải
quân đại úy Francis Garnier nhận xét nếu thêm chút dâm dục, da diết, dữ dội
và loạn luân sẽ lôi cuống hơn. Thư dì phước Louise thích đặt biệt truyện Vợ
Chồng A Phủ của Tô Hoài hơn hết… Các thư độc giả khiến De Rhodes càng hăng
say mê mẩn, ông đọc Ðời Mưa Gió như sống một mối tình thật sự. Lần đầu
tiên giáo sĩ khám phá trong tiểu thuyết ghi chép những điều mà kinh thánh
không hề nhắc đến. Ðời Mưa Gió ghi chép tất cả tâm trạng con người khi yêu
mà De Rhodes chưa hề thấy trong Tân Ước, Cựu Ước. Ông si mê Ðời Mưa Gió đến
quên đại tiện, quên lễ mifa, quên cả làm phép sức dầu ở nhà xác thị xã cho
toán lính Marốc vừa tử trận. De Rhodes dịch mê man Ðời Mưa Gió, ông viết
thoăn thoắt tựa như chữ đã nhập vào mình, tựa ông đã sống ở phố Quan Thánh
nơi nhân vật Chương sinh sống, tựa đã trông thấy Tuyết uống champagne và
khiêu vũ. De Rhodes viết đêm ngày, trăng lên trăng xuống ông không hay,
mưa bão ông không hề biết, viết đến rách giấy, viết đến thủng bàn gỗ cẩm
lai khiến ý văn tung toé, chảy lai láng trên mặt đất. Thậm chí bình mực đã
cạn giáo sĩ vẫn tiếp tục chấm, tiếp tục viết đến lúc ngòi bút cùn vẹt, cán
bút lụn dần rồi biến mất mà mực vẫn cứ tiếp tục trào ra chảy ở đầu ngón
tay ông sưng đỏ như quả ớt.
Những năm
thánh chiến, ở Cao Bằng xuất hiện một hiện tượng kỳ quái, không liên quan
đến giáo sĩ, mỗi cuối tháng ở nghĩa địa đất thánh Tây ùn lên một đám mây
xám ẩm ướt lạnh lẽo phủ trùm khắp hai bờ sông Hiểm. Chính một trong những
áng mây nặng chì u uất xám lạnh này đã len lỏi bay xuyên qua vách tường đá
của căn hầm thư viện. Nhưng De Rhodes không trông thấy, ông vừa dịch đến
câu chữ cuối, đóng bản thảo rồi lim dim mắt. Chưa bao giờ giáo sĩ hài lòng
đến vậy suốt kiếp ma khắc khoải không lối thoát. Ông vừa hoàn tất công
trình phiên dịch văn chương trác tuyệt, vừa cho các nhân vật tiểu thuyết Tự
Lực một kiếp đời khác, trong một ngôn ngữ khác. De Rhodes nhắm mắt sung sướng,
gương mặt ông phản chiếu trong mây nỗi hân hoan nhẹ nhàng của cậu bé
Alexandre khi rước lễ thành niên lần đầu trong thành Goa. Ðã lâu lắm De
Rhodes quên ngủ. Từ sau khi chết ba trăm năm, ông không còn phân định được
tương lai, thực tại hay quá khứ. Nhưng buổi sáng đó, buổi sáng ngập mây
xám trong tầng hầm vách đá của nhà thờ chính toà Cao Bằng, cha cố bất chợt
nhớ đến thời trẻ đã có lần trông thấy một thiếu nữ tuyệt đẹp, đội khăn
vành trắng không rõ mặt nhưng ánh mắt đen tuyền lấp lánh nghịch ngợm và
mái tóc đen bóng của đàn bà Bồ Ðào Nha đã để lại trong lòng cậu bé
Alexandre nhiều luyến tiếc. Alexandre đã ước mơ được đi theo thiếu nữ, sau
rước lễ, cùng sóng đôi rảo bước trên những con đường lát đá cổ xưa của bến
cảng trông ra đại dương mênh mông xa vắng, cùng nắm tay trong các lối đi
quanh co nhỏ hẹp giăng hoa, treo cờ ngũ sắc và thắp đèn lồng của ngày kiệu
Maria. Alexandre cảm giác anh đứng gần lắm thiếu nữ, gần có thể chạm được
vào những đầu ngón tay thuôn mảnh dẻ nhú ra ở ống tay áo mỏng, gần đến mức
có thể nghe được làn da cô gái đang hô hấp, gần sát đến nỗi anh trông rõ
hàng mày đen tinh nghịch đang nhíu cong trông đợi. Alexandre nghĩ anh đang
đứng cạnh đức mẹ Maria thời còn con gái. Cả hai chờ đợi nhau lâu lắm, chờ
đợi tiếng thở của mỗi người lên xuống trong lòng ngực tràn máu ấm. Thiếu nữ
chỉ đợi anh mời lôi kéo vào điệu vũ rước đám đang tưng bừng trẩy hội, để
ngã mình xoay trong vòng tay đưa đón của Alexandre điệu múa của sóng biển.
Song vũ trụ bất động. Chiếc bánh thánh còn ngậm trong miệng khiến
Alexandre không thể cất tiếng. Ðức hồng y Richelieu của hội đồng giáo phẩm
tối cao toà thánh đã không ngừng răn đe: Các con chiên không được nhai nuốt
bánh thánh, chỉ có quyền ngậm cho đến khi mình thánh Chúa hoá thân thành
xương thịt của mỗi con chiên, nếu không lửa thiêng sẽ đổ xuống trái đất đời
đời. Alexandre nhắm mắt, nước mắt anh chảy ra vì đau đớn, cho nỗi đau bẩm
sinh tật nguyền của một thiếu niên mười bốn. Ðến khi chiếc bánh thánh tan
di, Alexandre mở mắt, cô gái đã biến mất. Alexandre còn trở lại giáo đường
nhiều lần nữa với hy vọng gặp lại thiếu nữ, anh đã trở lại nhiều lần đến nỗi
thuộc lòng hết bốn ngàn bản thánh ca, thuộc lòng tất cả những bài giảng của
các linh mục, thuộc lòng toàn bộ kinh thánh và trở thành cha xứ Dòng Tên
lúc nào anh cũng không hay. Alexandre trông coi nhà thờ Goa trong nhiều
năm, với hy vọng gặp lại thiếu nữ có đôi mắt đen láy đầy khát khao sự sống,
đến lúc gần tuyệt vọng, anh được tin người đàn bà đã kết hôn và theo chồng
đi khai trí Châu Á. Cha xứ De Rhodes dấn thân vào hành trình truyền giáo
Phương Ðông kể từ lúc đó, nhưng mãi mãi, giáo sĩ sẽ không bao giờ còn gặp
lại người đàn bà của thành Goa.
Buổi sáng đó,
buổi sáng có những khúc lụa bay chậm rãi trong giấc ngủ thiu thiu, De
Rhodes có cảm giác một làn sương sớm tinh khiết thơm cây trái đang phả suốt
hầm. Hương hoa mỗi lúc một toả ngát đậm đặc lấn át dần mùi xú uế. Cha cố tỉnh
ngủ hẳn. Ông nhìn trân trối đoá hồng đỏ gắt đang mọc nhú từ từ, trổ từ bức
tường lâu năm ám khói, thứ hồng đỏ gắt rực rỡ Nhật Tân mà có lần De Rhodes
đã trông thấy ở xứ bảo hộ Bắc Kỳ. Cha cố kinh ngạc không hiểu vì sao khóm
hồng đỏ lịm đã có thể đâm xuyên thủng trần hầm thư viện. Nhưng rõ ràng các
đài hoa đang nứt rạn vách đá. Trong một phút, ngôi huyệt cổ đơm chi chít mẫu
đơn, glạeul và hồng tía, tựa nhà thờ sắp có lễ giao. De Rhodes lấy tay phủi
mây để nhìn cho rõ và ông chết cứng khi ấy, khi tay hãy còn nắm níu những
cọng mây đang trôi lơ lửng.
Alexandre chết
sững. Người đàn bà có đôi mắt thông minh của thành Goa đang ngồi trước mắt
anh, chỉ cách một mặt bàn. Vẫn thiếu nữ nở nang khoẻ mạnh của đêm kiệu
Maria, vẫn mái tóc đen loang loáng bóng tối loã xoã trước sống mũi tinh
nghịch. Alexandre nghe hơi thở của thiếu nữ lên xuống trong lồng ngực đã
qua tuổi dậy thì bung nở kiêu hãnh, nghe hơi thở hổn hển của chính anh, của
vong hồn đã tắt thở ba trăm năm. Anh muốn hỏi, nhưng không sao cất tiếng.
Muốn thốt lên nỗi nhớ mong da diết diệu vợi của một trăm ba mươi ngàn ngày
xa cách nhưng anh chỉ có thể lắp bắp.
- Blời ơi !
Alexandre muốn
nói anh đã tìm cô gái suốt từ bấy, từ đêm kiệu Maria chấm dứt anh đã hốt
hoảng chạy suốt đêm trong thành Goa tìm kiếm, từ năm 1624 khi anh bước
chân xuống những thương thuyền Bồ Ðào Nha vượt đại dương đi tìm chân lý của
sự sống, từ những tháng ngày lang thang lếch thếch giảng kinh ở các xóm đạo
Ấn Ðộ, Mã Lai, Ma Cao, Hồng Kông, Qui Nhơn, Quảng Ngãi, đến đâu Alexandre
cũng chỉ hỏi thăm một người đàn bà duy nhất, mong có ai thấy. Cho đến phút
lâm chung trút hơi thở cuối cùng, trên giường bệnh trong thành Ba Tư,
Alexandre vẫn hãy còn kêu tên người đàn bà mà anh chưa hề biết. Nhưng anh
không tìm ra chữ. Không sao diễn tả thứ tình cảm vĩnh cửu nhân loại còn
dai dẳng hơn cả sự sống hứa hẹn đời đời trên nước Chuá. Anh không thể thốt
lên lời tỏ tình chưa ghi chép trong kinh thánh. Alexandre nhận ra miệng
anh vẫn hãy còn ngậm chiếc bánh thánh ngày nào. Chiếc bánh thánh chưa bao
giờ tan, chưa hề tan, chưa hoá thành máu thịt, còn ở nguyên trên lưỡi anh
vị nhạt nhẽo của bột lúa mạch xây nhuyễn. Thiếu nữ cũng nhìn anh trừng trừng
trân trối, cho đến khi cô gái chắp hai tay vái:
- Vâng em là Tuyết của Ðời Mưa Gió, của Nhất Linh và Khái Hưng trong Tự Lực
Văn Ðoàn, người chịu ơn của anh!
Alexandre
Lucien Abel de Rhodes chỉ kêu lên được hai chữ thảng thốt Blời ơi rồi
ngất đi. Chữ Blời mà cách đây ba thế kỷ, giáo sĩ đã nhạy cảm hiểu
trong ngôn ngữ bản xứ mang cùng một ý nghĩa Ðức Chúa Cha trong kinh thánh.
*
Trung úy
Bernard de Lattre de Tassigny là một trong những sĩ quan trẻ còn sống hiếm
hoi của trung đoàn 3 Lê Dương. Khác với đồng đội, đa số đã quá cố nhưng vẫn
tiếp tục hiện dịch, Bernard mang trên mình sức sống còn trinh nguyên của
những bông lys trắng chưa héo uá. Viên trung úy trẻ mang vẻ đẹp cao sang
quyền quý của những tử tước thời trung cổ, vừa vương giả, vừa tinh khiết của
các cô dâu ngày cưới. Nét đẹp của Bernard de Lattre trong trắng đến mức
quân phục của anh không bao giờ có thể lấm lem, ngay cả những khi viên
trung úy lội sình bùn dẫn một trung đội đi phục kích ở làng Trà Linh, sát
cạnh biên giới Trung Hoa. Suốt một đêm ngâm trong sình lỏng, hỗn chiến ác
liệt lúc chạm súng, đám lính Lê Dương cáu bẩn bê bết máu, nhưng trung úy
De Lattre thẳng thớm như vừa bước chân ra khỏi hiệu giặt ủi. Nhưng khác hẳn
đại tướng Jean de Lattre, Bernard không đi tìm hào quang chiến thắng,
không ước muốn chinh phục Ðông Dương, anh chỉ mang một khát vọng duy nhất,
đơn sơ, thầm kín, tìm thấy tình yêu lứa đôi trong đời sống. Trung úy De
Lattre là sĩ quan duy nhất không xuống xóm nhà thổ, anh tin vào thượng đế
và giữ mình cho tình yêu lớn sau này. Nhưng đó là chuyện của một năm trước,
khi đồn Phủ Tổng Hoà chưa thất thủ, khi đường thuộc địa số 3 chưa bị cắt.
Thời gian Cao Bằng bắt đầu bị vây hãm, tựa tên khổng lồ bị chôn giữa rừng,
chỉ còn nhô chiếc đầu cổ quái khổng lồ lên nhìn ngắm núi đá, hai tay, một
níu Bắc Cạn đã bị chặt, một níu Lạng Sơn cố gắng vung chiếc chùy sắt đập
lũ dơi đang hút máu, Bernard de Lattre chỉ còn là một thân xác tuyệt vọng
sống đợi chết.
Buổi trưa khi
đồn Phủ Tổng Hoà thất thủ và mẹ bề trên Thérèse đã một trăm tuổi, đã mù
loà của chủng viện Các Thánh Anh Hài bất chợt nằm ác mộng trông thấy đám
giặc Cờ Ðen vây đốt tu viện, không biết ở đâu có tin đồn trung úy Bernard
de Lattre sắp làm lễ cưới. Tin đồn rùm ben đến nỗi, đại tướng De Lattre
khi ấy còn chỉ huy đệ nhất lộ quân sông Rhin, từ Âu Châu đã phải gởi thư
khuyên nhủ con trai chọn hôn phối phải có phẩm hạnh, gốc gác. Tin đồn nhiều
đến mức Bernard de Lattre cũng tin là anh sắp thành hôn khi thấy các trại
lính kết hoa và câu lạc bộ sĩ quan trải khăn ăn trắng muốt. Trong pháo đài
chỉ có một người đàn bà da trắng duy nhất, nữ tu Louise Marie de Bourbon,
phẩm hạnh và xinh đẹp. Bernard đã đến hỏi Louise cho ra lẽ, có phải dì phước
đã xin rút phép thông công, thôi ân cách để thành thân với anh? Mãi cho đến
lúc hy sinh ngoài mặt trận, Bernard vẫn hãy còn hối tiếc đã hỏi câu hỏi
quá ngu xuẩn, dì Louise bị xúc phạm tột độ đã đóng sầm cửa tu viện để
không bao giờ còn tiếp anh. Thời gian Bắc Cạn triệt thoái, các đơn vị tiền
phương của sư đoàn 308 tiến đến sát bờ sông Hiểm, trung úy De Lattre bất
chợt khám phá anh không thể nào tìm ra tình yêu lứa đôi trong cuộc đời, vì
một lý do duy nhất, anh không thể định nghĩa được tình yêu, do đó, không
thể tổng hợp những tiêu chuẩn cần thiết tối thiểu để chọn ý trung nhân. ý
thức tình yêu không thể tìm thấy, rất khó hiện hữu, bỗng khiến Bernard hối
tiếc anh chưa bao giờ xuống xóm thổ, chưa bao giờ ân ái với phụ nữ. Viên
trung úy đi ngay xuống xóm yên hoa ven sông Hiểm, bất chấp những ổ phục
kích đêm của Việt Minh, nhưng Bernard de Lattre khám phám thêm một điều
kinh khủng, anh hoàn toàn bất lực, không có khả năng sinh lý, dù nhỏ nhoi,
hiếm muộn.
