VÀI NÉT VỀ “CỤ HỒ”
Trần Chung Ngọc
PHẦN 2
Trên Đàn Chim Việt, Minh Võ có viết bài phê bình cuốn “Ho Chi Minh, A Life” của William J. Duiker. Sau đó Minh Võ còn “đọc lại Trần Dân Tiên” và đưa ra một số ý kiến. Đọc hai bài này, chúng ta thấy rõ trình độ của ông Minh Võ không thể gọi là trình độ, kiến thức của Minh Võ không thể gọi là kiến thức. Tôi không có ý định phê bình chi tiết hai bài trên của ông Minh Võ, chỉ duyệt qua vài điểm, cùng trình bày vài ý kiến của độc giả về ông Minh Võ để chúng ta thấy rõ Minh Võ thuộc loại người nào. Trước đây, trên trang nhà Giao Điểm, Hà Giang đã có bài nhận định về cuốn “Ho Chi Minh” của Duiker, viết đứng đắn và nghiêm chỉnh hơn ông Minh Võ rất nhiều. Link: http://www.giaodiem.com/doithoaiII/Hagiang_hcm.htm
Trước hết, Lê Duy Khoa trên Đàn Chim Việt đã vạch ra rằng ông Minh Võ đã áp dụng bậy bạ tam đoạn luận để phỉ báng ông Hồ như sau:
a) Chủ nghĩa cộng sản của Karl Marx là sai lầm, dối trá, tàn ác, phản nhân đạo, phản dân tộc. [TCN = Đây là một khẳng định vô trách nhiệm (affirmation gratuite). Cũng như Trần Mạnh Hảo, ông Minh Võ, không hiểu gì về Marx mà cứ viết bậy về Marx. Thế giới ngày nay đánh giá Marx như thế nào? Vị trí của Marx trong số những tư tưởng gia vĩ đại của thế giới là như thế nào?. 1. “Theo kết quả thăm dò ý kiến thính giả đài BBC Radio 4 trong tháng 7, 2005 thì, trong số 20 tư tưởng gia được biết đến, kính trọng, và có ảnh hưởng nhiều nhất, Marx lại được coi như là một triết gia vĩ đại nhất của mọi thời đại”??. [BBC Press Release: 13-7-2005: Out of a shortlist of twenty of the best known, most respected and influential philosophical thinkers, nominated by the In Our Time audience, Karl Marx has been voted the Greatest Philosopher of all time by BBC Radio 4 listeners.] Theo bảng kết quả thì David Hume, một nhà nhân bản, xếp hạng 2, Nietzshe hạng 4, Kant hạng 6, và Aquinas của Ki-tô Giáo hạng 7. 2. “Kết quả chọn vĩ nhân của Đức Quốc, với con số tham dự trên 5 triệu người, Karl Marx đứng hàng thứ 3 trong 100 ứng viên, Albert Einstein đứng hàng thứ 10 (www.unserebesten.zdf.de). Lạ nhỉ, cả thế giới trí thức này mù và ngu cả hay sao mà không nhìn và đánh giá Marx như ông Minh Võ? ]
b) Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa cộng sản [Không ai phủ nhận điều này]
c) Kết luận: không thể coi HCM là nhân đạo, yêu nước, anh hùng mà phải coi ông ta là tội đồ ác ôn của đất nước.
Chúng ta thấy ngay, ông Minh Võ đã dựa trên sự hoàn toàn sai lầm của mình trong vế a) để đưa đến một kết luận tất nhiên cũng hoàn toàn sai lầm trong vế c). Nhưng không phải chỉ có vậy. Đọc Minh Võ, chúng ta thấy rõ qua giọng văn một sự thù hận ngất trời và phản ánh một trình độ hiểu biết quá thấp kém của mình. Đối với tôi, Minh Võ không phải là người đáng để tôi phê bình về những “tác phẩm” của ông ấy, tôi để dành điều này cho một số độc giả trên Đàn Chim Việt trong phần trích dẫn ở cuối bài. Ở đây tôi chỉ muốn nêu ra một lý luận rất ngớ ngẩn nếu không muốn nói là ngu xuẩn của ông Minh Võ khi phê bình đoạn sau đây của Duiker.
“Bất kể cuối cùng người đời phán xét về di sản của ông [Hồ] để lại cho dân tộc mình ra sao, ông Hồ đã chiếm được một chỗ trong ngôi đền thờ những anh hùng cách mạng từng đấu tranh mạnh mẽ để những người cùng khổ trên thế giới có được tiếng nói đích thực của họ.”
Vì Nhà Nước VN muốn dịch cuốn “Hồ Chí Minh” của Duiker nhưng muốn bỏ đi những đoạn nói về đời tư của ông Hồ, nên ông Minh Võ phê bình như sau: “Hồ Chí Minh đã tạo ra cái di sản ngăn cấm ngay tiếng nói của một sử gia [Duiker] thì có thể là bậc anh hùng đã đấu tranh mạnh mẽ cho tiếng nói đích thực của những kẻ cùng khổ được cất lên chăng?”
Thứ nhất ông Minh Võ không hiểu thế nào là di sản. Thứ nhì, cái di sản ông Hồ để lại cho dân tộc là nền độc lập quốc gia sau khi cất bỏ được chế độ thuộc địa của thực dân Pháp trên đất nước, và tiếp nối bởi chính ông và những người sau ông trong việc thành công đi đến sự thống nhất đất nước. Di sản đó tuyệt đối không phải là chính sách luôn luôn thay đổi của Nhà Nước và lẽ dĩ nhiên không phải là yêu cầu của Nhà Xuất Bản Chính Trị Việt Nam đối với Nhà Xuất Bản Hyperion ở New York như chúng ta thấy trong tài liệu sau đây trên Internet:
“Trong một bức thư cho nhà Xuất Bản Sách Hyperion ở New York, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia của chính quyền (VN) đã nói rằng họ chỉ muốn bỏ đi vài đoạn trong cuốn sách của Duiker “không phù hợp với những thông tin trong hồ sơ của họ.” (In a letter to New York publisher Hyperion Books, the state-run National Politics Publishing House has said only that it wants to remove certain passages from the Duiker biography that "do not conform with the information in our files".)
Đây có phải là một hành động ngăn cấm hay không hay chỉ là một đề nghị thương thuyết? Đầu óc như vậy mà ông Minh Võ muốn làm việc đội đá vá trời là xóa bỏ thần tượng Hồ Chí Minh thì đúng là sự mơ tưởng hão huyền của những kẻ cuồng tín vô minh.
Một nhận định khác có tính cách phóng đại rất lố bịch của ông Minh Võ về cuộc cải cách ruộng đất như sau:
“Thời ông HCM cũng thế nếu ông ấy tôn trọng Hiến pháp sao ông lại làm cải cách ruộng đất giết chết hơn nửa triệu người.?”
Ông lấy con số “hơn nửa triệu” này ở đâu ra? Chắc chắn là ông chưa hề đọc đến những công cuộc khảo cứu rất sâu rộng về Cải Cách Ruộng Đất ở Việt Nam: Mục đích, kết quả, số nạn nhân v..v.. của Gareth Porter, Edwin E. Moise, Noam Chomsky và Edward S. Herman. Rất có thể ông chỉ tin vào con số đoán mò của Hoàng Văn Chí, người đã thú nhận là con số nạn nhân trong cuộc cải cách ruộng đất chỉ là đoán mò sau khi bị Gareth Porter công khai vạch ra những sự giả mạo trong tài liệu của Chí [Chi eventually conceded that his number of victims of the land reforms to be merely a “guess” (The Washington Post, 13 September, 1972). This admission came after Porter had made Chi’s falsification public.] Thật là đẹp mặt cho Hoàng Văn Chí và cho cả Minh Võ.
Theo những tài liệu của Noam Chomsky và Edward S. Herman cũng như của Gareth Porter và Edwin E. Moise thì Hoàng Văn Chí vốn là một địa chủ ở ngoài Bắc, sau đó làm cho Bộ Thông Tin của Chính Quyền miền Nam, rồi làm việc cho CIA và làm thông dịch viên cho Cơ Quan Thông Tin Hoa Kỳ. Trong bài “The Myth of the Bloodbath: North Vietnam’s Land reform Reconsidered” (Bulletin of Concerned Asian Scholars, September 1973, pp. 2-15), Gareth Porter đã vạch ra vài đoạn Hoàng Văn Chí dịch bậy bài thú nhận có sai lầm trong việc thi hành cải cách ruộng đất của Tướng Võ Nguyên Giáp với mục đích giúp quan thầy Mỹ và miền Nam tuyên truyền xuyên tạc, thí dụ :
“Chúng ta không chú trọng đề phòng lệch lạc” đáng lẽ phải dịch là “We did not pay attention to precautions against deviation” thì Hoàng Văn Chí dịch là “Chúng ta phạm phải quá nhiều lệch lạc” (We made too many deviations); “Xử trí oan những người ngay” thay vì dịch là “the unjust disciplining of innocent people” thì Chí dịch là “hành quyết quá nhiều người lương thiện” (executed too many honest people); “không nhấn mạnh phải thận trọng, tránh…” [did not emphasize the necessity for caution and for avoiding] thì Chí bỏ đi không dịch (omitted); “dùng những biện pháp trấn áp quá đáng” [used excessive repressive measures] thì Chí dịch là “xử dụng đế khủng bố” (resorted to terror); “thậm chí dùng phương pháp truy bức” [even coercive measures were used] thì Chí dịch là “tệ hơn nữa, tra tấn” (worse still, torture) v..v.. và còn thêm thắt vào những đoạn không có trong bản văn như “nhìn thấy kẻ thù khắp nơi” (seeing enemies everywhere) mà Gareth Porter không tìm thấy trong bản gốc (not in original). Noam Chomsky và Edward S. Herman còn vạch ra rằng, trong những cuộc phỏng vấn vào năm 1955, Hoàng Văn Chí không hề nói gì đến cuộc cải cách ruộng đất và con số những nạn nhân. Chỉ trong vài năm sau, sau khi Mỹ và Saigon biết đến những vấn đề trong cuộc cải cách ruộng đất từ những cuộc thảo luận trên báo chí ở Hà Nội mà Moise cho là “thẳng thắn kỳ lạ trong sự thảo luận những sai lầm và thất bại” (sometimes extraordinarily candid in discussing errors and failures”, Chí mới “nhớ lại” những điều viết trong tài liệu của mình.
Noam Chomsky và Edward S. Herman viết trong cuốn The Political Economy of Human Rights, Vol. I, South End Press, Boston, 1979, trang 342:
“Nguồn thông tin căn bản về những con số giết chóc lớn trong cuộc cải cách ruộng đất ở Bắc Việt là từ những người của CIA hoặc Bộ Thông Tin Tuyên Truyền Saigon. Theo một người Việt Công giáo nay sống ở Pháp, Trung Tá Nguyễn Văn Châu, Chỉ Huy Cơ Quan Chiến Tranh Tâm Lý Trung Ương của quân đội Saigon từ 1956 đến 1962, số nạn nhân bị “tắm máu” trong cuộc cải cách ruộng đất là “100% dựng lên” bởi cơ quan tình báo Saigon. Theo Trung Tá Châu, một chiến dịch có hệ thống dùng các tài liệu ngụy tạo để bôi nhọ đối phương được thi hành vào giữa thập niên 1950 để biện minh cho sự kiện là Diệm từ chối không thương thuyết với Hanoi trong việc sửa soạn tổ chức cuộc bầu cử để thống nhất đất nước quy định vào năm 1956.” (The basic sources for the larger estimates of killings in the North Vietnamese land reform were persons affiliated with the CIA or the Saigon Propaganda Ministry. According to a Vietnamese Catholic now living in France, Colonel Nguyen Van Chau, head of the Central Psychological War Service for the Saigon Army from 1956 to 1962, the “bloodbath” figures for the land reform were “100% fabricated” by the intelligence services of Saigon. According to Colonel Chau, a systematic campaign of vilification by the use of forged documents was carried out during the mid-1950s to justify Diem’s refusal to negotiate with Hanoi in preparation for the unheld unifying elections originally scheduled for 1956)
Giáo sư sử học James P. Harrison cũng viết trong cuốn The Endless War: Vietnam Struggle For Independence, Columbia University Press, 1989, trang 149:
“Tuy nhiên, những cuộc nghiên cứu kỹ về sau đã ước tính là con số những người bị giết trong cuộc cải cách ruộng đất ở ngoài Bắc là vào khoảng 1500 cộng với 1500 bị cầm tù, theo một tác giả, hoặc có thể lên tới 15000 theo một tác giả khác, và do đó hầu hết những con số tuyên truyền của Saigon về vấn đề này là những con số phóng đại nếu không phải là hoàn toàn dựng đứng.” (Careful later studies, however, have estimated that the true figures for those executed in the noerthern land reform may have been more like 1500 plus 1500 jailed according to one, or possibly up to 15000 killed according to another, and therefore that most of Saigon’s propaganda on the subject was exaggerated if not a “total fabrication”.)
Giáo sư Pierre Brocheux viết trong bài “Con Người Trở Thành Hồ Chí Minh” , trang 34:
“Đối với Hồ Chí Minh, tập thể hóa đất đai là sự bảo đảm phân chia đồng đều tài sản. Nhưng ông ta tố cáo sự dùng những hành phạt thể xác đối với các địa chủ và các nông dân giàu có và yêu cầu thi hành một chương trình sửa sai những sự bất công và phục hồi những sở hữu của nông dân thuộc quyền của họ (1956). Nhưng ông ta phải nhượng bộ trước đa số trong Đảng. Chiến dịch cải cách ruộng đất làm cho ít nhất là 15000 người chết.” (Pour Ho Chi Minh, la collectivisation des campagnes est la garantie d’une répartition égalitaire des resources. Mais il dénonce l’utilisation des peines corporelles contre les “propriétaires fonciers et riches paysans” et demande une programme de correction des injustices et la restauration des paysans propriétaires dans leurs possessions et leurs droits (1956). Il s’incline pourtant devant la majorité du Parti. La réforme agraire côutera la vie à 15000 personnes au moins.)
Về con số “hơn nửa triệu” của ông Minh Võ, chúng ta có thể đối chiếu với một số tài liệu khác: Của Gareth Porter: từ 800 đến 2500; của Edwin E. Moise (sau một công cuộc nghiên cứu sâu rộng hơn): vào khoảng 5000 và chắc chắn trong khoảng từ 3000 đến 15000; của Trương Như Tảng, David Chanoff và Đoàn Văn Toại trong cuốn “A Viet Cong Memoir”: nhiều ngàn (thousands); của Bùi Tín trong Mặt Thật: “lên tới mười mấy ngàn”; của Vũ Thư Hiên: từ 4000 đến 5000. Chúng ta không thể biết chính xác con số bị giết trong cuộc cải cách ruộng đất. Nhưng xét đến số làng mạc, ruộng đất ở ngoài Bắc, số địa chủ thực sự, số nông dân nghèo khổ phải thuê đất [một số của Nhà Chung] để cầy cấy v..v.. thì con số “hơn nửa triệu” của ông Minh Võ là con số chỉ có trong đầu của ông Minh Võ.
Trên diễn đàn Đông Dương Thời Báo, tháng 5, 2006, chúng ta có thể đọc một đoạn về cải cách ruộng đất của chủ biên người Công Giáo, Giu-se Phạm Hữu Tạo, như sau:
Thật vậy, Hồ Chí Minh thực hiện cải cách ruộng đất, muốn lấy lại đất mà không phải giết nhiều người, vì lúc đó các địa chủ có tiền bạc tài sản, chạy thoát trước về vùng Pháp chiếm đóng… Cải cách ruộng đất là việc phải làm ở trong Nam cũng như ngoài Bắc. Phải lấy lại đất của Pháp, của nhà Chung để chia cho cán bộ và nông dân có sức lực và siêng năng cần cù mà không có đất để sống và cày bừa và hy sinh cho cách mạng quyết dành chủ quyền - độc lập - thống nhất đất nước … Chính sách cải cách ruộng đất đương nhiên là đụng đến Giáo hội và giáo dân Công giáo Việt gian, cho nên chúng ta không lạ gì tại sao người Công giáo căm thù CSVN và ngụy tạo bôi đen chính sách Cải Cách Ruộng Đất.
Hiện tượng Minh Võ thì hầu như ai cũng biết về ý đồ và trình độ của ông ta như thế nào. Để quảng cáo cho cái ý đồ này, ông ấy nhờ một người quen biết trẻ hơn, có cùng trình độ như ông ấy, lên tiếng quảng cáo cho cuốn Hồ Chí Minh: Một Nhận Định Tổng Hợp của ông ấy trong buổi ra mắt sách. Đó là ông Huỳnh Lương Thiện. Nhưng đọc Huỳnh Lương Thiện chúng ta thấy rõ là trình độ của ông ấy cũng chẳng hơn Minh Võ là bao nhiêu. Chứng minh?
Ông Huỳnh Lương Thiện phát ngôn:
Tôi nghĩ rằng tôi chỉ đáng em hay con của rất nhiều vị ngồi trong phòng này mà thôi. Thế mà quý vị có thể tưởng tượng là có kẻ khi tuổi còn nhỏ hơn, chỉ đáng em của tôi thôi mà đã dám xưng là bác với cả nước chúng ta. Quý vị biết đó là ai không? Hồ Chí Minh. Vâng, cám ơn quý vị đã cho biết kẻ đã dám xưng bác với cả nước là Hồ Chí Minh, tôi cũng biết điều đó. Tuy nhiên phải đến khi đọc cuốn sách này của bác Minh Võ thì tôi mới biết thêm là họ Hồ đã dám xưng bác với cả nước khi chỉ mới 55 tuổi, bằng tuổi cô em gái tôi.
Thưa quý vị, tôi tuổi Canh Dần, 56, 57 tuổi rồi và đó là một trong hàng chục, hàng trăm dữ kiện độc đáo, đặc biệt mà tôi đã tìm thấy trong cuốn sách này.
Như vậy là ông Huỳnh Lương Thiện sinh khoảng năm 1949-1950, tất nhiên đích thân không biết gì về ông Hồ Chí Minh mà chỉ biết qua những sự kiện mà ông ấy cho là độc đáo trong cuốn sách của Minh Võ. Rõ ràng là, dựa vào điều viết bậy của Minh Võ trong cuốn sách của ông ấy, Huỳnh Lương Thiện đã phát ngôn bậy như trên. Nhưng dữ kiện trên có thật là độc đáo không? Rất có thể là độc đáo ở chỗ đã để lộ cái trình độ vô cùng thấp kém của mình về văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam.
Thứ nhất, từ “Bác” mà ông Hồ Chí Minh dùng chỉ để nói với các “cháu nhỏ” trong vòng thân tình như người trong một nhà. Bác, nguyên nghĩa là anh của Bố hoặc Mẹ, và người Việt Nam thường dùng tiếng “Bác” để gọi thay con. Tiếng Bác cũng còn được dùng giữa các bạn bè cao tuổi dù rằng người bạn kém tuổi mình “Nguyễn Khuyến: Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác (Dương Khuê)”. Ông Hồ có thói quen là bất chợt đi thăm các em nhỏ trong trường học và nói những chuyện “Bác cháu ta”. Chưa ai thấy ông Hồ xưng là Bác với cả nước như ông Huỳnh Lương Thiện đã nói bậy dựa theo lời viết bậy của Minh Võ bao giờ. Người dân Việt Nam gọi ông Hồ là “Bác” nghĩa là coi ông như là bậc trưởng thượng thân tình của các con cháu trong nhà. Các ông chống Cộng mà chẳng biết gì về văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam. Hãy đọc Peter A. DeCaro ở Buena Vista University viết về ông Hồ Chí Minh (acjournal.org):
“Chức “Bác” của ông Hồ phải được hiểu trong ngữ cảnh của nền văn hóa Trung Hoa trong đó người cao tuổi hơn được đặc biệt tôn kính. Bác (big uncle) là từ dùng để chỉ người anh của Bố hoặc Mẹ, người em nhỏ tuổi hơn gọi là “Chú”. Thật là tự nhiên khi người dân gọi [ông Hồ] là “Bác Hồ” vì những đồng nghiệp của ông ta thuộc một thế hệ trẻ hơn. Do đó Bác là một từ thân thuộc và những người Cộng Sản ở miền Bắc thường đưa ra sự kiện là mọi gia đình đều coi Bác Hồ là một thành phần vinh dự của gia đình. Còn nữa, Bác đồng nghĩa với cách cư xử dân chủ: người Cha có thể ra lệnh, nhưng người Bác [hay Chú] chỉ có thể đưa ra những lời khuyên.”
(Ho’s title of “Bac” must be understood in the context of Chinese culture in which the eldest members of society enjoy especial veneration. Bac means “big uncle;” it is the term used to denote the elder brother of a father or mother while the younger brother is referred to as Chu, “little uncle.” It was only natural that people began to speak of Bac Ho because his closest colleagues already belonged to a younger generation. Bac is therefore a familiar term and the Communists in North Vietnam liked to point out that every family considered Bac Ho an honored member. In addition, Bac is synonymous with democratic conduct; the father can command, but the uncle only advises.)
Ông Minh Võ cũng như ông Huỳnh Lương Thiện hiển nhiên là những người không biết ngượng vì chính cái trình độ hiểu biết thấp kém của mình về xã hội Việt Nam so với một người ngoại quốc như Peter A. DeCaro. Nhưng, như đã nói ở trên, các ông thuộc lớp người chỉ viết bậy, cốt hả lòng thù hận, cho nên không cần đến trí tuệ, không cần đến kiến thức, không cần đến trình độ, và không cần đến liêm sỉ. Tôi nghĩ rằng đối với những người như các ông, tôi không nên phí thêm thời gian để phê bình nữa. Nhưng có điều các ông cần biết, là thủ đoạn và trình độ của các ông không thể qua mắt được lớp trẻ ngày nay.
Vậy sau đây, tôi xin nhường chỗ cho vài tiếng nói của lớp trẻ trên Đàn Chim Việt:
1) Tôi cho rằng chính vì không tự mình tìm hiểu vấn đề một cách chủ động, giống như ông bạn Lương Thiện đăng đàn ở trên, bạn đã rơì quá dễ dàng vào những thứ lý sự quá đơn giản của những nhà nghiên cứu nửa mùa kiểu Minh Võ. Bạn hãy thử đề nghị Minh Võ đem dịch cuốn sách của mình ra tiếng Mỹ để xem những học giả Mỹ nghĩ gì. Cam đoan với bạn không đáng một cái nhếch mép! Trong nghiên cứu, kết luận về vấn đề nêu ra không quan trọng bằng cái phương pháp nghiên cứu đã dẫn đến kết luận ấy, đó là điều căn bản. Xin bạn lưu ý: đây là một vấn đề sử học, một vần đề khoa học chứ không phải là chuyện biểu diễn diễn lập trường, hoặc tệ hơn nữa bộc lộ oán thù, phục hận.
2) Tôi chưa đọc cuốn sách "HCM, Nhận định tổng hợp" của Minh Võ nhưng đã "thử" đọc mấy bài viết của Minh Võ trên DCV Online, và chưa lần nào "tiêu hóa" nổi trọn vẹn một bài của Minh Võ. Không thể "tiêu hóa" nổi vì giọng văn của Minh Võ đầy hằn học và hận thù; người đọc (ngay cả lớp trẻ) có thể dễ dàng nhận thấy đó là giọng văn của một loser. Không thể "tiêu hóa" nổi vì những phân tích và nhận định của Minh Võ chẳng dựa trên phương pháp luận khoa học và những tài liệu lịch sử nào. Còn những bài viết của HCM để tuyên truyền, kêu gọi người dân đứng lên giành độc lập cho đất nước là những nghệ thuật vĩ đại; nó sánh như Nguyễn Trãi khi bôi mỡ vào lá cây cho kiến ăn để tạo ra dòng chữ "Lê Lợi làm vua, Nguyễn Trãi làm tôi", hoặc là truyền thuyết về anh em vua Quang Trung thuần phục được ngựa thần trên núi.
Sách của Minh võ là tiểu thuyết để giải trí ư? Không đáng; là sách lịch sử ư? Không phải. Có thư viện nào người ta mua và lưu trữ sách của Minh Võ không? Không có. Cái ông Lương Thiện gì đó chẳng lương thiện tí nào đang quảng cáo sách cho Minh Võ đó; và cũng nhân cái diễn đàn này ông ta gài thêm mấy khẩu hiệu chống cộng cũ rích - cũng là giọng hằn học của một loser.
3) Anh Lương Thiện và Minh Võ đã lấy cái định kiến ác ý cuả chính mình, hội đoàn mình để chủ trương bôi nhọ chủ tịch Hồ Chí Minh- Một nhân vật vĩ đại, kiệt xuất số một; Vô tiền, khoáng hậu trong lịch sử VN và nhân loại. Đó là những lời vu khống; Lập lờ đánh lận con đen; Câu chữ cắt xén, biạ đặt một cách có chủ ý, có kế hoạch hòng làm lu mờ thần tượng vĩ đại của dân tộc ta.
Những người có thiện ý, thiện tâm... Thường có con mắt bao dung, độ lượng, nhìn vào mặt sáng, khai thác mặt sáng - Mặt tích cực. Công đức và thành tựu mà các vị giáo chủ hay vĩ nhân đó đã làm được cho dân, cho nước và nhân loại. Còn kẻ tiểu nhân đã mang sẵn định kiến hận thù thì sẽ làm ngược lại. Họ cũng biện chứng, dẫn chứng, có lang, có lớp như ai.. Nhưng đó chỉ là cách ngụy biện rẻ tiền. Chỉ cần chú ý đôi chút là ta sẽ nhìn rõ chân tướng chúng.
4) Rêu rao là người hiểu biết sâu sắc về chủ nghĩa cộng sản nhưng kiến thức của Minh Võ về vấn đề này chỉ là một con số không to tướng. 1) MV đã sai lầm hoàn toàn khi đồng hoá Marx với Đệ tam Quốc tế của Lenin. Học thuyết Marx là sản phẩm của xã hội tư bản phương Tây thế kỷ 19 trong khi đó ĐTQT là phản ứng của những nước ngoại vi với các nước giàu đã trở thành thực dân, đế quốc. 2) MV chỉ biết Marx qua Tuyên ngôn cộng sản 1848, không đếm xỉa gì đến những tác phẩm khác của Marx. Ngay cả với Tuyên ngôn này, MV cũng chỉ bám vào những từ ngữ tách rời khỏi hệ thống lý luận mà Marx đã mang ý nghĩa cho chúng (tư hữu, vô sản, quốc tế vô sản, chuyên chính…). 3) MV không hiểu biết gì về những mâu thuẫn thực tế của lịch sử hiện đại – giữa các quốc gia (giàu/giàu, giàu/nghèo, thực dân/bị trị, phát triển/chậm tiến…) , giữa các ý thức hệ (chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa tư bản, cộng sản, phát xít…) do đó đã trút tất cả vào mâu thuẫn cộng sản/ chống cộng sản một cách máy móc. 3) Riêng với những nước bị thực dân thống trị vấn đề cướp nước và chống cướp nước đã bị MV đầy lùi về phía sau một cách cố ý rồi mượn luận điệu của thực dân đồng hoá cộng sản với khủng bố, nổi loạn để biện hộ cho tội cướp nước của chúng. Bị cộng sản kết cho cái tội “Việt gian” không có gì là oan cả.