Thời kỳ đó, ở
Cao Bằng lại thêm tin đồn trung úy De Lattre, con trai tân tổng tư lệnh
quân đoàn viễn chinh tương lai, sắp tử vong. Nhưng kỳ quặc, khác với tin đồn
thất thiệt lễ cưới, do các sĩ quan Pháp chòng ghẹo chế riễu, chính dân bản
xứ kháo nhau đám tang sắp đến của Bernard sẽ đi qua phố Chả Cá, bên hông
nhà thờ chính toà. Tin đồn nghiêm chỉnh đến độ mỗi lần Bernard xuống phố,
các sắc tộc thiểu số Nùng, Mông, Mán, cả người Kinh đều cúi đầu vái lạy
anh như đi điếu. Viên trung úy bắt đầu thắc mắc, nỗi nghi ngờ tăng dần lên
sau mỗi khi xin xăm, gieo quẻ ở các ngôi đền An Nam. Khác Francis Garnier,
khác Henri Rivière, Bernard yêu thích đặc biệt kiến trúc gỗ Á Ðông. Anh
lui tới thường xuyên các chùa chiền và khám phá tục bói toán An Nam. Thời
kỳ đó, những ngôi chùa lớn nhất của Thăng Long đều có văn phòng đại diện tại
Cao Bằng, Bernard đã viếng hết những văn phòng chùa cổ nổi tiếng nhất, đã
đến chùa Một Cột, chùa Trấn Quốc, chùa Quan Thánh, chùa Trấn Võ, Văn Miếu
Quốc Tử Giám và lần nào lấy lá số tử vi, các thầy An Nam cũng đều quả quyết
anh sẽ chết ở Ðồng Khê, một trăm thầy như một, nhất quyết anh sẽ chết ngày
30 tháng 5 năm 1950. Thậm chí có quẻ còn cho cả giờ chết, là giờ Thần
Trùng khiến sau này anh sẽ bắt đi đại tướng Jean de Lattre de Tassigny,
khi ông đang ở trên tột đỉnh vinh quang của danh vọng sau chiến thắng Vĩnh
Yên. Ban đầu, Bernard đầy nghi hoặc, đã điện về phòng quân số của bộ tư lệnh
Bắc Phần, đích thân tướng Alessandri đã trấn an, khuyên anh yên tâm sẽ
không chết ở Ðồng Khê, vì tất cả các phúc trình báo cáo đều ghi rõ tìm thấy
xác trung úy Bernard de Lattre tại Ninh Bình, trong trận bờ sông Ðáy, ngày
30 tháng 5.1951, đúng một năm sau đó. Suốt mấy tháng liền, Bernard rất
hoang mang, anh không biết đâu là sự thật, đôi lúc tin vào quân sử, vào thực
tế hiển nhiên, đại tướng De Lattre chưa sang Ðông Dương, chưa có trận Vĩnh
Yên làm sao có trận Ninh Bình, và tổng chỉ huy đương nhiệm vẫn hãy còn là
tướng Carpentier, nhưng tất cả các quẻ xin xăm ở đền An Nam đều mang một
thông điệp trái ngược rùng rợn: Ðồng Khê mạng vong lúc 9 giờ sáng.
Buổi trưa đến nhà thờ
chính toà thị xã, để từ giã vong hồn cha cố, trung úy De Lattre đã xuống
tinh thần lắm. Ðã mùng 9 tháng 4, chỉ còn đúng 7 tuần nữa là đúng ngày thần
Trùng đến bắt người, mà De Lattre tin chắc anh có tên trong danh sách.
Trung úy De Lattre cũng khám phá cơ thể anh đang biến dần thành xác chết,
da mặt anh xanh tái, môi thâm và tròng mắt càng lúc càng trắng đục.
Bernard cố đổ lỗi do anh mất ngủ, hút thuốc lá quá nhiều và sợ hãi, nhưng
rõ ràng là da thịt anh đang chết đi từ từ, chết dần dần đến nỗi anh ăn uống
không còn cảm thấy vị giác gì nữa, hai bàn tay lúc nào cũng lạnh ngắt như
bàn tay xác chết. Bernard cũng bắt đầu có những dấu hiệu mắc hội chứng buồn
thối ruột giáo sĩ. Thứ chứng bệnh chỉ xẩy đến cho đàn ông không toại nguyện
thân xác. Anh đã bắt đầu ợ hơi thum thủm và mỗi khi đánh rắm, mùi xú uế thối
kinh dị. Bernard tin chắc anh sắp chết, không ai có thể cứu nỗi. Anh muốn
đến viện Pasteur khám, nhưng trông thấy những đứa trẻ mắc chứng trừu run
chân uống thuốc tẩy não, tuy hết bệnh, nhưng tròng mắt ngô nghê, đầu óc trống
rỗng, cứ cười toét miệng khiến anh kinh hoảng. Những tuần lễ sau cùng, các
quẻ xăm trở nên khẩn cấp, các tờ chú giải chỉ in đậm một chữ duy nhất,
tử vong, nhấp nháy liên hồi như muốn báo nguy hiểm.
Buổi trưa đến
chào cố đạo, viên trung úy trông thê thảm. Quần áo anh dơ bẩn, vấy ố, tựa
vẻ đẹp trắng trong đã bị chứng thối ruột gan ăn nhấm. Bernard vừa nhận được
lệnh thuyên chuyển đơn vị đi đóng đồn Ðồng Khê, nơi anh sắp chết. Trung úy
De Lattre thấy rõ, anh đang bước dần đến định mệnh, không thể thoát, không
thể tránh khỏi. Buổi trưa nắng gay gắt, nắng ran trên mái lô cốt của hàng
rào phòng thủ, Bernard de Lattre trang bị rất nhiều vũ khí, ngoài súng
colt chỉ huy, anh còn mang bazooka và mìn chống chiến xa, viên sĩ quan
luôn sợ hãi chạm trán thần chết, bắt gặp thần Trùng ở mỗi góc phố. Bernard
muốn chết trong danh dự, chiến đấu đến phút cuối cùng của đời binh nghiệp
ngắn ngủi. Anh cũng không dám đi một mình, sợ thần chết kéo cả bầy. Cùng
đi với anh có toán lính da đen lực lưỡng cầm trung liên nồi mở đường. Ðám
lính đi qua những con ngõ im ỉm, tất cả mọi cửa sổ, cửa cái của các hiệu
thương buôn đều đóng kín, cả những gánh hàng rong cũng vất lây lất, không
kẻ mua, người bán, chỉ nổi những váng nước vối tím tái. Ðám lính đi qua lối
đi ngoằn ngèo, giữa trưa im phắc, không tiếng động, không một chút âm
thanh nào khác ngoài tiếng cựa mình của bụi. Tất cả phố xá đều mang dấu hiệu
một lễ tang của những ngày sau hoả thiêu, một nhà mồ. Nhưng khác mọi khi,
các gốc sữa phía sau nhà thờ xum xuê rậm rạp trổ hoa trắng khác thường, tiết
ra mùi sữa bột Guigoz nhờn nhờn của khi vừa trộn nước sôi và vườn cà đã ba
trăm năm chưa cho trái chen chúc, lúc nhúc những quả cà to bằng trái bí rợ
nằm lổn ngổn trên đất. Bernard bỗng cảm thấy thấy sợ. Tất cả mọi thứ đều
khác lạ, làm như có bàn tay vô hình lướt qua vạn vật. Chỉ có thể là thần
Trùng.
- Ối anh đừng
bắn ! Em lạy anh đừng bắn !
Thiếu nữ rên
lên hốt hoảng lúc viên trung úy tông cửa. Bóng tối của giáo đường vỡ oà với
ánh sáng ập vào nền đá như rải lửa. Dưới tượng Ðức Mẹ cũng đang hốt hoảng,
Bernard chết sững. Cô gái chắp hai tay vái không ngớt.
- Ối anh đừng
bắn ! Em là Tuyết của Ðời Mưa Gió, người chịu ơn của anh !
Mãi về sau,
trung úy De Lattre vẫn hãy còn nhớ đã choáng váng, lảo đảo như trúng sét.
Anh vừa trông thấy rõ rệt định nghĩa tình yêu bấy lâu tìm kiếm, chép đầy đủ
trên thân thể cô gái không sót một hàng, một chữ nào. Bernard đánh rớt quả
mìn chống chiến xa lúc đó, trong hồi tưởng anh hoàn toàn không nghe thấy
tiếng chân hối hả của đám lính ngã bổ hứng quả mìn sợ bật kíp bung nổ. Cả
tiếng hỏi nhốn nháo quát tháo và tiếng động gạt tung các tấm phên chắn trước
phòng xưng tội lùng sục đặc công Việt Minh và tiếng cơ bẩm lên đạn lục
soát một vòng những băng gỗ cầu nguyện của toán cận vệ. Anh nhớ đã rất ngạc
nhiên vì những người lính không trông thấy cô gái, đang quỳ trước mặt anh
van vái. Bernard nhớ rõ, thiếu nữ in hệt người đàn bà trong trí tưởng bấy
lâu anh lùng kiếm, đôi mắt lá răm cuống quýt, mái tóc đen bóng tối, nước
da ửng mật giữa trưa nóng, cô gái mang suốt thân thể những bí ẩn của tình
yêu và điều kỳ lạ, anh đọc được hết tất cả những mật mã ghi chép tường tận
trên da mặt cô gái, viết chi chít ở vành môi dầy và lan xuống đến hai vai,
ở bắp tay thuôn nõn săn chắc, đầy ắp ở lồng ngực lên xuống chỉ bị che khuất
bởi vạt áo lụa đang trải ra trước mắt. Bernard nhớ anh đã vật cô gái ra đất,
xé toạc áo sống để nhìn cho rõ những nguyên lý thầm kín của tình yêu chép
nắn nót trên hai bầu ngực, viết quanh rốn, xâm từng chữ ở hai đùi và chính
giữa bụng thiếu nữ. Và kỳ diệu, mỗi khi đọc đến đâu, xác thân anh sống lại,
hai bàn tay ấm dần, tròng mắt trong xanh và môi không còn thâm tím.
Bernard đọc ngấu nghiến tất cả những chữ viết xoắn xít trên mình thiếu nữ,
anh không thể nhớ đó là chữ La Tinh, An Nam hay Tây Ban Nha, chỉ nhớ anh
có thể hiểu hết tất cả, những định nghĩa tình yêu đang chảy đột ngột tuôn
vào người anh như sấm sét.
Cái chết đột
ngột của trung úy Bernard de Lattre de Tassigny ngay sau đó, ở trận tổng
công kích Ðồng Khê khiến không ai rõ chuyện gì đã xẩy ra trong nhà thờ
chính toà, nhưng những năm sau thánh chiến, đám lính da đen ít ỏi còn sống
sót kể những câu chuyện lạ lùng. Buổi trưa vong giáo sĩ De Rhodes bay đi
giảng kinh ở các bản làng Nùng, Thổ, trung úy De Lattre đến nhà thờ và hoá
điên. Ðám lính da đen trông thấy ông vật lộn một mình với khoảng không, tuồng
ông rơi vào trạng thái động kinh tâm thần, toán lính cận vệ ngỡ ông sắp sốt
xuất huyết, vội vã chích huyết thanh, nhưng De Lattre đã giận dữ đuổi cổ tất
cả ra khỏi nhà thờ. Ðứng ngoài cổng những người lính châu Phi nghe rõ viên
trung úy thở hào hển, hối hả gục mặt xuống đất hôn như mưa lên nền đá hoa
cương, đôi lúc đối thoại bí mật với một người đàn bà nào đó, có lúc gần
như tỏ tình đắm đuối đến kiệt sức. Suốt buổi chiều Bernard de Lattre ở
trong nhà thờ, cho đến khi bước ra, gương mặt ông mang nỗi si mê kỳ dị. De
Lattre vứt bỏ vũ khí, cởi quần áo, nhảy xuống sông Bằng Giang bơi đến tận
nguồn, mãi đến tối mịt ông mới bơi trở về, và chuyện lạ hiếm có, lần đầu
tiên ông dẫn cả đơn vị xuống xóm thổ, đãi bia và thuê bao tất cả những cô
gái điếm kinh nghiệm. Suốt đêm đó, cả thị xã không ai ngủ được vì tiếng
rên la thoả mãn không đứt quãng của các cô gái nối tiếp nhau thay phiên
làm tình không ngơi nghỉ với viên trung úy. Tiếng kêu la khoái lạc vọng đến
sáng và rất đông đã có thai sau đó. Nhiều năm sau chiến tranh vẫn còn nhiều
cô gái giắt con đến đại sứ quán Pháp ở phố Lý Quốc Sư, xin mang họ De
Lattre, xin nhập tịch và lãnh trợ cấp trong lúc chờ đợi định cư ở mẫu quốc.
Tin trung úy
De Lattre tìm thấy định nghĩa tình yêu loan rất nhanh, trở thành hiện tượng
trong những ngày trước trận đánh thảm khốc đường biên giới. Ai gặp De
Lattre cũng hỏi xin định nghĩa tình yêu nhưng viên trung úy bảo mật cho đến
phút chót, cho đến khi lên quân xa dẫn đại đội đi đóng đồn Ðồng Khê. Câu
chuyện của toán lính da đen chấm dứt ở đó. Những kẻ tò mò muốn biết bí mật
của nhà thờ chỉ nghe kể, khi tiểu đoàn thủy binh từ bờ sông Ðáy được lệnh
bằng mọi giá tái chiếm núi đá vôi Ninh Bình, trung đội khinh binh đi đầu
đã tìm thấy xác Bernard de Lattre hãy còn tươi nguyên, còn giữ nguyên
trong tròng mắt chưa khép những hàng chữ viết li ti chi chít một thứ ngôn
ngữ kỳ dị nào đó mà không ai có thể hiểu. Ðó là thời lính Lê Dương ưa hát
những bản nhạc của quỷ:
Louise Marie où vas tu dans le monde ?
Je vais où vont les soldats
Louise Marie qui aimes tu ?
J'aime celui qui va mourrir
et le diable en rit, Ha, Ha, Ha, Ha
Cũng là thời
Tuyết dứt khoát thôi ăn ở với Chương trong Ðời Mưa Gió.
*
Ban đầu là tiếng
sầm sầm như nhà thờ có gió lộng. Tiếng gió vần vũ mỗi lúc một lớn khiến
Tuyết thức giấc. Tiếng gió sồng sộc thổi tốc các viên ngói bay thốc tháo ở
phố Tây làm rung các tấm tôn của phố Chả Cá vang lên như tiếng kêu của thú
rừng. Tiếng gạch đá lăn bị gió quất lên vách nhà thờ từng chập nghe rõ mồn
một. Tuyết bật dậy bước ra khỏi chồng bản thảo cha cố xếp ngay ngắn bên cạnh
tiểu thuyết Ðời Mưa Gió. Tối qua cả hai ngủ muộn. Tuyết đã xưng tội với
giáo sĩ suốt đêm đến gần sáng. Trong suốt cuộc đời của một nhân vật tiểu
thuyết Tuyết chưa bao giờ sống một buổi tối kỳ lạ như thế. Quá khứ của
nàng cứ lần lượt trôi qua trong đôi mắt xanh thăm thẳm của giáo sĩ. Kể cả
những ngày mới gần đây sống bên cạnh cha cố, tất cả cử chỉ của một người
đàn ông vô cùng thông thái, lịch duyệt và cưng chiều nàng hết mực cũng diễn
ra chậm chạp. Ðến suy nghĩ của chính nàng, Tuyết cũng trông thấy lại. Tuyết
không sao hiểu nỗi đức cha có thể sống với chứng bệnh buồn bã thối chín ruột
gan, thường trực chảy nước vàng ở dương vật. Ngay hôm đầu tiên Tuyết đã
quyết định nấu nước cho giáo sĩ tắm. Trong lúc ông ngâm trầm hương trong
chiếc lu cổ, Tuyết đem hết tất cả những tấm áo chùng bẩn thỉu đi giặt giũ.
Tuyết đã rất ngạc nhiên khi không có ai trong hiệu giặt ủi cao cấp đô thị
trông thấy nàng, mặc dù Tuyết đã lên tiếng gọi nhiều lần, cuối cùng, Tuyết
đành bỏ chung giỏ đồ giặt của khách và hôm sau lẳng lặng đến lấy. Mỗi tối
Tuyết dọn ăn trong phòng riêng của cha cố. Tuyết hay hầm chuột sốt vang với
mận Tây Bắc, ngâm với lá nguyệt quế, có khi băm nhỏ chục vắt tươi với hành
sống tưới mật trộn sữa làm gỏi, những món cha cố rất thích. Chính lúc
trông thấy lại cảnh chính tự tay nàng lột da cóc, Tuyết mới sực nhớ đã
quên lạng lấy mật vất bỏ, nhưng rất may giáo sĩ đã chết, nên khi ăn trúng
mật cóc ông không chết nữa. Những ngày sống trong nhà thờ, vào ra trên khoảng
sân lát đá xanh, trông thấy chiếc bóng của chính nàng nhập vào với bóng Ðức
Mẹ, Tuyết không ngớt suy nghĩ. Tự trong thâm tâm Tuyết biết De Rhodes lầm
lẫn nàng với người đàn bà thành Goa, lỗi do Khái Hưng và Nhất Linh đã
không miêu tả nàng rõ rệt, khiến De Rhodes đã chuyển hoán trong vô thức của
một bóng ma, nét đẹp riêng của người đàn bà ông si mê thời trẻ lên nhận vật
nữ chính của Ðời Mưa Gió. Trong thâm tâm Tuyết cũng chịu ơn sâu sa giáo sĩ
đã cho nàng thêm một kiếp sống, một kiếp đời, trong một ngôn ngữ khác.
Giáo sĩ đã dạy nàng biết thêm tiếng La Tinh và Bồ Ðào Nha, cho phép nàng
trông thấy những người đàn ông da trắng. Tuyết đã quyết định thôi ăn ở với
Chương và ở lại nhà thờ một thời gian phụng dưỡng cha cố, cùng phụ với ông
hầu việc Chúa, ít nhất cho đến khi De Rhodes hết chứng bệnh thối ruột gan.
Hôm đầu tiên
Tuyết đã ngỡ ngàng trước ánh mắt si mê của giáo sĩ. Ánh mắt đắm đuối của
những xác chết không được vuốt mắt, đã khiến nàng đỏ mặt, cùng lúc cảm động
vì từ ngày Khái Hưng và Nhất Linh bỏ đi, chưa một người đàn ông nào yêu
nàng nhiều như vậy. Trong thâm tâm Tuyết không yêu Chương, và tự trong
thâm tâm Tuyết cũng biết Chương không yêu nàng, cả hai đã bắt buộc phải sống
chung trong ngôi biệt thự số 84 đường Quan Thánh chỉ vì một lý do duy nhất,
Nhất Linh đã bắt buộc họ ăn nằm với nhau. Tuyết đã thù Nhất Linh biết chừng
nào, người đàn ông có cái tên Nguyễn Tường Tam mà nàng vẫn hãy còn yêu,
còn kính phục và vẫn hãy còn hờn giận đến phút này. Ngay khi mở mắt, bước
vào đời, Tuyết đã trông thấy gương mặt ấy, gương mặt đàn ông rắn rỏi,
cương nghị và vô cùng trí thức của Nguyễn Tường Tam. Tuyết nhớ nàng đã đưa
một bàn tay vuốt nhè nhẹ gò má xương của Nhất Linh, và hình như lúc đó Nhất
Linh cũng đã cười nhẹ nhàng. Chính Nhất Linh đã dạy cho nàng cách đi đứng,
ăn nói. Chính câu nói Vâng em là Tuyết người chịu ơn của anh, mà
Tuyết đã thốt lên với giáo sĩ ngay hôm đầu tiên, do chính tay Nhất Linh viết
ở dòng thứ 13 của trang 35 và bắt nàng học thuộc lòng để ứng xử trong mọi
tình huống. Tuyết biết nàng đã yêu Nguyễn Tường Tam ngay từ những giòng chữ
đầu tiên của Ðời Mưa Gió. Thứ tình yêu đầu đời của nữ sinh với thầy giáo,
của một cô gái với phụ thân, của một cô em với anh trai, và của cả nhân vật
nữ với tác giả. Thứ tình cảm tuyệt đẹp của mọi tình cảm gộp lại gọi là
tình yêu. Thời toà soạn còn ở phố Cổ Ngư, Nhất Linh hay đến xem qua bản thảo
chưa hoàn tất, Tuyết luôn ngã vào lòng Nguyễn Tường Tam hôn say đắm đôi
môi thơm thuốc tẩu, Tuyết sẵn sàng dâng hiến cho Nhất Linh lúc đó, thậm
chí những khi Nhất Linh ngồi trước bàn viết, Tuyết chỉ mặc chiếc áo pyjama
duy nhất của anh vắt trên thành ghế, không cài cúc đứng tựa bên cạnh xem
Nhất Linh miêu tả canh bạc đương diễn ra ở nhà bà Phủ Thanh. Có những đoạn
đã khiến nàng cười ngất, cười đến ngã hẳn vào lòng anh Tam, những lúc đó
cánh áo pyjama bung mở phô bày thân thể nàng, Tuyết đã chờ dợi biết bao lần
anh Tam áp mặt vào ngực mình, hôn lên chiếc bụng phẳng, ôm hôn âu yếm thân
thể do chính anh tạo ra, nhưng lần nào Nhất Linh cũng gỡ tay, đỡ nàng dậy,
cài lại năm cúc áo và khuyên nàng đi nghỉ. Mấy ngày sau, anh Tam giới thiệu
với Tuyết một người đàn ông khác. Ngay hôm gặp gỡ, Tuyết đã bị nụ cười trữ
tình của Khái Hưng quyến rũ. Khác Nguyễn Tường Tam, Trần Khánh Dư lãng mạn
hơn rất nhiều, chính Khái Hưng đã giắt Tuyết đi mua sắm váy đầm, nước hoa,
ví cầm tay và cả đồ lót. Chính Khái Hưng đã dạy cho nàng cách vén chéo áo,
cách trang điểm, vẽ mắt, tô môi và truyền dạy tất cả nghệ thuật phân tích
tâm lý đàn ông. Ở Khái Hưng sức sống toát ra mời gọi, không câu nệ, cân nhắc
và cứng nhắc như Nhất Linh, đặc biệt Khái Hưng cho phép nàng bỏ Chương đi
chơi thỉnh thoảng ở đồng quê, không nhất thiết phải ngủ đêm lại ngôi biệt
thự số 84 Quan Thánh. Thời kỳ ở Cao Bằng Tuyết vẫn chưa biết rõ mình yêu
ai nhiều hơn giữa hai người đàn ông cùng tài hoa lỗi lạc này. Tuyết chỉ biết
rõ nàng yêu cả hai, mối tình duy nhất, và Tuyết cũng biết nàng bị ruồng rẫy.
Buổi chiều Khái Hưng đến phố Cổ Ngư viết thay cho Nhất Linh và thông báo
cho nàng một tin quan trọng, Tuyết phải ăn nằm với Chương tối đó. Tuyết đã
khóc hết nước mắt, đã ôm chầm lấy Trần Khánh Dư.
- Anh Dư hãy ngủ
với em đi, em muốn người đàn ông đầu tiên là một trong hai anh!
- Tuyết, anh xin
lỗi. Anh không thể làm khác, cốt truyện là của anh Tam, anh chỉ được mời
viết chung những chương tả tình.
Buồi chiều đó
hình như Khái Hưng đã xúc động rất nhiều. Tuyết còn nhớ anh Dư đã hôn môi
nàng thật lâu, đã mân mê và hôn đầu ngực nàng thật lâu trước khi dứt khoát
đứng lên, bắt nàng vận áo và kêu xe đưa đến số 84 Quan Thánh để ngủ với
Chương.
Tuyết bần thần
nhặt chiếc khăn san và mặc lại chiếc áo dài thâm tối qua cha cố đã vụng về
làm đứt mất một cúc. Những hình ảnh của buổi tối xưng tội vẫn chưa ra khỏi
tâm trí. Suốt tối giáo sĩ đã làm phép rửa tội cho nàng vào đạo. Những hôm
trước đi chợ lồng thị xã, Tuyết đã nghe một số giáo dân nói giáo sĩ có biệt
tài đọc hết quá khứ của những con chiên đến xưng tội, không ai có thể dấu
giếm tội lỗi đã phạm. Nàng đã nghĩ xóm đạo nói quá, lúc trả tiền nhưng
không ai lấy, đến nỗi nàng phải lấy trộm rau cải, Tuyết hãy còn nghe kể
giáo sĩ đọc được cả quá khứ của người chết. Ðến tối, quỳ gối trong nhà kín
xưng tội, trước tấm lưới chỉ vang hơi thở kiên nhẫn của giáo sĩ, Tuyết hãy
còn phân vân không biết bắt đầu từ đâu cuộc đời của một nhân vật tiểu thuyết
mà Nhất Linh đã bắt chung chạ với mọi đàn ông. Cho đến lúc tiếng thở cảm
thông của De Rhodes trở nên gần sát, ngẩng lên, Tuyết bàng hoàng trước
hình ảnh của quá khứ đang ào ạt trở về diễn ra rõ mồn một trong đôi mắt
cha cố, đôi mắt chứa chan quá khứ của chính nàng và xanh biếc tất cả những
đại dương giáo sĩ đã vượt qua trong suốt hành trình truyền giáo. Chính lúc
đó Tuyết đã thảng thốt trông thấy lại cảnh nàng tát tai Nguyễn Tường Tam
khi Nhất Linh đến cuối truyện bắt nàng ho lao và trở thành một con điếm.
- Anh đối xử
với đàn bà một cách khốn nạn !
Tuyết mắng chửi. Nàng đã tát Nhất Linh tàn nhẫn mạnh đến nỗi đến bây giờ
Tuyết hãy còn đau nhức các đốt xương mỗi khi trời trở gió. Tuyết còn muốn
tát nữa, nhưng Nguyễn Tường Tam đã chụp lấy tay nàng khoá cứng và mắng
bằng giọng đanh thép phũ phàng.
- Cô chỉ là luận đề của tôi, cô không có quyền gì hết để đòi hỏi. Tôi
cho cô đi làm điếm là may, để cho cô có một nghề sinh sống, hay cô muốn đi
theo Việt Minh? Từ nay trở đi cô đừng tìm tôi nữa, tôi đã xong luận đề của
mình. Tôi không có bổn phận gì đối với cô. Thôi cô về đi.
Tuyết đã khóc tức tưởi, như nàng đã khóc hết nước mắt ngày Khái Hưng
tản cư. Anh Dư không cho phép nàng đi theo và mãi mãi Tuyết không bao giờ
còn gặp lại người đàn ông kỳ tài của tiểu thuyết An Nam này nữa.
Những ngày sau Tuyết làm tình với Hoàng Ðạo ở phố Cổ Ngư để trả thù
Nhất Linh. Anh Tam bỏ nàng, rời Hà Nội sang Trung Hoa đi làm một cuộc cách
mạng nào đó mà Tuyết không sao hiểu. Buổi tối khuya khoắt có những cánh
đào dịp Tết đang rụng rơi, Tuyết bắt gặp Hoàng Ðạo đang đọc Ðời Mưa Gió.
Trong lòng Tuyết hãy còn đầy rẫy những giận dữ thù hận Nhất Linh đã tệ bạc,
xúc phạm và nhất quyết phải trả thù làm một điều gì hoen ố thanh danh của
Nguyễn Tường Tam. Tuyết ngắm Hoàng Ðạo thể thao và khoẻ mạnh. Không đợi
người thanh niên lên tiếng, Tuyết cởi bỏ y phục, chiếc áo dài Cát Tường
Nhất Linh luôn bắt nàng mặc mỗi khi ra phố, chiếc quần lót kiểu Tây mỏng
manh Khái Hưng mua tặng, Tuyết thích khoả thân trước sự kinh ngạc của đàn
ông và biết rõ thân thể nàng toát ra cám dỗ dâm dục vì đã được tạo ra cho
một luận đề đả phá dâm đãng. Tuyết đã chống hai tay xuống bàn viết của
Nhất Linh, cho Hoàng Ðạo xâm nhập. Tuyết thích làm tình với những người
đàn ông không thấy mặt, cho phép nàng mường tượng đến gương mặt của anh
Tam, anh Dư. Hoàng Ðạo sau ân ái, gấp sách bỏ đi lặng lẽ, Tuyết lau những
vết sữa trên đùi bằng chiếc khăn tay của Thạch Lam, người em trai khác của
Nguyễn Tường Tam. Một lần Tuyết đã bắt gặp Thạch Lam trên chiếc giường của
Nhất Linh. Thạch Lam đọc say mê những phác thảo của anh Tam. Thạch Lam
mang nét trong trắng, hồn nhiên vô tư của những nụ cúc còn e ấp. Tuyết
theo dõi kín đáo người thanh niên trẻ tài hoa, mà nàng biết, chỉ cần nhìn
thoáng qua, chưa hề biết đến thân xác phụ nữ. Trên chiếc giường trải drap
trắng tinh của anh Tam, Thạch Lam đọc miên man Ðời Mưa Gió. Lúc đó Tuyết
đã bắt đầu có kinh nghiệm, mỗi khi người đọc say mê tiểu thuyết, cảm nhân
vật, nàng có thể hoá thân trở thành người thật. Tuyết đã hiện ra dưới chân
giường Nhất Linh mà Thạch Lam không trông thấy. Gương mặt anh mang nét
xanh xao của những người ốm nặng. Tuyết có nghe anh Tam than Nguyễn Tường
Lân ho lao, nhưng chứng kiến tận mắt đôi môi khô khốc, tròng mắt võ vàng
của tuổi trẻ khiến nàng não lòng. Thạch Lam đọc chăm chú đoạn nàng ăn nằm
với Chương. Tuyết bỉ ổi anh giáo Chương nhưng cùng lúc cảm nhận ở Thạch
Lam một đòi hỏi thân xác mà nàng biết, chưa hề toại nguyện. Tuyết đặt tay
lên ống chân của Thạch Lam, ống chân thẳng, ốm, mà nàng biết đã đi khắp
cùng ba mươi sáu phố phường. Tuyết vuốt ve Thạch Lam cho đến khi thân thể
anh trở nên mạnh mẽ, gân guốc tuồng như Thạch Lam chưa bao giờ đau yếu.
Lúc uống chất lỏng ấm trào ra từ thân thể người thanh niên, Tuyết có đôi
chút mặc cảm phạm tội, nhưng Nhất Linh đã muốn nàng làm một con điếm thì
trước nhất anh Tam phải chấp nhận nàng là một con điếm của gia đình anh.