5) Phương pháp gọi là “nghiên cứu” của MV cũng hoàn toàn phản khoa học. Ông ta không tìm hiểu thực tế và những phát sinh và chuyển động của nó để rút ra kết luận mà ngược lại: gán cho cộng sản một số thuộc tính chết cứng rồi từ đó kết án tất cả những biểu hiện khác nhau trong thời gian của phong trào cộng sản (bất chấp những nội dung khác nhau, mâu thuẫn trong phong trào ấy). Trong tranh luận, nghiên cứu người ta gọi phương pháp ấy là procès d’intention, không cần tìm hiểu, phân tích xem sự thực như thế nào mà chỉ cần quy kết theo thiên kiến của mình là đủ. Ai cũng biết đó là phương pháp suy luận của những đàn bà hay ghen (nhìn đâu cũng thấy những kẻ cướp chồng minh), những kẻ bị bệnh tâm thần ( nhìn đâu cũng thấy kẻ hại mình). Chẳng có gì khoa học, học thuật ở đây cả. Lý luận của MV rất phù hợp với cộng đồng những người có thâm thù với cộng sản: họ không còn đủ sáng suốt để nhìn ra đúng sai trong chủ nghĩa cộng sản (chủ nghĩa cộng sản có rất nhiều cái sai) như một hiện tượng lịch sử, từ lý thuyết đến thực hành, cũng không đủ lý trí để nhìn ra ngay cả những đúng sai trong bản thân những thất bại nhục nhã, đau đớn của họ nữa. Đối với những con người như vậy, họ chỉ cần đổ lỗi để biện minh, chỉ cần bôi bác, nguyền rủa để trả hận là đủ. Thứ lý luận của MV chỉ có thể lừa được những tên chống cộng ngu dốt thôi.
6) Thực ra thì "Nhận định tổng hợp ", hay không tổng hợp thì người ta cũng biết rõ: Hằn học, chửi rủa thoá mạ một nhân vật lịch sử của VN như cố chủ tịch HCM là những người như thế nào ! Có rất nhiều gương mặt khác nhau dưới đủ mọi chiêu bài. Rất may, qua đó người ta càng hiểu hơn thế nào là tính chân xác của lịch sử. Sẽ chẳng có người VN tỉnh táo nào lại lên án Vua Lê Lợi, khi chỉ vì quyền lợi quốc gia mà đem vợ mình cúng sống thần biển. ( bây giờ việc làm đó là thất đức và nặng mùi mê tín ) Nhưng mỗi người dân VN, đều công nhận Lê Lợi, đó là một vị Vua có công đánh đuổi ngoại xâm, lập nên nhà Lê dài hơn 300 năm. Chắc chắn, thời buổi của ông không có máy tính, để bị lên án và vạch trần nhiều thủ đoạ, mà tất cả vì đất nước v.v. Trong công cuộc xây dựng, mở nước, và giữ nước, chưa có ông Vua VN nào chuyên viết thỉnh nguyện thư gởi cho kẻ thù, để mong được kẻ thù thương mà trả nước. Tất cả các chiến công lẫy lừng như Bạch Đằng giang dậy sóng, hay trận Chi lăng ghi sử sách, chẳng viết bằng máu của dân VN đó sao? Chẳng lẽ trận Rạch gầm, Xoài mút được viết bằng máu của người Miên hay Lào ? Đó là máu của người VN đã đổ cho đất nước hôm nay. Dù muốn nói gì và nói sao chăng nữa thì lịch sử đã chứng minh: Pháp đô hộ Việt nam, Mỹ muốn cứu đồng minh và Người Nhật đã làm cho hai triệu đồng bào ruột thịt của chúng ta chết đói. Biết đâu trong chúng ta, có những người là con cháu của những người may mắn nhờ có Việt minh phá kho thóc của Nhật.
7) Dù nói gì đi chăng nữa, thì một dân tộc với mã tấu răng đen như các anh vẫn gọi, thế mà trong một thế kỷ đánh gục đầu ba nước to lớn. Thử hỏi trong lịch sử từ cổ chí kim của nhân loại hỏi ai đã làm được như thế ? Người làm được chuyện đó ngoài HCM thì còn có ai ? Chẳng lẽ Ngô chí sỹ chăng hay Cựu hoàng Bảo đại ? Tui biết trong thân tâm cũa người ngoại quốc, nhất là với người Mỹ, người Pháp và nhiều người dân thuộc các nước nhược tiểu khác, trong con mắt của họ: HCM là nhà tổ chức kỳ tài! Nếu không đủ đức đủ tài, mà như tui và các anh chẳng hạn, thì làm sao làm được những việc kinh thiên động địa trên. Như chính chủ tịch HCM, công nhận hễ là con người thì ai cũng có khuyết điểm, trên con đường kiến tạo đất nước và giữ nước, Đảng CS VN không khỏi tránh những sai lầm.. Nhưng dù sai lầm đến như thế nào thì cái chính là nền độc lập tự chủ của VN đã được tạo dựng. Còn xây dựng nó như thế nào thì VN đang dần bước lên những nấc thang mà tiền nhân vẫn mong đợi là xây dựng đất nước bằng mười bằng trăm thế kỷ 20 ? Bạn có mơ và tin điều đó không ? Tui rất tin điều đó, bởi đó là bước đi tất yếu mà chẳng có ai ngăn được bước đi lên của dân tộc VN chúng ta.! Vì vậy Hồ chí Minh luôn là ngọn cờ soi dọi mỗi bước ta đi lên phiá trước !
8) Họ chụp mũ chúng ta là CS, chúng ta chỉ cười thầm vì bạn bè lớn nhỏ của chúng ta cũng đang sinh hoạt trên diễn đàn này, và tất nhiên bạn bè của chúng ta biết chúng ta hơn ai hết. Họ chửi chúng ta là tay sai, nhưng họ không có thể đem ra một bằng chứng nào cả. Chúng ta, vì tình người, đề nghị họ đọc một số sách vỡ lòng để họ còn biết tôn giáo họ như thế nào, nhưng họ không dám đọc vì sợ "bức xúc" trong lòng. Thế thì còn căn bản nào để nói cho nhau nghe? Thế thì còn căn bản nào để trở lại một con người chân chánh? Tôi coi ông Karl Marx là một triết gia như bao nhiêu triết gia khác, nhưng họ không chịu ông Karl Marx là một triết gia, mà xem ông Karl Marx là một ông "kẹ" hạng nhất trên đời này. Triết lý của Karl Marx được dạy khấp nơi trên thế giới ngay cả bật trung học, nhưng họ quả quyết rằng chỉ có những quốc gia CS mới dạy triết lý của Karl Marx! Rất buồn, là cùng một giống người, nhưng mà hể có "thánh đạo" thì hung hãn như một con chó, chỉ biết ăn rồi sủa chứ chẳng biết lý luận gì cả, còn người không có "thánh đạo" thì hiền từ.
9) Theo ông Minh Võ thì cản trở cho công cuộc vận động dân chủ tại VN là do dân chúng vẫn còn hiểu sai về Hồ Chí Minh cho nên cần phải đánh đổ thần tượng Hồ mà bấy lâu nay đảng cọng sản xây dựng nên. Đây là một công việc vô bổ vì chẳng làm cho uy tín của ông Hồ suy giảm đối với người dân hai miền Nam Bắc. Gần một triệu người miền Bắc mà đa số là công giáo di cư, sai lầm của cải cách ruộng đất, vụ nhân văn giai phẩm, tết Mậu thân vẫn không ngăn cản được Việt cọng thực hiện được thống nhất đất nước. Chắc chắn rằng khi quân Mỹ đem một đội quân đông tới hơn 500000 người, chưa kể thêm những đội quân đồng minh thì những người như ông Minh Võ lúc ấy ở Sài gòn đều nghĩ rằng họ sẽ chiến thắng . Vậy thì sức mạnh của Viêt cọng là ở chỗ nào nếu không nói là lòng dân. Họ tin tưởng ông Hồ vì đơn giản ông Hồ và người dân có cùng chung một mục tiêu là độc lập dân tộc và thống nhất đất nước. Chẳng có bao nhiêu bộ đội đọc nhiều sách như ông Minh Võ để hiểu về lý thuyết này lịch sử nọ. Họ cũng chẳng chiến đấu vì một thần tượng, lý do là năm 1969 ông Hồ mất, Việt cọng vẫn tiếp tục sự nghiệp của dân tộc. Vì vậy phân tích nguyên nhân không phát triển của tình hình hiện là do VN còn tín nhiệm ông Hồ. Điều này không đúng. Cần phải nhận định cho đúng đâu là nguyện vọng của người dân hiện tại để có khẩu hiệu đấu tranh thích hợp, nếu không chỉ là Dã Tràng se cát...
10) Tôi, TCN, không còn trẻ, nhưng tôi rất mừng vì có những bạn trẻ đã đưa ra những nhận định chính xác và sáng suốt, dựa trên những sự kiện lịch sử chứ không dựa trên cảm tính phe phái. Đây là một niềm hi vọng cho đất nước Việt Nam. Để kết luận, tôi xin trích dẫn hai tài liệu. Trước hết là đoạn kết trong cuốn Ho Chi Minh của Jules Archer, trang 189-190:
“Cộng Sản hay không, ông Hồ Chí Minh cũng sẽ đi vào lịch sử như là một người Việt Nam yêu nước vĩ đại, là một trong những khuôn mặt phi thường của thế giới trong thế kỷ này. Không vị kỷ, can đảm, hiến thân cho nền độc lập của Việt Nam bằng mọi giá, ông ta đã vật nước Pháp phải khụyu đầu gối và chiến đấu chống Hoa Kỳ, một thế lực mạnh nhất thế giới, đưa đến một thế bí quân sự.
Sự cương quyết về một mục đích đã làm thay đổi giòng lịch sử, làm phân rẽ dư luận quần chúng ở Hoa Kỳ, bắt buộc một Tổng Thống Mỹ phải rút lui không tái cử cho nhiệm kỳ hai, khiến cho hàng triệu giới trẻ trên khắp thế giới kính ngưỡng ông ta ủng hộ cách mạng và xuống đường biểu tình ủng hộ ông ta, hô “Hồ, Hồ, Hồ Chí Minh”
Sự pha trộn duy nhất chủ nghĩa Mác-xít với chủ nghĩa gia trưởng, và chủ nghĩa quốc gia cao độ của ông Hồ đã thành công vĩ đại trong việc gây cảm hứng cho dân ông chịu đựng những sự hi sinh to lớn. Họ cũng còn kính yêu “Bác Hồ” vì nhân cách khiêm nhường và những cách cư xử từ ái của ông. Ông Hồ là sự thất vọng của những kẻ thù – Pháp, chế độ Sài gòn, và Mỹ - vì họ không thể nào làm cho người ta thù hận được ông. Ông ta được sự kính yêu của người trong Nam cũng như của những người ở ngoài Bắc.
Một trong những thành quả vĩ đại của ông là, cũng như Tito, ông đã đạt thành một “Cộng sản quốc gia”, giữ cho nước của ông ta ở ngoài những móng vuốt của cả Trung Hoa Đỏ và Liên Bang Sô Viết, trong khi ông ta khôn khéo đi hàng đôi để có được sự giúp đỡ mà nước ông cần đến. Khi ông ta mất, Việt Nam không phải là một nước chư hầu, mà là một nước độc lập đầy hãnh diện, cương quyết trên sự thiết lập cá tính quốc gia cho mọi người Việt Nam…
Khi những trang sách về cuộc đời của ông được cân nhắc, và hòa bình sau cùng tái lập trên đất nước thê thảm của Việt Nam, ông Hồ Chí Minh sẽ vĩnh viễn được các nông dân đã từng yêu kính và đứng sau lưng ông coi như là một người Việt Nam vĩ đại nhất trong của lịch sử của họ - người “Bác” kính ngưỡng của nước ông.”
(Communist or not, Ho Chi Minh will probably go down in history as a great Vietnamese patriot who was one of the extraordinary world figures of this century. Selfless, courageous, dedicated to Vietnamese independence at all costs, he wrestled France to her knees and fought the United States, the world’s mightiest power, to a military stalemate.
His single mind resolution changed the course of history, polarized public opinion in the United States, forced an American President to withdraw from seeking a second term, and radicalized millions of admiring youth around the world who demonstrated in his support chanting, “Ho, Ho, Ho Chi Minh”.
Ho’s unique mixture of Marxism, paternalism, and intense nationalism was enormously successful in inspiring tremendous sacrifice among his people. They also loved “Bac Ho” (Uncle Ho) for his winning personal modesty and gentle ways. Ho was the despair of all his enemies – the French, the Saigon regime, the Americans – because they were unable to muster hatred of him. He was held in as much affection in South Vietnam as among the people he led in the North.
Not the least of his great achievements was that he had, like Tito, achieve a “national Communism” which kept his country out of the grip of both Red China and the Soviet Union, while he skillfully played one off against the other to get the help his country needed. When he died, North Vietnam was no satellite but a proud, independent country, determined on nationhood for all Vietnamese…
When the books of his life are balanced, and peace is finally restored to the tragic land of Vietnam, Ho Chi Minh will always be known to the peasants who loved and followed him as the greatest Vietnamese in their history – the revere uncle of his country.)
Thứ đến là nhận định của một cựu quân nhân Mỹ, ông David Thomas, giáo sư nghệ thuật, đại học Boston, người đã tổ chức một cuộc triển lãm tranh ảnh Hồ Chí Minh ở Oakland, California, và đã bị một số người Việt Quốc Gia đến hò hét chống đối, văng tục và hành hung. Trước cuộc triển lãm, ông Thomas đã tổ chức một cuộc thảo luận với một số người Việt Nam. Ông phàn nàn: “Họ không cho tôi nói, văng tục, chửi hết câu này đến câu khác” (They kept hurling insult after insult. I didn’t get a chance to speak.) Nhưng ông ta cương quyết không nhượng bộ (But he stands behind his work unflinchingly). Ý định của ông tổ chức cuộc triển lãm là để cho quần chúng tìm hiểu về “con người đã làm thay đổi bộ mặt lịch sử thế giới.” (I want viewers to question, investigate this man who changed world history). Về ông Hồ Chí Minh, Thomas nói:
“Tôi kính trọng tính chính trực của ông ta. Có vẻ như là ông ta chỉ có một nhiệm vụ trong đời, và đó là giải phóng Việt Nam ra khỏi người Pháp, và ông ta đã thành công. Hãy suy nghĩ về điều đó, một quốc gia nhỏ bé như Việt Nam đã đánh bại một nước như nước Pháp và quay lại đánh bại chúng ta. Điều này chưa từng có trong lịch sử. Và tôi kinh ngạc bởi điều đó. Chúng ta phải ngưỡng mộ con người đã làm được như vậy.” (I respect his integrity,” Thomas adds. “He seemed to have one mission in his life, and that is to free Vietnam of the French, and he did it. Think about it, a little country like Vietnam beat a country like France and turned around and beat us. That has never been done in history. And I’m awed by that. You have to admire a man that did that.)
Hẳn nhiên Thomas đã nhìn sự việc trên bình diện to lớn của lịch sử hơn là những chuyện lặt vặt như ông Hồ có mấy vợ, hút bao nhiêu điếu thuốc lá một ngày, hay đã làm đơn xin học trường thuộc địa [Muốn học ở Pháp khi đó không xin học ở trường thuộc địa thì xin học ở trường nào, trường Nhà Dòng chăng. Nhưng có ai đọc kỹ câu này không: “Je désirerais devenir utile à la France vis à vis de mes compatriotes et pouvoir en même temps les faire profiter des bienfaits de l’instruction”. Vậy rõ ràng mục đích của ông Hồ là muốn tăng thêm học vấn để phục vụ đồng bào. Pháp dùng chính sách ngu dân để cai trị, nhưng ông Hồ lại muốn “trở thành hữu ích cho Pháp” với mục đích dùng kiến thức của mình phục vụ đồng bào. Đọc về ông Hồ, chúng ta ta thấy rõ đó là mục đích chính của ông. Nên nhớ, khi vừa nắm được chính quyền, Việt Minh đã phát động phong trào Truyền Bá Quốc Ngữ khắp nước. Vậy mà người ta lại thường viện vào cái đơn xin học này để chứng tỏ ông Hồ không phải là người yêu nước...]
Vài lời kết :
Tôi chưa từng có cơ hội đọc cuốn sách của Trần Dân Tiên, chỉ biết đến tên cuốn sách này qua bài ông Minh Võ đọc Trần Dân Tiên và viết trên Đàn Chim Việt: “Năm 1976, Đảng và Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam công bố Trần Dân Tiên không phải người nào khác mà chỉ là bút hiệu của Hồ Chí Minh.” Ông Minh Võ cho rằng các tác giả viết về ông Hồ Chí Minh trong khoảng 1948-1975 đều bị lừa bịp bởi cuốn sách của Trần Dân Tiên về ông Hồ, và kể ra vài tác giả quen thuộc: Bernard Fall, Jean Lacouture, David Halberstam. Nhưng đọc mấy tác giả này, Bernard Fall: “Street Without Joy” (1964), “The Two Viet-Nams” (1967); Jean LaCouture: “Cinq Hommes Contre La France” (1961); Halberstam: “The Making Of A Quagmire” (1965) chúng ta thấy họ không hề nêu ra nguồn tài liệu nào về Ông Hồ là lấy từ cuốn sách của Trần Dân Tiên trong danh sách những tư liệu tham khảo. Và ngay cả trong hàng trăm cuốn sách trong đó có viết về ông Hồ sau năm 1975 cũng không có cuốn nào dùng tài liệu của Trần Dân Tiên.
Đúng như một bạn trẻ đã nhận định ở trên: “Thứ lý luận của Minh Võ chỉ có thể lừa được những tên chống cộng ngu dốt thôi” chúng ta hãy điểm qua vài “lý luận” của ông Minh Võ:
1) Nếu người dân có tôn sùng và gọi Hồ Chí Minh là Cha già dân tộc thì đó chỉ là kết quả của một nỗ lực dắt dẫn, uốn nắn thậm chí cưỡng bách nhiều năm.
Thật vậy sao? Cưỡng bách tôn sùng? Điều này chỉ có thể thấy trong lịch sử Công Giáo qua những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo (Inquisition) và lịch sử truyền đạo qua chính sách thực dân. Nếu là cưỡng bách thì làm sao người dân có thể chiến thắng một cường quốc như Pháp rồi về sau lại đánh bại một cường quốc vào bậc nhất thế giới như Mỹ. France Fitzgerald đã viết: “Một bài học mà hầu như bất cứ vị lãnh đạo quốc gia nào cũng có thể học được từ ông Hồ Chí Minh: đó là, nếu đi vào một cuộc chiến lâu dài thì phải có sự ủng hộ của người dân. Sự ủng hộ này quan trọng hơn vũ khí, vì nếu người dân tin vào chính nghĩa của họ, họ có thể chấp nhận những sự hi sinh phi thường. Nếu họ không tin, mọi vũ khí trở thành vô ích.” [Vietnam Reconsidered: Lessons From A War, p. 302: There’s a lesson that almost any leader in any country might learn from Ho Chi Minh, and that is, if you embark on a war of any duration, you must have the support of your people. This support is more important than weapons, for if people believe their cause is just, they are capable of extraordinary sacrifices. If they do not, all your weapons are useless.]. Fitzgerald đã viết không sai. Nếu không tin tưởng vào chính nghĩa, người dân Việt Nam không thể chịu bao hi sinh để thắng nổi những thế lực quân sự có ưu thế tuyệt đối về quân sự như Pháp và Mỹ trong hai cuộc chiến ở Đông Dương. Ai đã mang lại chính nghĩa đó, nếu không phải là ông Hồ.
2) Minh Võ viết: “6 năm sau cái thời điểm mà Hồ Chí Minh tự diễn tả mình được toàn dân coi là Cha già dân tộc, thực tế đã nói lên một cách cụ thể thái độ của người dân đối với Hồ Chí Minh bằng sự trạng hơn một triệu người bỏ xóm làng, sản nghiệp ra đi, khi miền Bắc đặt dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh.”
Chẳng có ai, xin lỗi độc giả, viết bậy như Minh Võ. Minh Võ có biết là thành phần, không phải là hơn một triệu, mà là gần một triệu, của số người di cư từ Bắc vào Nam là như thế nào không. Hãy đọc Bernard Fall trong “The Two Viet-nams”, trang 154:
“Trong số 860000 người chạy vào Nam, 600000 người là tín đồ Công Giáo. Tuy 65% trên tổng số người Công giáo (ở ngoài Bắc) bỏ Bắc Việt Nam, hơn 99.5 % những người không Công Giáo ở lại.”
(Of the 860000 who fled South at this time, 600000 were Catholics. Although 65 percent of the total Catholic population left North Viet-Nam, more than 99.5 percent of the non-Catholics stayed put.)
Tại sao tỷ lệ những người Công Giáo chạy vào Nam lại cao như vậy? Fall giải thích:
“Những khẩu hiệu và truyền đơn tuyên truyền kêu gọi những tín đồ Công Giáo sùng tín là “Chúa đã đi vào Nam” và “Đức Mẹ Mary đã bỏ miền Bắc”; cho nên, toàn thể các xứ đạo – thí dụ như Bùi Chu và Phát Diệm – từ những ông giám mục cho đến hầu như ông linh mục cuối cùng trong làng và giáo dân đã gói ghém mọi đồ đạc [để đi theo Chúa và Đức Mẹ]”
(Propaganda slogans and leaflets appealed to the devout Catholics with such themes as “Christ has gone to the South” and the Virgin Mary has departed from the North”; and whole bishoprics – Bui Chu and Phat Diem, for example, packed up lock, stock, and barrel, from the bishops to almost the last village priest and faithful.)
Chúng ta cũng không nên quên rằng Bùi Chu, Phát Diệm là những khu “Công giáo tự trị”, đã nhận lãnh vũ khí của Pháp để chống Việt Minh. Vậy chính cái mặc cảm phản bội dân tộc cộng với trình độ quá thấp đến độ bị mấy tên xảo quyệt như Lansdale và “bề trên” tuyên truyền láo: “Chúa đã đi vào Nam” và “Đức Mẹ Mary đã bỏ miền Bắc”, một sự sự mê tín mà Linh Mục Trần Tam Tĩnh phải lắc đầu kêu trời trong cuốn “Thập Giá và Lưỡi Gươm” đã khiến cho số người Công Giáo trên di cư vào Nam. Phần còn lại là công chức, quân nhân trong quân đội liên hiệp Pháp. Còn tỷ lệ những người dân thường không đáng kể. Ông Minh Võ dốt sử nên không hiểu rằng cuộc di cư của số người Công Giáo này thực ra là có lợi cho chính quyền miền Bắc: có thêm ruộng đất để chia cho nông dân nghèo, và đỡ đi phần nào của mối lo về một số người thuộc một thế lực “đã phi dân tộc thì thể nào cũng phản bội dân tộc.” ở lại miền Bắc.
Viết bài này, tôi không có ý biện hộ hay bênh vực ông Hồ Chí Minh trước cuộc “thánh chiến chống Cộng” ở hải ngoại, mà chỉ viết theo sự hiểu biết của mình qua sự tổng hợp một số tài liệu. Lịch sử đã rõ ràng, không ai cần đến tôi làm việc này. Nhưng thấy trình độ và những thủ đoạn hạ bệ ông Hồ Minh Võ cũng như của một số đồng bọn ở đây thấp kém và ấu trĩ quá, mà lại cứ thích viết bậy, có những hành động làm nhục lây cả những người Quốc Gia như tôi, nên tôi buộc lòng phải viết lên vài điều để cảnh tỉnh những người muốn dùng những thủ đoạn xuyên tạc lịch sử cho những mục đích chính trị của mình. Viết về ông Hồ, chúng ta không thể chỉ kể ra những chi tiết lặt vặt trong đời tư của ông mà phải nhìn vấn đề trên bình diện rộng hơn. Ít nhất là phải phân tích những hoạt động của ông ở ngoại quốc trước khi ông biết đến chủ thuyết Mác-Lênin, ở Hội Nghị Hòa Bình Versailles, ở các Hội Nghị Quốc Tế, phải đọc những bài ông Hồ Chí Minh, dưới tên Nguyễn Ái Quốc, viết trên những tờ L’Humanité, La Vie Ouvrière, Le Paria v..v.., nội dung ra sao, ông đã thành lập và tổ chức Việt Minh từ bao giờ, để làm gì, đã có những hoạt động chống Nhật và Pháp như thế nào, và sau cùng, đường lối chính trị của ông sau 1945 cho đến khi ông qua đời v..v.. thì mới có thể đánh giá đúng ông Hồ được.
Vài lời cuối với ông Minh Võ và những người có ý định phá bỏ “thần tượng Hồ Chí Minh” như ông Minh Võ: Cái di sản mà ông Hồ Chí Minh để lại cho người dân Việt Nam là một nước Việt Nam độc lập và thống nhất. Lẽ dĩ nhiên đây không phải là công của mình ông Hồ mà là của toàn dân, ít ra là của đại đa số người Việt đã coi ông Hồ như là biểu tượng truyền thống yêu nước của người Việt Nam, do đó đã không ngại mọi hi sinh để đạt thành. Nhưng quan trọng hơn là thế giới đã biết nhiều hơn về Việt Nam và không còn dám coi thường Việt Nam tuy Việt Nam vẫn còn là một nước tương đối nghèo và kém phát triển. Xin đừng có coi thường độc giả. Đừng có hi vọng họ tin tất cả những điều mình viết. Ngay cả giới trẻ ngày nay cũng sáng suốt lắm. Họ không để cho bị bịp bởi những luận điệu vô căn cứ, thuần túy viết theo thiên kiến và cảm tính đâu. Dù thế nào đi chăng nữa thì đối với thế giới và đại đa số người dân Việt Nam, đúng như Jules Archer đã viết:
“Khi những trang sách về cuộc đời của ông được cân nhắc, và hòa bình sau cùng tái lập trên đất nước thê thảm của Việt Nam, ông Hồ Chí Minh sẽ vĩnh viễn được các nông dân đã từng yêu kính và đứng sau lưng ông, coi ông như là một người Việt Nam vĩ đại nhất trong của lịch sử của họ - người “Bác” kính ngưỡng của nước ông.”
“Cộng Sản hay không, ông Hồ Chí Minh cũng sẽ đi vào lịch sử như là một người Việt Nam yêu nước vĩ đại, là một trong những khuôn mặt phi thường của thế giới trong thế kỷ này.”
TRẦN CHUNG NGỌC
(Đọc thêm: http://www.giaodiem.com/doithoaiII/hagiang-hochiminh.htm)
COMPILED BY TRAN HO DUNG . SAIGON-VIETNAM .2009 .
9/9/09
Trần Chung Ngọc : VÀI NÉT VỀ " CỤ HỒ "
VÀI NÉT VỀ “CỤ HỒ”
Trần Chung Ngọc
PHẦN 1
Viết về một nhân vật có tầm vóc quốc tế như Hồ Chí Minh có thể nói là không dễ. Đối với những người thuộc giới Chống Cộng Cực Đoan [CCCĐ] hay Chống Cộng Cho Chúa [CCCC], viết theo cảm tính thù hận Quốc Gia chống Cộng, hay Công Giáo chống Cộng, trong khi thực sự không hiểu, không biết gì về Hồ Chí Minh thì rất dễ, vì muốn viết sao cũng được. Đưa ra những chi tiết lặt vặt, cộng với xuyên tạc, dựng đứng v..v.. nhằm “ám sát tư cách cá nhân” (character assassination), bằng những từ tục tĩu, hạ cấp v..v.. cho hả lòng thù hận, thì có lẽ ai viết cũng được, không cần đến trí tuệ, không cần đến kiến thức, không cần đến trình độ, và không cần đến liêm sỉ. Thảm thay, hiện tượng này chúng ta thường thấy xảy ra trong vài khu rừng diễn đàn truyền thông hải ngoại, nơi đây một thiểu số người Việt có vẻ như không có mấy trình độ văn hóa, giáo dục thường lên tiếng. Nhưng viết cho đúng với nhân cách, khả năng, tư tưởng và con người của Hồ Chí Minh thì quả thật là khó, vì điều này đòi hỏi trước hết là một sự lương thiện trí thức, một sự hiểu biết đứng đắn về cuộc đời của ông Hồ, và nhất là, về ông đã làm gì cho đất nước Việt Nam.