Vị sữa của Thạch Lam khác với Hoàng Ðạo, trong trẻo, thơm hương bún chả
Hàng Mành, xôi gấc Cấm Chỉ, và ốc nóng Hàng Gai, tất cả hoà quyện tuồng
mùi vị thức ăn. Thạch Lam mất đi, Tuyết chẳng bao giờ còn được nếm vị bún
thanh cảnh của Hà Nội nữa.
Tiếng gió ầm ào trổi lên mạnh mẽ, rõ ràng có một vật nặng trĩu đang
rơi xuống nóc nhà thờ với sức hút nghiệt ngã của trọng lực. Gió mỗi lúc
một thổi thốc, gào rú, kéo đập những tấm phên rền rĩ như nhà thờ có đám.
Tuyết quyết định lên gác chuông để trông cho rõ những gì đang xẩy ra trong
pháo đài. Một ánh lửa đỏ loé qua ô cửa tò vò khiến nàng hốt hoảng. Tia
chớp hực lửa nháng lên gương mặt đấng Chirst đang đau đớn vùng vẫy trên
thập tự giá, nỗi đớn đau kinh dị của thân xác bị đóng đinh. Nỗi đau của
Jésus Christ khiến Tuyết hãi hùng hụt chân. Các nấc thang gỗ cổ xưa vang
những tiếng rên như giam hãm những linh hồn khẩn khoảng van nài trên mỗi
bậc thang càng làm nàng sợ hãi. Cha cố đã kể nhà thờ Cao Bằng xây bằng
những viên gạch đã có từ lâu lắm, từ những thành luỹ của Mạc Ðăng Dung,
mỗi thỏi gạch đều chứa mang âm hồn An Nam tắm máu chiến tranh và máu người.
Tuyết cố gắng đi thật nhanh lên nóc chuông nhưng những bậc thang trơn trợt
nhấp nhô rung chuyển tựa có những bàn tay vô hình cứ nắm chắc lấy cổ chân
nàng. Tuyết bắt đầu trông rõ những cuồng lửa từ những đỉnh núi phía tây
sông Hiểm đang bay đến nhà thờ. Tuyết linh tính chuyện gì đó sắp xẩy đến,
chắc chắn sắp xẩy đến một chuyện gì như đã xẩy đến cho nàng cách đây vài
tuần khi trung úy De Lattre bước chân vào nhà thờ.
Tuyết đã nhận ra ngay viên sĩ quan sắp chết. Chỉ có những người đàn
ông sắp chết mới không còn một chút ham muốn tình dục nào trong ánh mắt.
Chỉ có những người đàn ông sắp mệnh chung mới mang vẻ sầu thảm buồn rủ
rượi và dương vật suy dinh dưỡng mềm lả như vậy. Sau lúc hốt hoảng, Tuyết
đã giải bầy cho Bernard De Lattre hiểu lá số tử vi An Nam còn phải đi kèm
với tướng mạo, đức năng, chỉ tay và đức năng có thể thắng số. Các thầy An
Nam không thể coi tướng Tây dựa trên chuẩn Á Ðông, đo nhân trung Tây
Phương bằng thước đo Trung Hoa. Tuyết chỉ không thể giải thích được những
quẻ xăm kỳ lạ mang cùng một chú giải, nhưng nàng thấy rõ đã giải thoát
viên sĩ quan khỏi nỗi sợ hãi chết chóc. Thật sự Tuyết cũng không biết mình
trúng hay sai và Bernard sẽ chết hay không, nàng chỉ biết cần phải giúp đỡ
người thanh niên da trắng thoát khỏi cơn tuyệt vọng khốn quẫn. Buổi trưa
đó, bằng kinh nghiệm của Ðời Mưa Gió, Tuyết giúp Bernard de Lattre tìm lại
khả năng giao hợp mà nàng biết, với những người đàn ông trẻ đi tìm tình
yêu thân xác lần đầu tiên, xóm thổ không phải là chốn thích hợp.
Lúc làm tình với trung úy De Lattre, Tuyết cảm thấy thật sung sướng,
đã lâu nàng chưa làm tình với ai từ khi lên thị trấn Cao Bằng sống trong
giáo đường hoang vắng. Nhưng Tuyết sung sướng hơn hết vì đã có một người
khác, ngoài cha cố trông thấy nàng. Tuyết linh cảm kiếp đời mà giáo sĩ đem
đến cho nàng, sẽ phong phú bất ngờ hơn rất nhiều kiếp đời cũ. Tuyết cũng
khám phá đàn ông da trắng làm tình khác hẳn những gì nàng đã biết. Trước
đây, Tuyết không hề cảm giác gì rõ rệt mỗi khi luyến ái với Chương, do
Nhất Linh và Khái Hưng không miêu tả kỹ. Làm tình với Bernard, Tuyết thấy
rõ người thanh niên, dù chỉ mới lần đầu đã kiểm soát hơi thở của anh, đã
chờ đợi chia sẻ thân xác của cả hai, tựa cả hai cùng chống một chiếc thang
hai chân giữa khoảng không chơi vơi, cùng leo lên, cùng đợi nhau và cố
nghiêng ngả kềm hãm bấu víu lẫn nhau để chiếc thang khỏi chao đảo ngã đổ,
để cùng đi lên đến tận trời. Lần đầu tiên Tuyết nếm vị sữa đậm sệt như cặn
rượu chát.
Vị sữa của Bernard khác hẵn vị sữa của cha cố. Một hôm mang thức ăn
vào phòng giáo sĩ, Tuyết nhận ra áo chùng dù được giặt ủi thơm tho đã bắt
đầu khắm. Từ hôm Tuyết bước chân ra khỏi Ðời Mưa Gió, đức cha đã vui hơn,
chứng bệnh buồn chín thối ruột gan đã thuyên giảm, nhưng chưa dứt hẳn,
nước vàng vẫn chảy ra ở dương vật. Những lần phụ Alexandre phiên dịch tiểu
thuyết, Tuyết cảm ở giáo sĩ một ước muốn thầm kín mà ông không thể nói ra,
không thể viết thành lời, không thể diễn tả cách nào khác ngoài dịch tăm
tắp trên các trang giấy những điều văn chương diễn tả mạch lạc, những điều
mà anh Dư đã nói với Tuyết rất nhiều lần. Chức năng của một nhân vật nữ
ngoài hấp dẫn bạn đọc, còn phải thoả mãn ẩn ức sinh lý của tác giả. Những
lúc đó, cha cố chỉ dám ngửng lên nhìn Tuyết lén lút, lâu lâu kêu Blời
ơi, rồi lại ngã vật xuống đất ngất xỉu. Những lúc đó, Tuyết cố gắng đỡ
đức cha lên giường, bôi dầu con hổ, đánh gió và xoa bóp cho ông, cho máu
huyết chảy đều lại, mặc dầu chính nàng cũng tự hỏi không biết trong xác
chết cha cố còn giọt máu nào không nữa. Những lúc Alexandre de Rhodes bất
tỉnh, Tuyết khám phá điều kỳ lạ, bàn tay nàng xoa nắn đến đâu da dẻ ông
căng trở lại, từ vết nhăn ba trăm năm đến nếp thịt bủng nhão nhoẹt cứ
ngón tay nàng chạm vào vụt thẳng ra, săn chắc, cứng cáp, cả vẻ mặt cha cố
cũng trẻ ra cho đến khi ông trở thành một thanh niên cao lớn không còn
khòm lưng nhưng mang vẻ đẹp quyến rũ của hiệp sĩ Thập Tự thời xa xưa. Cả
mái tóc rủ bạc trắng xoá của giáo sĩ, chỉ cần Tuyết vuốt lên trở thành óng
ánh sắc vàng tươi lấp lánh kỳ lạ. Nhưng tất cả trẻ trung đó suy giảm dần
trong ngày, đến chiều tối trở nên già nua cũ kỹ và nhăn nheo của một ông
lão đã chết lâu. Cứ thế mỗi tối, Tuyết xoa bóp tẩm quất cho cha cố trở lại
cường tráng trong 24 tiếng, cho đến một đêm, Tuyết quyết định chữa dứt di
căn của chứng bệnh thối ruột gan, như nàng đã chữa cho trung úy De Lattre.
Tuyết mút dương vật cha cố, hút hết các chất lỏng vàng hôi thối rồi nhổ
xuống chậu gốm, cho đến khi chậu gốm đầy ắp phải đem đổ ở gốc sữa. Mỗi tối
Alexandre de Rhodes rên la vì thân thể ông căn phồng lên đến mức áo chùng
rách bươm, và mỗi khi Tuyết mút quá mạnh, bụng giáo sĩ teo tọp hẳn lại tựa
tất cả ruột gan đều trôi vào miệng nàng. Tuyết cũng xấu hổ, biết nàng làm
chuyện dơ bẩn, thiếu kính trọng, thiếu đạo đức của một con chiên, nhưng
Tuyết quyết tâm chữa cho bằng hết chứng cô buồn giáo sĩ. Nhất Linh đã bắt
nàng làm một con điếm không nhân cách, nhưng Tuyết vẫn là một người đàn bà
giàu tình thương, lòng trắc ẩn. Tuyết muốn trả ân nghĩa đã thọ ơn cha cố.
Mỗi tối nàng miệt mài hút hết chất nước vàng cho đến một đêm chất lỏng trở
nên trắng ấm thơm mùi lúa mạch nhuyễn bột như vị bánh thánh Alexandre de
Rhodes vẫn cho nàng ngậm mỗi sáng chủ nhật rước lễ trong nhà nguyện. Kể từ
sau đêm ấy, giáo sĩ hoàn toàn khỏi bệnh, ông trở nên khoẻ mạnh và trẻ măng
như một vị linh mục vừa tốt nghiệp trường thần học.
Về sau khi thành thân trong âm thầm lén lút với cha cố, Tuyết vẫn
không quên tiếng chuông kinh hoảng của buổi sáng đó. Buổi sáng có những
gào la thống thiết trầm thống của gió và tiếng chuông co giật từng cơn tựa
các quả chuông phát khùng đánh loạn lẫn nhau. Tiếng chuông nhức nhối tuông
những bài kinh La ngữ hỗn độn. Tiếng chuông ma quái khiến người nghe ý
thức rõ rệt cuộc đời mình trước và sau đó. Trước, Tuyết có một quá khứ
tiểu thuyết An Nam, sau, nàng trở thành một nhân vật lấy Tây và không còn
gì giống như trước nữa.
Tất cả xẩy đến khi Tuyết bước chân lên bậc thang chót, những quầng lửa
bay đến sát nhà thờ đến nỗi nóc chuông đỏ như được thắp sáng nến. Tuyết
cất tiếng gọi Alex ? nhưng chỉ có tiếng gió bật tiếng kêu của chính
nàng rơi vỡ vụn trên các nấc thang. Chính lúc đó Tuyết nghe thấy tiếng
chuông gióng từng cơn, rũ từng hồi điên dại làm như các quả chuông vụt lên
cơn động kinh va đánh vào nhau liên hồi. Tiếng chuông ray rứt, phạm tội,
đầy kinh động, đặc biệt vang vọng sám hối của con người trước thuợng đế.
Tuyết lấy hết can đảm bước qua ngạch đá. Quang cảnh diễn ra hãi hùng như
quang cảnh ở địa ngục. Các quầng lửa gào xé chung quanh vòm mái, các tia
lửa bắn xẹt vung vãi cháy rơi rớt gió thổi tốc lên từng làn tro thiêu đốt
các tấm rèm nhung đang oằn xém. Lẫn trong khói than mù mịt bên dưới quả
chuông chao đảo là thân thể trần truồng của Alexandre de Rhodes đang trì
kéo sợi dây thừng.
- Blời ơi ! Tận thế rồi !
Alexandre kêu lên tuyệt vọng. Tiếng chuông xô đẩy inh ỏi tựa muốn đập
vỡ nhà thờ, rạn nứt các vách đá. Tuyết trông thấy rõ Alexandre không còn
kiểm soát nổi đôi tay của anh, lúc này đang treo níu vào dây chuông từng
lúc nhấc bổng đong đưa rồi thả xuống kéo lê liên tục. Không khí nồng nặc
mùi thiên tai, thứ mùi khét mà Tuyết ngửi ra ngay tức khắc ở làn hương đầu
tiên. Tuyết lao đến ôm Alexandre cố kéo anh thoát khỏi cơn động kinh của
quả chuông. Lúc ôm vòng lấy lưng, dù kinh hãi, Tuyết vẫn kịp nhận ra nàng
đang ôm xương thịt tươi rói đã lấp đầy vong hồn giáo sĩ .
Ðó là buổi sáng mà tất cả mọi giáo dân sinh sống trong pháo đài đều bị
đánh thức bởi tiếng chuông tận thế đổ dồn ầm ĩ từ nhà thờ chính toà Cao
Bằng. Cũng là buối sáng mở màn chiến dịch đường biên giới. Nhưng ít ai lúc
đó có khả năng mường tượng hậu quả của trận đánh, tất cả chỉ thức giấc
trong kinh sợ của tiếng chuông gọi hồn. Ðó là buổi sáng tin Ðồng Khê thất
thủ réo về thị trấn như một lời nguyền.
*
Thật ra tin căn cứ Ðồng Khê với hai đại đội tán binh Marốc, một đại
đội thân binh An Nam, tăng cường đại đội Lê Dương của trung úy Bernard de
Lattre bị tràn ngập đã bay về bộ chỉ huy pháo đài từ chiều hôm trước. Suốt
đêm, các sĩ quan tham mưu của trung đoàn 3 Lê Dương sửng sốt chứng kiếng
một cảnh tượng lạ lẫm. Các áng mây đen ở đâu cứ trôi đùn vào bộ chỉ huy,
mỗi lúc một nhiều, theo cường độ của các bản tin hấp hối đánh đi từ Ðồng
Khê. Ðến chiều tối trở thành cơn mưa bão gió gào, sấm chớp liên tục. Ðại
tá Antoine Marie Pierre Charton, lãnh chúa Cao Bằng, tư lệnh trung đoàn
ngồi chết lặng dưới cơn giông mỗi lúc một lớn. Sấm sét mây đen vần vũ với
những tia chớp loé không ngừng trút nước từ trần bê tông kiên cố dầy năm
thước của căn hầm chỉ huy chôn chìm sâu dưới lòng đất. Charton ngồi bất
động dưới cơn mưa tầm tã trước phóng đồ hành quân. Gương mặt ông biến dạng
móp méo thay đổi từng lúc trước các báo cáo tự động sang trang, lật mở
từng phúc trình tối tăm mà không một ai đụng đến. Suốt đêm viên đại tá
chứng kiến những hiện tượng quái dị. Vong các sĩ quan tử trận Ðồng Khê cứ
lần lượt lê lết hiện về, trình diện cấp bậc, đưa bảng trận liệt khai báo
quân số tử vong, mất tích, rồi đưa giấy khai tử chờ ký nhận tử tuất. Bàn
làm việc của đại tá Charton bê bết máu, làm như tất cả thương vong ở Ðồng
Khê đều đã xẩy ra trên bản đồ tham mưu. Có lúc viên đại tá cũng bất ngờ
trông thấy cố thống chế Ney, tư lệnh khu biên thùy đông bắc từ Lạng Sơn
cũng hiện ra từng lúc, bất chợt hối thúc phản kích rồi đột ngột biến mất.
Tự trong thâm tâm Charton không phục Ney, mặc dù viên thống chế đã tham dự
các trận đánh lẫy lừng Iéna, Austerlitz bên cạnh hoàng đế Napoléon đệ nhất.
Nhưng Ney không sao hiểu cách chuyển quân như sóng rừng của sư đoàn 308,
không còn di chuyển đội hình ô vuông ban ngày, và Ney cũng không hiểu
những quy ước chiến tranh do vong hồn Karl Von Clausewitz đang tiếp tục
giảng dạy tại các trường đại học quân sự Tây Phương đã không còn được Việt
Minh tuân thủ. Charton tin chỉ một mình ông khám phá ra chiến thuật Việt
Minh. Lối đánh Phật giáo, chết đi sống lại luân hồi liên tục, khiến với
quân số không tăng viện, trung đoàn Thủ Ðô vẫn có thể xung phong biển
người, hết lớp này đến lớp khác, mà các đại liên Bren, Browning, Hotchkiss
bốn nòng không thể chận đứng. Bộ đội Việt Minh không thể tử vong.
Gương mặt Charton tím tái. Các sĩ quan ban 3 có cảm giác mây đen đang
bốc từ đầu ông, cả những lằn chớp sấm sét cũng nháng lên từ nỗi giận dữ
phẫn uất bên trong mình ông. Chỉ cơn mưa lạnh lẽo trút nước chảy ra từ nỗi
sợ hãi vãi đái mà viên đại tá cố dấu, nhưng không sao kềm hãm. Ðồng Khê là
cánh cửa cuối cùng trước Cao Bằng. Chiếm Ðồng Khê, Việt Minh chặt nốt cánh
tay nối Lạng Sơn biến pháo đài thành tên khổng lồ trần trụi chỉ còn trơ
chiếc đầu nhô lên khỏi mặt đất đợi chém. Chưa bao giờ Charton cảm thấy
ngày tận thế gần gũi, kề cận. Phòng nhì buổi chiều báo cáo, có tin Jésus
Christ sống lại ở Ðồng Ðăng, điều đó có nghĩa ngày phán xét cuối cùng sắp
xẩy đến. Viên đại tá chết cứng dưới cơn mưa bão, ông cố nhớ xem mình có
phạm tội lỗi gì với các sắc tộc thiểu số Mường, Mán, Nùng, Thổ, nhưng ông
không sao cử động nhúc nhích tay chân hay ban một mệnh lệnh nào, cho đến
lúc nước mưa dâng từ từ ngập đến gối, quá thắt lưng, rồi dâng kín trần hầm
đến mức các sĩ quan tham mưu phải thở bằng ống hút rồi dùng bình dưỡng khí
dành riêng cho biệt kích thủy. Chỉ đến tảng sáng, khi thiếu tá Forget tiểu
đoàn trưởng tiểu đoàn III/ 3è REI bất ngờ xuống hầm chỉ huy xin lệnh, mở
cửa khiến nước thoát ra ngoài giải cứu tất cả, cùng lúc đem theo những
ráng hồng rạng rỡ đầu tiên của ngày, đại tá Charton mới bừng tỉnh. Ðã từ
lâu, theo thói quen trong chiến tranh Ðông Dương, đêm thuộc về Satan, ngày
thuộc về thượng đế, và thượng đế đứng về phiá quân đoàn viễn chinh.
Antoine Marie Pierre Charton lấy lại tinh thần, ông quyết định phản
kích tái chiếm Ðồng Khê bằng tiểu đoàn Trận Vong của cố thiếu tá Henry
Rivière, sĩ quan thâm niên kinh nghiệm trận mạc và nổi tiếng can trường.
Chính lúc đó, khi bước chân ra khỏi hầm, vắt bộ quân phục còn ướt mưa và
khắm nước tiểu, đại tá Charton đã bàng hoàng nghe thấy tiếng chuông lanh
lảnh buốt sắc đổ thốc tháo từ nhà thờ Cao Bằng. Tiếng chuông lạnh lẻo gọi
hồn của địa ngục mà Charton biết dành riêng cho linh hồn ông. Lúc đó xẩy
ra một hiện tượng kỳ quái. Linh hồn đại tá Charton quá sợ hãi đã xuất ra
khỏi xác chạy trốn tìm chỗ trú ẩn dưới hầm trú pháo. Các sĩ quan tham mưu
đã phải rượt theo bắt lại và vất vả nhấn linh hồn viên đại tá trở vào
trong thân xác của chính ông. Phải mất nhiều phút đại tá Charton mới hoàn
hồn và lấy lại phong thái chỉ huy. Buổi sáng đó, nhật ký hành quân trung
đoàn ghi rõ, tin thất thủ Ðồng Khê bay về pháo đài khiến bộ chỉ huy trung
đoàn hoàn toàn tê liệt, nghẹt thở. Cũng buổi sáng đó, Vương Thừa Vũ, tư
lệnh sư đoàn 308 đã điện lên tổng bộ Việt Minh tin chiến thắng: Ðại Ðoàn
Quân
Tiên Phong giáng những đòn sấm sét vào Ðồng Khê khiến sĩ quan Pháp mất hồn.
Ðó là sáng 30 tháng 5, ba ngày sau trận Ðồng Khê khai diễn. Cũng là buổi
sáng tin đấng Christ xuất hiện ở Ðồng Ðăng được kiểm chứng.
*
Louise Marie de Bourbon là người đàn bà thứ hai trong pháo đài nghe
thấy tiếng chuông nhà thờ. Ngay tiếng chuông đầu tiên, dì phước đã biết đó
là tiếng chuông ma quỷ. Tiếng chuông mênh mang đánh đi thật xa vang vọng
đến mất hút rồi trở về co giật dạ con từng cơn của một cổ tử cung nào đó
đang co thắt sinh nở. Tiếng chuông nức nở tựa tiếng khóc, đôi lúc gấp rút
hối hả liên tục rồi chửng lại bất ngờ thành khoảng trống âm u. Giữa hai
khoảng chuông chen tiếng rên la quái dị, nửa đau đớn, vừa thích thú khoái
lạc của sự sống đang dẫy dụa cựa quậy trong tử cung một người đàn bà.
Louise choàng ra khỏi giấc ngủ ác mộng. Dì phước cũng không hiểu vì đâu dì
đã nghe ra trong tiếng chuông những hình ảnh quái thai ghê rợn. Tối qua,
cho đến trước tiếng chuông, Louise đã chiêm bao thật đẹp. Hình ảnh đấng
Christ hiển linh trở về đứng trước đầu giường thật đến nỗi Louise tưởng
chừng chỉ cần đưa tay ra, nàng có thể chạm vào thân thể còn in vết gai, lỗ
chỗ vết giáo đâm xuyên hông. Ánh mắt Jésus buồn rười rượi, nỗi buồn nén
lặng mà dì phước đã có lần trông thấy trong đôi mắt cha cố, thứ nỗi buồn
tê tái, chín dại ruột gan không thành lời. Louise tỉnh giấc khi hình ảnh
đấng Christ vỡ vụn bởi tiếng chuông. Tất cả thân thể Jésus tan rã trong
tiếng ngân nga, làm như quả chuông đánh vào đâu, mình thánh chúa vỡ tan
đến đó.
Louise vã mồ hôi. Ðã lâu Cao Bằng không có những trận nóng sáng hầm hơi
thiêu đốt. Ðã lâu Louise không có những giấc ngủ khắc khoải ham muốn thầm
kín. Từ rất lâu nàng không còn trông thấy lại cảnh Jésus Christ đứng ở đầu
giường mình đưa tay giắt đưa vào cuộc đời nữ tu buồn chán. Lúc còn thiếu nữ,
Louise đã trông thấy đấng Christ thường xuyên, sáng ngời hào quang, hằng
đêm đón đưa, đều đặn mỗi tối, đến nỗi nàng không cần có bạn trai, chỉ cần
đợi đến khuya, Jésus hiện ra và nàng có thể tâm sự với Chúa thâu đêm.
Những ngày
trước tiếng chuông, ở Cao Bằng, có tin đồn Jésus Christ sống lại. Tin đồn
vang rân khiến dì phước hoang mang, đến nỗi dì Louise phải xuống sở mật
thám Pháp hỏi cho ra lẽ. Chính cố đại úy De La Marek, chánh phòng nhì Cao
Bằng, viên sĩ quan đã từng si mê đeo đuổi dì phước suốt mấy năm, đã đưa
cho Louise xem các phiếu tối mật ghi chép cùng một sự kiện. Từ hôm Ðồng
Khê bị vây, giáo dân sinh sống dọc đường số 4 trông thấy một người đàn ông
Trung Ðông tóc vàng đứng đón xe ở ngã ba Ðồng Ðăng. Người đàn ông thuộc chủng
tộc Do Thái, mặc áo sô, đội mũ gai, có mái tóc dài toả chiếu tất cả nắng của
buổi chiều. Mái tóc vàng kim óng ánh phát ánh sáng thay mặt trời và trong
đôi mắt xanh chứa chan bình an của sự vật, mỗi khi nhìn về hướng nào, tất
cả chim muông từ muôn phía bay xuyên suốt cây rừng về đậu nơi hướng ấy. Cả
những quả mìn đắp mô cũng bật kíp lăn đến cạnh bầy chim vô hại. Các xóm đạo
đã thay nhau đem thức ăn đặt dưới chân, nhưng trái cây không hề vơi, chỉ
nhiều thêm và cũng không hề uá. Người đàn ông kiên nhẫn đợi xe dưới mưa suốt
nhiều ngày mặc dù đường thuộc địa số 4 bị Việt Minh chốt chặn tắt nghẽn
không còn xe qua lại. Ðến ngày thứ sáu, người đàn ông tóc vàng trạc ba
mươi ba tuổi, đã khiến mưa bão chấm dứt bằng cách xua tan những cuộn mây
den. Nền trời trở nên trong vắt, xanh biển, cho phép các khu trục cơ P-39
King Cobra từ Hà Nội lên đánh bom giải toả áp lực Việt Minh. Ngày thứ bảy,
người đàn ông áo trắng lên chuyến quân xa của binh đoàn tác chiến Le Page
với bốn tiểu đoàn Tabors từ Lạng Sơn, vượt Kỳ Lừa đánh lên giải vây cho Ðồng
Khê. Binh đoàn Le Page bị chận đánh ở Thất Khê, không một tiểu đoàn nào
qua lọt đèo Lủng Phài. Ðiều kỳ quặc chiếc GMC bị phục kích tan nát ở khúc
Ngườn Kim, xác tài xế và binh lính Marốc ngổn ngang nhưng vẫn tiếp tục chạy
xuyên rừng núi cho đến tận Cao Bằng. Quân cảnh Lê Dương tìm thấy xác chiếc
quân xa vất ở trước cửa chợ lồng thị xã với bốn bánh xe cháy đen đủi, còn
bốc khói, nhưng không một dấu vết nào của đấng Kitô.
Louise tin chắc
Jésus đã đến Cao Bằng. Không phải ngẫu nhiên đấng Christ xuống thế gian
làm người cứu chuộc nhân loại lần nữa giữa lúc pháo đài bị vây hãm và Việt
Minh sắp tổng tấn công. Bằng bản năng nữ tu, Louise tin tưởng trong sâu
kín, việc đấng Christ sống dậy liên quan mật thiết đến tiếng chuông ma quỷ
của nhà thờ. Những ngày gần đây, dì phước không còn nhận ra cha cố, giáo
sĩ đã thay đổi hoàn toàn, từ phục sức thanh lịch thơm tho, dáng dấp trẻ
trung tươi mát, đến nụ cười thường khi héo hắt của đức cha cũng trở nên nồng
thắm làm như có dính vết son môi. Giống có kẻ nào khác đội lốt cha cố, chỉ
có thể là Satan, đã ngự trị nhà thờ. Hôm đến thăm cha De Rhodes, Louise đã
lạ lẫm nhìn tượng Ðức Mẹ sáng lóng lánh được chùi rửa sơn phết cẩn thận,
và đặc biệt có ai đã tỉ mỉ trang điểm cô dâu cho gương mặt đức mẹ Maria
bình thường không son phấn. Giác quan thứ sáu khiến Louise linh tính có sự
hiện diện của một người đàn bà nào đó sinh sống trong nhà thờ mà cố đạo
che dấu. Chỉ cần ngửi thoáng rèm nhung, dì phước cũng có thể đoán được mùi
nước hoa đĩ thõa của một phụ nữ quyến rũ vừa bước qua, chưa khuất, còn đâu
đó.
Tiếng chuông
vẫn đổ từng cơn khủng hoảng trộn lẫn những rên la gần như tiếng kêu đau
trào mật của sản phụ đang sinh nở. Tiếng chuông bấu chặt tưởng chừng có thể
rứt từng đường gân dưới chân tóc. Louise bước nhanh ra khỏi giường. Dì phước
mặc vội áo tu, lúc đội khăn, không hiểu do đâu dì Louise nhìn ngắm mình kỹ
hơn trong gương, mái tóc hung óng mượt cô bé Louise Marie đã cắt đi ngày
quyết định bước chân vào sống vĩnh viễn giữa bốn bức tường đá đã mọc dài
trở lại. Hai tháng nay, từ lúc các cô gái Mèo, sau khi làm tình với trung
úy De Lattre nôn mửa rồi thụ thai, dì phước không ngớt phải đi thăm thai đến
không còn thì giờ cắt tóc. Mái tóc hung óng lượn trong gương khiến Louise
vụt thấy mình trẻ lại, còn nguyên vẹn thể xác xinh đẹp của thời con gái.
Ðã biết bao lần, Louise nhìn lên tượng Chúa tự hỏi tại sao? Và cũng biết
bao lần ngẩng đầu nhìn ngắm đấng Christ dang hai tay trong nỗi đớn đau
cùng cực của thân xác, Louise đều bằng lòng với chọn lựa của chính mình.
Trong sâu thẳm, dì phước yêu xót xa người đàn ông có gương mặt rất lành
cùng khôi ngô tuấn tú chịu thương khó, cùng trong sâu kín tận đáy linh hồn,
Louise không bao giờ quên cách nắm tay thân mật ấm áp, dìu dặt yêu thương,
nhẹ nhàng của Jésus khi bước chân vào phòng nàng hằng đêm thiết tha, khẩn
nài nàng hiến dâng cho Chúa. Ngày đó, cô bé Louise Marie ngây thơ đã xiêu
lòng cắt đi mái tóc hung như một thề uớc.
Tiếng kêu rú
kinh hãi của mẹ bề trên vang lên từ trong vách tường khiến Louise hốt hoảng
đâm bổ sang phòng bên. Dì phước sửng sốt trước cảnh mẹ Thérèse đã trăm tuổi,
bán thân bất toại, không còn đi đứng được đã có thể tự mình rời ghế lăn
chui xuống gậm giường trốn tránh. Lúc dì phước cúi xuống, mẹ Thérèse chắp
hai tay van vái những kẻ nào đó vụt thoáng hiện về trong trí não đã cũ kỹ,
tưởng chừng đã tắt lịm chỉ còn ánh lên chút tinh anh từng lúc, từng chập mỗi
khi Louise đút sữa cho mẹ ở mỗi bữa ăn. Chỉ trong giây khắc, dì phước nhận
ra chính tiếng chuông quỷ ám đã xô đẩy mẹ bề trên vào tình trạng hổn loạn
tâm thần. Chính tiếng chuông ma quái đã đánh thức những hình ảnh loã lồ
cách đây tám mươi năm khi mẹ bề trên hãy còn là nữ truyền giáo thơ ngây
cùng bước chân xuống chiến hạm l'Espingole với hải quân đại uý Francis
Garnier và cùng rơi vào ổ phục kích của quân Cờ Ðen dưới chân Ô Cầu Giấy.