Riêng đối với tôi, viết về ông Hồ lại càng khó hơn, vì xuất thân từ Trường Sĩ Quan Trừ Bị Nam Định, đã cầm súng chống Cộng trong thời gian 8 năm rưỡi, khoảng thời gian tôi ở trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đã đi Mỹ học, và đã về phục vụ trong ngành giáo dục ở miền Nam cho đến ngày chót, đương nhiên tôi đã ở phía Quốc Gia rồi. Nhưng cuộc chiến Quốc – Cộng đã chấm dứt hơn 30 năm rồi, bây giờ còn nói đến chuyện Quốc – Cộng có phải là ngớ ngẩn không? Thời gian chỉ trôi có một chiều, một thế hệ già nua như chúng tôi đang lần lượt rủ nhau đi vào dĩ vãng để nhường chỗ cho một thế hệ trẻ hơn, đầy nhiệt huyết, với những kiến thức thời đại, biết thế nào là con đường quốc gia, dân tộc, và dứt khoát từ chối, không để cho đầu óc bị ô nhiễm bởi những thù hận của lớp trước, dù các bậc cha anh vô trí có muốn truyền lại. Với tâm cảnh như trên, vậy tôi phải viết về ông Hồ ra sao? Viết theo sự hiểu biết giới hạn của mình thì rất có thể “sai đường lối của một số người đang tham gia cuộc “thánh chiến chống Cộng”” và phải đội thêm vài cái nón cối nữa. Nhưng chẳng sao, tôi ở xứ lạnh, mùa Đông sắp đến, càng ấm đầu.
Được đào tạo trong ngành Khoa Học Vật Lý, đối với tôi, sự lương thiện trí thức phải để lên hàng đầu, và phương pháp khảo cứu mọi vấn đề phải cẩn trọng, không để cho tình cảm thiên kiến lôi cuốn, tuy tôi tự biết, vì không có cái mặc cảm của Thượng đế (God complex), nên tôi không thể tránh khỏi có đôi chút thiên kiến khi viết về lịch sử. Một người nào đó đã chẳng từng nói: “Người nào viết sử mà không có đôi chút thiên kiến chắc phải có cái mặc cảm mình là Thượng đế (hay mặc cảm của Thượng đế) [Those who write about history without bias must have a God complex]. Để giảm thiểu thiên kiến, phương pháp khảo cứu của tôi là đọc nhiều sách về cùng một vấn đề, rồi từ đó kiếm ra một mẫu số chung. Điều này chưa hẳn là tuyệt đối đúng, nhưng ít ra cũng không xa sự thực là bao nhiêu.
Riêng về ông Hồ, đọc những tài liệu của giới CCCĐ hay CCCC ở hải ngoại thì cũng như không đọc, vì không biết thêm được điều gì mới lạ, ngoài những cường điệu chứng tỏ trình độ thấp kém về lịch sử của người viết. Còn dùng những tài liệu trong nước, phải gội đầu sẵn để đội thêm vài cái mũ của những kẻ không hề biết lý luận, không có khả năng thảo luận trí thức. Không phải là trong những tài liệu thuộc cả hai phe “Quốc-Cộng” này không có những chi tiết đúng, nhưng những chi tiết này chúng ta cũng có thể tìm thấy trong kho tàng tài liệu ngày nay trên thế giới, từ tác phẩm của những nhà nghiên cứu trong môi trường đại học, các chính khách, cựu tướng lãnh v..v…, và từ các tài liệu có trong các văn khố của một số quốc gia. Vậy thì tốt hơn hết là đi tìm tài liệu không thuộc hai phe Quốc, Cộng.
Bài viết này không có mục đích viết tất cả về ông Hồ Chí Minh, tôi không có khả năng như vậy. Nhân đọc loạt bài ông Minh Võ phê bình cuốn “Ho Chi Minh, A Life” của William J. Duiker cùng đọc bài khảo cứu, có thể nói là một bài giáo khoa của giáo sư Sử học Nguyễn Mạnh Quang, về những vị lãnh đạo Việt Nam trong thời cận đại như Hồ Chí Minh, Bảo Đại, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, đăng trên giaodiemonline.com tháng 11, 2006, tôi chỉ muốn bổ túc và thu hẹp trên một vài khía cạnh về ông Hồ Chí Minh: vị thế của ông Hồ Chí Minh trên chính trường quốc tế, trong lòng dân tộc Việt Nam, và nhất là, phải chăng ông là người Cộng sản cực đoan, tay sai của Nga Sô và Trung Cộng như một số người chống Cộng cực đoan ở hải ngoại, điển hình là ông Minh Võ, thường rêu rao. Còn những con cờ Bảo Đại, Ngô Đình Diệm, và Nguyễn Văn Thiệu của Pháp và Mỹ thì có lẽ không cần phải nhắc tới. Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang đã viết quá đủ về những nhân vật này rồi, nhất là về ông “Phán Quan Tây Ban Nha” Ngô Đình Diệm.(Link:
http://www.giaodiemonline.com/nov/chuong18.htm )
Trước khi đi vào những vấn đề này, tôi có một nhận xét tổng quát về những luận điệu xuyên tạc, đả kích ông Hồ Chí Minh của một số người có vẻ như không có mấy trình độ. Không có gì ngu xuẩn hơn là so sánh ông Hồ với Hitler. Những người này hầu như không hề biết gì đến dư luận thế giới, nhất là trong các nước tiến bộ Âu Mỹ, đã nhận định về ông Hồ Chí Minh như thế nào. Hãy vào Internet đánh tên Ho Chi Minh thì sẽ thấy Thế giới đánh giá Hồ Chí Minh như thế nào. Hay hãy đọc những cuốn sách về chiến tranh Việt Nam của các học giả, tướng lãnh Mỹ, và ngay cả hai cuốn In Retrospect và Argument Without End của cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert McNamara. Phần nhận định tích cực về Hồ Chí Minh tràn ngập so với phần tiêu cực thưa thớt của một số người Việt hải ngoại mà tên tuổi không đáng kể, và chỉ như những con đom đóm lập lòe trên vài diễn đàn điện tử ít có giá trị trí thức của đám người Việt còn mang nặng lòng hận thù Quốc-Cộng, chống Cộng cuối mùa, chống Cộng khi đã không còn Cộng..
Và những người muốn hạ bệ Hồ Chí Minh để vinh danh “chí sĩ” Ngô Đình Diệm của họ nhân dịp 1/11 thì hãy kiếm đọc cuốn “Những Bạo Chúa, 100 Tên Chuyên Quyền và Độc Tài Ác Nhất Trong Lịch Sử” (Tyrants, History’s 100 Most Evil Despots and Dictators) của Nigel Cawthorne, Barnes & Noble, NY, 2004, trong đó chúng ta có thể thấy những tên quen thuộc như Tần Thủy Hoàng, Võ Hậu, Từ Hi, Richard III, Mary I, Ceasar Borgia v..v.. và trong thời cận đại: Hitler, Mao Trạch Đông, Stalin, Pol Pot, Sadam Hussein, Kim Jung II, và, lạ lùng thay, có cả tên Ngô Đình Diệm (President of South Vietnam) mà lại không có tên Hồ Chí Minh trong danh sách này. Mỗi tên trong danh sách đều có kèm theo một tiểu sử ngắn và sơ lược những hành động chuyên quyền và độc tài của nhân vật đó. Thế này là thế nào, chẳng có lẽ Nigel Cawthorne cũng như nhiều trí thức Tây phương đều là tay sai của CSVN, hay là những người ngu cả hay sao?
Cách đây sáu năm, năm 2000, sử gia William J. Duiker có xuất bản cuốn “Ho Chi Minh, A Life”. Cuốn này được giới trí thức, học giả Âu Mỹ đánh giá khá cao và cho rằng đó là một cuốn nghiên cứu sâu rộng nhất về con người và sự nghiệp của ông Hồ Chí Minh. Đọc Duiker và phối kiểm với những đoạn viết về ông Hồ của nhiều tác giả khác trong thế giới Tây phương, chúng ta có thể rút tỉa ra những điều không xa với sự thật là bao nhiêu.
Trước hết, quốc tế đối với ông Hồ ra sao? Tôi xin được nhắc lại một đoạn trong bài của Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang mà giáo sư đã trích dẫn từ cuốn “Ho Chi Minh” của William J. Duiker:
“Khi tin tức về cái chết của ông Hồ Chí Minh được loan truyền thì khắp địa cầu đưa ra nhận xét về ông. Hà Nội nhận được tới hơn hai mươi hai ngàn (22000) bức điện tín từ các thủ đô lớn của 121 quốc gia trên thế giới để bày tỏ lời ca ngợi ông và chia buồn với nhân dân Việt Nam. Một số các nước theo chủ nghĩa xã hội tổ chức buổi lễ truy điệu ông và đưa ra những lời ca tụng ông. Thủ đô Mạc Tư Khoa chính thức ca tụng ông như là “người con vĩ đại của dân tộc anh hùng Việt Nam, một người lãnh đạo xuất sắc của phong trào giải phóng dân tộc và cộng sản quốc tế, và là người bạn vĩ đại của Liên Bang Sô Viết.” Các nước trong Thế Giới Thứ Ba (các nước trung lập) cũng nhận xét về ông với những lời ca tụng ông như là một người bảo vệ những người bị áp bức. Một bài báo phát hành ở Ấn Độ mô tả ông như là tinh túy của “dân tộc và là hiện thân của lòng khát vọng tự do, của sự tranh đấu bền bỉ.” Những bài báo khác đề cao đức tính giản dị và thẳng thắn của ông. Một bài xã luận trong một tờ báo ở Uruguay (Nam Mỹ) ghi nhận “Ông có một tấm lòng bao la như vũ trụ và có một tình thương vô bờ bến đối vào các trẻ em. Ông là gương mẫu về đức tính giản dị và thẳng thắn trong tất cả mọi phạm vi.”
Phản ứng từ các thủ đô Tây Phương thì không biểu lộ mạnh mẽ. Tòa Bạch Ốc lặng thinh và các viên chức cao cấp trong chính quyền của Tổng Thống Nixon cũng không bình luận gì cả. Nhưng việc chú ý đến cái chết cúa ông Hồ Chí Minh đối với giới truyền thông trong các nước Tây Phương thật là mãnh liệt. Những tờ báo ủng hộ các phong trào phản chiến có khuynh hướng mô tả ông bằng những lời lẽ ca tụng ông như là một địch thủ xứng đáng và là một người bảo vệ những kẻ yếu, những người lép vế thế cô và những người bị áp bức. Ngay cả những người vẫn thường khăng khăng chống lại chế độ Hà Nội cũng đánh giá ông bằng những lời lẽ kính trọng ông như là một người đã tận hiến cả cuộc đời cho đại cuộc chiến đấu giành độc lập và thống nhất đất nước cho tổ quốc ông, coi ông như là người phát ngôn xuất chúng cho các dân tộc bị bóc lột ở trên thế giới.”
Nguyên văn: (“The news of Ho Chi Minh’ s death was greeted with a outpouring of comment from around the globe. Eulogies flowed in from major world capitals, and Hanoi received more than twenty-two thousand messages from 121 countries offering the Vietnamese people condolences for the death of their leader. A number of socialists states held memorial services of their own and editorial comment were predictable favorable. An official statement from Moscow lauded Ho as a “great son of the heroic Vietnamse people, the outstanding leader of the international Communist and national liberation movement, and a great friend of the Soviet Union.” From the Third World countries came praise for his role as a defender of the oppressed. An article published in India described him as the essence of “the people, the embodiment of the ardent aspiration for freedom, of their endurance and struggle.” Others referred to his simplicity of manner and high moral standing. Remarked an editorial in Uruguayan newspaper: “He had a heart as immense as the universe and in a boundless love for the children. He is a model of simplicity in all fields.”
Reaction from Western capitals was more muted. The White House refrained from comment, and senior Nixon administration officials followed suite. But attention to Ho’s death in the Western news media was intense. Newspapers that supported the antiwar cause tended to describe him in favorable terms as a worthy adversary and a defender of the weak and oppressed. Even those who had admandtly opposed the Hanoi regime accorded him a measure of respect as one who had dedicated himself first and foremost to the independence and unification of his country, as well as a prominent spokeperson for the exploited peoples of the world.”) [Đây là đoạn đầu của Chương cuối: “Epilogue: From Man To Myth” , trang 562. TCN]
Trên đây, Duiker đã viết lại một sự kiện. Sự kiện này, hơn gì hết, đã loại bỏ tất cả những gì mà một số người Việt hải ngoại hay ở trong nước viết tiêu cực theo cảm tính về ông Hồ. Cho nên bất kể những luận điệu nhằm hạ uy tín của ông Hồ đều không thể thuyết phục được ai, ít nhất là trong giới hiểu biết, nhất là những luận điệu này lại thuộc loại hạ cấp, đầy hận thù, vụn vặt, chỉ nhắm vào những tiểu tiết mà không nhìn thấy những mặt to lớn của sự việc, và chỉ có thể lấy được sự đồng tình của một số người nhỏ nhoi thu hẹp trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại..
Có một bài viết về ông Hồ Chí Minh của Wilfred Burchett khá hay: Ho Chi Minh: An Appreciation (pipeline.com). Wilfred Burchett là một ký giả Úc nổi tiếng, đã từng được Ngoại Trưởng Henri Kissinger nhờ làm trung gian liên lạc giữa Mỹ và Hà Nội. Năm 1968, ông đã viết một cuốn có tính cách tiên đoán: “Việt Nam Sẽ Thắng” (Vietnam Will Win) và năm 1977 ông xuất bản cuốn “Châu Chấu Và Voi: Tại Sao [Nam] Việt Nam Sụp Đổ” (Grasshoppers and Elephants: Why Vietnam Fell). Theo tôi, Burchett viết hay, không phải vì tác giả ca tụng ông Hồ, mà tác giả đã viết về những gì đã tạo nên ông Hồ: Không phải thuần túy chỉ là Marx, là Lenin hay Mao Trạch Đông, mà chính là lịch sử 2000 năm chống ngoại xâm của Việt Nam đã tạo nên ông Hồ. Có thể nói, tác giả hiểu Việt Nam hơn rất nhiều người tự cho mình là trí thức. Chúng ta hãy đọc vài đoạn trong bài của Burchett:
“Chính sách của Mỹ là làm cho người Việt Nam cảm thấy mình thuộc một sắc dân thấp kém (racial inferiors), không có quyền về căn cước quốc gia (have no right for national identity). Họ thường bị gọi là “gooks”, “slopes” và “dinks”, và trên những phúc trình chính thức, làng Mỹ Lai trở thành “Thành phố hồng” (Pinkville) [có nghĩa là thành phố CS] và dân làng bị tàn sát chỉ là “những người Á đông” (oriental human beings). [với ý coi thường, miệt thị]
Sự thực là người nông dân Việt Nam nghèo khó nhất, ngay cả thất học, về phương diện văn hóa và đạo đức thường cũng cao hơn người Mỹ (Reality is that the humblest Vietnamese peasant, even illiterate, is usually culturally and morally superior to his American adversary.). Hắn ta biết nhiều hơn về lịch sử đất nước của hắn – không chỉ vì đất nước hắn có vài ngàn năm lịch sử nhiều hơn Mỹ để mà biết đến – mà vì những điều này đã thấm vào trong người hắn từ sữa mẹ (literally absorbs it with his mother’s milk). Ngay từ bé, hắn sống lên trong một môi trường tràn ngập với những câu chuyện về gia tài lịch sử, hoặc được kể ngay khi còn nằm trong lòng mẹ, hoặc qua những màn kịch diễn lại những trang sử oai hùng của 2000 năm lịch sử chống ngoại xâm của những gánh hát di động, hoặc những truyền thuyết về các “thần hoàng làng”, [thường là các anh hùng giúp nước của xóm làng, được nhà Vua sắc phong], hoặc là những câu chuyện về tổ tiên đã bảo vệ non sông như thế nào, hoặc là những chuyện đau khổ của người dân bị đàn áp bởi ngoại nhân nên đòi hỏi một sự đứng lên để chống đối v..v… Sự hiểu biết về 2000 năm tranh đấu chống kẻ xâm lăng có đầy trong dòng máu của người nông dân chân lấm tay bùn nghèo khó nhất. Chỉ một điều này cũng là một nguồn dũng cảm và sức chịu đựng vô tận, một sự tin tưởng vào tương lai và coi thường những kẻ toan tính phá vỡ những đức tính mà những chuyên viên trong cái “hồ tư duy” (think tank) [của Mỹ] không thể hiểu được (The knowledge of two thousand years' struggle against invaders is in the bloodstream of the humblest, mud-stained peasant. This alone is an inexhaustible source of courage and stoicism; of confidence in the future and contempt for those who try to wreck the present-qualities incomprehensible to the "think tank" specialists.).
Ông Hồ Chí Minh là mẫu mực thu nhỏ của tất cả những điều trên. Và đúng là, cũng như một cái gì đó trong mỗi người Việt Nam đều có trong Hồ Chí Minh, một cái gì đó trong Hồ Chí Minh đều có trong hầu hết những người Việt Nam ngày nay, dấu ấn của ông trên dân tộc Việt Nam thật là sâu đậm (Ho Chi Minh epitomizes all this. And just as there was something of every Vietnamese in Ho Chi Minh so there is something of Ho Chi Minh in almost every present-day Vietnamese, so strong is his imprint on the Vietnamese nation.) .
Một vấn đề mà Tổng thống Nixon cũng như các vị tiền nhiệm có thể không lưu ý đến nhưng chắc chắn là dân Việt Nam không thể không biết, đó là Hồ Chí Minh là của toàn thể quốc gia Việt Nam (that Ho Chi Minh belongs to the whole Vietnamese nation.) Không có một lằn danh giới nào ở vĩ tuyến 17 có thể làm cho người dân miền Nam xa lìa Hồ Chí Minh dù rằng thủ đô được đặt ở miền Bắc. Hồ Chí Minh đã được chấp nhận là lãnh tụ và là nguồn cảm hứng cho mọi người Việt Nam – trừ số người đã lần lượt phục vụ những quan thầy Nhật, Pháp, rồi Mỹ. (No line arbitrarily drawn along the 17th parallel could divorce the people of the South from Ho Chi Minh because his capital happened to be on the northern side of the line. Ho Chi Minh was the accepted leader and source of inspiration for all Vietnamese - except the handful who served Japanese, French and American masters in turn.)
Lẽ dĩ nhiên, một số người Việt “Quốc Gia” ở hải ngoại không thể đồng ý với nhận định trên, điều này có lẽ cũng không lấy gì làm khó hiểu. Nhưng trên phương diện nghiên cứu trí thức, một câu hỏi cần được đặt ra: có bao nhiêu phần đúng trong nhận định của Burchett? Nếu chúng ta thuộc lịch sử Việt Nam, nếu chúng ta biết đến những truyền thống trong xã hội làng mạc Việt Nam, nếu chúng ta để tâm nghiên cứu về hai cuộc chiến ở Việt Nam, với Pháp rồi với Mỹ, thì có lẽ chúng ta không cần đặt ra câu hỏi trên.
Vấn đề tiếp theo tôi muốn nói đến là: ông Hồ Chí Minh là con người Cộng Sản như thế nào? Chúng ta biết rằng, ông Hồ Chí Minh chưa bao giờ phủ nhận mình là người Cộng Sản và đã từng khẳng định là Lenin đã gây cảm hứng cho ông trong công cuộc giành lại độc lập cho đất nước. Nhưng muốn hiểu ông Hồ là người Cộng sản như thế nào, có lẽ chúng ta nên biết đến quan niệm của một số trí thức ngoại quốc, những người thường ở trong môi trường đại học, đặt sự tôn trọng sự lương thiện trí thức lên hàng đầu, và vì chính uy tín của họ, nên không thể viết theo cảm tính mà không nghiên cứu kỹ vấn đề, hay tự hạ mình rơi vào vòng tranh chấp Quốc-Cộng mà họ không thuộc phe nào và không có lý do gì để ủng hộ hay chống đối một phe nào..
Chúng ta hãy đọc vài đoạn trong bài của Stanley I. Kutler điểm cuốn “Ho Chi Minh, A Life”, Kutler là tác giả cuốn "The Wars of Watergate" và là chủ biên của "The Encyclopedia of the Vietnam War." . Stanley Kutler cho rằng trong tác phẩm của mình, Duiker đã viết về một nhà cách mạng ái quốc gần với Thomas Jefferson hơn là với V. I. Lenin [A patriot closer to Thomas Jefferson than to V.I. Lenin]. (Điều này, không phải chỉ có mình Duiker mới nhận định như trên, mà một số tác giả Mỹ khác cũng có cùng một nhận định như vậy. TCN)
Trước hết, Kutler cho rằng chế độ thực dân đã cáo chung một thế kỷ nay rồi và vai trò của ông Hồ đã đi vào quá khứ. Ngày nay, Việt Nam là một phần của nền kinh tế toàn cầu, có nghĩa là có những liên doanh mang lại lợi nhuận cho chính phủ, cho một số viên chức được ưu đãi, và cho những công ty Tây phương. Nhưng Kutler ghi nhận là:
“Tuy nhiên, thế giới có một bộ mặt khác vì ông Hồ, và những người như ông, những người đã lo lắng, chiến đấu và hi sinh để giải phóng quốc gia của họ thoát khỏi sự sỉ nhục và gông cùm của sự chuyên chế bạo ngược ngoại quốc.” (Nevertheless, the world is a different place because of Ho, and others like him, who agitated, fought and died to liberate their lands from the stigma and yoke of foreign tyranny.)
Sau đó Kutler viết: “Duiker đã đi quá sự tranh luận đơn giản trong thời Chiến Tranh Lạnh về vấn đề ông Hồ là người Cộng sản theo chính thống Mác-Lênin hay là một nhà ái quốc quốc gia, hiến thân cho cuộc giải phóng và thống nhất đất nước?” (Duiker has moved beyond the simplistic Cold War debate of whether Ho was a dedicated Communist, beholden to Marxist-Leninist orthodoxy, or whether he was a patriot and a nationalist, dedicated to freeing and uniting his country.) “Duiker đã nhận định đúng, Hồ Chí Minh có căn rễ sâu đậm trong phong trào Cộng sản quốc tế, nhưng ông luôn luôn là một người quốc gia đã mang lại sự lãnh đạo, viễn kiến và sự cương quyết hiến thân cho nguyên lý dân tộc tự quyết “ (Duiker rightly notes that Ho had deep roots in the international Communist movement; but he was a constant nationalist who provided leadership, vision and a firm commitment to the principle of self-determination.)…
“Ông Hồ không hề nao núng khi dùng chủ nghĩa Cộng Sản cho những mục đích quốc gia. Lời tuyên bố của ông: “các dân ở Đông Dương vẫn sống và sẽ còn sống mãi” khó mà phù hợp với chủ nghĩa Mác. Duiker nhấn mạnh là, đối với ông Hồ, độc lập quốc gia bao giờ cũng là mục tiêu chủ yếu, trong khi chủ thuyết về một cộng sản không tưởng vẫn là một vấn đề mơ hồ, bất định cho tương lai” [Ho unabashedly used communism for his own nationalist ends. His statement that "the peoples of Indochina still live and will live forever" is hardly compatible with Marxism. Duiker insists that for Ho, national independence always was the primary goal, while the doctrine of a communist utopia remained a vague, indefinite matter for the future.] Duiker cũng nhắc lại cho chúng ta là rất tiếc vì những nhận định hời hợt về cuộc Chiến Tranh Lạnh mà Paris và rồi Washington đã thất bại không nắm lấy tay ông Hồ, để đưa đến những hậu quả sâu đậm cho người Việt Nam và cho thế giới (Duiker painfully reminds us that external Cold War considerations led to the failure of Paris and then Washington to grasp Ho's hand, resulting in profound consequences for the Vietnamese people and the world.)
Lẽ dĩ nhiên, cuốn “Ho Chi Minh, A Life” của Duiker không làm những người mang nặng lòng hận thù Cộng Sản hài lòng, và họ đã lên tiếng chê sử gia Duiker cũng như tất cả các tác giả Âu Mỹ viết về ông Hồ mà không đúng ý họ là ngu dốt, là những người ngoại quốc, đâu có biết gì về ông Hồ bằng người Việt Nam. Chỉ có những người vô tên tuổi, vô văn hóa, và chẳng biết gì mấy về Việt Nam như họ mới có thể biết rõ về ông Hồ, dù rất có thể họ chưa bao giờ thấy mặt ông Hồ, và chỉ biết ông Hồ qua những luận điệu tuyên truyền chống Cộng ở hải ngoại và qua vài chi tiết lặt vặt trong những tác phẩm của những người sau này chống Đảng như Vũ Thư Hiên, Bùi Ngọc Tấn, Bùi Tín, Nguyễn Minh Cần v..v.... Điển hình cho loại người này trên Internet là Minh Võ, một người rất năng nổ trong chiến dịch “No Hồ” ở hải ngoại, viết trên diễn đàn điện tử Đàn Chim Việt, một diễn đàn có vẻ như là nơi để cho một số người nhân danh tự do ngôn luận vào đó chửi lộn. Minh Võ đang cố gắng phá đổ cái mà ông ta gọi là “thần tượng Hồ Chí Minh”, dù rằng chẳng có ai coi ông Hồ là thần tượng, vì hầu như mọi người dân trong nước đều coi ông Hồ đơn giản là “Bác Hồ”. Nhưng trình độ hiểu biết, khả năng lý luận, và thủ đoạn bịa đặt sự kiện của ông Minh Võ không cho phép ông ta đạt được mục đích, cho nên những điều ông ta phê bình Duiker cũng như những điều ông ấy viết về ông Hồ không có mấy giá trị trí thức, để lộ rõ một kiến thức kém cỏi và viết với một tâm trạng thù hận và thiếu sự lương thiện trí thức trong đó. Điều này chúng ta có thể chứng minh rất dễ dàng, nhưng tôi để cho phần sau.
Trước hết chúng ta hãy đọc thêm vài tài liệu về ông Hồ:
Trong tờ “Les Collections de L’Histoire”, số 23, Avril-Juin 2004, một tuyển tập về “Indochine Vietnam: Colonisation, Guerres et Communisme” có bài “Con Người Trở Thành Hồ Chí Minh” [L’Homme Qui Devint Ho Chi Minh] của Pierre Brocheux, Giáo sư Diễn Giảng Danh Dự tại Đại Học Denis-Diderot, Paris-VII. Chúng ta sẽ thấy trong đó có vài chi tiết chứng tỏ ngay cả Nga và Tàu cũng không tin tưởng ông Hồ Chí Minh là người Cộng Sản chính thống (orthodox communist). Giáo sư Brocheux viết, trang 33:
Đối với Quốc (Nguyễn Ái Quốc), chủ thuyết Mác Lênin đã đưa lên những phương tiện hành động, như là ông ta đã giảng giải nhiều năm sau: “Chúng ta phải hiểu rằng giật độc lập ra khỏi tay một cường quốc như Pháp là một nhiệm vụ rất khó khăn mà người ta không thể hoàn thành mà không có một sự ngoại viện, không cần thiết phải là một sự viện trợ vũ khí mà dưới dạng cố vấn và tiếp xúc. Chúng ta không lấy lại được độc lập bằng cách ném bom hay bằng những hành động tương tự. Đó là sự sai lầm của những nhà cách mạng lúc đầu đã phạm phải [Có lẽ ông Hồ muốn nói đến cuộc ám sát thất bại của Phạm Hồng Thái đối với Toàn Quyền Merlin]. Chúng ta lấy lại độc lập bằng sự tổ chức và tự khép mình vào kỷ luật. Chúng ta cũng còn cần đến một lòng tin, một phúc âm, một sự phân tích thực tiễn, có thể nói đến như là một thánh kinh. Chủ thuyết Mác-Lênin đã cung cấp cho tôi đường lối hành động này.”
(Pour Quoc, le marxisme-léninisme offre des moyens d’action, comme il l’a expliqué des années plus tard: “Vous devez comprendre qu’arracher l’indépendance à une puissance comme la France est une tâche formidable qu’on ne peut accomplir sans une aide extérieure et pas nécessairement une aide en armes mais sous la forme de conseils et de contacts. On ne gagne pas l’indépendance en jetant des bombes et par des actes de ce type. Ce fut l’erreur que les premiers révolutinaires commirent. On gagne l’indépendance en s’organisant et en se diciplinant. On a aussi besoin d’une foi, d’un évangile, d’une analyse pratique, on peut même parler d’une bible. Le marxisme-léninisme m’a fourni cette panoplie.)