Mẹ Thérèse trong những phút tỉnh táo hiếm hoi thường kể lại cảnh đại úy
Garnier bị chém đứt đầu, cắt đứt hai bàn tay bày trên lòng đường trong lúc
nữ truyền giáo trẻ bị Lưu Vĩnh Phúc và quân Cờ Ðen bắt về hang động Hạ
Long thay nhau hãm hiếp suốt chín ngày chín đêm, cho đến lúc đám giặc
không còn sức ngất xỉu, và cô truyền giáo Thérèse đã trốn thoát đi bộ một
trăm hai mươi cây số về đến Ô Quan Chưởng tá túc nhà lái buôn Jean Dupuis.
Chính mẹ Thérèse cũng không hiểu làm sao mẹ đã có sức khoẻ để chịu đừng ngần
ấy giặc Cờ Ðen, rồi đi bộ một mình không ăn uống, không ngơi nghỉ. Chỉ có
thể giải thích nhờ đàn ông Á châu nhỏ người yếu sức, nhưng mẹ Thérèse vẫn
tin tưởng chính nhờ ơn trên đã thêm sức cho mẹ đủ nghị lực vượt thoát.
Chính niềm tin vào đấng tối cao đã khiến mẹ quyết tâm tu ở dòng Carmen cho
đến ngày được giáo hội La Mã điều lên Cao Bằng rồi già nua bệnh tật.
Dì Louise cúi
khom cố lôi mẹ ra khỏi gậm giường.
- Em lậy anh
Phúc !
Mẹ Thérèse
rên lên, không ngớt lập đi lập lại tên của người đàn ông da vàng thô bạo,
nỗi ám ảnh kinh hoàng của mọi kiều dân Pháp. Lưu Vĩnh Phúc, kẻ đã chém chết
thiếu tá Rivière và đại úy Garnier mà Louise vẫn thường nghe nhắc. Không
hiểu vì đâu, lúc đó, những hình ảnh vùi dập xâu xé hãm hiếp tập thể đang
diễn ra trong đôi mắt khiếp hãi của mẹ Thérèse bình thường mù loà không
còn ánh sáng, đã khiến dì phước vụt đỏ mặt. Louise vội vã bế mẹ lên ghế, đắp
chăn bông, lấy khăn thấm nước mát đắp lên mặt, cố dỗ giấc cho mẹ thiu thiu
ngủ trôi vào khoảng không hư vô, không thời gian, không tương lai, không
thực tại.
Louise bước
ra khỏi chủng viện khi trời hừng đông.
*
Ðó là buổi
sáng Alexandre Lucien Abel de Rhodes chép trong nhật ký ba chữ La Tinh
Aléa Jacta Est ! mang nghĩa định mệnh đã an bài mà những ai tham khảo
thư khố toà thánh La Mã về sau, hãy còn nhận ra nét chữ thảo tài hoa, rắn
rỏi vừa bay bướm của giáo sĩ. Nhật ký Hành Trình Truyền Giáo của De Rhodes
sau này được xuất bản, chỉ bao gồm ba phần Goa, Xứ Ðàng Trong và Xứ Ðàng
Ngoài, khởi đi từ năm 1619 khi ông gặp thiếu nữ có mái tóc đen và chấm dứt
lúc ông rời An Nam vĩnh viễn. Những đoạn sau khi chết, chiếm 4/5 tập nhật
ký, đặc biệt thời gian ở Cao Bằng hoàn toàn bị hội Thừa Sai dập xoá. Trong
bản gốc, số đăng ký quốc hội Vatican, các chương ghi lại đời sống vợ chồng
với Tuyết, chỉ còn mỗi ba chữ Aléa Jacta Est, các ký tự khác đều bị thuốc
tẩy giặt trắng xoá loang lổ ố vàng. Những chữ li ti, chi chít, khi mất khi
hiện, gần như được viết trên bụi mà nửa thế kỷ sau, chỉ những nhà văn am
tường kỹ thuật hiện thực huyền ảo mới còn có thể chú giải.
Nhưng buổi sáng đó,
Alexandre de Rhodes đã viết tăm tắp trong nhật ký, những sự kiện dồn dập
xẩy đến trong kiếp ma của kiếp đời ông. Từ ngày thiếu nữ thành Goa xuất hiện,
đầy rẫy những hiện tượng mà De Rhodes không sao có thể giải thích. Từ những
cánh buồm trắng Y Pha Nho lộng gió của các chiến thuyền cổ xưa trí súng đại
bác đồng đen, không biết ở đâu trôi đến, thả neo ven sông Hiểm mỗi khi
giáo sĩ xuống các xóm chài giảng kinh, đến những lần ra nhà sách Tôn Thọ
Tường chầu chực đợi thu tiền sách, dù các chủ hiệu sách sau khi khấu trừ
50% hoa hồng vẫn ít khi sòng phẳng, De Rhodes đã rất ngạc nhiên chứng kiến
cảnh những đoàn kỵ sĩ mũ nồi thập tự giá, rầm rập phi nước kiệu ngang qua
phố chính thị xã. Tiếng hò reo của lũ trẻ An Nam vang dậy theo tiếng vó ngựa
thập tự chinh vang lừng xuyên suốt khắp pháo đài đến nỗi, lính Lê Dương ở
các trạm gác cũng ngỡ đã có quân viện từ chính quốc. Rất đông các sĩ quan
Pháp đã tin tưởng lữ đoàn kỵ binh giáp sắt sẽ xuất hiện chống trả Việt
Minh ngày Cao Bằng bị tấn công, chỉ cần cha cố rao giảng phúc âm ở tuyến đầu.
Hiếm ai lúc đó không tin tưởng vào nhà thờ, như niềm tin chiến thắng cuối
cùng.
Giáo sĩ cũng
ghi chép cẩn thận giai đoạn ông gặp khủng hoảng, khi thiếu nữ thành Goa
chưa bước chân ra khỏi cuốn tiểu thuyết An Nam. Thứ khủng hoảng oan nghiệt
của một oan hồn, ngày cũng như đêm chui rúc trong các xó hốc, cho đến một
hôm, quá tuyệt vọng ông đã treo cổ tự tử dưới đà ngang nhà thờ. Cha cố đã
đau đớn dẫy dụa oằn oại hàng giờ, đã trông thấy chiếc lưỡi của ông dài ngoằn
đến gối, đã đau đớn phạm điều răn đức chúa trời, nhưng ông không chết được.
Sáng đó, dì Louise vào lễ, dâng hoa, đã hốt hoảng ngất xỉu trông thấy giáo
sĩ treo cổ dưới tượng Chúa mặt mũi tím bầm và ruột phân lòng thòng trên đất.
Ðại tá Charton đã phải cho lính bắt thang lên cắt dây thừng đỡ ông xuống,
những lúc đó giáo sĩ ê chề xấu hổ và mang trong mình nỗi bất lực oan khiên
của bóng ma. Sự sống không còn, cái chết chưa hết, nhưng con người không
có một chút quyền tự do định đoạt phần số của chính mình, tất cả tùy thuộc
thượng đế.
Cứ thế, cha cố
ghi chép miên man, chỉ cần ông nhiễu một giọt mực, chữ sẽ đen đặc. Trong
suốt nhật ký, trừ chương thành vợ chồng với Tuyết, mà giáo sĩ luôn đỏ mặt
ngượng nghịu ít dám đọc lại, cha cố hài lòng hơn hết những chương đầu tiên
khi ông mới đặt chân đến An Nam, còn mang trong mình sứ mệnh thiêng liêng
cùng đức tin sáng thế ký.
Khi đến Gia Ðịnh lần đầu tiên, De Rhodes đã biết ông đặt chân tới một
vùng đất kỳ bí. Hơi nóng ngùn ngụt như thiêu, đốt liên tục suốt ngày sắc
xanh hực gai góc của những cánh rừng trùng điệp ngút ngàn mà dù đứng xa
ông vẫn nghe thấy tiếng trò chuyện râm ran của vạn vật. Tất cả thanh âm An
Nam bật lên dưới nắng sức sống mãnh liệt hừng hực hắt dội lửa dâng lên khắp
mặt đất, không chỗ nào không có tiếng nói, ngợp bóng người, như thể mỗi
người đàn ông An Nam là một cây chuối xanh biết đi đứng, mỗi người đàn bà
An Nam là một buồng chuối xum xuê quả. Mãi sau nhiều ngày De Rhodes mới hiểu
do người An Nam chết yểu, chết sớm quá nhiều nên phải tận lực sinh sản. Và
lý do tử tuất cao lẫn tiếng động không ngớt ầm ĩ, không ngơi nghỉ, từ sáng
đến trưa, suốt chiều, đêm khuya cho đến thâu đêm, phát sinh ở thảm kịch sắc
tộc Kinh thiếu chữ viết để ghi nhớ những chuyện cần nhớ. Tất cả dân bản xứ
đều phải kể chuyện huyên thuyên, nói thật to, bất kể người đang ngủ cần
yên tĩnh, để những điều cần nhớ được lập đi lập lại không dứt và truyền bá
rộng rãi, cho phép những người đã quên có thể nhớ lại, và lưu truyền cho
con cháu. Ðến mức nhiều gia trưởng lập đi lập lại lời trăn trối của tổ
tiên cho đến khi tắt hơi qua đời, và kẻ thừa kế được dòng họ nuôi nấng chỉ
để học thuộc bí kiếp gia truyền và lẩm nhẩm trả bài trước bàn thờ cho đến
lúc kiệt sức và cứ thế con cháu thay nhau lập lại một suy nghĩ đã có từ
nhiều ngàn năm trước. Ðến nỗi trong buổi giảng đầu, De Rhodes không sao
truyền bá thánh kinh, vì những kẻ tò mò đến xem, không ngớt lập lại những
điều gia đình căn dặn, để đừng quên, sau khi tan lễ phải ra chợ mua bao
nhiêu lạng hành tỏi, gà, rau, đậu, mắm, và ghé đến nhà ai mời giỗ, thu họ,
đóng hụi chết, bao nhiêu xâu tiền kẽm, khiến buổi ra mắt sách Cựu Ước thứ
nhất của De Rhodes ồn ào như một chợ cá. Chính lúc đó De Rhodes quyết định
ký âm thứ ngôn ngữ kỳ lạ lảnh lót như tiếng họa mi ríu rít, với mục đích
giúp dân bản xứ có thể ghi chép những điều thường nhật cần nhớ, sẽ rảnh rỗi
im lặng hơn khi nghe giảng kinh, và đặc biệt thôi lập lại những điều Thiên
Tử ban truyền ngăn cấm giáo hội. Chỉ một thời gian ngắn, giáo sĩ nhận ra
ông đã thành công. Từ khi có chữ viết, số tử vong vì kiệt sức giảm hẳn, sắc
tộc Kinh thông tin cho nhau dễ dàng việc đồng áng, lúa gạo nhiều hơn, khiến
thanh niên An Nam lớn nhanh như thổi, cao đến đầu gối, rồi đến bụng, cuối
cùng đứng ngang tầm ngực ông, nhưng ngưng ở đó, vì dân bản xứ có truyền thống
ăn rau sống với bánh tráng cuốn ruồi nhặng chấm nước dòi, đưa đến bệnh
tiêu chảy triền miên làm teo tọp thân thể. Chính các Chúa Nguyễn thời đó
cũng không sao ngăn cấm được thứ chữ do De Rhodes ký âm, vì rất ít ai đọc
được các sắc chỉ dụ viết bằng tiếng Trung Hoa, nên không hiểu các Chúa muốn
gì.
De Rhodes
cũng khám phá, sức mạnh của sắc tộc Kinh nằm trong những đứa trẻ, đông đúc
chiếm hai phần ba dân số, một phần do những cụ già yểu thọ, một phần do phụ
nữ An Nam mắn đẻ, chỉ cần ăn hơn một rổ khế chua đã có thể thụ thai. De
Rhodes luôn luôn ngạc nhiên trước những đứa trẻ cực kỳ thông minh, linh hoạt,
sinh động và gần như không bao giờ già đi, chỉ chết non vì chiến tranh.
Giáo sĩ nhớ rõ, ông đã gặp một cậu bé khôi ngô, chỉ trong một tuần lễ đã dạy
ông cách phát âm của mọi miền đất An Nam với tất cả thanh sắc. Cậu bé
thông thạo mọi thứ, biết hết mọi chuyện, từ cách đổi tiền quan ra tiền kẽm,
lãi thấp, đến cách thuê trâu giúp ông di chuyển, đến mọi thứ trái cây, đồ
tế nhuyễn bản xứ. Chỉ trong một đêm cậu bé đọc vanh vách kê khai tất cả mọi
món ngon vật lạ ở An Nam, và tuyên bố đã ghi chép trong hai cuốn sách do
chính cậu viết. Ðiều kỳ lạ, thiếu niên không biết tiếng Pháp, nhưng hiểu hết
những điều giáo sĩ nói, chỉ qua cử động của đôi môi. Chính De Rhodes cũng
đã tiếp thu toàn bộ văn hoá An Nam qua những điều thiếu niên kể. Mãi sau,
khi rời Gia Ðịnh lên Quy Nhơn, rồi ra Kẻ Chợ, giáo sĩ mới biết thiếu niên
tên chữ Lê Quý Ðôn, về sau chết trong trận giặc sông Gianh rồi đầu thai
theo quốâc giáo, và cho xuất bản hai bộ sách Phủ Biên Tạp Lục cùng Vân Ðài
Loại Ngữ.
Alexandre de
Rhodes buông bút. Tiếng gió hú lê thê trong cầu thang trôn ốc xoáy gọi những
tiếng kêu lạnh lẽo khiến giáo sĩ ngẩng lên. Căn hầm đá bất chợ lạnh căm
căm. De Rhodes thở ra khói. Ông nghe tiếng rơi của một vật nặng đang lao
xuống nhà thờ. Sức hút trọng lực khiến gió đẩy bật những cánh cửa va đóng
vào nhau rầm rập như nhà thờ có kẻ phá. Tất cả trần vách rung chuyển rùng
rợn như có đám đông đang chạy rần rật huỳnh huỵch trên mái. Tiếng ngói lăn
thông thốc từng lúc, giáo sĩ quyết định đóng nhật ký, ông chỉ kịp viết ba
chữ Aléa Jacta Est cho một mặc cảm chịu tội sắp xẩy đến, mà đã từ
lâu giáo sĩ biết ông bị khai trừ khỏi hội thánh.
Tiếng gió hú
the thé mỗi lúc một lạnh buốt khắp châu thân, cùng lúc mang hơi lửa bỏng
rát phả vào mặt giáo sĩ. Alexandre vừa thở ra khói vừa nóng hổi. Anh nhận
ra những dấu hiệu của tận thế khi lửa và băng cùng xẩy đến một lúc.
Alexandre bước
lên tháp, anh trông thấy gió giật những dây chuông va đánh vào nhau. Các
quả chuông chạm nẩy nhau nhưng không phát tiếng động. Thời đó ai sống ở
Cao Bằng cũng biết đức tính hiếm quý của những quả chuông, mỗi khi đánh
không phát âm thanh, không có tiếng động nào, nhưng tiếng chuông lại ngân
lên ở Ðồng Khê, cách đó 28 cây số. Phải mất nhiều phút tiếng chuông váng
âm từ Ðồng Khê mới vọng trở lại, đổ dồn về thị xã. Hiện tượng kéo dài và
chính xác đến độ Alexandre phải thức sớm những sáng chủ nhật và đánh
chuông trước vài phút cho kịp lễ. Những ngày sau cùng, khi Ðồng Khê bị vây,
antenne truyền tin của căn cứ bị pháo sập, đại tá Charton đã phải nhờ giáo
sĩ đánh chuông gởi đi những bản tin mã hoá. Sáng đó các dây chuông co giật
không âm thanh, trông như bầy rắn múa máy. Alexandre cảm thấy sợ, nhưng
anh cũng cố gắng bước đến nắm lấy dây chuông giữ cho đừng múa lượn. Chính
lúc đó các quầng lửa cuốn về nhà thờ cháy sáng lầu chuông và các tia lửa
vây lấy mình anh. Trong khoảng khắc tiếng chuông ngân từ Ðồng Khê réo về
Cao Bằng như tiếng sấm rền. Lẫn trong tiếng chuông Alexandre còn nghe rõ cả
tiếng đại bác bắn vào đồn Ðồng Khê, tiếng súng cối của Việt Minh câu dòn
dã, tiếng kèn thúc quân và cả tiếng hô xung phong của trung đoàn Thủ Ðô.
Tiếng chuông làm vỡ tan hoang gạch ngói rơi rớt lả tả chung quanh đỉnh
tháp nhà thờ. Cứ vài phút tiếng chuông đổ dồn về gióng ào ạt ầm ĩ kinh động
những rên la của lính viễn chinh bị thương ngoài mặt trận. Các dây chuông
co giật như phát điên, quấn lấy đôi tay Alexandre như những vòi bạch tuột
nghiến thắt, khiến anh không sao giữ thăng bằng, cả người Alexandre bị nhấc
bổng lên không trung theo điệu múa quỷ quái của quả chuông rồi kéo lê lết
đến tận bao lơn tháp trước khi chịu lôi giật về hướng ngược lại. Ở mỗi cơn
động kinh Alexandre bị các cuồng lửa bắt xém vào áo chùng làm phỏng rộp thịt
da cho đến lúc tấm áo cháy tiêu và thân thể anh hoàn toàn trần truồng.
Chính lúc đó Tuyết xuất hiện ở cửa tháp. Chính lúc đó Alexandre tin chắc
ngày cuối cùng đã đến và Thiên Chúa sống dậy phán xét loài người.
-
Blời ơi
! Tận thế rồi !
Tuyết ôm chầm
lấy giáo sĩ lúc đó.
*
Về sau khi gặp
lại Nhất Linh trong căn biệt thự ở Ðà Lạt, bên suối Ða Mê, Tuyết còn khóc
òa kể với anh Tam những thiên tai bất hạnh của mối tình phóng đãng với
giáo sĩ. Tuyết đã không ngờ anh Tam cực xấu hổ, tê tái, nhục nhã và quyết
định tự vẫn sáng hôm sau. Nhất Linh đã không muốn mang trách nhiệm của một
nhà văn cha đẻ một nhân vật phạm thánh. Anh Tam đã lấy cái chết của chính
mình để nói với người đời Nhất Linh là một nhà văn trong sáng. Tuyết đã
khóc hết nước mắt trong chuyến xe tang không kèn trống, đông đảo độc giả
đi đưa trong âm thầm lặng lẽ. Tuyếât đã khóc hết nước mắt lúc hạ huyệt,
chôn sâu trong lòng vĩnh viễn mối tình đầu, và đã khóc nghẹn ngào cho buổi
sáng thác loạn với cha cố.
Lửa của buổi
sáng đó cũng bắt vào hai vạt áo dài của Tuyết khiến cháy tiêu quần áo trên
mình nàng. Tuyết khám phá ra nàng không thể chết. Nàng là một nhân vật tiểu
thuyết không có khả năng chết. Gió xô đẩy cả hai đến sát bao lơn, Tuyết
khiếp hãi co chân quắp lấy mình Alexandre, cho trĩu thêm sức nặng để cả
hai đừng rớt ngã xuống khoảng trống chơi vơi sâu hút. Chính lúc đó trong
sâu chín sợï hãi Tuyết đã cảm ra da thịt giáo sĩ tươi rói cứng cáp đâm thẳng
vào cửa mình nàng đột ngột bất ngờ như tiếng chuông bỗng hét lên tiếng rú
rách trời. Tuyết đã kêu lên đau đớn tưởng chừng nàng có thể ngất đi vì sướng.
Chưa bao giờ Tuyết làm tình với một người đàn ông rắn chắc khỏe mạnh như với
giáo sĩ, tuồng thân thể anh là chiếc gậy chống của Mọse, cây gậy chống dài
có thể xẻ đôi Hồng Hải. Tuyết rên la từng cơn, mỗi lúc lửa vây lấy cả hai
cháy rực các bức rèm nhung có ngọn, mỗi lúc Alexandre xâm nhập vào sâu
trong thân thể nàng làm như anh cũng hoảng sợ cố bám víu vào thân xác Tuyết
di truyền một giọt máu. Tuyết kêu la không ngớt, bấu chắc lấy cần cổ
Alexandre đánh đu dưới quả chuông đong đưa, theo nhịp giật của dây thừng
kéo lôi cả hai từ bao lơn này đến bao lơn khác, hết vực sâu này xuống vực
sâu khác, rơi từ vực thẳm của sung sướng xuống những mái nhà ngói đỏ li ti
rồi nhảy giật lên tháp trong tiếng rên la của thân xác.
Chính lúc đó
Tuyết trông thấy bóng Bernard de Lattre ngã xấp ven sông Hiểm. Viên trung
úy chứng kiến suốt ba hôm, cảnh tượng kinh khủng của các lớp sóng Việt
Minh tràn lên, lớp lớp mà súng liên thanh không sao có thể quét hết, thậm
chí cả đại bác chống chiến xa đặt ở hầm chỉ huy bắn đạn xuyên xoáy cũng
không thể khoan thủng bức tường Việt Minh dầy đặc chuyển động như cánh rừng.
Ðồng Khê thất thủ khi những trái đạn lân tinh chót cùng và những quả đạn nổ
cao của pháo 105 ly cạn kiệt. Ðại úy Casanova tử thương, đại úy Brun bị bắt
sống và trung úy Brondel chết ngay ở giao thông hào. Suốt đêm trung úy De
Lattre dẫn đại đội sống sót mở đường máu, dẫm lên những xác chết mà De
Lattre kinh hoảng khám phá đang đầu thai từ từ, chậm chạp ngồi dậy, thậm
chí có những xác quân chủ lực Việt Minh chồm lên, tròng mắt trắng dã, la
hét chụp lấy mã tấâu chém xối xả vào đội hình lính Pháp mà chỉ mới một
phút trước đây đã bị tiểu liên của binh sĩ Lê Dương cắt đứt đôi người. De
Lattre thương tích khắp mình mẩy, nhưng anh xăm xăm trong bóng tối nhất
quyết trở về Cao Bằng để gặp lại người đàn bà của nhà thờ. Suốt đêm đại đội
De Lattre bị Việt Minh truy kích tiêu diệt không còn ai sống sót. Chính
viên trung úy cũng ngạc nhiên không hiểu động lực nào đã giúp anh vượt hai
mươi tám cây số đường rừng. Chính lúc đó, khi viên sĩ quan vừa trông thấy
hai nhánh sông Hiểm và sông Bằng Giang êm ái bao lấy pháo đài, lịch sử
quân đội nhân dân An Nam ghi rõ, chiến sĩ Phan Ðình Giót của tiểu đoàn
Hoàng Diệu đã dùng lưỡi lê đâm thủng ngực De Lattre. Dưới những ráng hồng
đầu tiên Bernard ngã xuống. Anh vẫn không hiểu vì sao anh đã không đau đớn,
trong lúc bộ đọâi Việt Minh vẫn tiếp tục lấy lê đâm xóc vào mình. Bernard
không còn sức kháng cự, anh quá mệt lả vì mất máu và đi bộ nhiều. Bernard
nằm yên nhìn ngắm lính An Nam thấp như những đứa bé đang thay nhau tháo nhẫn,
đồng hồ và lục khắp các túi quần anh. Cho đến lúc Phan Ðình Giót cắt mạn
sườn viên trung úy, thích gan cho vào bình rượu thuốc, viên sĩ quan vẫn
hãy còn tỉnh táo và hài lòng đã tiêu hết lương tháng dưới xóm thổ. Tiếng
chuông ngân lên lúc đó, bao la và say đắm, tựa tiếng kêu của thiếu nữ lúc
ân ái, gọi anh xuất tinh để cùng thỏa mãn. Bernard nhỏm dậy, anh vụt hiểu,
vì đâu anh không thể chết. Chính tình yêu tạo ra sự sống và nuôi dưỡng sự
sống, giản dị như định nghĩa ghi chép trên mình thiếu nữ. Nguyên lý cơ bản
của sự sống khởi đi từ tình yêu và trung úy De Lattre đang yêu không thể
chết. Tiếng chuông chín tiếng, như chín lần thiếu nữ gọi anh trở về.
Bernard phát lên cười khanh khách, trước sự ngạc nhiên của Phan Ðình Giót.
Trung úy De Lattre vừa nhớ đến những quẻ xăm rùng rợn chú giải : Ðồng
Khê mạng vong lúc 9 giờ sáng. Bernard cũng nhớ ra những lời Tuyết ân cần
khuyên nhủ, đức năng thắng số, nhân trung Trung Hoa với nhân trung Tây
khác nhau, không thể đo cùng một thước. Chết không dễ dàng như con người
muốn. Bernard chỉ thắc mắc, vì đâu các thầy An Nam tinh thông lý số, kinh
dịch, không thể bói ra tình yêu đến với anh bất ngờ. Viên trung úy còn thắêc mắc
vì sao sắc tộc Kinh, lưu trữ bốn ngàn năm quá khứ đã không coi trọng tình
yêu, thứ tình cảm đầu tiên và cuối cùng của kiếp người. Viên sĩ quan cũng
nhớ, giáo sĩ De Rhodes đã có lần nói với anh, do thiếu chữ viết, người An
Nam đã không ghi được những suy nghĩ trừu tượngï của họ truyền cho con
cháu, chỉ có thể truyền khẩu những chi tiếât hiện thực, cụ thể. Lúc chiến
sĩ Phan Ðình Giót đâm mỏi tay, văng tục rồi bỏ đi, Bernard de Lattre de
Tassigny trông thấy những quầng lửa kéo nhau về Cao Bằng. Các tia lửa đỏ
thắm trời mà anh nghĩ chính là máu của anh đang chảy về với Tuyết. Anh chỉ
không hiểu ra vì đâu mặt nước sông Hiểm êm đềm đến vậy, khi chung quanh vạn
vật hỗn chiến và lùng giết nhau cho những điều không liên quan đến tình
yêu.
Buổi sáng có lửa Satan và
phép màu cùng xẩy đến, dì phước là người đàn bà thứ hai trong pháo đài
trông thấy Jésus Christ. Suốt đời Louise sẽ không tha thứ nàng đã trang điểm
quá lâu trước tủ gương đến trễ hẹn. Sáng đó, khi những thanh âm hào hển rềân
rỉ của quả chuông rưới lên mái tu viện những xúc cảm bồi hồi, dì phước đã
đội lên tóc chậm rãi khăn vành trắng, cẩn thận ngắm nghía từng nếp khăn
chùm tu, vẫn trong trắng như thân thể hãy còn đồng trinh của dì. Khăn vành
trắng đẹp như tấm voan ngày cưới mà Louise đã kiêu hãnh phủ trùm suốt đời
tu hành. Dì chỉ ra khỏi chủng viện khi tiếng chuông thúc hối, lúc lửa
Satan thắp sáng quảng trường và lầu chuông gióng những tiếng chuông cuối
cùng. Trong bụi khói, gỗ đá, Louise trông thấy đấng Christ khi đó, vẫn người
đàn ông của ngày xưa, của những đêm trăng thiết tha bước vào phòøng nàng
cúi xuống đặt lên môi cô bé Louise một nụ hôn tinh khiết. Louise đã muốn
chạy đến khi ấy, bất kể lửa Satan lan đến làm cháy rụi rặng sữa. Dì phước
chỉ hốt hoảng lúc gió tốc cao váy tu phô đôi chân dì trắng trẻo đến đùi
trước cặp mắt thèm muốn của các phu xe kéo. Louise phải ngồi thụp xuống
túm lấy cổ chân giữ cho váy áo đừng tung bay. Thật ra Louise đã có thể vất
tung hết tất cả, kể cả tấm áo dòng bấy lâu không thay đổi, nhưng chính vì
dì phước trông thấy Jésus đang nắm lấy tay một kẻ nào đó, mà giác quan
giúp dì cảnh giác chỉ có thể là người đàn bà thơm hương nước hoa đĩ thõa
hôm nào đã quyện ám trên những bức rèm nhung nhà thờ. Louise đã chứng kiến
đấng Christ im lặng, nỗi im lặng sâu thẳm mà dì phước không đoán nỗi, thứ
im lặng đớn đau của một người đàn ông bấât lực. Dì phước không hiểu, chỉ cảm
thấy thỏa mãn, thứ thỏa mãn của người cùi mọc lại đốt tay khi dì đã dằn lấy
tay chúa ra khỏi bàn tay của người đàn bà vô hình mà dì không trông thấy.
Trong lòng Louise còn muốn níu thân áo trắng của người đàn ông còn phất
sau cửa nhà thờ. Linh hồn Louise đã tất tả chạy lao qua quảng trường, bước
lên các bậc tam cấp rồi ngã phục trên nền đất. Louise đã sững sờ chứng kiến
người đàn ông nàng vừa trông thấy bằng xương thịt đã bị treo trên thập giá
và ánh mắt hóa thạch bất động trên hai tay còn chảy máu ở lổ đinh vừa đóng.
Chính trước
đóù Tuyết trông thấy Jésus Christ. Buổi sáng có lửa Satan và phép màu cùng
xẩy đến. Tuyết cảm giác rất rõ rệt nàng đang băng huyết xối xả lúc giao hợp
với Alexandre. Không phải do Tuyết có kinh sớm, nhưng là máu của viên
trung úy đang tuôn chảy tướp khắp đùi nàng. Tuyếât đau thắt tử cung, thứ nỗi
đau thường xuyên xẩy đến những ngày cuối cùng khiến nàng phải gập mình ôm
bụng khóc trong lặng lẽ. Những ngày ở Cao Bằng Tuyết chiêm nghiệm rất nhiều
điều, đàn ông da trắng hay An Nam yêu rất dễ dàng, quên rất nhanh, miễn
sao họ còn ham muốn thân xác. Tuyết chỉ không hiểu do đâu nàng có khả năng
ân ái với mọi đàn ông, nhưng không thể yêu ai từ sau ngày anh Tam bỏ đi.
Ðôi lúc Tuyết yêu vô vàn nét trẻ thơ của Alexandre mỗi khi anh phát âm ngọng
nghịu Quy Nhin, Quẩm Ghĩa, hoặc vẻ chân thật của mỗi khi anh
khăng khăng bào chữa phát âm chuẩn theo lối nói cổ của sắc tộc Kinh. Nhưng
Tuyết cũng nhớ đến đôi môi say đắm của Bernard mà anh hôn không rời, những
cuồng si không dứt mà hồi tưởng Tuyết hãy còn
đau nhói dạ con. Bao nhiêu ngày, Tuyết thầm hỏi nàng yêu ai, và bao
nhiêu đêm Tuyết ý thức nàng vĩnh viễn thuộc về Nhất Linh.