Thực ra thì có lẽ ông Hồ muốn nói đến Những Luận Đề Về Những Vấn Đề Quốc Gia Và Thuộc Địa (Theses on The National and The Colonial Questions) của Lê-nin đưa lên trong Đại Hội II Cộng Sản Quốc Tế (Second Congress of the Communist International) vào năm 1920 để nghị thảo mà ông biết đến trong Đệ Tam Quốc tế. Chúng ta đã biết, chính ông Hồ Chí Minh đã thành thực công nhận là mới đầu ông không hiểu hết những từ và ý tưởng chính trị khó khăn trong bản văn trên, nhưng rồi đọc đi đọc lại ông mới thấm và hiểu rõ, và ý thức được là những luận đề này đã giúp cho ông ta thấy con đường thích hợp nhất để cứu nước, giải phóng dân tộc khỏi ách thuộc địa, thực dân. Và ông Hồ đã thành công.
Chúng ta hãy đọc tiếp vài đoạn khác của Giáo sư Brocheux. Trước hết là một tài liệu trích dẫn từ một tài liệu trong văn khố của Nga Sô, mới được sử gia Alain Ruscio phổ biến năm 1990, trang 34-36:
“Năm 1934, Ông Hồ trở lại Moscou. Stalin đã nắm chắc quyền lực, và những cuộc thanh trừng lớn bắt đầu năm 1937. Có vẻ như con người Hồ Chí Minh tương lai là nạn nhân, vì từ ngày trở lại Moscou, ông ta không được tin cậy để giao phó cho một trách nhiệm nào. Không còn nghi ngờ gì nữa người ta đã trách cứ là ông ta ngả về tinh thần quốc gia trong cuộc chiến đấu chống thực dân thay vì tinh thần cách mạng vô sản quốc tế.”
(En 1934, il est de retour à Moscou. Staline raffermit son pouvoir, les grandes purges vont débuter en 1937. Il apparait avec certitude que le futur Ho Chi Minh faillit en être victime car, depuis son retour, il ne s’est vu confier aucune responsabilité. Sans doute lui reproche-t’on de préférer le nationalisme qui sous-tend le combat anti-colonial à l’internationalisme de la révolution prolatérienne.)
“Về vấn đề này, ông Hồ đã bày tỏ quan điểm của mình từ năm 1924.. Được huấn luyện về cách mạng và chủ thuyết Marx bởi Tây phương, tuy nhiên Quốc đã nhìn theo đặc tính Á Đông: “Cuộc đấu tranh giai cấp ở Đông phương không giống như ở Tây phương. Marx đã xây dựng lý thuyết của mình trên một căn bản triết lý nào đó của lịch sử. Nhưng là lịch sử nào? Đó là lịch sử Âu Châu. Nhưng Âu Châu là gì? Không phải là tất cả nhân loại.”
(À ce sujet, il a expliqué son point de vue dès 1924… Éduqué par l’Occident à la révolution et au marxisme, Quoc est pourtant persuadé, de la spécifícité de l’Orient: “ La lutte de classes ne se manifeste pas en Indochine comme en Occident.” ; Marx a bâti sa doctrine sur une certaine philosophie de l’histoire. Mais quelle histoire? Celle de l’Europe. Mais qu’est ce que l’Europe? Ce n’est pas toute l’humanité).
“Hồ Chí Minh có thực sự là mgười Mác-xít không? Hay ông ta chỉ là người Quốc Gia sau lớp sơn đỏ, như một thành viên Cộng Sản Quốc Tế, ông M. N. Roy, người Ấn Độ, đã nói? Vấn đề này đáng được đặt ra.. Nếu chắc chắn là ông ta đã đọc bản Tuyên Ngôn của Đảng Cộng Sản, nếu đã nhiều lần ông ta nói là chịu ảnh hưởng trí thức và chính trị của Lê-nin, thì sự gắn bó của ông với chủ nghĩa Mác không bao giờ có tính cách giáo điều.“
(Ho Chi Minh était-il vraiment marxiste? Ou n’était-il qu’un “nationaliste peint en rouge”, comme l’a dit un membre du Komintern, l’Indien M.N. Roy? La question mérite đêtre posée… S’il a certainement lu le Manifeste du Parti Communiste, s’il dit maintes reprises sa dette intellectuelle et politique envers Lénine, son adhésion au Marxisme ne fut, pour autant, jamais dogmatique.)
“Năm 1963, người Cộng Sản Lưu Thiếu Kỳ đã phác họa một hình ảnh chính trị của ông Hồ, nếu đúng, cho thấy một vị thế không thoải mái [của ông Hồ] đưa đến một sự gắn bó đôi đàng với lòng yêu nước chấp nhận thỏa hiệp, và chủ nghĩa xã hội độc quyền: “Hồ luôn luôn là người hữu khuynh.. Khi chiến tranh Đông Dương chấm dứt, ông ta không thể quyết định là thiết lập một chế độ tư bản hay một chế độ theo xã hội chủ nghĩa. Chúng tôi đã quyết định cho ông ta.””
(Le communist Chinois Liu Shaoqi esquisse en 1963 un portrait politique de Ho qui, s’il est exact, indique la position inconfortable qui résulte d’une double adhésion au patriotisme consensuel et au socialisme exclusif: “Ho a toujours été un droitiste.. Lorsque la guerre d’Indochine prit fin, il ne put se décider à choisir d’instaurer soit un régime capitaliste soit un régime socialiste. Ce fut nous qui décidâmes pour lui.”)
“Không có gì minh họa rõ hơn sự tương phản giữa Hồ Chí Minh và những người lãnh đạo cộng sản là những trao đổi quan niệm của Mao Trạch Đông và Lưu Thiếu Kỳ với ông Hồ Chí Minh vào năm 1960. Ông Hồ đã tuyên bố rằng ngay cả việc giết kẻ thù cũng không được đạo đức; Mao đã trả lời ông ta: “Tưởng Giới Thạch giết, tôi giết, đó không phải là một vấn đề đạo đức. Và Lưu Thiếu Kỳ thêm vào là viện đến đạo đức khi ta phải đối phó với những tên tư bản chống cách mạng là không thích đáng .”
(Rien n’illustre mieux le contraste entre Ho Chi Minh et d’autres dirigeants communistes que les propos que Mao Zedong et Liu Shaoqi tinrent à Ho Chi Minh en 1960. Ho avait déclaré qu’il n’était pas moral de tuer même ses adversaires; Mao lui répliqua: “Chiang Kaishek tue, je tue, ce n’est pas une question de morale.” Et Liu Shaoqi de renchérir qu’il n’était pas pertinent d’invoquer la morale lorsqu’on avait affaire aux contre-révolutionnaires capitalistes.)
Trong cuốn “The Vietnam War Almanac, General Editor: John S. Bowman, Barnes & Noble Books, NY, 2005”, trang 493, cũng có viết:
“Ông Hồ ít quan tâm đến những chi tiết tế nhị của chủ thuyết Mao và Lê-nin; thiên tài của ông ta là về hành động chính trị, và lý tưởng của ông ta có thể khá co dãn chừng nào mà nó đưa tới mục đích đã ám ảnh ông ta: nền độc lập và thống nhất của Việt Nam.” (Ho was less concerned with niceties of doctrine than Mao and Lenin; his genius was for political action, and his ideology was capable of considerable stretching as long as it tended toward the purpose that obsessed him: the independence and unification of Vietnam.)
Trong cuốn Cracks In The Empire, South End Press, Boston, 1981, Paul Joseph, Giáo sư xã hội học, đại học Tufts, viết, trang 83:
“Dù rằng thiếu bằng chứng, Washington tiếp tục cho rằng cuộc đấu tranh chống Pháp (ở Việt Nam) là do sự hứng khởi và chỉ đạo từ Liên Bang Sô Viết. Thí dụ, trong bức công điện gửi cho Thủ Tướng (Pháp) Ramadier, đại sứ Mỹ vẫn sai lầm cho rằng Việt Minh là một phong trào mà “triết lý và tổ chức chính trị đều phát khởi từ và bị kiểm soát bởi điện Kremlin. Tuy vậy tình báo Mỹ đã cố gắng, và thất bại, để kiếm ra bằng chứng là có mối liên hệ kiểm soát giữa Moscou và Hồ Chí Minh. Một công điện của Bộ ngoại giao gửi cho đại sứ Mỹ ở Trung Quốc viết “Bộ không có bằng chứng nào về sự nối kết trực tiếp giữa ông Hồ và Moscou nhưng cho rằng có.”
(Despite a lack of evidence,Washington continued to perceive the anti-French struggle (in Vietnam) as something inspired and directed from the Soviet Union. For example, in the cable to Premier Ramadier cited above, the American embassador falsely maintained that the Vietminh was a movement whose “philosophy and political organization emanated from and was controlled by the Kremlin.” Yet American intelligence had tried, and failed, to substantiate the existence of controlling ties between Moscou and Ho Chi Minh. A State Department cable to the US Ambassador in China read “the Department has no evidence of a direct link between Ho and Moscou but assumes it exists..)
Marilyn B. Young, trong cuốn The Vietnam Wars: 1945-1990, HarperPerennial, New York, 1991, viết, trang 4:
“Trong vài năm tới, những văn bản Hồ Chí Minh viết bị tố cáo vì những “mùi hôi quốc gia” trong đó, và sự ủng hộ của ông Hồ về một liên minh rộng rãi bao gồm cả các địa chủ cỡ nhỏ và trung bình, miễn là họ yêu nước, bị đả kích là kẻ xét lại và là kẻ hợp tác (với kẻ thù). Phải mười năm sau sự tranh luận đắng cay về mối liên hệ giữa cách mạng quốc gia và cách mạng xã hội mới được giải quyết, theo đường lối lúc đầu đưa ra bởi ông Hồ, sự thành lập Việt Minh (Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội.”
(Over the next few years, Ho Chi Minh’s writings were denounced for their “nationalist stench”, and his support for a broad alliance that could include even small and medium landowners, provided they were patriotic, was attacked as reformist and collaborationist. A decade would pass before this bitter debate on the relationship between national and social revolution was resolved, along the lines initially by Ho, in the formation of the Viet Minh.)
Trên đây chỉ là vài tài liệu trong số hàng trăm tài liệu khác có những nhận định tương tự rải rác trong những cuốn sách mà tôi đã đọc. Lẽ dĩ nhiên, tôi không thể nào trích dẫn tất cả những nhận định ấy trong phạm vi một bài viết như thế này. Điều này đòi hỏi nhiều thời gian và thích hợp trong một cuốn sách viết ông Hồ hơn. Nhưng qua những tài liệu trên, chúng ta có thể thấy rằng ông Hồ không phải là tay sai của Nga và Tàu như một số người có đầu mà không có óc cố tình lên án ông ta là tay sai của Đệ Tam Quốc Tế, hay tệ hơn nữa là “điệp viên của Cộng Sản Quốc tế” [Minh Võ]. Họ không hề biết chính trị của ông Hồ giữa Nga và Tàu, đã khôn khéo từ chối không nhận đề nghị của Nga cũng như Tàu gửi quân tình nguyện vào đánh giúp. Chúng ta hãy đọc một đoạn trong cuốn Ho Chi Minh của Jules Archer, Chương 9: “Giữa Con Gấu Nga Và Con Rồng Tàu” (Between Russian Bear and Chinese Dragon), trang 109:
“Đến Bắc Kinh dự lễ kỷ niệm 10 năm Cách Mạng Trung Quốc, ông Hồ cẩn thận đứng giữa Mao Trạch Đông và đại diện của Nga Sô, Miklai Suslov. Trong những cuộc đàm phán riêng, ông Hồ đã thành công lấy được sự hứa hẹn của cả Bắc Kinh lẫn Moscou để tăng gia giúp thêm vũ khí và viện trợ dân sự, nhưng khôn khéo từ chối những đề nghị gửi quân tình nguyện hay cố vấn quân sự đến Việt Nam. Ông Hồ biết rõ là nếu để cho con gấu Nga hay con rồng Trung Hoa được đặt chân vào cửa ngõ Hà Nội thì dần dần cửa ngõ này sẽ bị cưỡng bách mở rộng ra cho đến khi Bắc Việt mất đi nền độc lập và trở thành một quốc gia bị chiếm.”
(Visiting Peking in 1959 for the 10th anniversary of the Chinese Revolution, Ho was careful to stand between Mao Tse-Tung and Chief Soviet Delegate Mikhail Suslov. In private negotiations, he managed to win pledges of additional arms and aid from both Peking and Moscou, but adroitly declined their offers to send “volunteer” troops or military advisers. Ho knew that if either the Russian bear or the Chinese dragon were allowed to trust a foot inside Hanoi’s door, that door would gradually be forced open until North Vietnam lost its independence and became a captive nation.)
Đọc về ông Hồ chúng ta thấy rõ Mỹ và Pháp, vì những nhận định chính trị sai lầm, đã càng ngày càng đẩy ông ta về phía Cộng Sản, và ông ta không có con đường nào khác, vì để thực hiện mục đích không hề thay đổi của ông là thực hiện nền độc lập và thống nhất của Việt Nam, nên ông ta cần đến các đồng minh. [Hãy nghĩ đến chuyện ông viết 8 bức thư cho Tổng Thống Truman, đến chuyện Mỹ giúp 80% quân phí cho Pháp trở lại tái lập nền đô hộ ở Đông Dương, và rồi dựng lên chế độ Ngô Đình Diệm, vi phạm hiệp định Genève, ngăn chận cuộc bầu cử vào năm 1956 để thống nhất đất nước.]
Cuối cùng, vị thế của ông Hồ Chí Minh đối với dân tộc Việt Nam ra sao? Chúng ta đã biết, Wilfred Burchett đã nhận định ở trên:
Hồ Chí Minh là của toàn thể quốc gia Việt Nam (that Ho Chi Minh belongs to the whole Vietnamese nation.) Không có một lằn danh giới nào ở vĩ tuyến 17 có thể làm cho người dân miền Nam xa lìa Hồ Chí Minh dù rằng thủ đô được đặt ở miền Bắc. Hồ Chí Minh đã được chấp nhận là lãnh tụ và là nguồn cảm hứng cho mọi người Việt Nam – trừ số người đã lần lượt phục vụ những quan thầy Nhật, Pháp, rồi Mỹ.
Nhận định này đúng hay sai? Có lẽ câu trả lời thiết thực nhất là của Hoàng Xuân Ba trong bài “Hai Câu Chuyện Hoàn Toàn Trung Thực”, mới đây đăng trên Đàn Chim Việt:
Chuyện thứ nhất : lá cờ đỏ sao vàng trên mạng:
Trưa 2/9/2006, ngày quốc khánh của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đang nói chuyện với một người bạn Việt Kiều trên Yahoo Messenger (YM) tôi bất ngờ nhận được thông điệp của một người bạn trẻ Việt Nam: “Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta”, kèm theo đó là lời kêu gọi hãy thay đổi avatar (hình ảnh đại diện) trên YM bằng lá cờ đỏ sao vàng, lá cờ biểu trưng cho Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhìn lại danh sách nickname của mình trên YM, tôi thấy rất đông các bạn trẻ thay đổi avatar bằng hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng.
Sáng nay, 4/9/2006, báo Tuổi Trẻ đăng bài: “Mừng Quốc khánh trên mạng”. Trong bài viết này, tác giả mô tả lại hình ảnh nhà nhà treo cờ, người người treo cờ trên mạng: “Lần đầu tiên, cư dân trên mạng đón lễ Quốc khánh hoành tráng bằng cách đưa hình ảnh lá cờ Tổ quốc lên mạn trang trọng trên các blog (nhật ký cá nhân trên mạng) và trên avatar trong công cụ chat YM của mình trong ngày 2-9. Và ngày 3-9, tất cả đều đồng loạt thay vào đó là chân dung của Bác Hồ”.
Chuyện thứ hai : lăng ông Hồ Chí Minh :
Tôi đã có dịp gặp gỡ trên mạng với bạn đọc của DCVOnline gần đây qua bài Tản mạn vể xã hội chủ nghĩa ở Hà Nội, đăng ngày 31/08/2006 (với hàng chục ý kiến khác nhau). Cũng dịp công tác này, tôi tranh thủ được một thời gian ngắn để ghé thăm lăng ông Hồ với mục đích tìm hiểu xem thái độ, tình cảm của người dân Việt Nam và nhất là người dân Hà Nội đối với ông Hồ ra sao. Điều làm tôi thật bất ngờ là có rất nhiều cá nhân đến viếng thăm lăng ông, các đoàn viếng lăng vào ra tấp nập. Để vào thăm lăng của ông tôi được một anh bảo vệ cầm loa phóng thanh bắt phải đứng xếp vào hai hàng dọc, một đặc trưng của xã hội chủ nghĩa, rồi theo đó vào lăng. Quả thật tôi cảm nhận được sự trang nghiêm của lăng mộ ông Hồ và cả sự sùng bái của những người dân bình thường viếng thăm lăng. Một cách tự động, tất cả mọi người đều kính cẩn, nghiêm trang khi đi ngang qua xác ông được đặt trong một cái hòm rất rộng, bốn bên là kính trong suốt. Trông ông không giống như những bức hình chụp mà tôi từng thấy, khuôn mặt trông vẫn còn rất tươi tắn hồng hào nhưng trông giả chứ không thật, có lẽ bị đánh sáp.
Báo chí Việt Nam sáng 4/9/2006 đều đồng loạt đăng tin về việc có hàng vạn người đến viếng thăm lăng ông Hồ. Báo Tuổi Trẻ viết: “Sáng 2/9, đoàn người vào lăng viếng Bác dài ra tận hai phía trên phố Ngọc Hà và Hùng Vương. Đông nhất là các đoàn học sinh và người già từ các tỉnh Thái Nguyên, Hà Tây. Còn có rất nhiều đoàn đến từ tỉnh xa như Cao Bằng, Nghệ An, Quảng Trị, Bình Phước... Có nhiều người nước ngoài cũng đứng trong đoàn người từng bước vào lăng. Khu vực quảng trường trước lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc nào cũng đông kín người”.
Một thông tin đáng chú ý đó là thiếu tướng Đào Hữu Nghĩa, trưởng Ban quản lý lăng kiêm tư lệnh Bộ tư lệnh bảo vệ lăng ông Hồ cho biết đến hết buổi viếng ngày 2/9 chỉ khoảng 25.000 lượt người được vào viếng lăng ông, số còn lại đành phải chờ đến hôm sau. Tôi tin rằng con số trên rất thật bởi vì tôi đã được tận mắt chứng kiến dòng người xếp hàng dài vào viếng lăng ông Hồ, không nhất thiết phải do cơ quan hay các hội đoàn tổ chức.
Duiker cũng viết, trang 566: “Mỗi tuần có hơn 15000 người đến viếng thăm Lăng ông Hồ” (More than 15000 visit the mausoleum each week)
Tại sao ngày nay người dân Việt Nam vẫn còn kính ngưỡng ông Hồ Chí Minh, tuy rằng trên diễn đàn truyền thông hải ngoại có cả một chiến dịch để xóa bỏ “thần tượng Hồ Chí Minh”? Lý do rất dễ hiểu là phần lớn những điều viết về ông Hồ của giới chống Cộng là sai lầm, là vô căn cứ, bắt nguồn từ lòng thù hận một chiều của những người gọi là Quốc Gia, chứ không đặt trên những sự thật và sự kiện lịch sử. Thật vậy, những người chống Cộng cực đoan như Minh Võ chỉ nhìn thấy những điều lặt vặt như chúng ta thấy trong bài ông ta phê bình cuốn “Ho Chi Minh, A Life” của William J. Duiker. Để có thể thêm vài chi tiết về ông Hồ Chí Minh, có lẽ tôi cũng nên điểm qua bài phê bình Duiker của Minh Võ.
Xem tiếp Phần 2
TCN.
(Đọc thêm: http://www.giaodiem.com/doithoaiII/hagiang-hochiminh.htm )
Trần Chung Ngọc
PHẦN 1
Viết về một nhân vật có tầm vóc quốc tế như Hồ Chí Minh có thể nói là không dễ. Đối với những người thuộc giới Chống Cộng Cực Đoan [CCCĐ] hay Chống Cộng Cho Chúa [CCCC], viết theo cảm tính thù hận Quốc Gia chống Cộng, hay Công Giáo chống Cộng, trong khi thực sự không hiểu, không biết gì về Hồ Chí Minh thì rất dễ, vì muốn viết sao cũng được. Đưa ra những chi tiết lặt vặt, cộng với xuyên tạc, dựng đứng v..v.. nhằm “ám sát tư cách cá nhân” (character assassination), bằng những từ tục tĩu, hạ cấp v..v.. cho hả lòng thù hận, thì có lẽ ai viết cũng được, không cần đến trí tuệ, không cần đến kiến thức, không cần đến trình độ, và không cần đến liêm sỉ. Thảm thay, hiện tượng này chúng ta thường thấy xảy ra trong vài khu rừng diễn đàn truyền thông hải ngoại, nơi đây một thiểu số người Việt có vẻ như không có mấy trình độ văn hóa, giáo dục thường lên tiếng. Nhưng viết cho đúng với nhân cách, khả năng, tư tưởng và con người của Hồ Chí Minh thì quả thật là khó, vì điều này đòi hỏi trước hết là một sự lương thiện trí thức, một sự hiểu biết đứng đắn về cuộc đời của ông Hồ, và nhất là, về ông đã làm gì cho đất nước Việt Nam.
Riêng đối với tôi, viết về ông Hồ lại càng khó hơn, vì xuất thân từ Trường Sĩ Quan Trừ Bị Nam Định, đã cầm súng chống Cộng trong thời gian 8 năm rưỡi, khoảng thời gian tôi ở trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đã đi Mỹ học, và đã về phục vụ trong ngành giáo dục ở miền Nam cho đến ngày chót, đương nhiên tôi đã ở phía Quốc Gia rồi. Nhưng cuộc chiến Quốc – Cộng đã chấm dứt hơn 30 năm rồi, bây giờ còn nói đến chuyện Quốc – Cộng có phải là ngớ ngẩn không? Thời gian chỉ trôi có một chiều, một thế hệ già nua như chúng tôi đang lần lượt rủ nhau đi vào dĩ vãng để nhường chỗ cho một thế hệ trẻ hơn, đầy nhiệt huyết, với những kiến thức thời đại, biết thế nào là con đường quốc gia, dân tộc, và dứt khoát từ chối, không để cho đầu óc bị ô nhiễm bởi những thù hận của lớp trước, dù các bậc cha anh vô trí có muốn truyền lại. Với tâm cảnh như trên, vậy tôi phải viết về ông Hồ ra sao? Viết theo sự hiểu biết giới hạn của mình thì rất có thể “sai đường lối của một số người đang tham gia cuộc “thánh chiến chống Cộng”” và phải đội thêm vài cái nón cối nữa. Nhưng chẳng sao, tôi ở xứ lạnh, mùa Đông sắp đến, càng ấm đầu.
Được đào tạo trong ngành Khoa Học Vật Lý, đối với tôi, sự lương thiện trí thức phải để lên hàng đầu, và phương pháp khảo cứu mọi vấn đề phải cẩn trọng, không để cho tình cảm thiên kiến lôi cuốn, tuy tôi tự biết, vì không có cái mặc cảm của Thượng đế (God complex), nên tôi không thể tránh khỏi có đôi chút thiên kiến khi viết về lịch sử. Một người nào đó đã chẳng từng nói: “Người nào viết sử mà không có đôi chút thiên kiến chắc phải có cái mặc cảm mình là Thượng đế (hay mặc cảm của Thượng đế) [Those who write about history without bias must have a God complex]. Để giảm thiểu thiên kiến, phương pháp khảo cứu của tôi là đọc nhiều sách về cùng một vấn đề, rồi từ đó kiếm ra một mẫu số chung. Điều này chưa hẳn là tuyệt đối đúng, nhưng ít ra cũng không xa sự thực là bao nhiêu.
Riêng về ông Hồ, đọc những tài liệu của giới CCCĐ hay CCCC ở hải ngoại thì cũng như không đọc, vì không biết thêm được điều gì mới lạ, ngoài những cường điệu chứng tỏ trình độ thấp kém về lịch sử của người viết. Còn dùng những tài liệu trong nước, phải gội đầu sẵn để đội thêm vài cái mũ của những kẻ không hề biết lý luận, không có khả năng thảo luận trí thức. Không phải là trong những tài liệu thuộc cả hai phe “Quốc-Cộng” này không có những chi tiết đúng, nhưng những chi tiết này chúng ta cũng có thể tìm thấy trong kho tàng tài liệu ngày nay trên thế giới, từ tác phẩm của những nhà nghiên cứu trong môi trường đại học, các chính khách, cựu tướng lãnh v..v…, và từ các tài liệu có trong các văn khố của một số quốc gia. Vậy thì tốt hơn hết là đi tìm tài liệu không thuộc hai phe Quốc, Cộng.
Bài viết này không có mục đích viết tất cả về ông Hồ Chí Minh, tôi không có khả năng như vậy. Nhân đọc loạt bài ông Minh Võ phê bình cuốn “Ho Chi Minh, A Life” của William J. Duiker cùng đọc bài khảo cứu, có thể nói là một bài giáo khoa của giáo sư Sử học Nguyễn Mạnh Quang, về những vị lãnh đạo Việt Nam trong thời cận đại như Hồ Chí Minh, Bảo Đại, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, đăng trên giaodiemonline.com tháng 11, 2006, tôi chỉ muốn bổ túc và thu hẹp trên một vài khía cạnh về ông Hồ Chí Minh: vị thế của ông Hồ Chí Minh trên chính trường quốc tế, trong lòng dân tộc Việt Nam, và nhất là, phải chăng ông là người Cộng sản cực đoan, tay sai của Nga Sô và Trung Cộng như một số người chống Cộng cực đoan ở hải ngoại, điển hình là ông Minh Võ, thường rêu rao. Còn những con cờ Bảo Đại, Ngô Đình Diệm, và Nguyễn Văn Thiệu của Pháp và Mỹ thì có lẽ không cần phải nhắc tới. Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang đã viết quá đủ về những nhân vật này rồi, nhất là về ông “Phán Quan Tây Ban Nha” Ngô Đình Diệm.(Link:
http://www.giaodiemonline.com/nov/chuong18.htm )
Trước khi đi vào những vấn đề này, tôi có một nhận xét tổng quát về những luận điệu xuyên tạc, đả kích ông Hồ Chí Minh của một số người có vẻ như không có mấy trình độ. Không có gì ngu xuẩn hơn là so sánh ông Hồ với Hitler. Những người này hầu như không hề biết gì đến dư luận thế giới, nhất là trong các nước tiến bộ Âu Mỹ, đã nhận định về ông Hồ Chí Minh như thế nào. Hãy vào Internet đánh tên Ho Chi Minh thì sẽ thấy Thế giới đánh giá Hồ Chí Minh như thế nào. Hay hãy đọc những cuốn sách về chiến tranh Việt Nam của các học giả, tướng lãnh Mỹ, và ngay cả hai cuốn In Retrospect và Argument Without End của cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert McNamara. Phần nhận định tích cực về Hồ Chí Minh tràn ngập so với phần tiêu cực thưa thớt của một số người Việt hải ngoại mà tên tuổi không đáng kể, và chỉ như những con đom đóm lập lòe trên vài diễn đàn điện tử ít có giá trị trí thức của đám người Việt còn mang nặng lòng hận thù Quốc-Cộng, chống Cộng cuối mùa, chống Cộng khi đã không còn Cộng..
Và những người muốn hạ bệ Hồ Chí Minh để vinh danh “chí sĩ” Ngô Đình Diệm của họ nhân dịp 1/11 thì hãy kiếm đọc cuốn “Những Bạo Chúa, 100 Tên Chuyên Quyền và Độc Tài Ác Nhất Trong Lịch Sử” (Tyrants, History’s 100 Most Evil Despots and Dictators) của Nigel Cawthorne, Barnes & Noble, NY, 2004, trong đó chúng ta có thể thấy những tên quen thuộc như Tần Thủy Hoàng, Võ Hậu, Từ Hi, Richard III, Mary I, Ceasar Borgia v..v.. và trong thời cận đại: Hitler, Mao Trạch Đông, Stalin, Pol Pot, Sadam Hussein, Kim Jung II, và, lạ lùng thay, có cả tên Ngô Đình Diệm (President of South Vietnam) mà lại không có tên Hồ Chí Minh trong danh sách này. Mỗi tên trong danh sách đều có kèm theo một tiểu sử ngắn và sơ lược những hành động chuyên quyền và độc tài của nhân vật đó. Thế này là thế nào, chẳng có lẽ Nigel Cawthorne cũng như nhiều trí thức Tây phương đều là tay sai của CSVN, hay là những người ngu cả hay sao?
Cách đây sáu năm, năm 2000, sử gia William J. Duiker có xuất bản cuốn “Ho Chi Minh, A Life”. Cuốn này được giới trí thức, học giả Âu Mỹ đánh giá khá cao và cho rằng đó là một cuốn nghiên cứu sâu rộng nhất về con người và sự nghiệp của ông Hồ Chí Minh. Đọc Duiker và phối kiểm với những đoạn viết về ông Hồ của nhiều tác giả khác trong thế giới Tây phương, chúng ta có thể rút tỉa ra những điều không xa với sự thật là bao nhiêu.
Trước hết, quốc tế đối với ông Hồ ra sao? Tôi xin được nhắc lại một đoạn trong bài của Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang mà giáo sư đã trích dẫn từ cuốn “Ho Chi Minh” của William J. Duiker:
“Khi tin tức về cái chết của ông Hồ Chí Minh được loan truyền thì khắp địa cầu đưa ra nhận xét về ông. Hà Nội nhận được tới hơn hai mươi hai ngàn (22000) bức điện tín từ các thủ đô lớn của 121 quốc gia trên thế giới để bày tỏ lời ca ngợi ông và chia buồn với nhân dân Việt Nam. Một số các nước theo chủ nghĩa xã hội tổ chức buổi lễ truy điệu ông và đưa ra những lời ca tụng ông. Thủ đô Mạc Tư Khoa chính thức ca tụng ông như là “người con vĩ đại của dân tộc anh hùng Việt Nam, một người lãnh đạo xuất sắc của phong trào giải phóng dân tộc và cộng sản quốc tế, và là người bạn vĩ đại của Liên Bang Sô Viết.” Các nước trong Thế Giới Thứ Ba (các nước trung lập) cũng nhận xét về ông với những lời ca tụng ông như là một người bảo vệ những người bị áp bức. Một bài báo phát hành ở Ấn Độ mô tả ông như là tinh túy của “dân tộc và là hiện thân của lòng khát vọng tự do, của sự tranh đấu bền bỉ.” Những bài báo khác đề cao đức tính giản dị và thẳng thắn của ông. Một bài xã luận trong một tờ báo ở Uruguay (Nam Mỹ) ghi nhận “Ông có một tấm lòng bao la như vũ trụ và có một tình thương vô bờ bến đối vào các trẻ em. Ông là gương mẫu về đức tính giản dị và thẳng thắn trong tất cả mọi phạm vi.”
Phản ứng từ các thủ đô Tây Phương thì không biểu lộ mạnh mẽ. Tòa Bạch Ốc lặng thinh và các viên chức cao cấp trong chính quyền của Tổng Thống Nixon cũng không bình luận gì cả. Nhưng việc chú ý đến cái chết cúa ông Hồ Chí Minh đối với giới truyền thông trong các nước Tây Phương thật là mãnh liệt. Những tờ báo ủng hộ các phong trào phản chiến có khuynh hướng mô tả ông bằng những lời lẽ ca tụng ông như là một địch thủ xứng đáng và là một người bảo vệ những kẻ yếu, những người lép vế thế cô và những người bị áp bức. Ngay cả những người vẫn thường khăng khăng chống lại chế độ Hà Nội cũng đánh giá ông bằng những lời lẽ kính trọng ông như là một người đã tận hiến cả cuộc đời cho đại cuộc chiến đấu giành độc lập và thống nhất đất nước cho tổ quốc ông, coi ông như là người phát ngôn xuất chúng cho các dân tộc bị bóc lột ở trên thế giới.”
Nguyên văn: (“The news of Ho Chi Minh’ s death was greeted with a outpouring of comment from around the globe. Eulogies flowed in from major world capitals, and Hanoi received more than twenty-two thousand messages from 121 countries offering the Vietnamese people condolences for the death of their leader. A number of socialists states held memorial services of their own and editorial comment were predictable favorable. An official statement from Moscow lauded Ho as a “great son of the heroic Vietnamse people, the outstanding leader of the international Communist and national liberation movement, and a great friend of the Soviet Union.” From the Third World countries came praise for his role as a defender of the oppressed. An article published in India described him as the essence of “the people, the embodiment of the ardent aspiration for freedom, of their endurance and struggle.” Others referred to his simplicity of manner and high moral standing. Remarked an editorial in Uruguayan newspaper: “He had a heart as immense as the universe and in a boundless love for the children. He is a model of simplicity in all fields.”
Reaction from Western capitals was more muted. The White House refrained from comment, and senior Nixon administration officials followed suite. But attention to Ho’s death in the Western news media was intense. Newspapers that supported the antiwar cause tended to describe him in favorable terms as a worthy adversary and a defender of the weak and oppressed. Even those who had admandtly opposed the Hanoi regime accorded him a measure of respect as one who had dedicated himself first and foremost to the independence and unification of his country, as well as a prominent spokeperson for the exploited peoples of the world.”) [Đây là đoạn đầu của Chương cuối: “Epilogue: From Man To Myth” , trang 562. TCN]
Trên đây, Duiker đã viết lại một sự kiện. Sự kiện này, hơn gì hết, đã loại bỏ tất cả những gì mà một số người Việt hải ngoại hay ở trong nước viết tiêu cực theo cảm tính về ông Hồ. Cho nên bất kể những luận điệu nhằm hạ uy tín của ông Hồ đều không thể thuyết phục được ai, ít nhất là trong giới hiểu biết, nhất là những luận điệu này lại thuộc loại hạ cấp, đầy hận thù, vụn vặt, chỉ nhắm vào những tiểu tiết mà không nhìn thấy những mặt to lớn của sự việc, và chỉ có thể lấy được sự đồng tình của một số người nhỏ nhoi thu hẹp trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại..
Có một bài viết về ông Hồ Chí Minh của Wilfred Burchett khá hay: Ho Chi Minh: An Appreciation (pipeline.com). Wilfred Burchett là một ký giả Úc nổi tiếng, đã từng được Ngoại Trưởng Henri Kissinger nhờ làm trung gian liên lạc giữa Mỹ và Hà Nội. Năm 1968, ông đã viết một cuốn có tính cách tiên đoán: “Việt Nam Sẽ Thắng” (Vietnam Will Win) và năm 1977 ông xuất bản cuốn “Châu Chấu Và Voi: Tại Sao [Nam] Việt Nam Sụp Đổ” (Grasshoppers and Elephants: Why Vietnam Fell). Theo tôi, Burchett viết hay, không phải vì tác giả ca tụng ông Hồ, mà tác giả đã viết về những gì đã tạo nên ông Hồ: Không phải thuần túy chỉ là Marx, là Lenin hay Mao Trạch Đông, mà chính là lịch sử 2000 năm chống ngoại xâm của Việt Nam đã tạo nên ông Hồ. Có thể nói, tác giả hiểu Việt Nam hơn rất nhiều người tự cho mình là trí thức. Chúng ta hãy đọc vài đoạn trong bài của Burchett:
“Chính sách của Mỹ là làm cho người Việt Nam cảm thấy mình thuộc một sắc dân thấp kém (racial inferiors), không có quyền về căn cước quốc gia (have no right for national identity). Họ thường bị gọi là “gooks”, “slopes” và “dinks”, và trên những phúc trình chính thức, làng Mỹ Lai trở thành “Thành phố hồng” (Pinkville) [có nghĩa là thành phố CS] và dân làng bị tàn sát chỉ là “những người Á đông” (oriental human beings). [với ý coi thường, miệt thị]
Sự thực là người nông dân Việt Nam nghèo khó nhất, ngay cả thất học, về phương diện văn hóa và đạo đức thường cũng cao hơn người Mỹ (Reality is that the humblest Vietnamese peasant, even illiterate, is usually culturally and morally superior to his American adversary.). Hắn ta biết nhiều hơn về lịch sử đất nước của hắn – không chỉ vì đất nước hắn có vài ngàn năm lịch sử nhiều hơn Mỹ để mà biết đến – mà vì những điều này đã thấm vào trong người hắn từ sữa mẹ (literally absorbs it with his mother’s milk). Ngay từ bé, hắn sống lên trong một môi trường tràn ngập với những câu chuyện về gia tài lịch sử, hoặc được kể ngay khi còn nằm trong lòng mẹ, hoặc qua những màn kịch diễn lại những trang sử oai hùng của 2000 năm lịch sử chống ngoại xâm của những gánh hát di động, hoặc những truyền thuyết về các “thần hoàng làng”, [thường là các anh hùng giúp nước của xóm làng, được nhà Vua sắc phong], hoặc là những câu chuyện về tổ tiên đã bảo vệ non sông như thế nào, hoặc là những chuyện đau khổ của người dân bị đàn áp bởi ngoại nhân nên đòi hỏi một sự đứng lên để chống đối v..v… Sự hiểu biết về 2000 năm tranh đấu chống kẻ xâm lăng có đầy trong dòng máu của người nông dân chân lấm tay bùn nghèo khó nhất. Chỉ một điều này cũng là một nguồn dũng cảm và sức chịu đựng vô tận, một sự tin tưởng vào tương lai và coi thường những kẻ toan tính phá vỡ những đức tính mà những chuyên viên trong cái “hồ tư duy” (think tank) [của Mỹ] không thể hiểu được (The knowledge of two thousand years' struggle against invaders is in the bloodstream of the humblest, mud-stained peasant. This alone is an inexhaustible source of courage and stoicism; of confidence in the future and contempt for those who try to wreck the present-qualities incomprehensible to the "think tank" specialists.).
Ông Hồ Chí Minh là mẫu mực thu nhỏ của tất cả những điều trên. Và đúng là, cũng như một cái gì đó trong mỗi người Việt Nam đều có trong Hồ Chí Minh, một cái gì đó trong Hồ Chí Minh đều có trong hầu hết những người Việt Nam ngày nay, dấu ấn của ông trên dân tộc Việt Nam thật là sâu đậm (Ho Chi Minh epitomizes all this. And just as there was something of every Vietnamese in Ho Chi Minh so there is something of Ho Chi Minh in almost every present-day Vietnamese, so strong is his imprint on the Vietnamese nation.) .
Một vấn đề mà Tổng thống Nixon cũng như các vị tiền nhiệm có thể không lưu ý đến nhưng chắc chắn là dân Việt Nam không thể không biết, đó là Hồ Chí Minh là của toàn thể quốc gia Việt Nam (that Ho Chi Minh belongs to the whole Vietnamese nation.) Không có một lằn danh giới nào ở vĩ tuyến 17 có thể làm cho người dân miền Nam xa lìa Hồ Chí Minh dù rằng thủ đô được đặt ở miền Bắc. Hồ Chí Minh đã được chấp nhận là lãnh tụ và là nguồn cảm hứng cho mọi người Việt Nam – trừ số người đã lần lượt phục vụ những quan thầy Nhật, Pháp, rồi Mỹ. (No line arbitrarily drawn along the 17th parallel could divorce the people of the South from Ho Chi Minh because his capital happened to be on the northern side of the line. Ho Chi Minh was the accepted leader and source of inspiration for all Vietnamese - except the handful who served Japanese, French and American masters in turn.)
Lẽ dĩ nhiên, một số người Việt “Quốc Gia” ở hải ngoại không thể đồng ý với nhận định trên, điều này có lẽ cũng không lấy gì làm khó hiểu. Nhưng trên phương diện nghiên cứu trí thức, một câu hỏi cần được đặt ra: có bao nhiêu phần đúng trong nhận định của Burchett? Nếu chúng ta thuộc lịch sử Việt Nam, nếu chúng ta biết đến những truyền thống trong xã hội làng mạc Việt Nam, nếu chúng ta để tâm nghiên cứu về hai cuộc chiến ở Việt Nam, với Pháp rồi với Mỹ, thì có lẽ chúng ta không cần đặt ra câu hỏi trên.
Vấn đề tiếp theo tôi muốn nói đến là: ông Hồ Chí Minh là con người Cộng Sản như thế nào? Chúng ta biết rằng, ông Hồ Chí Minh chưa bao giờ phủ nhận mình là người Cộng Sản và đã từng khẳng định là Lenin đã gây cảm hứng cho ông trong công cuộc giành lại độc lập cho đất nước. Nhưng muốn hiểu ông Hồ là người Cộng sản như thế nào, có lẽ chúng ta nên biết đến quan niệm của một số trí thức ngoại quốc, những người thường ở trong môi trường đại học, đặt sự tôn trọng sự lương thiện trí thức lên hàng đầu, và vì chính uy tín của họ, nên không thể viết theo cảm tính mà không nghiên cứu kỹ vấn đề, hay tự hạ mình rơi vào vòng tranh chấp Quốc-Cộng mà họ không thuộc phe nào và không có lý do gì để ủng hộ hay chống đối một phe nào..
Chúng ta hãy đọc vài đoạn trong bài của Stanley I. Kutler điểm cuốn “Ho Chi Minh, A Life”, Kutler là tác giả cuốn "The Wars of Watergate" và là chủ biên của "The Encyclopedia of the Vietnam War." . Stanley Kutler cho rằng trong tác phẩm của mình, Duiker đã viết về một nhà cách mạng ái quốc gần với Thomas Jefferson hơn là với V. I. Lenin [A patriot closer to Thomas Jefferson than to V.I. Lenin]. (Điều này, không phải chỉ có mình Duiker mới nhận định như trên, mà một số tác giả Mỹ khác cũng có cùng một nhận định như vậy. TCN)
Trước hết, Kutler cho rằng chế độ thực dân đã cáo chung một thế kỷ nay rồi và vai trò của ông Hồ đã đi vào quá khứ. Ngày nay, Việt Nam là một phần của nền kinh tế toàn cầu, có nghĩa là có những liên doanh mang lại lợi nhuận cho chính phủ, cho một số viên chức được ưu đãi, và cho những công ty Tây phương. Nhưng Kutler ghi nhận là:
“Tuy nhiên, thế giới có một bộ mặt khác vì ông Hồ, và những người như ông, những người đã lo lắng, chiến đấu và hi sinh để giải phóng quốc gia của họ thoát khỏi sự sỉ nhục và gông cùm của sự chuyên chế bạo ngược ngoại quốc.” (Nevertheless, the world is a different place because of Ho, and others like him, who agitated, fought and died to liberate their lands from the stigma and yoke of foreign tyranny.)
Sau đó Kutler viết: “Duiker đã đi quá sự tranh luận đơn giản trong thời Chiến Tranh Lạnh về vấn đề ông Hồ là người Cộng sản theo chính thống Mác-Lênin hay là một nhà ái quốc quốc gia, hiến thân cho cuộc giải phóng và thống nhất đất nước?” (Duiker has moved beyond the simplistic Cold War debate of whether Ho was a dedicated Communist, beholden to Marxist-Leninist orthodoxy, or whether he was a patriot and a nationalist, dedicated to freeing and uniting his country.) “Duiker đã nhận định đúng, Hồ Chí Minh có căn rễ sâu đậm trong phong trào Cộng sản quốc tế, nhưng ông luôn luôn là một người quốc gia đã mang lại sự lãnh đạo, viễn kiến và sự cương quyết hiến thân cho nguyên lý dân tộc tự quyết “ (Duiker rightly notes that Ho had deep roots in the international Communist movement; but he was a constant nationalist who provided leadership, vision and a firm commitment to the principle of self-determination.)…
“Ông Hồ không hề nao núng khi dùng chủ nghĩa Cộng Sản cho những mục đích quốc gia. Lời tuyên bố của ông: “các dân ở Đông Dương vẫn sống và sẽ còn sống mãi” khó mà phù hợp với chủ nghĩa Mác. Duiker nhấn mạnh là, đối với ông Hồ, độc lập quốc gia bao giờ cũng là mục tiêu chủ yếu, trong khi chủ thuyết về một cộng sản không tưởng vẫn là một vấn đề mơ hồ, bất định cho tương lai” [Ho unabashedly used communism for his own nationalist ends. His statement that "the peoples of Indochina still live and will live forever" is hardly compatible with Marxism. Duiker insists that for Ho, national independence always was the primary goal, while the doctrine of a communist utopia remained a vague, indefinite matter for the future.] Duiker cũng nhắc lại cho chúng ta là rất tiếc vì những nhận định hời hợt về cuộc Chiến Tranh Lạnh mà Paris và rồi Washington đã thất bại không nắm lấy tay ông Hồ, để đưa đến những hậu quả sâu đậm cho người Việt Nam và cho thế giới (Duiker painfully reminds us that external Cold War considerations led to the failure of Paris and then Washington to grasp Ho's hand, resulting in profound consequences for the Vietnamese people and the world.)
Lẽ dĩ nhiên, cuốn “Ho Chi Minh, A Life” của Duiker không làm những người mang nặng lòng hận thù Cộng Sản hài lòng, và họ đã lên tiếng chê sử gia Duiker cũng như tất cả các tác giả Âu Mỹ viết về ông Hồ mà không đúng ý họ là ngu dốt, là những người ngoại quốc, đâu có biết gì về ông Hồ bằng người Việt Nam. Chỉ có những người vô tên tuổi, vô văn hóa, và chẳng biết gì mấy về Việt Nam như họ mới có thể biết rõ về ông Hồ, dù rất có thể họ chưa bao giờ thấy mặt ông Hồ, và chỉ biết ông Hồ qua những luận điệu tuyên truyền chống Cộng ở hải ngoại và qua vài chi tiết lặt vặt trong những tác phẩm của những người sau này chống Đảng như Vũ Thư Hiên, Bùi Ngọc Tấn, Bùi Tín, Nguyễn Minh Cần v..v.... Điển hình cho loại người này trên Internet là Minh Võ, một người rất năng nổ trong chiến dịch “No Hồ” ở hải ngoại, viết trên diễn đàn điện tử Đàn Chim Việt, một diễn đàn có vẻ như là nơi để cho một số người nhân danh tự do ngôn luận vào đó chửi lộn. Minh Võ đang cố gắng phá đổ cái mà ông ta gọi là “thần tượng Hồ Chí Minh”, dù rằng chẳng có ai coi ông Hồ là thần tượng, vì hầu như mọi người dân trong nước đều coi ông Hồ đơn giản là “Bác Hồ”. Nhưng trình độ hiểu biết, khả năng lý luận, và thủ đoạn bịa đặt sự kiện của ông Minh Võ không cho phép ông ta đạt được mục đích, cho nên những điều ông ta phê bình Duiker cũng như những điều ông ấy viết về ông Hồ không có mấy giá trị trí thức, để lộ rõ một kiến thức kém cỏi và viết với một tâm trạng thù hận và thiếu sự lương thiện trí thức trong đó. Điều này chúng ta có thể chứng minh rất dễ dàng, nhưng tôi để cho phần sau.
Trước hết chúng ta hãy đọc thêm vài tài liệu về ông Hồ:
Trong tờ “Les Collections de L’Histoire”, số 23, Avril-Juin 2004, một tuyển tập về “Indochine Vietnam: Colonisation, Guerres et Communisme” có bài “Con Người Trở Thành Hồ Chí Minh” [L’Homme Qui Devint Ho Chi Minh] của Pierre Brocheux, Giáo sư Diễn Giảng Danh Dự tại Đại Học Denis-Diderot, Paris-VII. Chúng ta sẽ thấy trong đó có vài chi tiết chứng tỏ ngay cả Nga và Tàu cũng không tin tưởng ông Hồ Chí Minh là người Cộng Sản chính thống (orthodox communist). Giáo sư Brocheux viết, trang 33:
Đối với Quốc (Nguyễn Ái Quốc), chủ thuyết Mác Lênin đã đưa lên những phương tiện hành động, như là ông ta đã giảng giải nhiều năm sau: “Chúng ta phải hiểu rằng giật độc lập ra khỏi tay một cường quốc như Pháp là một nhiệm vụ rất khó khăn mà người ta không thể hoàn thành mà không có một sự ngoại viện, không cần thiết phải là một sự viện trợ vũ khí mà dưới dạng cố vấn và tiếp xúc. Chúng ta không lấy lại được độc lập bằng cách ném bom hay bằng những hành động tương tự. Đó là sự sai lầm của những nhà cách mạng lúc đầu đã phạm phải [Có lẽ ông Hồ muốn nói đến cuộc ám sát thất bại của Phạm Hồng Thái đối với Toàn Quyền Merlin]. Chúng ta lấy lại độc lập bằng sự tổ chức và tự khép mình vào kỷ luật. Chúng ta cũng còn cần đến một lòng tin, một phúc âm, một sự phân tích thực tiễn, có thể nói đến như là một thánh kinh. Chủ thuyết Mác-Lênin đã cung cấp cho tôi đường lối hành động này.”
(Pour Quoc, le marxisme-léninisme offre des moyens d’action, comme il l’a expliqué des années plus tard: “Vous devez comprendre qu’arracher l’indépendance à une puissance comme la France est une tâche formidable qu’on ne peut accomplir sans une aide extérieure et pas nécessairement une aide en armes mais sous la forme de conseils et de contacts. On ne gagne pas l’indépendance en jetant des bombes et par des actes de ce type. Ce fut l’erreur que les premiers révolutinaires commirent. On gagne l’indépendance en s’organisant et en se diciplinant. On a aussi besoin d’une foi, d’un évangile, d’une analyse pratique, on peut même parler d’une bible. Le marxisme-léninisme m’a fourni cette panoplie.)
Thực ra thì có lẽ ông Hồ muốn nói đến Những Luận Đề Về Những Vấn Đề Quốc Gia Và Thuộc Địa (Theses on The National and The Colonial Questions) của Lê-nin đưa lên trong Đại Hội II Cộng Sản Quốc Tế (Second Congress of the Communist International) vào năm 1920 để nghị thảo mà ông biết đến trong Đệ Tam Quốc tế. Chúng ta đã biết, chính ông Hồ Chí Minh đã thành thực công nhận là mới đầu ông không hiểu hết những từ và ý tưởng chính trị khó khăn trong bản văn trên, nhưng rồi đọc đi đọc lại ông mới thấm và hiểu rõ, và ý thức được là những luận đề này đã giúp cho ông ta thấy con đường thích hợp nhất để cứu nước, giải phóng dân tộc khỏi ách thuộc địa, thực dân. Và ông Hồ đã thành công.
Chúng ta hãy đọc tiếp vài đoạn khác của Giáo sư Brocheux. Trước hết là một tài liệu trích dẫn từ một tài liệu trong văn khố của Nga Sô, mới được sử gia Alain Ruscio phổ biến năm 1990, trang 34-36:
“Năm 1934, Ông Hồ trở lại Moscou. Stalin đã nắm chắc quyền lực, và những cuộc thanh trừng lớn bắt đầu năm 1937. Có vẻ như con người Hồ Chí Minh tương lai là nạn nhân, vì từ ngày trở lại Moscou, ông ta không được tin cậy để giao phó cho một trách nhiệm nào. Không còn nghi ngờ gì nữa người ta đã trách cứ là ông ta ngả về tinh thần quốc gia trong cuộc chiến đấu chống thực dân thay vì tinh thần cách mạng vô sản quốc tế.”
(En 1934, il est de retour à Moscou. Staline raffermit son pouvoir, les grandes purges vont débuter en 1937. Il apparait avec certitude que le futur Ho Chi Minh faillit en être victime car, depuis son retour, il ne s’est vu confier aucune responsabilité. Sans doute lui reproche-t’on de préférer le nationalisme qui sous-tend le combat anti-colonial à l’internationalisme de la révolution prolatérienne.)
“Về vấn đề này, ông Hồ đã bày tỏ quan điểm của mình từ năm 1924.. Được huấn luyện về cách mạng và chủ thuyết Marx bởi Tây phương, tuy nhiên Quốc đã nhìn theo đặc tính Á Đông: “Cuộc đấu tranh giai cấp ở Đông phương không giống như ở Tây phương. Marx đã xây dựng lý thuyết của mình trên một căn bản triết lý nào đó của lịch sử. Nhưng là lịch sử nào? Đó là lịch sử Âu Châu. Nhưng Âu Châu là gì? Không phải là tất cả nhân loại.”
(À ce sujet, il a expliqué son point de vue dès 1924… Éduqué par l’Occident à la révolution et au marxisme, Quoc est pourtant persuadé, de la spécifícité de l’Orient: “ La lutte de classes ne se manifeste pas en Indochine comme en Occident.” ; Marx a bâti sa doctrine sur une certaine philosophie de l’histoire. Mais quelle histoire? Celle de l’Europe. Mais qu’est ce que l’Europe? Ce n’est pas toute l’humanité).
“Hồ Chí Minh có thực sự là mgười Mác-xít không? Hay ông ta chỉ là người Quốc Gia sau lớp sơn đỏ, như một thành viên Cộng Sản Quốc Tế, ông M. N. Roy, người Ấn Độ, đã nói? Vấn đề này đáng được đặt ra.. Nếu chắc chắn là ông ta đã đọc bản Tuyên Ngôn của Đảng Cộng Sản, nếu đã nhiều lần ông ta nói là chịu ảnh hưởng trí thức và chính trị của Lê-nin, thì sự gắn bó của ông với chủ nghĩa Mác không bao giờ có tính cách giáo điều.“
(Ho Chi Minh était-il vraiment marxiste? Ou n’était-il qu’un “nationaliste peint en rouge”, comme l’a dit un membre du Komintern, l’Indien M.N. Roy? La question mérite đêtre posée… S’il a certainement lu le Manifeste du Parti Communiste, s’il dit maintes reprises sa dette intellectuelle et politique envers Lénine, son adhésion au Marxisme ne fut, pour autant, jamais dogmatique.)
“Năm 1963, người Cộng Sản Lưu Thiếu Kỳ đã phác họa một hình ảnh chính trị của ông Hồ, nếu đúng, cho thấy một vị thế không thoải mái [của ông Hồ] đưa đến một sự gắn bó đôi đàng với lòng yêu nước chấp nhận thỏa hiệp, và chủ nghĩa xã hội độc quyền: “Hồ luôn luôn là người hữu khuynh.. Khi chiến tranh Đông Dương chấm dứt, ông ta không thể quyết định là thiết lập một chế độ tư bản hay một chế độ theo xã hội chủ nghĩa. Chúng tôi đã quyết định cho ông ta.””
(Le communist Chinois Liu Shaoqi esquisse en 1963 un portrait politique de Ho qui, s’il est exact, indique la position inconfortable qui résulte d’une double adhésion au patriotisme consensuel et au socialisme exclusif: “Ho a toujours été un droitiste.. Lorsque la guerre d’Indochine prit fin, il ne put se décider à choisir d’instaurer soit un régime capitaliste soit un régime socialiste. Ce fut nous qui décidâmes pour lui.”)
“Không có gì minh họa rõ hơn sự tương phản giữa Hồ Chí Minh và những người lãnh đạo cộng sản là những trao đổi quan niệm của Mao Trạch Đông và Lưu Thiếu Kỳ với ông Hồ Chí Minh vào năm 1960. Ông Hồ đã tuyên bố rằng ngay cả việc giết kẻ thù cũng không được đạo đức; Mao đã trả lời ông ta: “Tưởng Giới Thạch giết, tôi giết, đó không phải là một vấn đề đạo đức. Và Lưu Thiếu Kỳ thêm vào là viện đến đạo đức khi ta phải đối phó với những tên tư bản chống cách mạng là không thích đáng .”
(Rien n’illustre mieux le contraste entre Ho Chi Minh et d’autres dirigeants communistes que les propos que Mao Zedong et Liu Shaoqi tinrent à Ho Chi Minh en 1960. Ho avait déclaré qu’il n’était pas moral de tuer même ses adversaires; Mao lui répliqua: “Chiang Kaishek tue, je tue, ce n’est pas une question de morale.” Et Liu Shaoqi de renchérir qu’il n’était pas pertinent d’invoquer la morale lorsqu’on avait affaire aux contre-révolutionnaires capitalistes.)
Trong cuốn “The Vietnam War Almanac, General Editor: John S. Bowman, Barnes & Noble Books, NY, 2005”, trang 493, cũng có viết:
“Ông Hồ ít quan tâm đến những chi tiết tế nhị của chủ thuyết Mao và Lê-nin; thiên tài của ông ta là về hành động chính trị, và lý tưởng của ông ta có thể khá co dãn chừng nào mà nó đưa tới mục đích đã ám ảnh ông ta: nền độc lập và thống nhất của Việt Nam.” (Ho was less concerned with niceties of doctrine than Mao and Lenin; his genius was for political action, and his ideology was capable of considerable stretching as long as it tended toward the purpose that obsessed him: the independence and unification of Vietnam.)
Trong cuốn Cracks In The Empire, South End Press, Boston, 1981, Paul Joseph, Giáo sư xã hội học, đại học Tufts, viết, trang 83:
“Dù rằng thiếu bằng chứng, Washington tiếp tục cho rằng cuộc đấu tranh chống Pháp (ở Việt Nam) là do sự hứng khởi và chỉ đạo từ Liên Bang Sô Viết. Thí dụ, trong bức công điện gửi cho Thủ Tướng (Pháp) Ramadier, đại sứ Mỹ vẫn sai lầm cho rằng Việt Minh là một phong trào mà “triết lý và tổ chức chính trị đều phát khởi từ và bị kiểm soát bởi điện Kremlin. Tuy vậy tình báo Mỹ đã cố gắng, và thất bại, để kiếm ra bằng chứng là có mối liên hệ kiểm soát giữa Moscou và Hồ Chí Minh. Một công điện của Bộ ngoại giao gửi cho đại sứ Mỹ ở Trung Quốc viết “Bộ không có bằng chứng nào về sự nối kết trực tiếp giữa ông Hồ và Moscou nhưng cho rằng có.”
(Despite a lack of evidence,Washington continued to perceive the anti-French struggle (in Vietnam) as something inspired and directed from the Soviet Union. For example, in the cable to Premier Ramadier cited above, the American embassador falsely maintained that the Vietminh was a movement whose “philosophy and political organization emanated from and was controlled by the Kremlin.” Yet American intelligence had tried, and failed, to substantiate the existence of controlling ties between Moscou and Ho Chi Minh. A State Department cable to the US Ambassador in China read “the Department has no evidence of a direct link between Ho and Moscou but assumes it exists..)
Marilyn B. Young, trong cuốn The Vietnam Wars: 1945-1990, HarperPerennial, New York, 1991, viết, trang 4:
“Trong vài năm tới, những văn bản Hồ Chí Minh viết bị tố cáo vì những “mùi hôi quốc gia” trong đó, và sự ủng hộ của ông Hồ về một liên minh rộng rãi bao gồm cả các địa chủ cỡ nhỏ và trung bình, miễn là họ yêu nước, bị đả kích là kẻ xét lại và là kẻ hợp tác (với kẻ thù). Phải mười năm sau sự tranh luận đắng cay về mối liên hệ giữa cách mạng quốc gia và cách mạng xã hội mới được giải quyết, theo đường lối lúc đầu đưa ra bởi ông Hồ, sự thành lập Việt Minh (Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội.”
(Over the next few years, Ho Chi Minh’s writings were denounced for their “nationalist stench”, and his support for a broad alliance that could include even small and medium landowners, provided they were patriotic, was attacked as reformist and collaborationist. A decade would pass before this bitter debate on the relationship between national and social revolution was resolved, along the lines initially by Ho, in the formation of the Viet Minh.)
Trên đây chỉ là vài tài liệu trong số hàng trăm tài liệu khác có những nhận định tương tự rải rác trong những cuốn sách mà tôi đã đọc. Lẽ dĩ nhiên, tôi không thể nào trích dẫn tất cả những nhận định ấy trong phạm vi một bài viết như thế này. Điều này đòi hỏi nhiều thời gian và thích hợp trong một cuốn sách viết ông Hồ hơn. Nhưng qua những tài liệu trên, chúng ta có thể thấy rằng ông Hồ không phải là tay sai của Nga và Tàu như một số người có đầu mà không có óc cố tình lên án ông ta là tay sai của Đệ Tam Quốc Tế, hay tệ hơn nữa là “điệp viên của Cộng Sản Quốc tế” [Minh Võ]. Họ không hề biết chính trị của ông Hồ giữa Nga và Tàu, đã khôn khéo từ chối không nhận đề nghị của Nga cũng như Tàu gửi quân tình nguyện vào đánh giúp. Chúng ta hãy đọc một đoạn trong cuốn Ho Chi Minh của Jules Archer, Chương 9: “Giữa Con Gấu Nga Và Con Rồng Tàu” (Between Russian Bear and Chinese Dragon), trang 109:
“Đến Bắc Kinh dự lễ kỷ niệm 10 năm Cách Mạng Trung Quốc, ông Hồ cẩn thận đứng giữa Mao Trạch Đông và đại diện của Nga Sô, Miklai Suslov. Trong những cuộc đàm phán riêng, ông Hồ đã thành công lấy được sự hứa hẹn của cả Bắc Kinh lẫn Moscou để tăng gia giúp thêm vũ khí và viện trợ dân sự, nhưng khôn khéo từ chối những đề nghị gửi quân tình nguyện hay cố vấn quân sự đến Việt Nam. Ông Hồ biết rõ là nếu để cho con gấu Nga hay con rồng Trung Hoa được đặt chân vào cửa ngõ Hà Nội thì dần dần cửa ngõ này sẽ bị cưỡng bách mở rộng ra cho đến khi Bắc Việt mất đi nền độc lập và trở thành một quốc gia bị chiếm.”
(Visiting Peking in 1959 for the 10th anniversary of the Chinese Revolution, Ho was careful to stand between Mao Tse-Tung and Chief Soviet Delegate Mikhail Suslov. In private negotiations, he managed to win pledges of additional arms and aid from both Peking and Moscou, but adroitly declined their offers to send “volunteer” troops or military advisers. Ho knew that if either the Russian bear or the Chinese dragon were allowed to trust a foot inside Hanoi’s door, that door would gradually be forced open until North Vietnam lost its independence and became a captive nation.)
Đọc về ông Hồ chúng ta thấy rõ Mỹ và Pháp, vì những nhận định chính trị sai lầm, đã càng ngày càng đẩy ông ta về phía Cộng Sản, và ông ta không có con đường nào khác, vì để thực hiện mục đích không hề thay đổi của ông là thực hiện nền độc lập và thống nhất của Việt Nam, nên ông ta cần đến các đồng minh. [Hãy nghĩ đến chuyện ông viết 8 bức thư cho Tổng Thống Truman, đến chuyện Mỹ giúp 80% quân phí cho Pháp trở lại tái lập nền đô hộ ở Đông Dương, và rồi dựng lên chế độ Ngô Đình Diệm, vi phạm hiệp định Genève, ngăn chận cuộc bầu cử vào năm 1956 để thống nhất đất nước.]
Cuối cùng, vị thế của ông Hồ Chí Minh đối với dân tộc Việt Nam ra sao? Chúng ta đã biết, Wilfred Burchett đã nhận định ở trên:
Hồ Chí Minh là của toàn thể quốc gia Việt Nam (that Ho Chi Minh belongs to the whole Vietnamese nation.) Không có một lằn danh giới nào ở vĩ tuyến 17 có thể làm cho người dân miền Nam xa lìa Hồ Chí Minh dù rằng thủ đô được đặt ở miền Bắc. Hồ Chí Minh đã được chấp nhận là lãnh tụ và là nguồn cảm hứng cho mọi người Việt Nam – trừ số người đã lần lượt phục vụ những quan thầy Nhật, Pháp, rồi Mỹ.
Nhận định này đúng hay sai? Có lẽ câu trả lời thiết thực nhất là của Hoàng Xuân Ba trong bài “Hai Câu Chuyện Hoàn Toàn Trung Thực”, mới đây đăng trên Đàn Chim Việt:
Chuyện thứ nhất : lá cờ đỏ sao vàng trên mạng:
Trưa 2/9/2006, ngày quốc khánh của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đang nói chuyện với một người bạn Việt Kiều trên Yahoo Messenger (YM) tôi bất ngờ nhận được thông điệp của một người bạn trẻ Việt Nam: “Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta”, kèm theo đó là lời kêu gọi hãy thay đổi avatar (hình ảnh đại diện) trên YM bằng lá cờ đỏ sao vàng, lá cờ biểu trưng cho Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhìn lại danh sách nickname của mình trên YM, tôi thấy rất đông các bạn trẻ thay đổi avatar bằng hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng.
Sáng nay, 4/9/2006, báo Tuổi Trẻ đăng bài: “Mừng Quốc khánh trên mạng”. Trong bài viết này, tác giả mô tả lại hình ảnh nhà nhà treo cờ, người người treo cờ trên mạng: “Lần đầu tiên, cư dân trên mạng đón lễ Quốc khánh hoành tráng bằng cách đưa hình ảnh lá cờ Tổ quốc lên mạn trang trọng trên các blog (nhật ký cá nhân trên mạng) và trên avatar trong công cụ chat YM của mình trong ngày 2-9. Và ngày 3-9, tất cả đều đồng loạt thay vào đó là chân dung của Bác Hồ”.
Chuyện thứ hai : lăng ông Hồ Chí Minh :
Tôi đã có dịp gặp gỡ trên mạng với bạn đọc của DCVOnline gần đây qua bài Tản mạn vể xã hội chủ nghĩa ở Hà Nội, đăng ngày 31/08/2006 (với hàng chục ý kiến khác nhau). Cũng dịp công tác này, tôi tranh thủ được một thời gian ngắn để ghé thăm lăng ông Hồ với mục đích tìm hiểu xem thái độ, tình cảm của người dân Việt Nam và nhất là người dân Hà Nội đối với ông Hồ ra sao. Điều làm tôi thật bất ngờ là có rất nhiều cá nhân đến viếng thăm lăng ông, các đoàn viếng lăng vào ra tấp nập. Để vào thăm lăng của ông tôi được một anh bảo vệ cầm loa phóng thanh bắt phải đứng xếp vào hai hàng dọc, một đặc trưng của xã hội chủ nghĩa, rồi theo đó vào lăng. Quả thật tôi cảm nhận được sự trang nghiêm của lăng mộ ông Hồ và cả sự sùng bái của những người dân bình thường viếng thăm lăng. Một cách tự động, tất cả mọi người đều kính cẩn, nghiêm trang khi đi ngang qua xác ông được đặt trong một cái hòm rất rộng, bốn bên là kính trong suốt. Trông ông không giống như những bức hình chụp mà tôi từng thấy, khuôn mặt trông vẫn còn rất tươi tắn hồng hào nhưng trông giả chứ không thật, có lẽ bị đánh sáp.
Báo chí Việt Nam sáng 4/9/2006 đều đồng loạt đăng tin về việc có hàng vạn người đến viếng thăm lăng ông Hồ. Báo Tuổi Trẻ viết: “Sáng 2/9, đoàn người vào lăng viếng Bác dài ra tận hai phía trên phố Ngọc Hà và Hùng Vương. Đông nhất là các đoàn học sinh và người già từ các tỉnh Thái Nguyên, Hà Tây. Còn có rất nhiều đoàn đến từ tỉnh xa như Cao Bằng, Nghệ An, Quảng Trị, Bình Phước... Có nhiều người nước ngoài cũng đứng trong đoàn người từng bước vào lăng. Khu vực quảng trường trước lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc nào cũng đông kín người”.
Một thông tin đáng chú ý đó là thiếu tướng Đào Hữu Nghĩa, trưởng Ban quản lý lăng kiêm tư lệnh Bộ tư lệnh bảo vệ lăng ông Hồ cho biết đến hết buổi viếng ngày 2/9 chỉ khoảng 25.000 lượt người được vào viếng lăng ông, số còn lại đành phải chờ đến hôm sau. Tôi tin rằng con số trên rất thật bởi vì tôi đã được tận mắt chứng kiến dòng người xếp hàng dài vào viếng lăng ông Hồ, không nhất thiết phải do cơ quan hay các hội đoàn tổ chức.
Duiker cũng viết, trang 566: “Mỗi tuần có hơn 15000 người đến viếng thăm Lăng ông Hồ” (More than 15000 visit the mausoleum each week)
Tại sao ngày nay người dân Việt Nam vẫn còn kính ngưỡng ông Hồ Chí Minh, tuy rằng trên diễn đàn truyền thông hải ngoại có cả một chiến dịch để xóa bỏ “thần tượng Hồ Chí Minh”? Lý do rất dễ hiểu là phần lớn những điều viết về ông Hồ của giới chống Cộng là sai lầm, là vô căn cứ, bắt nguồn từ lòng thù hận một chiều của những người gọi là Quốc Gia, chứ không đặt trên những sự thật và sự kiện lịch sử. Thật vậy, những người chống Cộng cực đoan như Minh Võ chỉ nhìn thấy những điều lặt vặt như chúng ta thấy trong bài ông ta phê bình cuốn “Ho Chi Minh, A Life” của William J. Duiker. Để có thể thêm vài chi tiết về ông Hồ Chí Minh, có lẽ tôi cũng nên điểm qua bài phê bình Duiker của Minh Võ.
Xem tiếp Phần 2
TCN.
(Đọc thêm: http://www.giaodiem.com/doithoaiII/hagiang-hochiminh.htm )
17/8/09
Aleksandr Solzhenitsyn – Con người đã quên Chúa
Aleksandr Solzhenitsyn – Con người đã quên Chúa
Trần Quốc Việt dịch
talawas: Nhà văn Nga Aleksandr Solzhenitsyn, người đoạt Giải Nobel Văn chương năm 1970, đọc bài diễn văn này ở London ngày 10/5/1983, khi nhận Giải thưởng Templeton. Bài diễn văn này trình bày tư tưởng ngày càng trở nên chủ đạo, bị không ít người coi là bảo thủ, thậm chí bảo căn, và gây nhiều tranh cãi của Solzhenitsyn, đó là tìm căn nguyên của mọi đổ vỡ xã hội trong việc xa rời các giá trị tinh thần và đạo đức của Thiên chúa giáo, đặc biệt của Chính giáo Nga, và coi việc trở về với các giá trị này như lối thoát duy nhất cho nước Nga cộng sản mà ông lên án và cho các xã hội phương Tây mà ông phê phán. Chúng tôi giới thiệu bài diễn văn này với hy vọng độc giả tự đi đến nhận định độc lập của mình.
__________
Thuở nhỏ, cách đây hơn nửa thế kỷ, tôi nhớ là thường nghe nhiều người có tuổi đưa ra lời giải thích như sau về những tai ương lớn đã giáng xuống nước Nga: con người đã quên Chúa; vì vậy đã xảy ra mọi cơ sự.
Kể từ đó tôi đã dành gần năm mươi năm nghiên cứu lịch sử cuộc cách mạng của chúng tôi; trong quá trình tìm tòi này tôi đã đọc hàng trăm cuốn sách, sưu tầm được hàng trăm lời chứng thực cá nhân, và đã đóng góp tám cuốn sách của riêng mình vào nỗ lực dọn sạch đống đổ nát tang thương để lại sau cơn bể dâu ấy. Nhưng hôm nay nếu có ai yêu cầu tôi trình bày hết sức cô đọng nguyên nhân chính của cuộc cách mạng hoang tàn mà đã nuốt chửng độ sáu mươi triệu dân chúng tôi, tôi không thể nào diễn đạt chính xác hơn là lặp lại: con người đã quên Chúa; vì vậy đã xảy ra mọi cơ sự.
Hơn nữa, những sự kiện của cuộc Cách mạng Nga giờ đây, ở cuối thế kỷ này, chỉ có thể hiểu được dựa theo bối cảnh của những gì từ đó đã diễn ra ở phần còn lại trên thế giới. Điều xuất hiện ở đây là một quá trình có ý nghĩa chung. Và nếu có ai yêu cầu tôi xác định vắn tắt đặc điểm chính của toàn bộ thế kỷ hai mươi, thì ở đây, tôi cũng không thể nào tìm được lời nào rõ ràng hơn và súc tích hơn là lặp lại: Con người đã quên Chúa.
Những khiếm khuyết của ý thức con người, do bị tước đi chiều sâu đức tin của mình, đã là nhân tố quyết định trong tất cả các tội ác chính của thế kỷ này. Tội ác đầu tiên là Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất, và phần nhiều tình cảnh khó khăn hiện nay có thể lần theo tội đầu tiên này. Đó là một cuộc chiến tranh (ký ức về nó dường như đang mờ nhạt) diễn ra khi châu Âu đang tràn đầy nhựa sống và thịnh vượng lại sa vào cơn tự hủy mà không thể nào không hút đi sức mạnh của nó trong cả thế kỷ hoặc có thể hơn, và có lẽ vĩnh viễn. Lời giải thích duy nhất khả dĩ có cho cuộc chiến này là sự lu mờ tinh thần trong giới lãnh đạo châu Âu, do họ đã mất đi ý thức về một Đấng Tối cao bên trên họ. Chỉ có sự phẫn nộ vô đạo mới có thể khiến các quốc gia bề ngoài theo Thiên chúa giáo sử dụng đến hơi độc, một loại vũ khí rõ ràng là vượt quá giới hạn của lòng nhân đạo.
Vẫn cùng một khuyết điểm này, khiếm khuyết của một ý thức thiếu tất cả chiều sâu của đức tin, đã biểu lộ rõ sau Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, khi phương Tây buông mình theo cám dỗ ma quỷ của “chiếc dù hạt nhân”. Điều đó chẳng khác gì nói rằng: Ta hãy vất đi các lo âu, ta hãy giải phóng các thế hệ trẻ hơn khỏi ràng buộc của bổn phận và trách nhiệm, ta hãy thôi cố gắng bảo vệ chính mình, chứ đừng nói gì đến bảo vệ những kẻ khác – ta hãy bịt tai trước bao rên rỉ từ phương Đông vọng đến, và thay vào đó ta hãy sống để theo đuổi hạnh phúc. Nếu nguy hiểm có đe dọa mình chăng nữa, ta sẽ được bom hạt nhân bảo vệ; rồi nếu chẳng may thế gian có tiêu tan trong biển lửa địa ngục ta cũng chẳng màng đến. Tình trạng bất lực đáng thương nói trên mà phương Tây đương thời đang rơi vào phần lớn là do sai lầm chết người này: niềm tin rằng bảo vệ hoà bình không phụ thuộc vào những tấm lòng can đảm và những con người kiên định, mà chủ yếu phụ thuộc vào bom hạt nhân…
Thế giới ngày nay đang đi đến một giai đoạn mà nếu ta tả ra cho người của các thế kỷ trước biết, họ chắc sẽ than: “Như vậy là Tận thế!”
Tuy nhiên chúng ta đã quen với thế giới như thế; thậm chí chúng ta còn thoải mái sống trong đó.
Dostoevsky đã báo trước rằng “những sự kiện lớn bất ngờ xảy đến với ta khiến ta không chuẩn bị trước về mặt trí thức.” Đây chính là những gì đang xảy ra. Ông tiên đoán rằng “thế giới có thể được cứu rỗi chỉ sau khi nó đã bị con quỷ của cái ác ám.” Chuyện thế giới có thật sự được cứu rỗi hay không, chúng ta còn phải chờ xem: điều này nhất định còn phụ thuộc vào lương tâm, vào sự toả sáng tinh thần, vào những nỗ lực cá nhân và tập thể của chúng ta khi đối mặt với cảnh thảm họa. Nhưng chuyện đã rồi là con quỷ của cái ác, giống như cơn cuồng phong, hiện đang vần vũ ngạo nghễ trên khắp năm châu của thế giới.
Trong quá khứ của mình, nước Nga đã thật sự biết đến một thời kỳ khi lý tưởng xã hội không phải là tiếng tăm, của cải, hay thành đạt vật chất, mà là nếp sống ngoan đạo. Thời đó nước Nga thấm đẫm tinh thần Chính giáo vốn vẫn còn trung thành với Giáo hội của những thế kỷ đầu tiên. Chính giáo lúc đó biết bảo vệ dân tộc mình dưới ách ngoại xâm kéo dài hơn hai thế kỷ, đồng thời cũng chống đỡ lại những nhát gươm tàn bạo từ những thanh kiếm trên tay của những kẻ Thập tự Chinh phương Tây. Trong suốt bao thế kỷ này đức tin Chính giáo đã trở thành một phần nếp nghĩ và tính cách của dân tộc chúng tôi, thành lề thói trong cuộc sống hằng ngày, thành lịch công việc, thành những ưu tiên hơn trong mọi việc đời thường, thành sự xắp xếp lịch cho tuần và cho năm. Đức tin đã là lực thống nhất và định hình của quốc gia.
Nhưng vào thế kỷ thứ 17, Chính giáo Nga suy yếu nghiêm trọng do một sự ly giáo trong nội bộ. Đến thế kỷ thứ 18, đất nước lại rung chuyển dưới một loạt cải cách do vua Peter áp đặt bằng vũ lực. Các chính sách cải cách chú trọng về kinh tế, nhà nước và quân đội nhưng lại hy sinh tinh thần tôn giáo và sinh mạng dân tộc. Cùng với sự khai sáng thiếu cân bằng này, nước Nga đã cảm nhận làn hơi thế tục mà chất độc tinh tế của nó ngấm dần vào tầng lớp có học ở thế kỷ thứ 19 rồi mở đường đến chủ nghĩa Marx. Vào thời điểm của cuộc cách mạng, đức tin đã hầu như biến mất trong giới có học ở Nga; còn trong giới thất học thì sức sống của đức tin đang lâm nguy.
Chính Dostoevsky, lại một lần nữa, rút ra bài học từ cuộc Cách mạng Pháp và từ mối ác cảm của cuộc cách mạng này đối với Nhà thờ là “cách mạng phải nhất thiết bắt đầu bằng chủ nghĩa vô thần.” Điều đó tuyệt đối đúng. Nhưng trước đây thế giới chưa bao giờ từng biết đến một sự vô đạo nào mà có tổ chức, có quân phiệt hoá, và ác dai dẳng cho bằng sự vô đạo mà chủ nghĩa Marx áp dụng. Trong lòng hệ thống triết học của Marx và Lenin, và ở trong cốt lõi tâm lý của họ, ác cảm với Chúa là động lực chính, còn cơ bản hơn tất cả các tuyên bố sai lầm của họ về kinh tế và chính trị. Chủ nghĩa vô thần hung hăng không hẳn là ngẫu nhiên hay là bên lề chính sách cộng sản; nó không phải là một phản ứng phụ, mà là trọng tâm chính.
Vào những năm 1920 ở Liên Xô đã chứng kiến cuộc diễu hành vô tận của những nạn nhân và người tử vì đạo trong giới tu sĩ Chính giáo. Hai người đứng đầu giáo phận tỉnh bị hành quyết, trong đó có ông Veniamin thuộc giáo phận Petrograd, được giáo dân trong giáo phận bầu lên. Chính bản thân đức Tổng Giám mục Tikhon của Mạc Tư Khoa và Toàn Nga đã trải qua nhiều tay công an và mật vụ và rồi qua đời trong hoàn cảnh đáng ngờ. Hàng chục vị Tổng Giám mục và giám mục đã bỏ mạng. Hàng chục ngàn linh mục, thầy dòng, và nữ tu, bị công an ép phải chối bỏ Lời Chúa, bị tra tấn, bị hành quyết ở duới các tầng hầm, bị tống vào các trại tù, bị đày đến các thảo nguyên hoang vu miền cực bắc, hay lúc tuổi già sập đến thì bị đẩy ra lề đường trong cảnh đói khát và không nơi nương tựa. Tất cả những người tử đạo Thiên chúa này, vì lòng tin, đã đi thẳng đến cái chết; các trường hợp chối bỏ đạo ít phổ biến. Riêng đối với hàng chục triệu giáo dân, con đường đến với Giáo hội bị ngăn chặn, và họ bị cấm dạy dỗ đạo cho con: các bậc cha mẹ ngoan đạo bị chia lìa với con cái và bị tống vào tù, còn con họ, do bị đe dọa và bị tuyên truyền dối trá, đã xa rời lòng tin…
Trong một giai đoạn ngắn, khi cần tập hợp sức mạnh cho cuộc đấu tranh chống Hitler, Stalin đã dè dặt chọn một thái độ thân thiện với Giáo hội. Trò gian lận này, trong những năm về sau, được Brezhnev lặp lại nhờ vào các ấn phẩm trưng bày và các hình thức giả dối bề ngoài khác; không may lại khiến phương Tây lầm tưởng mà tin vào giá trị bề mặt của nó. Tuy nhiên sự căm ghét tôn giáo không nguôi, vốn có sẵn trong gốc rễ của chủ nghĩa cộng sản, có thể được phán xét qua trường hợp của Krushchev, nhà lãnh đạo cấp tiến nhất của họ: dù ông ta có thực hiện một số bước có ý nghĩa để mở rộng tự do, nhưng cũng đồng thời làm sống lại trong lòng người cộng sản theo chủ nghĩa Lenin nỗi ám ảnh cuồng nhiệt phải tiêu diệt tôn giáo.
Nhưng có điều họ đã không ngờ: rằng ở nơi nhà thờ đã bị san bằng, nơi chủ nghĩa vô thần đang mặc sức lấn lướt trong hai phần ba thế kỷ, nơi giới tu sĩ hoàn toàn bị khinh rẻ và mất đi tất cả sự độc lập, nơi những gì còn sót lại của Giáo hội như một thể chế, hiện đang được chấp nhận chỉ cho mục đich tuyên truyền nhắm vào phương Tây, nơi đến tận hôm nay vẫn có người bị lưu đày đến các trại lao động vì lòng tin của mình, và nơi mà ngay cả bên trong các trại này, những ai tụ họp lại để cầu nguyện vào dịp lễ Phục sinh, đều bị tát tai trong những xà lim kỷ luật – họ không thể hình dung rằng ở dưới cỗ xe ủi cộng sản này truyền thống Thiên chúa ở Nga vẫn sống sót. Đành rằng có hàng triệu đồng bào chúng tôi đã bị sa đọa và suy sụp về đức tin, tuy nhiên vẫn còn có hàng triệu tín hữu khác: chỉ vì do áp lực bên ngoài mà không dám bày tỏ công khai chính kiến của mình, nhưng cũng đúng như trong thời truy bức và khổ nạn, ý thức về Chúa ở nước tôi đã đạt đến mức độ tinh tế hơn và sâu sắc hơn nhiều.
Chính ở đây chúng ta nhìn thấy bình minh của hy vọng: vì cho dù chủ nghĩa cộng sản có dàn trải tua tủa đáng sợ ra bao xe tăng và hỏa tiễn, cho dù nó có đạt đến thắng lợi nào trong việc cướp được hành tinh này, nó nhất định không bao giờ khuất phục được Thiên chúa giáo.
Phương Tây chưa kinh qua một cuộc xăm lăng cộng sản; tôn giáo ở đây vẫn còn tự do. Nhưng sự tiến hoá lịch sử của chính phương Tây là sự tiến hoá để rồi hôm nay nó cũng đang trải qua một sự khô cạn về ý thức tôn giáo. Phương Tây cũng chứng kiến những sự ly giáo đau đớn, những cuộc chiến tranh tôn giáo đẫm máu, và hận thù, chưa nói đến cơn lũ thế tục mà, từ thời Trung cổ trở đi, đã từ từ tràn ngập phương Tây. Đối với lòng tin, sự suy kiệt dần sức mạnh bên trong là một mối đe dọa thậm chí còn nguy hiểm hơn bất kỳ toan tính tấn công dữ dội nào từ bên ngoài.
Trải qua hàng chục năm xói mòn dần dần trong âm thầm lặng lẽ, giờ đây ý nghĩa cuộc sống ở phương Tây không còn gì cao quý hơn là “mưu cầu hạnh phúc”, một mục tiêu thậm chí được bảo đảm trân trọng trong các hiến pháp. Bao khái niệm về Thiện và Ác đã bị chế giễu suốt trong vài thế kỷ; do bị tách rời khỏi cách dùng thông thường, các khái niệm này đã bị thay thế bằng những nhân tố vốn yểu mệnh về giá trị như chính trị và giai cấp. Ta thấy ngượng ngập khi nói rằng cái Ác ngự trong lòng cá nhân trước khi nó bước vào hệ thống chính trị. Tuy nhiên ta chẳng xem là xấu hổ khi có những nhượng bộ hời hợt trước một cái Ác hoàn toàn. Xét theo vô số nhượng bộ tuôn trào ra không ngớt như đất lở ngay trước mắt của chính thế hệ chúng ta, phương Tây tất yếu đang trôi dần đến vực thẳm. Xã hội phương Tây ngày càng mất đi càng nhiều cốt lõi tôn giáo của họ khi họ vô tư buông xuôi thế hệ trẻ hơn của mình cho chủ nghĩa vô thần. Nếu một cuốn phim báng bổ Chúa Jesus được chiếu rộng rãi khắp nước Mỹ, đáng ngờ là một trong những nước sùng đạo nhất thế giới, hay một tờ báo lớn đăng một biếm họa trơ trẽn về Đức Mẹ Đồng trinh, ta còn cần gì thêm nữa bằng chứng về sự vô đạo? Khi những quyền bên ngoài hoàn toàn không bị giới hạn, tại sao ta nên cố gắng trong lòng để tránh làm những điều xấu xa?
Hay tại sao ta nên kìm nén hận thù nung nấu trong lòng, dù cở sở của nó có là chủng tộc, giai cấp hay ý thức hệ đi chăng nữa? Lòng hận thù như thế trong thực tế đang làm xói mòn bao tấm lòng ngày hôm nay. Những người thầy vô thần ở phương Tây đang dạy dỗ thế hệ trẻ hơn theo tinh thần hận thù đối với chính xã hội của họ. Trong cái ồn ào của bao lời lẽ kết án đó, chúng ta quên rằng các khiếm khuyết của chủ nghĩa tư bản thể hiện các khiếm khuyết cơ bản trong bản chất con người, cho phép tự do không giới hạn cùng với nhiều nhân quyền; song chúng ta quên rằng dưới chủ nghĩa cộng sản (và chủ nghĩa cộng sản thấp thoáng ngay đằng sau tất cả các hình thức trung dung của chủ nghĩa xã hội, mà không ổn định) vẫn các khiếm khuyết giống hệt như vậy nhưng lại đầy rẫy ở bất kỳ những ai có chút tí ti quyền lực; mặc dù mọi người khác dưới chế độ đó thật sự đang đạt đến sự “bình đẳng” – bình đẳng của những nô lệ bần hàn. Sự thổi bùng lên náo nức ngọn lửa hận thù này đang trở thành dấu ấn của thế giới tự do hôm nay. Sự thật là các tự do cá nhân càng mở rộng hơn, mức độ thịnh vượng hay thậm chí giàu có càng cao hơn, thì nghịch lý thay, lòng hận thù mù quáng này càng sâu sắc hơn. Như vậy qua tấm gương của chính mình, phương Tây, ở giai đoạn đã phát triển hiện nay, minh chứng rằng sự cứu rỗi của con người không thể nào tìm thấy ở sự dư thừa về của cải vật chất hay ở chỉ sự kiếm tiền đơn thuần.
Sự thù hận được nuôi dưỡng cố ý này rồi lan đến tất cả những gì hiện hữu, đến chính cuộc sống, đến thế giới muôn màu, muôn vẻ, và muôn thanh, đến cả thân xác con người. Nghệ thuật chua chát trong thế kỷ hai mươi đang lụi tàn do cái hận thù xấu xí này, vì nghệ thuật là vô ích nếu không có tình yêu. Tại phương Đông, nghệ thuật đã sụp đổ vì nó đã bị đánh gục và bị chà đạp, nhưng tại phương Tây sự sa ngã này có tính chất tự nguyện, một sự suy tàn vào một cuộc tìm tòi cầu kỳ và hợm hĩnh nơi người nghệ sĩ, thay vì cố gắng hé lộ ra thiên cơ, lại cố đặt mình vào địa vị của Chúa.
Ở đây, một lần nữa chúng ta chứng kiến một kết cục duy nhất của một quá trình diễn ra trên khắp thế giới, với phương Đông và phương Tây tạo ra cùng kết quả, và một lần nữa cho cùng một lý do: con người đã quên Chúa.
Với những sự kiện toàn cầu nói trên lờ mờ hiện ra trước mặt chúng ta sừng sững như núi, không, như toàn bộ cả dãy núi, có thể dường như lạc lõng và không thích hợp khi ta nhớ lại rằng lời giải chính cho sự tồn tại và phi tồn tại của chúng ta nằm ở trong lòng mỗi cá nhân con người, nằm ở sự chọn lựa trong từng tấm lòng đó điều Thiện và điều Ác cụ thể. Tuy nhiên lời giải này đến cả hôm nay vẫn còn đúng, và thật sự là lời giải đáng tin tưởng nhất mà chúng ta có. Các lý thuyết xã hội đã hứa hẹn rất nhiều giờ đây chứng tỏ là đã phá sản, khiến chúng ta rơi vào ngõ cụt. Người ta có thể mong đợi hợp lý rằng người dân tự do phương Tây nhận thức họ đang bị vây quanh bởi vô số những giả dối vốn được nuôi dưỡng một cách tự do, và sẽ không cho phép những lời dối trá áp đặt gian lận quá dễ dàng lên họ. Tất cả các cố gắng để tìm lối thoát khỏi hoàn cảnh không may của thế giới hôm nay đều vô ích trừ phi chúng ta, trong sám hối, chuyển hướng ý thức của chúng ta đến Đấng Sáng tạo ra vũ trụ: nếu không có điều này, sẽ không có ánh sáng nào soi rọi lối ra, và chúng ta sẽ tìm kiếm trong vô vọng. Tài sản chúng ta đã để riêng ra cho chính mình thật quá khiêm nhường cho nhiệm vụ gian nan này. Trước tiên chúng ta phải thừa nhận nỗi kinh hoàng ấy không phải do thế lực bên ngoài nào đó gây ra, không phải do kẻ thù dân tộc hay giai cấp, mà do trong từng mỗi cá nhân chúng ta, và trong mỗi xã hội. Điều này đặc biệt đúng với một xã hội tự do và đã phát triển cao, vì đặc biệt ở đây chúng ta chắc chắn đã tạo ra mọi thứ cho mình, đúng với sự chọn lựa tự do của chính mình. Chính chúng ta, trong sự ích kỷ vô tâm hàng ngày của mình, đã vô tình xiết chặt thêm cái thòng lọng đó…
Cuộc đời chúng ta không gói ghém trong mưu cầu thành đạt về vật chất mà trong nỗ lực tìm kiếm sự phát triển tinh thần xứng đáng. Toàn bộ kiếp người của chúng ta trên trần thế này chỉ là một giai đoạn quá độ trong sự vận động hướng tới điều gì đó cao hơn, và chúng ta không được chao đảo vấp ngã, chúng ta cũng không được nán lại vô ích trên một nấc thang nào của chiếc thang này. Chỉ riêng quy luật về vật chất không giải thích được hay định hướng được cuộc đời chúng ta. Quy luật về vật lý và sinh lý nhất định không bao giờ hé lộ bằng cách chắc chắn nào mà Đấng Tạo hóa đã đều đặn, hết ngày này đến ngày khác, tham dự vào cuộc đời của mỗi người trong chúng ta, luôn luôn ban cho chúng ta năng lượng của sự tồn tại; khi sự giúp đỡ này rời bỏ chúng ta, chúng ta chết. Và trong cuộc sống của toàn thể hành tinh của chúng ta, Thánh linh chắc chắn tác động cũng không kém phần mạnh mẽ hơn: điều này chúng ta phải thấu hiểu trong thời khắc tăm tối và khiếp sợ của mình.
Đối với bao hy vọng hão huyền trong hai thế kỷ vừa qua, những hy vọng đã rút chúng ta xuống thành vô nghĩa và đưa chúng ta tới gần cái chết hạt nhân và phi hạt nhân, chúng ta có thể chỉ đề nghị một sự tìm kiếm bền lòng bàn tay ấm áp của Chúa, mà chúng ta đã chối bỏ một cách quá vội vàng và quá tự tin. Chỉ có như thế, mắt chúng ta mới nhìn thấy được các sai lầm trong thế kỷ hai mươi bất hạnh này và chúng ta hãy liên kết lại để chấn chỉnh những sai lầm này. Ngoài ra chẳng còn gì khác hơn để cho ta bám vào trong cơn đất lở này: tư tưởng kết hợp lại của tất cả các triết gia Khai sáng chẳng là gì hết.
Năm châu chúng ta đang ở giữa trận cuồng phong. Nhưng chính qua các thử thách như thế tính cách cao quý nhất của con người mới thể hiện. Nếu chúng ta lụi tàn và thua cuộc trong thế giới này, lỗi ấy hoàn toàn thuộc về chúng ta.
Nguồn: Dịch từ bản tiếng Anh “Godlessness, the First Step to the Gulag” của A. Klimof năm 1983
Bản tiếng Việt © 2009 Trần Quốc Việt
© talawas 2009
25/7/09
Ý nghĩa sâu xa của câu chuyện Người mù sờ voi
Ý nghĩa sâu xa của câu chuyện Người mù sờ voi
Vietsciences- La Thiếu Bình 07/07/2009
Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn 大般涅槃经 do ngài Đàm Vô Sấm 昙无谶 (Dharmaraksa) pháp sư người Ấn, dịch ra Hoa ngữ và Kinh Trường A Hàm của Phật Giáo có kể truyện như sau:
Con voi và sáu người mù
Ngày xưa có một ông vua minh triết, thấy các đại thần của mình thường bảo thủ cố chấp các hiểu biết nhỏ hẹp của mình, bèn sai người dắt đến một con voi thật lớn và một bọn người mù bẩm sinh, để cho họ sờ voi. Sau đó vua hỏi: "Các ông đã biết con voi là như thế nào chưa?"
- Biết rồi! Bọn người mù đáp.
- Thế voi như thế nào?
- Voi xem ra như cái đòn xóc. Người sờ ngà voi bảo.
- Voi như cái quạt. Người sờ tai nói.
- Voi như tảng đá. Người sờ đầu voi đáp.
Người sờ vòi lại bảo: "Voi giống như cái chày".
- Voi giống như cái hộp gỗ. Người sờ mắt voi nói.
- Không phải. Voi như cái giường. Người sờ lưng voi khẳng định.
- Theo tôi con voi như cái thùng to. Người sờ bụng voi kêu lên.
- Đừng cãi nhau nữa, con voi như sợi dây thừng. Người sờ đuôi xác nhận.
Nhà vua nghe bọn mù tranh cãi nhau, cảm khái nói:
Người mù đều rất đông
Tranh nhau nói sự thật
Voi vốn chỉ một thân
Thị phi lại bất đồng
Chúng ta hầu như ai cũng biết câu truyện này, nhưng có lẽ ít người hiểu ý nghĩa vô cùng sâu xa về mặt triết lý của nó. Chúng ta, những nhà chính trị, nhà triết học, nhà khoa học, nhà giáo dục…và những người bình thường khác trong xã hội đều giống như những người mù đó, chúng ta mò mẫm để hiểu thế giới tự nhiên và xã hội, đưa ra kiến giải và áp dụng các mô hình để phát triển xã hội. Hầu hết chúng ta đều bị rơi vào chủ nghĩa hình thức, hay nói chính xác hơn là mắc bệnh hình thức.
Các nhà toán học như David Hilbert (1) muốn xây dựng một lâu đài toán học thông suốt, có thể dùng logic để giải quyết mọi thứ, nhưng thất bại, di lụy của nó là Tân toán học và lý thuyết tập hợp chỉ đem lại gánh nặng vô ích cho học sinh. Các nhà vật lý học như Albert Einstein muốn đưa ra một lý thuyết trường thống nhất để giải thích thông suốt mọi hiện tượng trong vũ trụ, nhưng đến cuối đời ông cũng chịu thất bại không thể hoàn tất công trình, mà cho đến nay và mãi mãi về sau, không ai có thể hoàn thành. Lý thuyết về logic được ứng dụng rộng rãi hiện nay, có thể coi là cự phách nhất, chính là hệ điều hành của các máy vi tính, nhưng cũng không thể cho là hoàn hảo, vì cũng có lúc máy không thể giải đáp được yêu cầu và bị treo, hoặc dễ thấy nhất là đưa ra thông báo không thể làm được.
Sở dĩ tất cả mọi người đều chịu thất bại khi họ muốn dùng cái trí tuệ hiểu biết của mình để giải quyết mọi hiện tượng trong vũ trụ, đó là do sự giới hạn của tri thức. Tất cả mọi tri thức đều rơi vào chủ nghĩa hình thức, tức mắc bệnh hình thức. Người ta dùng logic suy luận để đi từ hình thức này qua hình thức kia với nhận thức là tương đương hay bằng nhau, nhưng không bao giờ đi được đến tận cùng vì hình thức là vô cùng, luôn luôn biến động trong không gian và thời gian, không thể khẳng định được và do đó không bao giờ hiểu được cái toàn thể. Điều này đã được Kurt Gödel (2) phát biểu và chứng minh thành “Định lý bất toàn” công bố năm 1931. Định lý này được phát biểu thành 2 phần :
Định lý 1 : Nếu một lý thuyết dựa trên một hệ tiên đề phi mâu thuẫn thì trong lý thuyết ấy luôn luôn tồn tại những mệnh đề không thể chứng minh cũng không thể bác bỏ.
Định lý 2 : Không tồn tại bất cứ một quy trình suy diễn nào cho phép chứng minh tính phi mâu thuẫn của một hệ tiên đề.
Trước Kurt Gödel mấy ngàn năm, Phật Giáo cũng đã đề cập đến điều này. Kinh Bát nhã ba la mật đa nói : “Chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt bất cấu bất tịnh bất tăng bất giảm, thị cố không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức , vô nhãn nhĩ tị thiệt thân ý , vô sắc thanh hương vị xúc pháp…”
Dịch nghĩa : Các pháp (vạn sự vạn vật) không có hình tướng, không sanh không diệt, không dơ không sạch, không tăng không giảm, như vậy trong cái không, không có vật chất, không có các cảm giác như thọ (tiếp xúc), tưởng (tưởng tượng), hành ( chuyển động, hoạt động), thức (phân biệt), không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân xác, ý thức, không có các đối tượng của các giác quan là sắc (vật chất), thanh (âm thanh), hương (mùi hương), vị ( vị giác của lưỡi), xúc ( cảm giác của thân thể), pháp ( đối tượng của ý thức)…
Đức Phật đã giải thích nguồn gốc của thế giới, vũ trụ, vạn vật, là do 12 nhân duyên nhưng đó cũng chỉ là tạm bợ chứ không phải rốt ráo, đó là tương đối, giải thích cho người bình thường tạm hiểu, không thể tuyệt đối hóa. Trong Bát Nhã Tâm Kinh thì Phật phủ định nhân duyên (phi nhân duyên) qua câu trích ở trên, đồng thời cũng phủ định tự nhiên (phi tự nhiên) Trí óc con người không làm sao hiểu nổi vì cái chân lý toàn thể là phi logic, không có không gian, thời gian, số lượng, tất cả tri kiến đều vô dụng. Tri kiến chỉ có giá trị trong một bối cảnh nhỏ hẹp, tương đối, có không gian, thời gian, số lượng, còn nếu muốn tuyệt đối hóa, muốn lập nên một lý thuyết có giá trị phổ quát khắp không gian thời gian chỉ là ảo tưởng. Einstein đã theo đuổi cái ảo tưởng đó, cố xây dựng lý thuyết về Trường Thống Nhất cho tới khi qua đời vào năm 1955, đành chịu thất bại, bởi vì ông không tin vào Định Lý Bất Toàn của Kurt Gödel công bố năm 1931.
Ý trong Tâm Kinh nói là bản thể của thế giới là không, không có gì cả, chúng ta thấy có đủ thứ như sơn hà đại địa, sinh vật, con người, nhà cửa xe cộ…đó là do bệnh hình thức. Bệnh này kinh Phật gọi là “ thế lưu bố tưởng” tức là căn bệnh tưởng tượng đã lưu truyền phổ biến ở thế gian. Thật ra thế lưu bố tưởng chưa hẳn là bệnh, đó là nhận thức tuy lầm lạc (vì vô minh) nhưng còn là tướng mạnh và vô hại, nó là cái dụng của Tâm cũng tức là của cái Chân Lý “Tâm như hư không vô sở hữu”, chỉ có thái độ chấp trước cho là nhận thức đó đúng 100%, có thật 100% không một chút nghi ngờ gì mới đích thực là tướng bệnh và có hại, kinh Phật gọi là bệnh “trước tưởng” tức là cố chấp cho là có thật. Điều này cũng giống như kẻ ngốc cho rằng những hiện tượng trên màn hình vi tính là hoàn toàn có thật, không biết đó là ảo. Với trí bát nhã, Phật thấy các hiện tượng trong thế giới đời thường cũng là ảo, chẳng khác mấy với với các hiện tượng mà ta thấy ngày nay trên máy vi tính, nó chỉ có cao cấp hơn, các cảm giác đồng bộ của lục căn (mắt tai mũi lưỡi, thân xác, ý thức) khi tiếp xúc với lục trần (sắc thanh hương vị xúc pháp) khiến con người có cảm giác tất cả đều có thật.
Chính vì bản chất của thế giới là không, không có bắt đầu, không có kết thúc, nên tất cả mọi hiện tượng đều nằm trên một vòng tròn luân hồi, không có lối ra. Phật giáo gọi vòng tròn luân hồi đó là “mở mắt chiêm bao” tức là chúng ta chiêm bao giữa ban ngày mà không hay.
Bệnh hình thức là gì ? Đó là bệnh cố chấp vào hình thức, chúng ta là những người mù sờ voi, con voi tượng trưng cho cái chân lý toàn thể, tri thức của ta là sự mò mẫm từ hình thức này qua hình thức khác của cái toàn thể đó mà không bao giờ nắm được toàn thể. Hãy khảo sát một thí dụ để thấy rõ bệnh hình thức là như thế nào. Nước là gì ?
Một ly nước đối với người bình thường thì đó là nước có thể dùng để giải khát, để tắm rửa giặt giũ, để sản xuất công nông nghiệp, còn đối với nhà hóa học thì đó là H2O, có thể phân tích thành hai loại khí là hydro và oxy. Nếu đi sâu hơn nữa thì cấu tạo của nguyên tử hydro gồm có 1 hạt nhân bao gồm 1 proton ở trung tâm, và 1 hạt electron quay xung quanh ở khoảng cách rất xa, như vậy nguyên tử thật ra là trống rỗng. Hydro có 2 chất đồng vị trong thiên nhiên là deutérium và tritium. Nhân của deutérium có 1 proton và 1 neutron, còn nhân của tritium có 1 proton và 2 neutron. Deutérium có thể kết hợp với oxy để thành nước nặng thường được dùng làm chất điều hòa trong các lò phản ứng nguyên tử. Tritium kết hợp với oxy thì thành nước siêu nặng.
Nguyên tử hydrogen và 2 đồng vị của nó là deutérium và tritium. Cấu tạo nguyên tử cho thấy vật chất trống rỗng chứ không phải đặc cứng như ta cảm giác.
Đi sâu hơn nữa vào hạt nhân nguyên tử ta thấy :
Hạt proton gồm 3 hạt quark :2up+1down
Hạt neutron cũng gồm 3 hạt quark :1up+2down
Kích thước của hạt quark cực kỳ nhỏ. Để hình dung, ta lấy nguyên tử carbon vốn đã rất nhỏ (0,5 nm -nano mét, 1nm= một phần tỉ mét), phóng đại bằng kích thước quả địa cầu (phóng đại cỡ 24 triệu tỉ tức 24x1015 lần) thì thấy hạt quark có kích thước chưa tới 5 ly (mm).
Nếu ta chỉ thấy nước là nước để ăn uống và sinh hoạt, đó là ta đã mắc bệnh hình thức, tức là bám chặt vào một hình thức của vật chất, giống như người mù sờ voi, không biết rằng bản thể của nước là các hạt quark và electron. Nhưng hạt quark không thể đứng một mình nghĩa là không thể độc lập tồn tại, hai hạt quark kết hợp với nhau mới thành hạt meson (gồm 1 quark và 1 phản quark, hạt này chỉ tồn tại một phần nghìn tỉ giây dưới dạng vật chất. Tương tác của các hạt quark rất phức tạp, lực kết nối chúng là lực tương tác mạnh được thực thi bởi một loại hạt trao đổi là gluon, khi tách 2 quark rời xa nhau thì lực này rất mạnh đến vô hạn nên không thể tách được gọi là hiện tượng giam hãm –confinement- còn khi chúng tiến sát nhau thì lực này bằng 0, bán kính tương tác của lực này chỉ khoảng một phần triệu tỉ mét, tức 10-15 m, ngoài khoảng cách này, lực gần như biến mất) ba hạt quark kết hợp với nhau mới thành hạt baryon, hai loại hạt baryon cơ bản nhất là hạt proton và hạt neutron, gọi chung là hadron nằm trong hạt nhân nguyên tử. Đó rõ ràng mang ý nghĩa nhân duyên hay sanh diệt. Một hạt quark đơn lẻ không thể độc lập tồn tại, phải có yếu tố nhân duyên kết hợp hai hay ba hạt quark mới sanh ra vật chất. Nếu tách rời các hạt quark thì vật chất biến mất. Khi phân tích cơ cấu nguyên tử, người ta thấy rằng phần lớn khối lượng nguyên tử nằm ở hạt nhân. Trong hạt nhân, proton có khối lượng gấp 1836 lần electron (điện tử) còn neutron có khối lượng gấp 1839 lần electron. Như vậy ta thấy khối lượng của electron rất khiêm tốn so với hạt nhân. Tuy nhiên vai trò của hạt electron trong cơ chế tạo ra cảm giác của các giác quan mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể thì lại rất lớn. Tất cả những cảm nhận giác quan của chúng ta về vật chất, kể cả các hóa tính và lý tính của từng loại nguyên tố, đều do đám mây electron chuyển động rất nhanh quanh hạt nhân tạo ra, tất nhiên đám mây đó được sắp xếp thế nào cũng tùy thuộc hạt nhân. Như vậy bản chất của cảm giác là điện (electron là điện tử mang điện tích âm) đó là một loại ảo giác rất kỳ diệu, rất rõ ràng, rất khác biệt nhau khiến cho đại đa số người và tất cả loài vật đều tưởng là thật.
Trở lại vấn đề nước là gì, ta chỉ có thể trả lời một cách hời hợt đó là chất lỏng thiết yếu cho đời sống sinh vật, dùng để uống, sinh hoạt và sản xuất. Câu trả lời đó tất nhiên là mắc bệnh hình thức. Đó là thế lưu bố tưởng, còn nếu ta tin chắc 100% là nước có thật thì đó là trước tưởng, một căn bệnh hình thức rất trầm trọng của chúng sinh nói chung và con người nói riêng. Nó sẽ dẫn tới khổ do Sinh, Lão, Bệnh, Tử, tới chiến tranh do tranh giành tài nguyên, lãnh thổ, lãnh hải, đất đai, nhà cửa, tài sản, tới đủ thứ thiên tai, nhân họa. Chứ nếu đi sâu nghiên cứu đến tận cùng bản thể thì không thể trả lời được nước thực sự là gì. Nói đó là H2O thì chỉ là một hình thức nông cạn, chưa đầy đủ. Nói đó là một kiểu tập hợp của các hạt proton, neutron và electron cũng chưa đủ. Nói đó là một kiểu tập hợp của các hạt quark và electron cũng chưa hẳn là tận cùng, bởi vì khi tách rời được các hạt quark như Trương Bảo Thắng đã từng biểu diễn khi đi xuyên qua tường của Đại Lễ Đường Nhân Dân Bắc Kinh năm 1982, thì vật chất biến mất hoàn toàn, trở thành không, thân thể anh ta và bức tường đều biến mất, anh ta có thể đi xuyên qua tường dễ dàng để xuất hiện lại bên trong. Nói tóm lại, tất cả chúng ta (chỉ trừ Đức Phật và các vị Tổ Sư Thiền đã giác ngộ như Huệ Năng, Đơn Điền, Hám Sơn, Nguyệt Khê…) đều chỉ là những người mù sờ voi, không biết con voi thực sự như thế nào, không thể xác định được. Chính vì vậy Kinh Kim Cang mới có câu “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” Phải không có chỗ trụ mới ngộ ra cái tâm ấy, bởi vì nếu có chỗ trụ thì mắc bệnh hình thức, bệnh trước tưởng, không phải chân lý.
Định lý bất toàn của Kurt Gödel là sự xác nhận khoa học rằng tri thức của con người là có hạn, không thể đạt tới cái toàn thể bằng trí óc phân tích, con người có thể dùng cái đã biết, suy luận bằng logic ra cái chưa biết nhưng không bao giờ đạt tới cái biết trọn vẹn. Tuy nhiên không phải vì thế mà con người bó tay, thực nghiệm của các nhà tu hành Phật Giáo chứng tỏ rằng có thể đạt tới cái toàn thể bằng cách chấm dứt tư duy, bởi vì suy luận chính là sở tri chướng, là áng mây đen che lấp mặt trời, ngừng tư duy tức là quét sạch đám mây đó để mặt trời chân lý tự hiện ra. Giác ngộ là thoát khỏi luân hồi, thoát khỏi cái vòng tròn luẩn quẩn. Nói thoát khỏi cũng chỉ là một cách diễn tả tạm bợ, thật ra luân hồi không có thật, thế giới vũ trụ cũng chỉ là huyễn ảo không có thật. Khoa học không thể nào tách rời được các hạt quark trong hạt proton và neutron vì phải cần tới một năng lượng vô hạn, nhưng bằng phương pháp tâm linh, Đức Phật và các vị Tổ Sư Thiền làm được, một vài người có công năng đặc dị như Trương Bảo Thắng cũng làm được. Khi làm được như vậy họ mới thấu hiểu rằng vũ trụ chỉ là huyễn ảo không có thật. Các nhà khoa học, các nhà duy vật, trái lại tin chắc rằng thế giới vũ trụ là có thật, họ đều là những người mù sờ voi, mắc bệnh trước tưởng mà không tự biết. Chính vì nhận ra vũ trụ là không có thật nên ngài Hộ Pháp (Dharmapàla), xuất phát từ ý nghĩa của bộ kinh Duy thức tam thập tụng (zh. 唯識三十頌, sa. triṁśikā-vijñaptimātratāsiddhi-kārikā) của Bồ Tát Thế Thân (世親 Vasubandhu), đã viết bộ “Thành duy thức luận” mà ngài Huyền Trang đã dịch ra Hán văn trong đó có câu tổng kết “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức” (Ba cõi -dục giới, sắc giới, vô sắc giới- đều là tâm, vạn vật đều là do tâm thức biến hiện”
Vị Tổ thứ 6 của Thiền Tông Trung Quốc là Huệ Năng, sống vào đời Đường, cùng thời với nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên, là một trong những người nổi tiếng nhất đã làm được điều đó, tức là ngộ cái chân lý toàn thể mà Thiền gọi là Kiến tánh thành Phật (Phật chỉ có nghĩa là người giác ngộ). Ông biết trước ngày viên tịch và căn dặn đệ tử cứ để y nguyên thân xác ông sau khi tịch diệt ở tư thế ngồi kiết già. Nhục thân đó trở thành bất hoại, không cần bất cứ sự can thiệp nào từ bên ngoài, đến nay trải qua 1300 năm, nhục thân bất hoại của Huệ Năng vẫn còn nguyên vẹn, được thờ tại chùa Nam Hoa gần Quảng Châu, Trung Quốc, cùng với nhục thân bất hoại của Hám Sơn và Đơn Điền. Còn nhục thân của Nguyệt Khê (tịch năm 1965) thì thờ tại chùa Vạn Phật ở Hong Kong. Các vị Tổ Sư để lại nhục thân bất hoại nhằm mục đích làm niềm tin cho đời sau, để chứng tỏ rằng những điều họ nói là có cơ sở.
Kurt Gödel : (1906-1978) Nhà toán học người Mỹ gốc Áo, tác giả của Định Lý Bất Toàn.
David Hilbert : (1862-1943) là người đứng đầu nhóm “Xây dựng một hệ thống siêu-toán-học (meta-mathematics) – một hệ thống toán học tuyệt đối siêu hình, tuyệt đối thoát ly khỏi thế giới hiện thực, cho phép XÁC ĐỊNH tính trắng/đen, đúng/sai của bất kỳ một mệnh đề toán học nào và chứng minh tính phi mâu thuẫn của toàn bộ toán học.”
Mục đích của Hilbert không bao giờ đạt được vì đó chỉ là ảo tưởng như Định Lý Bất Toàn của Gödel đã chỉ ra.
Tài liệu tham khảo :
“Mr Why” & Định Lý Bất Toàn của Phạm Việt Hưng- Vietsciences
Wikipedia
© http://vietsciences.free.fr và http://vietsciences.org La Thiếu Bình
Vietsciences- La Thiếu Bình 07/07/2009
Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn 大般涅槃经 do ngài Đàm Vô Sấm 昙无谶 (Dharmaraksa) pháp sư người Ấn, dịch ra Hoa ngữ và Kinh Trường A Hàm của Phật Giáo có kể truyện như sau:
Con voi và sáu người mù
Ngày xưa có một ông vua minh triết, thấy các đại thần của mình thường bảo thủ cố chấp các hiểu biết nhỏ hẹp của mình, bèn sai người dắt đến một con voi thật lớn và một bọn người mù bẩm sinh, để cho họ sờ voi. Sau đó vua hỏi: "Các ông đã biết con voi là như thế nào chưa?"
- Biết rồi! Bọn người mù đáp.
- Thế voi như thế nào?
- Voi xem ra như cái đòn xóc. Người sờ ngà voi bảo.
- Voi như cái quạt. Người sờ tai nói.
- Voi như tảng đá. Người sờ đầu voi đáp.
Người sờ vòi lại bảo: "Voi giống như cái chày".
- Voi giống như cái hộp gỗ. Người sờ mắt voi nói.
- Không phải. Voi như cái giường. Người sờ lưng voi khẳng định.
- Theo tôi con voi như cái thùng to. Người sờ bụng voi kêu lên.
- Đừng cãi nhau nữa, con voi như sợi dây thừng. Người sờ đuôi xác nhận.
Nhà vua nghe bọn mù tranh cãi nhau, cảm khái nói:
Người mù đều rất đông
Tranh nhau nói sự thật
Voi vốn chỉ một thân
Thị phi lại bất đồng
Chúng ta hầu như ai cũng biết câu truyện này, nhưng có lẽ ít người hiểu ý nghĩa vô cùng sâu xa về mặt triết lý của nó. Chúng ta, những nhà chính trị, nhà triết học, nhà khoa học, nhà giáo dục…và những người bình thường khác trong xã hội đều giống như những người mù đó, chúng ta mò mẫm để hiểu thế giới tự nhiên và xã hội, đưa ra kiến giải và áp dụng các mô hình để phát triển xã hội. Hầu hết chúng ta đều bị rơi vào chủ nghĩa hình thức, hay nói chính xác hơn là mắc bệnh hình thức.
Các nhà toán học như David Hilbert (1) muốn xây dựng một lâu đài toán học thông suốt, có thể dùng logic để giải quyết mọi thứ, nhưng thất bại, di lụy của nó là Tân toán học và lý thuyết tập hợp chỉ đem lại gánh nặng vô ích cho học sinh. Các nhà vật lý học như Albert Einstein muốn đưa ra một lý thuyết trường thống nhất để giải thích thông suốt mọi hiện tượng trong vũ trụ, nhưng đến cuối đời ông cũng chịu thất bại không thể hoàn tất công trình, mà cho đến nay và mãi mãi về sau, không ai có thể hoàn thành. Lý thuyết về logic được ứng dụng rộng rãi hiện nay, có thể coi là cự phách nhất, chính là hệ điều hành của các máy vi tính, nhưng cũng không thể cho là hoàn hảo, vì cũng có lúc máy không thể giải đáp được yêu cầu và bị treo, hoặc dễ thấy nhất là đưa ra thông báo không thể làm được.
Sở dĩ tất cả mọi người đều chịu thất bại khi họ muốn dùng cái trí tuệ hiểu biết của mình để giải quyết mọi hiện tượng trong vũ trụ, đó là do sự giới hạn của tri thức. Tất cả mọi tri thức đều rơi vào chủ nghĩa hình thức, tức mắc bệnh hình thức. Người ta dùng logic suy luận để đi từ hình thức này qua hình thức kia với nhận thức là tương đương hay bằng nhau, nhưng không bao giờ đi được đến tận cùng vì hình thức là vô cùng, luôn luôn biến động trong không gian và thời gian, không thể khẳng định được và do đó không bao giờ hiểu được cái toàn thể. Điều này đã được Kurt Gödel (2) phát biểu và chứng minh thành “Định lý bất toàn” công bố năm 1931. Định lý này được phát biểu thành 2 phần :
Định lý 1 : Nếu một lý thuyết dựa trên một hệ tiên đề phi mâu thuẫn thì trong lý thuyết ấy luôn luôn tồn tại những mệnh đề không thể chứng minh cũng không thể bác bỏ.
Định lý 2 : Không tồn tại bất cứ một quy trình suy diễn nào cho phép chứng minh tính phi mâu thuẫn của một hệ tiên đề.
Trước Kurt Gödel mấy ngàn năm, Phật Giáo cũng đã đề cập đến điều này. Kinh Bát nhã ba la mật đa nói : “Chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt bất cấu bất tịnh bất tăng bất giảm, thị cố không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức , vô nhãn nhĩ tị thiệt thân ý , vô sắc thanh hương vị xúc pháp…”
Dịch nghĩa : Các pháp (vạn sự vạn vật) không có hình tướng, không sanh không diệt, không dơ không sạch, không tăng không giảm, như vậy trong cái không, không có vật chất, không có các cảm giác như thọ (tiếp xúc), tưởng (tưởng tượng), hành ( chuyển động, hoạt động), thức (phân biệt), không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân xác, ý thức, không có các đối tượng của các giác quan là sắc (vật chất), thanh (âm thanh), hương (mùi hương), vị ( vị giác của lưỡi), xúc ( cảm giác của thân thể), pháp ( đối tượng của ý thức)…
Đức Phật đã giải thích nguồn gốc của thế giới, vũ trụ, vạn vật, là do 12 nhân duyên nhưng đó cũng chỉ là tạm bợ chứ không phải rốt ráo, đó là tương đối, giải thích cho người bình thường tạm hiểu, không thể tuyệt đối hóa. Trong Bát Nhã Tâm Kinh thì Phật phủ định nhân duyên (phi nhân duyên) qua câu trích ở trên, đồng thời cũng phủ định tự nhiên (phi tự nhiên) Trí óc con người không làm sao hiểu nổi vì cái chân lý toàn thể là phi logic, không có không gian, thời gian, số lượng, tất cả tri kiến đều vô dụng. Tri kiến chỉ có giá trị trong một bối cảnh nhỏ hẹp, tương đối, có không gian, thời gian, số lượng, còn nếu muốn tuyệt đối hóa, muốn lập nên một lý thuyết có giá trị phổ quát khắp không gian thời gian chỉ là ảo tưởng. Einstein đã theo đuổi cái ảo tưởng đó, cố xây dựng lý thuyết về Trường Thống Nhất cho tới khi qua đời vào năm 1955, đành chịu thất bại, bởi vì ông không tin vào Định Lý Bất Toàn của Kurt Gödel công bố năm 1931.
Ý trong Tâm Kinh nói là bản thể của thế giới là không, không có gì cả, chúng ta thấy có đủ thứ như sơn hà đại địa, sinh vật, con người, nhà cửa xe cộ…đó là do bệnh hình thức. Bệnh này kinh Phật gọi là “ thế lưu bố tưởng” tức là căn bệnh tưởng tượng đã lưu truyền phổ biến ở thế gian. Thật ra thế lưu bố tưởng chưa hẳn là bệnh, đó là nhận thức tuy lầm lạc (vì vô minh) nhưng còn là tướng mạnh và vô hại, nó là cái dụng của Tâm cũng tức là của cái Chân Lý “Tâm như hư không vô sở hữu”, chỉ có thái độ chấp trước cho là nhận thức đó đúng 100%, có thật 100% không một chút nghi ngờ gì mới đích thực là tướng bệnh và có hại, kinh Phật gọi là bệnh “trước tưởng” tức là cố chấp cho là có thật. Điều này cũng giống như kẻ ngốc cho rằng những hiện tượng trên màn hình vi tính là hoàn toàn có thật, không biết đó là ảo. Với trí bát nhã, Phật thấy các hiện tượng trong thế giới đời thường cũng là ảo, chẳng khác mấy với với các hiện tượng mà ta thấy ngày nay trên máy vi tính, nó chỉ có cao cấp hơn, các cảm giác đồng bộ của lục căn (mắt tai mũi lưỡi, thân xác, ý thức) khi tiếp xúc với lục trần (sắc thanh hương vị xúc pháp) khiến con người có cảm giác tất cả đều có thật.
Chính vì bản chất của thế giới là không, không có bắt đầu, không có kết thúc, nên tất cả mọi hiện tượng đều nằm trên một vòng tròn luân hồi, không có lối ra. Phật giáo gọi vòng tròn luân hồi đó là “mở mắt chiêm bao” tức là chúng ta chiêm bao giữa ban ngày mà không hay.
Bệnh hình thức là gì ? Đó là bệnh cố chấp vào hình thức, chúng ta là những người mù sờ voi, con voi tượng trưng cho cái chân lý toàn thể, tri thức của ta là sự mò mẫm từ hình thức này qua hình thức khác của cái toàn thể đó mà không bao giờ nắm được toàn thể. Hãy khảo sát một thí dụ để thấy rõ bệnh hình thức là như thế nào. Nước là gì ?
Một ly nước đối với người bình thường thì đó là nước có thể dùng để giải khát, để tắm rửa giặt giũ, để sản xuất công nông nghiệp, còn đối với nhà hóa học thì đó là H2O, có thể phân tích thành hai loại khí là hydro và oxy. Nếu đi sâu hơn nữa thì cấu tạo của nguyên tử hydro gồm có 1 hạt nhân bao gồm 1 proton ở trung tâm, và 1 hạt electron quay xung quanh ở khoảng cách rất xa, như vậy nguyên tử thật ra là trống rỗng. Hydro có 2 chất đồng vị trong thiên nhiên là deutérium và tritium. Nhân của deutérium có 1 proton và 1 neutron, còn nhân của tritium có 1 proton và 2 neutron. Deutérium có thể kết hợp với oxy để thành nước nặng thường được dùng làm chất điều hòa trong các lò phản ứng nguyên tử. Tritium kết hợp với oxy thì thành nước siêu nặng.
Nguyên tử hydrogen và 2 đồng vị của nó là deutérium và tritium. Cấu tạo nguyên tử cho thấy vật chất trống rỗng chứ không phải đặc cứng như ta cảm giác.
Đi sâu hơn nữa vào hạt nhân nguyên tử ta thấy :
Hạt proton gồm 3 hạt quark :2up+1down
Hạt neutron cũng gồm 3 hạt quark :1up+2down
Kích thước của hạt quark cực kỳ nhỏ. Để hình dung, ta lấy nguyên tử carbon vốn đã rất nhỏ (0,5 nm -nano mét, 1nm= một phần tỉ mét), phóng đại bằng kích thước quả địa cầu (phóng đại cỡ 24 triệu tỉ tức 24x1015 lần) thì thấy hạt quark có kích thước chưa tới 5 ly (mm).
Nếu ta chỉ thấy nước là nước để ăn uống và sinh hoạt, đó là ta đã mắc bệnh hình thức, tức là bám chặt vào một hình thức của vật chất, giống như người mù sờ voi, không biết rằng bản thể của nước là các hạt quark và electron. Nhưng hạt quark không thể đứng một mình nghĩa là không thể độc lập tồn tại, hai hạt quark kết hợp với nhau mới thành hạt meson (gồm 1 quark và 1 phản quark, hạt này chỉ tồn tại một phần nghìn tỉ giây dưới dạng vật chất. Tương tác của các hạt quark rất phức tạp, lực kết nối chúng là lực tương tác mạnh được thực thi bởi một loại hạt trao đổi là gluon, khi tách 2 quark rời xa nhau thì lực này rất mạnh đến vô hạn nên không thể tách được gọi là hiện tượng giam hãm –confinement- còn khi chúng tiến sát nhau thì lực này bằng 0, bán kính tương tác của lực này chỉ khoảng một phần triệu tỉ mét, tức 10-15 m, ngoài khoảng cách này, lực gần như biến mất) ba hạt quark kết hợp với nhau mới thành hạt baryon, hai loại hạt baryon cơ bản nhất là hạt proton và hạt neutron, gọi chung là hadron nằm trong hạt nhân nguyên tử. Đó rõ ràng mang ý nghĩa nhân duyên hay sanh diệt. Một hạt quark đơn lẻ không thể độc lập tồn tại, phải có yếu tố nhân duyên kết hợp hai hay ba hạt quark mới sanh ra vật chất. Nếu tách rời các hạt quark thì vật chất biến mất. Khi phân tích cơ cấu nguyên tử, người ta thấy rằng phần lớn khối lượng nguyên tử nằm ở hạt nhân. Trong hạt nhân, proton có khối lượng gấp 1836 lần electron (điện tử) còn neutron có khối lượng gấp 1839 lần electron. Như vậy ta thấy khối lượng của electron rất khiêm tốn so với hạt nhân. Tuy nhiên vai trò của hạt electron trong cơ chế tạo ra cảm giác của các giác quan mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể thì lại rất lớn. Tất cả những cảm nhận giác quan của chúng ta về vật chất, kể cả các hóa tính và lý tính của từng loại nguyên tố, đều do đám mây electron chuyển động rất nhanh quanh hạt nhân tạo ra, tất nhiên đám mây đó được sắp xếp thế nào cũng tùy thuộc hạt nhân. Như vậy bản chất của cảm giác là điện (electron là điện tử mang điện tích âm) đó là một loại ảo giác rất kỳ diệu, rất rõ ràng, rất khác biệt nhau khiến cho đại đa số người và tất cả loài vật đều tưởng là thật.
Trở lại vấn đề nước là gì, ta chỉ có thể trả lời một cách hời hợt đó là chất lỏng thiết yếu cho đời sống sinh vật, dùng để uống, sinh hoạt và sản xuất. Câu trả lời đó tất nhiên là mắc bệnh hình thức. Đó là thế lưu bố tưởng, còn nếu ta tin chắc 100% là nước có thật thì đó là trước tưởng, một căn bệnh hình thức rất trầm trọng của chúng sinh nói chung và con người nói riêng. Nó sẽ dẫn tới khổ do Sinh, Lão, Bệnh, Tử, tới chiến tranh do tranh giành tài nguyên, lãnh thổ, lãnh hải, đất đai, nhà cửa, tài sản, tới đủ thứ thiên tai, nhân họa. Chứ nếu đi sâu nghiên cứu đến tận cùng bản thể thì không thể trả lời được nước thực sự là gì. Nói đó là H2O thì chỉ là một hình thức nông cạn, chưa đầy đủ. Nói đó là một kiểu tập hợp của các hạt proton, neutron và electron cũng chưa đủ. Nói đó là một kiểu tập hợp của các hạt quark và electron cũng chưa hẳn là tận cùng, bởi vì khi tách rời được các hạt quark như Trương Bảo Thắng đã từng biểu diễn khi đi xuyên qua tường của Đại Lễ Đường Nhân Dân Bắc Kinh năm 1982, thì vật chất biến mất hoàn toàn, trở thành không, thân thể anh ta và bức tường đều biến mất, anh ta có thể đi xuyên qua tường dễ dàng để xuất hiện lại bên trong. Nói tóm lại, tất cả chúng ta (chỉ trừ Đức Phật và các vị Tổ Sư Thiền đã giác ngộ như Huệ Năng, Đơn Điền, Hám Sơn, Nguyệt Khê…) đều chỉ là những người mù sờ voi, không biết con voi thực sự như thế nào, không thể xác định được. Chính vì vậy Kinh Kim Cang mới có câu “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” Phải không có chỗ trụ mới ngộ ra cái tâm ấy, bởi vì nếu có chỗ trụ thì mắc bệnh hình thức, bệnh trước tưởng, không phải chân lý.
Định lý bất toàn của Kurt Gödel là sự xác nhận khoa học rằng tri thức của con người là có hạn, không thể đạt tới cái toàn thể bằng trí óc phân tích, con người có thể dùng cái đã biết, suy luận bằng logic ra cái chưa biết nhưng không bao giờ đạt tới cái biết trọn vẹn. Tuy nhiên không phải vì thế mà con người bó tay, thực nghiệm của các nhà tu hành Phật Giáo chứng tỏ rằng có thể đạt tới cái toàn thể bằng cách chấm dứt tư duy, bởi vì suy luận chính là sở tri chướng, là áng mây đen che lấp mặt trời, ngừng tư duy tức là quét sạch đám mây đó để mặt trời chân lý tự hiện ra. Giác ngộ là thoát khỏi luân hồi, thoát khỏi cái vòng tròn luẩn quẩn. Nói thoát khỏi cũng chỉ là một cách diễn tả tạm bợ, thật ra luân hồi không có thật, thế giới vũ trụ cũng chỉ là huyễn ảo không có thật. Khoa học không thể nào tách rời được các hạt quark trong hạt proton và neutron vì phải cần tới một năng lượng vô hạn, nhưng bằng phương pháp tâm linh, Đức Phật và các vị Tổ Sư Thiền làm được, một vài người có công năng đặc dị như Trương Bảo Thắng cũng làm được. Khi làm được như vậy họ mới thấu hiểu rằng vũ trụ chỉ là huyễn ảo không có thật. Các nhà khoa học, các nhà duy vật, trái lại tin chắc rằng thế giới vũ trụ là có thật, họ đều là những người mù sờ voi, mắc bệnh trước tưởng mà không tự biết. Chính vì nhận ra vũ trụ là không có thật nên ngài Hộ Pháp (Dharmapàla), xuất phát từ ý nghĩa của bộ kinh Duy thức tam thập tụng (zh. 唯識三十頌, sa. triṁśikā-vijñaptimātratāsiddhi-kārikā) của Bồ Tát Thế Thân (世親 Vasubandhu), đã viết bộ “Thành duy thức luận” mà ngài Huyền Trang đã dịch ra Hán văn trong đó có câu tổng kết “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức” (Ba cõi -dục giới, sắc giới, vô sắc giới- đều là tâm, vạn vật đều là do tâm thức biến hiện”
Vị Tổ thứ 6 của Thiền Tông Trung Quốc là Huệ Năng, sống vào đời Đường, cùng thời với nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên, là một trong những người nổi tiếng nhất đã làm được điều đó, tức là ngộ cái chân lý toàn thể mà Thiền gọi là Kiến tánh thành Phật (Phật chỉ có nghĩa là người giác ngộ). Ông biết trước ngày viên tịch và căn dặn đệ tử cứ để y nguyên thân xác ông sau khi tịch diệt ở tư thế ngồi kiết già. Nhục thân đó trở thành bất hoại, không cần bất cứ sự can thiệp nào từ bên ngoài, đến nay trải qua 1300 năm, nhục thân bất hoại của Huệ Năng vẫn còn nguyên vẹn, được thờ tại chùa Nam Hoa gần Quảng Châu, Trung Quốc, cùng với nhục thân bất hoại của Hám Sơn và Đơn Điền. Còn nhục thân của Nguyệt Khê (tịch năm 1965) thì thờ tại chùa Vạn Phật ở Hong Kong. Các vị Tổ Sư để lại nhục thân bất hoại nhằm mục đích làm niềm tin cho đời sau, để chứng tỏ rằng những điều họ nói là có cơ sở.
Kurt Gödel : (1906-1978) Nhà toán học người Mỹ gốc Áo, tác giả của Định Lý Bất Toàn.
David Hilbert : (1862-1943) là người đứng đầu nhóm “Xây dựng một hệ thống siêu-toán-học (meta-mathematics) – một hệ thống toán học tuyệt đối siêu hình, tuyệt đối thoát ly khỏi thế giới hiện thực, cho phép XÁC ĐỊNH tính trắng/đen, đúng/sai của bất kỳ một mệnh đề toán học nào và chứng minh tính phi mâu thuẫn của toàn bộ toán học.”
Mục đích của Hilbert không bao giờ đạt được vì đó chỉ là ảo tưởng như Định Lý Bất Toàn của Gödel đã chỉ ra.
Tài liệu tham khảo :
“Mr Why” & Định Lý Bất Toàn của Phạm Việt Hưng- Vietsciences
Wikipedia
© http://vietsciences.free.fr và http://vietsciences.org La Thiếu Bình
22/7/09
"The Great Dictator" by Charlie Chaplin
Final Speech of "The Great Dictator" (also known as "Look Up, Hannah" ) by Charlie Chaplin
Schulz: Speak - it is our only hope.
The Jewish Barber (Charlie Chaplin's character): Hope... I'm sorry but I don't want to be an Emperor - that's not my business - I don't want to rule or conquer anyone. I should like to help everyone if possible, Jew, gentile, black man, white. We all want to help one another, human beings are like that.
We all want to live by each other's happiness, not by each other's misery. We don't want to hate and despise one another. In this world there is room for everyone and the earth is rich and can provide for everyone.
The way of life can be free and beautiful.
But we have lost the way.
Greed has poisoned men's souls - has barricaded the world with hate; has goose-stepped us into misery and bloodshed.
We have developed speed but we have shut ourselves in: machinery that gives abundance has left us in want. Our knowledge has made us cynical, our cleverness hard and unkind. We think too much and feel too little: More than machinery we need humanity; More than cleverness we need kindness and gentleness. Without these qualities, life will be violent and all will be lost.
The aeroplane and the radio have brought us closer together. The very nature of these inventions cries out for the goodness in men, cries out for universal brotherhood for the unity of us all. Even now my voice is reaching millions throughout the world, millions of despairing men, women and little children, victims of a system that makes men torture and imprison innocent people. To those who can hear me I say "Do not despair".
The misery that is now upon us is but the passing of greed, the bitterness of men who fear the way of human progress: the hate of men will pass and dictators die and the power they took from the people, will return to the people and so long as men die [now] liberty will never perish...
Soldiers - don't give yourselves to brutes, men who despise you and enslave you - who regiment your lives, tell you what to do, what to think and what to feel, who drill you, diet you, treat you as cattle, as cannon fodder.
Don't give yourselves to these unnatural men, machine men, with machine minds and machine hearts. You are not machines. You are not cattle. You are men. You have the love of humanity in your hearts. You don't hate - only the unloved hate. Only the unloved and the unnatural. Soldiers - don't fight for slavery, fight for liberty.
In the seventeenth chapter of Saint Luke it is written " the kingdom of God is within man " - not one man, nor a group of men - but in all men - in you, the people.
You the people have the power, the power to create machines, the power to create happiness. You the people have the power to make life free and beautiful, to make this life a wonderful adventure. Then in the name of democracy let's use that power - let us all unite. Let us fight for a new world, a decent world that will give men a chance to work, that will give you the future and old age and security. By the promise of these things, brutes have risen to power, but they lie. They do not fulfil their promise, they never will. Dictators free themselves but they enslave the people. Now let us fight to fulfil that promise. Let us fight to free the world, to do away with national barriers, do away with greed, with hate and intolerance. Let us fight for a world of reason, a world where science and progress will lead to all men's happiness.
Soldiers - in the name of democracy, let us all unite!
Look up! Look up! The clouds are lifting - the sun is breaking through. We are coming out of the darkness into the light. We are coming into a new world. A kind new world where men will rise above their hate and brutality.
The soul of man has been given wings - and at last he is beginning to fly. He is flying into the rainbow - into the light of hope - into the future, that glorious future that belongs to you, to me and to all of us. Look up. Look up."
Compiled & posted by : Tran Ho Dung .
Schulz: Speak - it is our only hope.
The Jewish Barber (Charlie Chaplin's character): Hope... I'm sorry but I don't want to be an Emperor - that's not my business - I don't want to rule or conquer anyone. I should like to help everyone if possible, Jew, gentile, black man, white. We all want to help one another, human beings are like that.
We all want to live by each other's happiness, not by each other's misery. We don't want to hate and despise one another. In this world there is room for everyone and the earth is rich and can provide for everyone.
The way of life can be free and beautiful.
But we have lost the way.
Greed has poisoned men's souls - has barricaded the world with hate; has goose-stepped us into misery and bloodshed.
We have developed speed but we have shut ourselves in: machinery that gives abundance has left us in want. Our knowledge has made us cynical, our cleverness hard and unkind. We think too much and feel too little: More than machinery we need humanity; More than cleverness we need kindness and gentleness. Without these qualities, life will be violent and all will be lost.
The aeroplane and the radio have brought us closer together. The very nature of these inventions cries out for the goodness in men, cries out for universal brotherhood for the unity of us all. Even now my voice is reaching millions throughout the world, millions of despairing men, women and little children, victims of a system that makes men torture and imprison innocent people. To those who can hear me I say "Do not despair".
The misery that is now upon us is but the passing of greed, the bitterness of men who fear the way of human progress: the hate of men will pass and dictators die and the power they took from the people, will return to the people and so long as men die [now] liberty will never perish...
Soldiers - don't give yourselves to brutes, men who despise you and enslave you - who regiment your lives, tell you what to do, what to think and what to feel, who drill you, diet you, treat you as cattle, as cannon fodder.
Don't give yourselves to these unnatural men, machine men, with machine minds and machine hearts. You are not machines. You are not cattle. You are men. You have the love of humanity in your hearts. You don't hate - only the unloved hate. Only the unloved and the unnatural. Soldiers - don't fight for slavery, fight for liberty.
In the seventeenth chapter of Saint Luke it is written " the kingdom of God is within man " - not one man, nor a group of men - but in all men - in you, the people.
You the people have the power, the power to create machines, the power to create happiness. You the people have the power to make life free and beautiful, to make this life a wonderful adventure. Then in the name of democracy let's use that power - let us all unite. Let us fight for a new world, a decent world that will give men a chance to work, that will give you the future and old age and security. By the promise of these things, brutes have risen to power, but they lie. They do not fulfil their promise, they never will. Dictators free themselves but they enslave the people. Now let us fight to fulfil that promise. Let us fight to free the world, to do away with national barriers, do away with greed, with hate and intolerance. Let us fight for a world of reason, a world where science and progress will lead to all men's happiness.
Soldiers - in the name of democracy, let us all unite!
Look up! Look up! The clouds are lifting - the sun is breaking through. We are coming out of the darkness into the light. We are coming into a new world. A kind new world where men will rise above their hate and brutality.
The soul of man has been given wings - and at last he is beginning to fly. He is flying into the rainbow - into the light of hope - into the future, that glorious future that belongs to you, to me and to all of us. Look up. Look up."
Compiled & posted by : Tran Ho Dung .
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)