Tiếng rú của
một vật nặng đinh tai nhứt óc. Tiếng xoáy lanh lãnh mà đang ôm Alexandre
Tuyết phải bưng kín lấy tai sợ rách màn nhĩ. Tuyết linh tính biết tai ương
sắp xẩy đến. Chính Alexandre cũng cảm giác điều ấy nên anh xuất tinh không
dứt, như một ước muốn chót cùng hối hả tạo ra sự sống trước khi xuống hỏa
ngục đời đời. Bao nhiêu tin đồn lửa thiêng sẽ đổ xuống thị trấn khiến cả
hai biết tận thế gần kề. Chiều hôm trước, cố đại úy De La Marek hãy còn đến
xưng tội với Alexandre và kể một câu chuyện thật lạ. Khi binh đoàn tác chiến
Le Page rơi vào ổ phục kích, chuyến quân xa tắt nghẽn trên đỉnh đèo Lủng
Phài. Bộ đội Việt Minh xung phong biển người, các toán quyết tử ôm bộc phá
đánh bom từng chiếc GMC một. Lúc đó, người đàn ông áo trắng đứng trên mui
xe đã chỉ tay xuống vực thẳm, trổi lên một trận lốc kinh thiên cuốn văng tất
cả tiểu đoàn Nguyễn Tri Phương xuốâng hố mà không một binh sĩ Marốc nào hề
hấn. Chính các cố vấn Mỹ về sau nghiên cứu phúc trình Le Page trong trận
đánh đường biên giới, đã triển khai phương pháp và cho sản xuất mìn
Claymore định hướng. Nhưng Tuyết không sao biết, phải đợi đến sau này vào
Nam, cuộc thánh chiến tiếp diễn, khốc liệt, nghe kể về loại vũ khí mới,
Tuyết mới liên tưởng đến những chuyện đã xẩy ra ở Cao Bằng.
Tiếng hú khi
ấy, vít đinh vào sọ não, mỗi lúc một lớn tựa nguyên một tảng trời đang sập.
Tiếng hú xé óc cho đến lúc ngưng bặt. Tuyết còn trông rõ trái phá chọc thủng
mái nhà thờ. Tất cả vỡ oàng ngay sau đó, trong tiếng nổù khủng khiếp của
quả chuông đứt dây lao cắêm xuống mặt đất. Tuyết đã hãi hùng rơi trong
lòng quảû chuông xoay tít, hãi hùng trông thấy gương mặt của các sĩ quan
Pháp từ dưới quảng trường chính thị xã, lớn phồng lên, cả nỗi xanh tái
khám phá Việt Minh đã kéo pháo lên đỉnh núi cũng to tướng dần. Cùng lúc
Tuyết hãi hùng nhận ra cơ thể nàng tiếp tục đòi hỏi giao hoan không thể dứt
ra khỏi mình Alexandre trong khi cả hai ngã bổ xuống thang lầu gẫy tung
các đà gỗ và rơi không kềm hãm. Chính khi ấy Tuyết trông thấy Jésus
Christ, khi nhà thờ phát nổ, đỏ ối một quảng trời, gạch ngói long lở và
mái tháp đổ ụp xuống thị xã.
Phải khó khăn
lắm, Tuyết mới chui ra khỏi quả chuông. Tất cả hỗn độn, ầm ĩ, hỗn mang của
gạch đá khói đen đầy bụi tắt lịm cùng với tiếng chuông đứt đoạn đột ngột.
Tuyết gọi Alex ? nhưng không có ai trả lời. Tiếng kêu của chính
nàng thất thanh suốt quảng trường rồi vang trở về, làm như tiếng gọi cũng
đã đi tìm cha cố. Có bóng người đi tới, Tuyết xấu hổ lấy tay che ngực,
nhưng không ai đếm xỉa đến nàng, cả những toán cứu thương chen lấn chạy
vào phố Chả Cá đang bốc cháy, xô đẩy, va chạm phải mình nàng cũng không
xin lỗi. Tuyết nghe loáng thoáng cha cố gẫy hai chân phải đi cấp cứu. Nàng
hối hận đã đem đến tình yêu hồi sinh khiến Alexandre hóa nửûa người, nửa
ma, chịu thương tích.
Người đàn ông
nắm lấy tay nàng khi ấy.
Jésus mang vẻ
đẹp trần thế, trầm thống và cô buồn của nhân gian tội lỗi, vẻ đẹp khác thường
mà Tuyết chưa hề trông thấy. Vẻ đẹp của thiên nhiên tạo hóa. Từ thân thể
trong vắt những dòng suối uốn khúc ở cổ chân, đến bầøy chim ríu rít hót mà
Tuyết đoán đang đậu kín dưới thân áo. Cả vẻ đẹp u uất của những cánh rừng
rũ cội hiu hắt. Tuyết nhận ra ngay người đàn ông trong Tân Ước. Jésus mang
tất cả nhân dáng của nhân loại, đến nỗi nàng nhận ra ngay ánh mắt nghiêm
khắc của Nhất Linh, hàng mày cong của Khái Hưng, sóng mũi thẳng của
Alexandre và khóe môi hơi mỏng của Bernard de Lattre. Ðấng Christ tựa một
người đàn ông nàng đã trông thấy nhiều lần mỗi ngày màø chưa hề gặp. Ðiều
kỳ lạ sự dị biệt đó không tách bạch nhưng hòa quyện lẫn nhau đến mức vừa
quen thuộc, đầy lạ lẫm. Tuyết nhận ra tất cả những điều Alexandre đã kể với
nàng đều có thật. Jésus mang thân thể không trọng lượng, có khả năng đi bộ
băng ngang qua những đại dương bão tố trên trái đất.
Lúc đó, phép
màu xẩy đến mà không một ai có thể ngờ. Tất cả mọi đám cháy đều tắt ngấm
khi Jésus Christ đi qua, trận pháo kích cũng trệch ra khỏi pháo đài, tất cả
những quả đạn đều rơi vãi xuống sông Hiểm. Các đống gạch đá vỡ nát bỗng
dưng nguyên vẹn xếp ngay ngắn chờ đợi tái thiết, dẫy mái tôn bị pháo xụp ở
phố Chả Cá thốt nhiên lợp mới trở lại có dằn bao cát chống đỡ cho trận
pháo kích kế tiếp, và đất ở đâu đùn lên các nắp hầm lính Pháp dầy thêm nhiều
thước. Tuyết chứng kiếng rõ rệt người đàn ông đứng ở giữa quảng trường và
vạn vật chung quanh trôi đến. Không phải Jésus Christ đi đến, nhưng sự vật
trôi đến trước chân đấng Kitô. Từ những đám mây trong trôi ào ạt đến quảng
trường xua đuổi khói than mù mịt, những tia nắng bị hút hết vào trong mái
tóc Jésus sáng rỡ, những đứa bé mắc chứng trừu run chân bu đến và cả nhà
thờ chính tòa đồ sộ nguy nga sập mái cũng trôi đến dần dần. Mặt đất thu hẹp
lại và vạn vật thu về một hướng. Chính Tuyết cũng trôi đến trước chân chúa,
dù nàng không hề cử động hay nhúc nhích, nhưng vẫn chuyển dịch chậm rãi
cho đến khi người đàn ông nắm lấy tay nàng.
- Lạy chúa
tôi ! Danh Cha cả sáng !
Tuyết thốt lên lời kinh ấy. Nàng quỳ gập người, không hiểu vì sao bài
kinh La ngữ Alexandre truyền dạy cho nàng trổi lên lúc đó. Như máu huyết từ
huyết quản dồn lên tim, dâng lên môi và Tuyết không thể nói lời nào khác
hơn những giọt máu đang chảy trong tim nàng. Lúc ngửng lên, Tuyết bắt gặp
ánh mắt đấng Christ toát ngời những hình ảnh khủng khiếp của muôn kiếp người.
Khác với Alexandre de Rhodes, đôi mắt của Jésus không chỉ phản chiếu quá
khứ, nhưng cả tương lai, và của cả nhân loại trong cùng một lúc. Tuyết đã
bàng hoàng trông thấy cơn mưa sáng gai góc sắc buốt nhểu xuống khu vườn
lan rũ úa bên suối Ða Mê, đã sửng sốt chứng kiến Nhất Linh già đi, ốm yếu,
uống từng giọt độc dược đắng, đen, như những giọt mực anh đã dùng viết tiểu
thuyết. Nhất Linh đã uống cạn ve thuốc độc như muốn nuốt trôi hết tất cả
chữ nghĩa đã viết. Tuyết cũng trông thấy Trần Khánh Dư bị thủ tiêu bắn chết
ở một miền quê hẻo lánh. Anh Dư khi chết đã cười thật tươi như anh đã luôn
xem cuộc sống chỉ là những tình cảm nhẹ nhàng. Anh Dư chết như anh đã muốn
đi tìm một kết thúc tiểu thuyết bí hiểm mà người đời không một ai rõ. Tuyết
còn trông thấy ngày Cao Bằng thất thủ, bộ đội Việt Minh vào tiếp quản,
vong thiếu tá Rivière và đại úy Garnier ra trình diện học tập ở ủy ban
quân quản thị xã. Tuyết đã hét lên lúc trông thấy Alexandre bị tập trung cải
tạo rồi hình ảnh biến mất, trống rỗng.
Tuyết đã khóc
ngất trong buổi sáng có lửa Satan và phép màu cùng xẩy đến. Khóc cho thân
phận một nhân vật tiểu thuyếât, không có quá khứ, tương lai, trong đôi mắt
đấng Christ. Về sau tòa thánh La Mã không chứng nhận, không xác chứng
Jésus Christ đã tái thế, chỉ vì nhân chứng duy nhất, dì Louise bị tước
phép thông công do đánh mất phẩm hạnh. Nhưng sáng đó, buổi sáng có mây
trong và những khóm dâu đỏ huyết đan kín các lối đi ven rừng, các họ đạo
đã khắc ghi vĩnh viễn hình ảnh nhà thờ bốc cháy. Nhiều năm sau, Tuyết cũng
không còn nhớ rõ đấng Christ đã xuất hiện trước hay sau trận pháo kích.
Tuyết chỉ nhớ đã khẩn khoản van nài thiên chúa cứu chuộc linh hồn nàng.
Sáng đó đã xẩy ra hiện tượng thần bí. Những trang giấy to bản chép đầy chữ
Hébreu, ở đâu bay đến sáng lóa và vây lấy Jésus. Từng trang đặc chữ Do
Thái cổ óng ánh giát vàng lần lượt xuất hiện trước đấng cứu thế rồi biến
đi, cứ tiếp tục bay đến, trang này sau trang khác, rợp trời rồi mất hút.
Trên không chỉ còn lại dư âm của gió và thứ bụi vàng rây rắc gieo xuống những
khóm mai yếu ớt, vừa hé nở, thắm thiết, mà không ai rõ vì sao ở cuối tháng
năm khi những trận bão rừng bắt đầu đổ về miền biên giới. Tuyết hiểu nàng
không có tên trên danh sách loài người khi Jésus Christ gỡ tay. Vì sao
thiên chúa ngôi hai với đôi mắt chứa chan nhân ái đã im lặng, không thể cứu
rỗi. Sáng đó, gương mặt Jésus buồn đắm. Sáng đó Tuyết đã khóc thật nhiều
vì vụt hiểu ra nàng chỉ có thể hiện hữu bằng tình yêu khai hoá duy nhất của
Alexandre Lucien Abel de Rhodes.
Ðó là thời kỳ ở Cao Bằng
không còn một ai tin vào chiến thắng của quân đoàn viễn chinh Pháp và lính
Lê Dương vẫn hát những bài ca của quỷ:
Louise Marie où vas tu dans le monde ?
Je vais où vont les soldats
Louise Marie qui aimes tu ?
J'aime celui qui va mourrir
et le diable en rit, Ha, Ha, Ha, Ha
Trần Vũ
Défunts 02/ 11/ 2002
Lễ Người Chết Công Giáo
Ghi chú quân sự :
-
Trung
Ðoàn 3 Lê Dương: 3ème Régiment Etranger d’Infanterie (3 R.E.I)
-
Binh
đoàn tác chiến Le Page : Groupement des Tabors Marocains (G.T.M), từ
5/1950 cải danh Chiến Ðoàn Bayard (Groupement tactique Bayard), bao gồm 4
tiểu đoàn Tabors, về sau tăng cường tiểu đoàn 1 B.E.P.
-
Binh
đoàn tác chiến Charton : Groupement Tactique Charton, bao gồm tiểu đoàn 3
Lê Dương, tiểu đoàn 10 Tabor và tiểu đoàn phụ lực quân Bataillon Lèger de
Supplétifs Militaires (B.L.S.M). Tháng 9.1950 tiểu đoàn 3 Tabor thay thế
tiểu đoàn 10 Tabor bằng không vận. Về sau tăng viện tiểu đoàn 3 B.C.C.P thả
dù xuống Thất Khê.
-
Tabor
Marocain : Danh xưng chính thức của các tiểu đoàn sơn cước Marốc, mỗi
Tabor gồm 4 Goums, mỗi Goum tương đương một đại đội, lính tuyển mộ cùng một
bộ lạc miền núi.
-
1er
B.E.P : Bataillon Etranger de Parachutistes, tiểu đoàn 1 Nhảy Dù Lê Dương.
-
3ème
B.C.C.P : Bataillon Colonial de Chasseurs Commandos Parachutistes, tiểu
đoàn 3 Thuộc Ðịa Săn Giặc Biệt Kích Dù.
-
Sư Ðoàn
308 Ðại Ðoàn Quân Tiên Phong : Ðại đơn vị đầu tiên của quân đoàn chủ lực
Việt Minh do tướng Vương Thừa Vũ chỉ huy, bao gồm các trung đoàn 88, 102
và trung đoàn Thủ Ðô, đơn vị mũi nhọn thành lập từ các tiểu đoàn Cứu Quốc
Tự Vệ Thành Hà Nội chính quy hóa.
-
Ðại tá
Charton, đại tá Le Page bị bắt làm tù binh, tháng 10.1950, trao trả sau hiệp
định Genève
-
Hải
quân thiếu tá Henry Rivière, tử trận 01.05.1882 tại Ô Cầu Giấy
-
Hải
quân đại úy Francis Garnier, tử trận 21.12.1873 tại Ô Cầu Giấy
-
Ðại úy
De La Marek, tử trận 25.02.1861 tại Chí Hòa
-
Trung
úy Bernard de Lattre de Tassigny, tử trận 31.05.1951 tại đồn Yên Cư Hạ,
Ninh Bình.
-
Ðại tướng
Jean De Lattre de Tassigny, cao ủy kiêm tổng tư lệnh, mất 11.01.1952 sau
chiến dịch Hòa Bình.
-
Hồng y
Armand Jean du Plessis de Richelieu 1585-1642, thủ tướng triều Louis XIII.
-
Tham
mưu trưởng lục quân Phổ Karl Von Clausewitz 1780-1831, lý thuyết gia chiến
lược quân sự.
-
Thống
chế Michel Ney 1769-1815, chỉ huy cánh quân Pháp đánh chiếm Mạc Tư Khoa.
Trần Vũ
|
16/9/13
Trần Vũ - Giáo Sĩ
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét