2/11/13

Bùi Văn Phú - Tháng 11 và cái chết của hai tổng thống

Nhà báo tự do Bùi Văn Phú
Cập nhật: 08:12 GMT - thứ bảy, 2 tháng 11, 2013



Cái chết của Tổng thống Ngô Đình Diệm đến nay vẫn còn nhiều uẩn khúc
50 năm về trước. 1-11-1963 là một ngày nắng đẹp ở Sài Gòn.
Tôi và mấy đứa trẻ đang quây quần bên sân nhà đứa bạn hàng xóm để xem bố và bác của nó xây chiếc bể cá. Với đám trẻ con như chúng tôi lúc đó, nếu trong nhà có được một chiếc bể nuôi mấy con cá vàng, cá chim, cá bảy mầu thì đó là niềm mơ ước lớn của tuổi thơ.
Bỗng dưng nghe tiếng súng nổ liên thanh. Nhìn lên trời có khói hình nấm nổ ra. Người lớn bảo đó là súng phòng không và bàn tán với nhau không biết chuyện gì đang xảy ra. Tin đồn về đảo chánh đã râm ran trong dân chúng lúc gần đây.
Những tháng qua, nhiều cuộc xuống đường chống chính phủ diễn ra tại Sài Gòn và những thành phố lớn như Đà Nẵng, Huế. Đoàn biểu tình với nhiều nhà sư, sinh viên đòi Tổng thống Ngô Đình Diệm chấm dứt đàn áp và tôn trọng quyền tự do tôn giáo.
Ông Diệm đã đặt người thân vào những vị trí lãnh đạo vì thế chính quyền của ông bị cho là mang tính độc tài, gia đình trị. Đây là điều không đẹp đối với người Mỹ đang yểm trợ miền Nam Việt Nam xây dựng dân chủ và đấu tranh chống cộng sản độc tài từ phía Bắc muốn tràn xuống phiá Nam vĩ tuyến 17.
Sau khi đảo chánh thành công, báo chí Sài Gòn dưới sự kiểm soát của Hội đồng Quân nhân Cách mạng đưa tin Tổng thống Diệm và bào đệ là Cố vấn Ngô Đình Nhu đã tự tử. Nhưng tôi nghe hàng xóm nói là ông Diệm chưa chết mà đã được đưa ra nước ngoài, ở Phi Luật Tân hay Úc. Một ngày nào đó ông sẽ trở về.

Diễn biến thật sự?

Sau đọc sách vở mới biết chuyện anh em họ Ngô tự tử là một cố gắng che dấu sự thực của những tướng lãnh đạo đảo chính.
Anh em nhà Ngô đã bị giết vào sáng ngày 2-11-1963 trong một xe thiết giáp khi hai tay bị trói chặt.
Theo tác phẩm President Kennedy của Richard Reeves thì Đại sứ mới nhận chức Henry Cabot Lodge biết về việc giết anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm.
"Bất cứ vì nguyên do nào đã đưa đến cái chết của Tổng thống Diệm và Tổng thống Kennedy trong tháng Mười Một oan nghiệt nửa thế kỷ trước, hệ quả là Hoa Kỳ và Việt Nam đã rơi vào một cơn lốc chính trị và một cuộc chiến mãi mãi làm thay đổi lịch sử hai quốc gia."
Khi được các tướng lãnh yêu cầu đưa ông Diệm và Nhu ra nước ngoài, nhà ngoại giao Mỹ đã trả lời rằng phải mất 24 tiếng đồng hồ mới có máy bay. Không lâu sau khi nghe được những lời này từ Đại sứ Lodge, anh em nhà Ngô bị thảm sát.
Một người anh em khác là Ngô Đình Cẩn, Đại biểu miền Trung của chế độ, đã vào Tòa Tổng lãnh sự Mỹ ở Huế xin tị nạn nhưng ông đã bị giao lại cho các tướng lãnh. Hệ quả là ông Cẩn lãnh án tử hình ít tháng sau đảo chánh. Giới quân nhân cầm quyền lúc bấy giờ đã nhanh chóng xử bắn ông trong nhà giam Chí Hòa. Sự việc đánh dấu việc loại bỏ ngay toàn bộ gia đình họ Ngô ra khỏi sân khấu chính trị Việt Nam.
Cho đến ngày nay, các tài liệu lịch sử vẫn chưa soi rõ ai trực tiếp ra lệnh giết anh em nhà Ngô khi họ đã đầu hàng phe đảo chánh.
Diễn biến xảy ra theo nhiều sách vở ghi lại là sau khi Tổng thống Diệm gọi điện báo cho các tướng phe đảo chánh biết ông đang ở đâu, Tướng Dương Văn Minh đã ra lệnh cho Tướng Mai Hữu Xuân và người cận vệ là Đại úy Nhảy dù Nguyễn Văn Nhung đến đón anh em ông Diệm ở nhà thờ Cha Tam trong khu vực người Hoa ở Chợ Lớn.
Chuyện gì thực sự xảy ra sau khi anh em nhà Ngô lên chiếc thiết vận xa M-113 để được giới quân đội đưa về Bộ Tổng tham mưu thì đến nay cũng chưa rõ. Có phải Tướng Mai Hữu Xuân đã ra lệnh giết Tổng thống Diệm vì cho đến lúc lên xe, ông Diệm còn nói với những người đến đón là ông vẫn còn là tổng thống? Hay Tướng Xuân muốn chiếm đoạt cặp xách tay của ông Diệm với của cải trong đó? Những người có mặt trong đoàn đi đón, như Đại úy Nhung đã chính tay nổ súng, dùng dao đâm hai ông, hay đại úy chỉ là tòng phạm nhận lệnh từ cấp trên? Mà ai là cấp trên đã ra lệnh giết anh em nhà Ngô, Tướng Dương Văn Minh trực tiếp ra lệnh cho Đại úy Nhung hay Đại úy Nhung nhận lệnh từ Tướng Xuân?
Sau khi đảo chánh thành công, Đại tướng Dương Văn Minh lên cầm quyền chỉ được vài tháng. Tướng Minh xuống, Đại úy Nhung cũng chết một cách khó hiểu, bị cho là treo cổ chết trong khi đang bị những sĩ quan an ninh quân đội thẩm vấn.
Đại úy Nhung chết bí hiểm. Sau này Đại tướng Dương Văn Minh cũng qua đời đem theo những bí mật về cái chết của gia đình họ Ngô.
Trong một lần tham dự hội nghị về chiến tranh Việt Nam tổ chức tại Hoa Kỳ vào thập niên 1990, gặp cựu giám đốc CIA William Colby và cũng là trưởng cơ quan tình báo Mỹ ở Sài Gòn từ 1959 đến 1962, tôi có nêu câu hỏi ai ra lệnh giết ông Diệm, ông trả lời là Big Minh, tức Đại tướng Dương Văn Minh. Tôi nghe nhưng cũng chỉ coi đó như là một câu trả lời chạy tội cho người Mỹ vì sau khi đảo chánh thành công, Mỹ đã thưởng cho các tướng nhiều nghìn đô-la.

Tổng thống Hoa Kỳ John F. Kennedy cũng bị ám sát trong tháng 11 năm 1963

'Chung định mệnh'

Ai đã ra lệnh giết anh em nhà Ngô cho đến nay vẫn còn là những dấu hỏi. Cái chết của Tổng thống Diệm cũng còn nhiều bí ẩn, như cái chết của Tổng thống John F. Kennedy ba tuần sau đó.
Sau khi anh em nhà Ngô bị giết, Kennedy cũng gặp chung một định mệnh bởi những viên đạn của Lee Harvey Oswald trong một ngày thứ Sáu nắng đẹp 22-11-1963 ở Thành phố Dallas, Texas.
Khi hay tin Kennedy bị ám sát chết, các tướng lãnh cầm quyền ở Sài Gòn đã đặt tên một quảng trường ở trung tâm thành phố, ngay sau lưng Nhà thờ Đức Bà, là “Công trường Kennedy” để tưởng nhớ ông.
Về cái chết của Tổng thống Ngô Đình Diệm, ở Việt Nam không có những nỗ lực điều tra cho đến ngọn nguồn. Với Tổng thống John F. Kennedy đã có Ủy ban Warren được lập ra nhưng cũng chỉ đưa đến kết luận là Oswald hành động một mình.
Tuy nhiên, đã có nhiều giả thuyết. Như là cái chết của Kennedy có liên hệ với Cuba, với các băng đảng mafia ở Mỹ hay với giới tài phiệt quân sự. Cũng có luận cứ cho rằng không chỉ một mình Oswald nổ súng từ lầu cao của tòa nhà dùng làm kho sách mà còn có tay súng thứ hai đã tham gia vào việc ám sát Kennedy.
Với hệ quả của thất bại trong cuộc chiến Việt Nam, dư luận Mỹ vẫn thường tranh luận nếu Kennedy còn sống thì cuộc diện chiến tranh Việt Nam sẽ ra sao. Có luận cứ tin rằng với bản lĩnh cuốn hút dân chúng, nếu còn sống Tổng thống John F. Kennedy đã có thể rút 16 nghìn cố vấn Mỹ khỏi Việt Nam và chấm dứt trong danh dự sự can thiệp của Hoa Kỳ vào vùng đất này.
"Tôi vẫn tự hỏi, nếu không có tháng Mười Một oan nghiệt đó, bạn bè tuổi thơ của tôi nhiều đứa có phải chết trên chiến trường. Và tôi bây giờ là ai trên quê hương mình."
Đối với người Việt, cũng có luận cứ rằng Tổng thống Diệm là người ái quốc được kính trọng, nếu không bị lật đổ và giết chết, ông đã có thể bảo vệ miền Nam khỏi bị cộng sản xâm lăng.
Tuy nhiên cũng có luận điểm rằng dù còn hay mất Tổng thống Diệm thì miền Nam trước sau cũng rơi vào tay cộng sản, vì những người lãnh đạo Hà Nội đã ra quyết nghị, nhiều năm trước khi cuộc đảo chánh xảy ra, là lập đường mòn Hồ Chí Minh và phải giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước bằng mọi giá.
Bất cứ vì nguyên do nào đã đưa đến cái chết của Tổng thống Diệm và Tổng thống Kennedy trong tháng Mười Một oan nghiệt nửa thế kỷ trước, hệ quả là Hoa Kỳ và Việt Nam đã rơi vào một cơn lốc chính trị và một cuộc chiến mãi mãi làm thay đổi lịch sử hai quốc gia.
Riêng tôi vẫn tự hỏi, nếu không có tháng Mười Một oan nghiệt đó, bạn bè tuổi thơ của tôi nhiều đứa có phải chết trên chiến trường. Và tôi bây giờ là ai trên quê hương mình.
Bài viết thể hiện quan điểm và văn phong của tác giả, một nhà báo tự do hiện sống tại vùng Vịnh San Francisco, California.

Source  :  BBC 

Văn Cầm Hải - Ngô Đình Diệm và cuộc chiến kiến quốc


Văn Cầm Hải
Texas Tech University, USA

1/11/2013

Tổng thống Ngô Đình Diệm hồi năm 1955, ít phút sau một âm mưu ám sát ông


Đã tròn năm thập kỷ trôi qua kể từ khi cố tổng thống Ngô Đình Diệm, người sáng lập Việt Nam Cộng Hòa bị ám sát trong một cuộc đảo chính quân sự với sự tiếp tay của Hoa Kỳ.

Diệm cũng được miêu tả như là một sản phẩm truyền thống của đạo Thiên Chúa và Khổng Giáo, đại diện cho sự hòa trộn giữa tư tưởng phương Tây và phương Đông trong tiến trình xây dựng một chính quyền chống cộng sản ở Đông Nam Á.
Trong mắt các sử gia phương Tây và Việt Nam thời hậu thuộc địa, Ngô Đình Diệm là một con rối của Mỹ, gắn liền ý nghĩa trong một cụm từ đầy mỉa mai và thóa mạ là “bè lũ Mỹ-Diệm”, và rằng chính phủ của Diệm cũng chỉ là một sự sáng tạo của Hoa Kỳ phục vụ cho mục đích địa chiến lược trong Chiến tranh lạnh.
Phủ nhận những quan điểm này, trong Misalliance: Ngo Dinh Diem, the United States, and the Fate of South Vietnam ( tạm dịch: Cuộc hôn nhân không tương xứng: Ngô Đình Diệm, Hoa Kỳ, và số phận Miền nam Việt Nam), Miller đưa ra một cách giải thích mới về Ngô Đình Diệm và mối quan hệ của ông ta với Hoa Kỳ, được soi sáng từ những điểm nhìn văn hóa chính trị của Việt Nam.[1]
Đóng góp nổi bật nhất của tác giả là cung cấp một sự diễn giải tinh vi và công phu về mối xung đột giữa Diệm - Chiến lược kiến quốc của ông, và phía đồng minh Hoa Kỳ.

Ngô Đình Diệm là một nhà trị quốc hiện đại

Tác giả đã khẳng định rằng vị lãnh đạo của nền Đệ nhất Cộng hòa là một nhà trị quốc hiện đại với những viễn kiến riêng và mới mẻ về quốc gia, khác xa với quan điểm của Hoa Kỳ.
Dù cùng chung mục tiêu chống Cộng sản nhưng hai đồng minh vẫn thường xuyên xảy ra những bất đồng, tạo nên những xung đột và cạnh tranh liên quan đến những vấn đề cốt lõi mà Miller gọi là: “Nguyên lý kiến quốc”, vốn đã hình thành và chi phối toàn bộ lịch sử quan hệ đồng minh giữa Hoa Kỳ và Diệm từ lúc mới hình thành cho đến lúc lụi tàn, biểu hiện cho cuộc xung đột giữa các sứ mệnh của nền văn minh hơn là giữa các nền văn minh.
Nghiên cứu quá trình xung đột từ góc nhìn chính trị và luân lý, quốc gia và cá nhân, đặt nó trong bối cảnh lịch sử của Việt Nam và quan hệ quốc tế của Hoa Kỳ, Miller đã phô bày những va chạm trong nhận thức và động lực về tư tưởng chính trị, chiến lược quân sự, khủng hoảng tôn giáo, và chương trình xây dựng kinh tế xã hội ở vùng nông thôn.
Sự xung khắc này không chỉ làm cho liên minh Mỹ-Diệm sụp đổ vào năm 1963 mà còn góp phần làm thay đổi kết quả cuộc chiến.

Tư tưởng chính trị và tôn giáo của Diệm

"Theo Miller, kế thừa tinh thần quốc gia mạnh mẽ và lòng mộ đạo Thiên chúa của người cha Ngô Đình Khả, Diệm đã trở thành một nhà yêu nước nhiệt thành, chiến đấu cho quyền lợi của dân tộc
Hoạt động đối lập với chính quyền thuộc địa Pháp, từ chức Thượng Thư Bộ Lại trong chính phủ Bảo Đại, tôn sùng Phan Bội Châu và kiến thức về đạo Khổng của nhà nho yêu nước này, thông cảm và ủng hộ với tổ chức Chấn Hưng Dân Tộc của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, thành lập lực lượng thứ ba để vận động những người theo quốc gia, chống cộng sản kết nối lại thành một liên minh đấu tranh cho một đất nước Việt Nam của người Việt Nam, và cuối cùng là bỏ qua mối thù cá nhân của gia đình để sẵn sàng hợp tác với chính phủ Việt Minh của Hồ Chí Minh, mọi nỗ lực của Diệm đã đã minh chứng rằng ông là một “nhà hộ quốc tận tụy của nước Việt” (27)

Ngô Đình Diệm không được Mỹ ủng hộ trong năm 1954

Miller, bằng việc lột bỏ những thiên kiến chống lại Diệm trong năm mươi năm qua, khẳng định rằng quan điểm của ông không phải được sinh ra từ sự mờ mịt, hay những ảo niệm được dựng lên bởi Hoa Kỳ vào năm 1954.
Diệm thực sự là một trong những nhân vật xuất chúng và năng động nhất trong số các nhà chính trị ở Đông Dương.
Và vì vậy ông đã được bổ nhiệm vào chức vụ Thủ tướng của nước Việt Nam bởi chính sự quyết định của cựu hoàng Bảo Đại.
Tác giả lưu ý, hầu hết các cứ liệu cho rằng Diệm được sự hỗ trợ của cộng đồng Thiên chúa giáo Hoa Kỳ, đứng đầu là hồng y Francis Spellman, hay bởi sự vận động bí mật của CIA, sự ủng hộ của các quan chức Bộ ngoại giao Hoa Kỳ như John Foster Dulles… là thiếu thuyết phục vì không có chứng cứ xác đáng.
Miller thấy rằng những tài liệu giải mật của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ chỉ nói lên được một hiểu biết mơ hồ về Diệm cho đến tháng 5/1954. Theo Miller, Bảo Đại quyết định chọn Diệm vào chức vụ Thủ tướng là bởi ông hoàng này công nhận rằng Diệm “là một người tốt nhất cho công việc, bởi vì sự không khoan nhượng và sự cuồng tín của mình, ông ấy có đủ năng lực để chống lại chủ nghĩa cộng sản... Ông ấy thực sự là một người rất thích hợp với hoàn cảnh hiện tại.”
Diệm đã chứng minh lời của quốc trưởng nhận xét về năng lực của mình là không sai. Trong thời kỳ hậu hiệp định Geneva, phớt lờ chiến lược hòa giải và cải tổ của Hoa Kỳ, Diệm đã trấn áp và dẹp tan những đối thủ chính trị của Diệm mà không có bất kỳ một sự thỏa hiệp nào để kiểm soát thành công quân đội quốc gia, giành lấy quyền lực từ những viên tướng thân Pháp, thực hiện chương trình kiến quốc của ông.
Những kiến giải của Miller về thời kỳ này không những đưa ra một sự hiểu biết mới về Diệm, mà còn thách thức các nhà sử học nhận thức lại lịch sử quan hệ Mỹ-Diệm ngay từ buổi đầu.

Bất đồng về quan điểm dân tộc và dân chủ

Diệm tự xem mình vừa như một tấm khiên phòng thủ, đồng thời là ngọn giáo tấn công những đe dọa đối với hệ thống chính trị ở Nam Việt Nam, bao gồm độc lập, lợi ích quốc gia, bổn phận đạo đức kết thành nền tảng của dân chủ và đời sống dân sự trong một quốc gia.
Khác với những công trình nghiên cứu lịch sử chiến tranh Việt Nam khác, Miller đã khai phá một cách nhìn mới về chủ nghĩa dân tộc của Diệm.
Diệm không phải là một thuyết gia truyền thống, cũng không phải là một viên quan thuộc địa phản động. Ông là một nhà chính trị xảo trí và là một nhà lãnh đạo “dân chủ” với một đường lối chấn hưng đất nước dựa trên cơ sở gắn kết có chọn lọc tư tưởng Thiên Chúa giáo, Khổng giáo, và sự đặc trưng chủ nghĩa dân tộc của Việt Nam.
Vận dụng văn hóa Việt Nam để làm rõ quan điểm chính trị và tôn giáo của Diệm, Miller chỉ ra cách nhìn của Diệm về giá trị của dân chủ và sự phát sinh của những giá trị đó từ quan niệm dân chủ truyền thống mang tính bản địa của người Việt hơn là từ quan điểm tự do thuần túy của phương Tây.
Thấm nhuần những chuẩn mực, phẩm hạnh của triết lý xã hội như ý thức tự lập, tự hoàn thiện, và hiến dâng cho lợi ích cộng đồng của đạo Khổng, vốn được xem là phù hợp với quan điểm chủ nghĩa nhân vị của triết gia Thiên chúa giáo Emanual Monier, Diệm tin rằng: “ Dân chủ trước hết là một trạng thái tinh thần, một lối sống tôn trọng bản thân chúng ta và người khác.” Như vậy, thay vì kết nối dân chủ với tự do dân sự, Diệm diễn tả nó như một quá trình tiến bộ của xã hội tập thể.
Tổng thống Diệm cố gắng hiện đại hóa và liên kết những tư tưởng chính trị-tôn giáo này với chương trình kiến quốc đương thời khi ông tuyên bố rằng: “Chúng ta sẽ không quay lại phiên bản vô ích của quá khứ quan lại, mà sẽ áp dụng những gì tốt nhất của di sản vào tình hình hiện đại."
Quan niệm dân chủ của Diệm đã mâu thuẫn với Học thuyết Dân chủ của Mỹ. Miller kết luận “Diệm tìm cách định nghĩa dân chủ như một đặc tính xã hội dựa vào bổn phận đạo đức luân lý. Định nghĩa này quá khác xa với quan điểm của những thuyết gia người Mỹ khi họ quan niệm dân chủ là một hình thái đa nguyên chính trị.

Bất đồng về chương trình xây dựng nông thôn

Sự bất đồng tư tưởng này đã khuấy đục liên minh Mỹ-Diệm trong quá trình triển khai một trong những chương trình kiến quốc quan trọng nhất: phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn, với mấu chốt của vấn đề là giải quyết tình trạng dư thừa dân số bằng cách di dân.
Giải pháp này, như tác giả phân tích, là phân bố lại dân số hơn là phân bố đất đai. Việc di dân đến vùng đất mới không chỉ cung cấp đất cho người dân, mà còn là tiền đề mở rộng các mục tiêu kinh tế, an ninh, và tư tưởng do Diệm vạch ra.
Trên bình diện quốc gia, Diệm khởi động chương trình tự cung tự cấp như là một đặc trưng trong viễn kiến của Diệm về phát triển cộng đồng để phát động sự tham gia tự giác và đóng góp của toàn dân vào những mục tiêu công ích của nhà nước.
Ảnh chụp hôm 1/11/1963
Ông Diệm bất đồng với người Mỹ về cách điều hành miền nam
Kế hoạch dinh điền của Diệm không tránh khỏi sự phàn nàn từ phía Mỹ.
Đối với Mỹ, trung tâm của chính sách cải cách ruộng đất là phân bố ruộng đất cho người không có, tạo ra những điều kiện và cơ hội để họ nâng cao và triển khai những dự án hơn là bóc lột sức lao động của họ cho việc xây dựng nhà nước.
Miller đã phân tích rất sâu sắc sự khác biệt của hai trường phái kiến quốc của Mỹ sau thế chiến thứ II bao gồm chủ nghĩa tân thời cao cấp, nhấn mạnh đến tầm quan trọng của khoa học và kỹ thuật, và chủ nghĩa tân thời bậc thấp chú trọng vào các chương trình phát triển ở phạm vi hẹp mang tính địa phương.
Cả hai trường phái này đều không phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam, bởi vì Hoa Kỳ không thể Tây hóa lối sống và điều kiện kinh tế xã hội của người Việt.
Ngô Đình Nhu tuyên bố rằng công nghiệp hóa và sự thay đổi kinh tế chỉ có thể đến với miền Nam Việt Nam sau khi họ có thể rời xa một cách dứt khoát xã hội truyền thống với ý nghĩ, tổ chức và kỹ thuật mà chúng họ đã từng gắn kết.
Do vậy, dù đồng ý với quan điểm của Hoa Kỳ là cần cung cấp nguyên liệu sản xuất cho dân tái định cư, nhưng Diệm bảo lưu quan điểm của mình, rằng việc cung cấp tư liệu sản xuất không quan trọng bằng nghĩa vụ và bổn phận tự lập của cộng đồng.
Do đó ông sẵn sàng tiếp tục thực hiện kế hoạch mà không cần sự trợ giúp của Mỹ. Mối bất hòa về chương trình dinh điền, phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn đã đẩy Washington và Saigon vào một tình trạng tồi tệ mới.

Bất đồng về chiến lược an ninh và quân sự

Chiến lược gìn giữ an ninh nội địa tập trung vào công cuộc chống nổi dậy ở vùng nông thôn nhằm ngăn chặn sự thâm nhập của cộng sản luôn là mối bận tâm của chính quyền Diệm.
Miller chứng minh rằng không phải mọi hoạt động quân sự của Diệm đều do Mỹ điều khiển hoàn toàn, thậm chí còn xảy ra những bất đồng trong nội bộ Mỹ.
Về xây dựng lực lượng, ví dụ, phái bộ cố vấn của đại học Michigan (MSUG) muốn phát triển Lực lượng Bảo an như là một lực lượng cảnh sát dân sự, trong khi đó các cố vấn quân sự Mỹ (MAAG) lại muốn lực lượng này là một mô hình bán quân sự hoạt động như một đội quân phụ trợ.
"Còn với Diệm, Bảo an là một lực lượng lai ghép, kết hợp quyền lực của cảnh sát như quyền giám sát, giam cầm, và phản gián với năng lực quân sự.
Chỉ trích các giải pháp của cố vấn Mỹ không phù hợp với quan điểm của mình, cũng như hoàn cảnh an ninh của miền Nam Việt Nam, Diệm tiếp tục củng cố và phát triển lực lượng Bảo an như một nhân tố chính trong cuộc chiến chống lại chiến tranh du kích.
Là một cựu quan chức có nhiều trải nghiệm về cách trị dân, hơn ai hết, Diệm hiểu rằng: để cai quản vùng nông thôn cần kết hợp các giải pháp chính trị, quân sự, xã hội và kinh tế.
Do đó, Diệm thành lập Phủ Đặc Ủy Công Dân Vụ như là một cơ quan thiết kế, quản lý, và điều khiển các chương trình phát triển cộng đồng.
Tuy nhiên, ý tưởng của Diệm không giống với hoạch định từ phía Mỹ, đặc biệt là về mục tiêu chương trình Ấp Chiến Lược.
Với các cố vấn Mỹ, một giá trị phổ quát của nền dân chủ đa nguyên là yếu tố chính mang lại thành công của chương trình, cũng như kết quả của cuộc chiến.
Ngược lại, Diệm không bao giờ có quan điểm Dân chủ là một sự cạnh tranh mang tính đa nguyên giữa các đối thủ, đảng phái, và tư tưởng.
Thay vì vậy, Diệm cho rằng nền móng dân chủ của ấp chiến lược là huy động sức mạnh toàn thể dân chúng tham gia vào cuộc chiến chống lại kẻ thù của chế độ.
Miller không thể không thừa nhận rằng dù có nhiều khiếm khuyết và bất cập, nhưng Ấp Chiến Lược là một chương trình thành công, tạo nên một bước ngoặt đáng ghi nhận trong cuộc chiến chống lại cộng sản ở miền Nam, mang lại hy vọng cho một chiến thắng chung cuộc. Trận Ấp Bắc vào tháng 1/1963 vẫn không dập tắt sự lạc quan của Diệm, vì vậy họ Ngô đã ra lệnh cho Phủ Đặc Ủy Công Dân Vụ chuẩn bị kế hoạch Bắc tiến, chiếm lại miền Bắc Việt Nam.
Và cuối cùng, Diệm muốn Mỹ viện trợ vũ khí và các nguyên vật liệu khác nhưng không chấp nhận sự việc các cố vấn Mỹ can thiệp vào nội bộ miền Nam Việt Nam.

Khủng hoảng phật giáo và bất đồng về chính sách kiến quốc

Số phận và kế hoạch của họ Ngô đã bị chặn đứng bởi cuộc khủng khoảng Phật Giáo.
Nổi bật giữa các sử gia về chiến tranh Việt Nam, Miller nghiên cứu cuộc khủng khoảng Phật giáo năm 1963 như là một sự phát triển trong dòng chảy lịch sử của quá trình chấn hưng Phật giáo, vốn đã diễn ra trong những năm 1910 và 1920 của thế kỷ 20.
Miller đưa ra một cái nhìn mới về phong trào Phật giáo trong kỷ nguyên của Diệm, rằng nó không chỉ đấu tranh cho sự bình đẳng tôn giáo và tự do tín ngưỡng, mà thực sự là nó còn bộc lộ sự lo lắng sâu sắc về sách lược kiến quốc của Diệm, đặc biệt là về cuộc cách mạng nhân vị điều mà giới Phật tử thấy như là mối đe dọa đến việc làm hồi sinh sức mạnh Phật giáo Việt Nam.
Ông Ngô Đình Diệm duyệt đội lính nhân một dịp kỷ niệm ngày lập quốc ở miền nam
Ông Ngô Đình Diệm duyệt đội lính nhân một dịp kỷ niệm ngày lập quốc ở miền nam
Theo quan điểm của Miller, Phật giáo đã tham gia vào một cuộc cách mạng tự do dân tộc và hiện đại hóa như một sự đóng góp vào tiến trình kiến quốc.
Cuộc xung đột giữa Diệm và Phật giáo đã đẩy cuộc chiến kiến thiết quốc gia lên đỉnh điểm.
Diệm, cho đến phút cuối cùng vẫn tin rằng ông ta sẽ giải quyết sự xung đột này từ vị thế thượng phong như cách anh em ông nghĩ khi bắt đầu mở kênh đối thoại bí mật với cộng sản Bắc Việt.
Nhưng Diệm không bao giờ có thể vãn hồi trật tự như sự trả lời kiên cường và cứng rắn của ông với đại sứ Hoa Kỳ Henry Cabot Lodge, vì anh em ông đã bị hạ sát bởi chính những viên tướng phản bội.
Miller kết luận rằng: những vấn đề của sự bất đồng không đơn giản bắt nguồn từ lời tuyên bố thâm thúy và khó hiểu về cuộc cách mạng nhân vị của anh em nhà Ngô.
Chúng bắt nguồn từ mối bất hòa trong thực tế giữa nhà họ Ngô và Mỹ về những ý niệm chính như dân chủ, cộng đồng, an ninh, và cách mạng xã hội.
Khiếm khuyết của cả Diệm và đồng minh Mỹ là sự miễn cưỡng trong việc hợp tác với các phong trào cách mạng ở miền Nam.

Hồ Chí Minh: Ngô Đình Diệm là một nhà ái quốc




Chủ tịch Hồ Chí Minh coi ông Diệm là "nhà yêu nước"

Misalliance của Miller đã thành công khi soi sáng một cái nhìn mới về Diệm và chương trình kiến quốc mang đậm tính dân tộc chủ nghĩa và độc lập trong nhãn quan chính trị của ông.

Những tác phẩm trong tương lai không thể bỏ qua những luận điểm của Miller rằng chính sự xung đột nảy sinh từ nhận thức sai lệch đã hình thành mối quan hệ đầy thăng trầm của Mỹ - Diệm và cả số phận miền nam Việt Nam.
Sau năm mươi năm, hình ảnh nhân vật lịch sử Ngô Đình Diệm dần được sáng tỏ trong mắt các sử gia Mỹ.
Đáng tiếc là tại Việt Nam, việc nghiên cứu về ông vẫn là một đề tài cấm kỵ.
Phải chăng, không đi theo chủ nghĩa cộng sản là không phải người Việt yêu nước? Vậy tại sao Hồ Chí Minh lại tuyên bố Ngô Đình Diệm là một nhà ái quốc?
Những người cộng sản Việt Nam không ngờ, Hồ Chí Minh, lãnh tụ của họ đã có một cái nhìn khác về đối thủ chính trị ở miền Nam.
Trong một lần gặp gỡ nhà ngoại giao Ấn độ Ramcohundur Goburdhun, chủ tịch Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến Đông Dương, ở Hà Nội vào năm 1962, Hồ đã xem Ngô Đình Diệm là một “nhà yêu nước” và nhắn gửi với Goburdhun rằng: “Hãy bắt tay ông ấy [Diệm] giùm tôi nếu như ngài gặp ông ấy.”
Chỉ có những đối thủ xứng tầm nhau mới dành cho nhau lời nhận xét xứng tầm như vậy. Quan điểm của Hồ được nhà sử học Edward Miller lưu tâm vì nó đã gợi lên cho người đọc một cách nhìn khác lạ nhưng không xa lạ về Diệm, một nhân vật chính trị nổi bật và không thể thiếu được khi đề cập đến lịch sử Việt Nam trong thế kỷ 20.
Việt Nam vừa tổ chức một lễ quốc tang trọng thể cho tướng Giáp, trong khi nhân vật chính trị và quân sự lớn cùng sinh ra từ quê hương Lệ Thủy, Quảng Bình với tướng Giáp - Cố tổng thống Ngô Đình Diệm vẫn chưa được trả lại tên thật trên mộ phần.
Sự thật lịch sử về Diệm, cho dù còn nhiều tranh cãi, là “ một lãnh đạo độc tài với chế độ gia đình trị hay là một tổng thống ái quốc” cần phải được trả lại đúng nguyên vị của nó.
[1]Edward Miller, Misalliance: Ngo Dinh Diem, the United States, and the Fate of South Vietnam(Cambridge: Harvard University Press, 2013)





  • Bài do tác giả gửi cho BBC qua điện thư và thể hiện văn phong và cách nhìn cá nhân của tác giả.

    BBC - Tại sao tưởng niệm ông Ngô Đình Diệm ?

    Đoàn Xuân Lộc

    Cập nhật: 09:04 GMT - thứ bảy, 2 tháng 11, 2013

    Tổng thống Ngô Đình Diệm được cho là người có quan điểm chống lại sự chỉ đạo của Hoa Kỳ
    Ngày 02/11/2013 là ngày tròn 50 năm ngày ông Ngô Đình Diệm, vị Tổng thống đầu tiên của Việt Nam Cộng hòa, và bào đệ của ông là Cố vấn Ngô Đình Nhu, bị sát hại trong cuộc đảo chính năm 1963.
    Và trong những ngày này tại Mỹ, Pháp và một số nước khác, cộng đồng người Việt Nam – trong đó có không ít người Công giáo – đã và sẽ tổ chức tưởng niệm, cầu nguyện cho họ.
    Riêng ở Việt Nam vào trưa ngày hôm nay (01/11), các Cha Dòng Cứu Thế cũng đã dâng lễ tại nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, ở Lái Thiêu, để cầu nguyện cho hai ông. Và có thể, trong các Thánh lễ ngày mai ở Việt Nam và như nhiều nơi khác, cũng có nhiều người nhắc tên và cầu nguyện họ.
    Trong 50 năm qua đã có vô số tài liệu, bài viết bằng tiếng Anh, tiếng Việt, tiếng Pháp (của người Việt cũng như người nước ngoài, thuộc nhiều chính kiến khác nhau) về ông Ngô Đình Diệm, về cuộc đời, sự nghiệp hay về gia đình của ông. Trong số đó, có không ít ý kiến cho rằng ông là một vị tổng thống độc tài, bất lực và chế độ tổng thống của ông là chế độ gia đình trị.
    Dư luận chung cũng không có ấn tượng tốt về ông, sự nghiệp của ông và gia đình ông, đặc biệt kể từ khi hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu giữa thành phố Sài gòn vào tháng 6 năm 1963. Biến cố ấy làm cho dư luận thế giới và người Miền Nam lúc ấy nói riêng có thêm ác cảm với ông và nó cũng là một lý do quan trọng dẫn đến sự thất bại của Đệ nhất Cộng hòa do ông thiết lập.
    Việc ông bị ám sát hụt hai lần trước đó và bị đảo chính rồi bị ám sát năm tháng sau vụ tự thiêu ấy cũng chứng tỏ rằng ông có không ít kẻ thù, trong đó có những người từng là thuộc hạ, gần gũi với ông.
    Hơn nữa, ông và gia đình ông bị nhiều người – trong đó có những ‘người thắng cuộc’, những người không cùng chung chuyến tiến với ông – ghét và bôi nhọ một phần vì ông và gia đình là những người chống Cộng, là những người ‘bại trận’.
    Nhưng điều đó không có nghĩa là ông bị tất cả mọi người ghét bỏ hay không ai nhìn nhận, tôn trọng ông và những đóng góp của ông. Việc hàng năm và đặc biệt năm nay có nhiều người, nhiều nơi tổ chức tưởng niệm, cầu nguyện cho ông chứng minh điều đó.
    Câu hỏi đặt ra là tại sao vẫn có người yêu mến và tôn trọng ông?

    Một người liêm khiết

    Dù có thể có nhiều học giả, các nhà nghiên cứu không đánh giá cao về ông, nhưng đa số đều nhận định rằng ông là một người trung thực, đạo đức, liêm khiết.
    Trong cuốn ‘Cold War Mandarin: Ngo Dinh Diem and the Origins of America’s War in Vietnam: 1950-1963’, xuất bản năm 2006, Seth Jacobs – một trong những học giả nước ngoài viết khá nhiều về ông Ngô Đình Diệm và cũng có cái nhìn không mấy thiện cảm về ông – vẫn thừa nhận rằng ông là một người trong sạch, vô vị lợi. Vì theo tác giả này, thậm chí sau khi trở thành tổng thống, ông vẫn sống một cuộc sống khổ hạnh.
    Một bài viết của James MCAllister và Ian Schulte có tựa đề ‘The Limits of Influence in Vietnam: Britain, the United States and the Diem Regime, 1959–63’, được đăng trong tạp chí Small Wars and Insurgencies, năm 2006, cũng cho rằng ông Diệm là một người liêm khiết, đức hạnh.
    Theo cựu Ðại tá Lý Trọng Song – nay là Phó tế vĩnh viễn (thường được gọi là Thấy Sáu Song), hiện đang giúp tại Cộng đoàn Công giáo London và người đã từng làm cận vệ cho ông Ngô Đình Diệm trong Phủ Thủ tướng và Phủ Tổng thống từ năm 1954 đến 1956 – ông là một người có lối sống rất đơn sơ, nghèo khó. Chẳng hạn, giường ngủ của ông chỉ là một cái divan (một tấm ván) trải bằng chiếu, không có nệm.
    Có thể ngày hôm nay có không ít người cảm phục ông Diệm vì họ tìm ở nơi ông những đức tính đó – đặc biệt khi họ đọc và biết được tham nhũng đang trở thành quốc nạn tại Việt Nam.
    Cũng theo cựu Đại tá Song, ông Diệm là một người có đầy đủ Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín vì ông xuất thân từ một gia đình hiếu học, làm quan và chịu nhiều ảnh hưởng của cả Công giáo và Nho giáo.
    Ông có đời sống khổ hạnh một phần cũng vì trong những năm 1940 và 1950, ông đã từng sống trong các đan viện tại Bỉ và Pháp. Một chi tiết được Thầy Sáu Song nêu ra để giải thích tại sao ông Diệm không lập gia đình – một điều nhiều người đặt câu hỏi về ông – là vì ông Diệm đã đi tu trong dòng Ba của dòng Benedicto, một dòng khổ tu ở Bỉ. Và vì đã khấn trong dòng này, ông không nghĩ tới chuyện lập gia đình và chỉ biết ‘thờ phượng, kính mến Thiên Chúa và lo cho quốc gia, dân tộc’.
    Các tài liệu viết về ông, đặc biệt sách vở, báo chí nước ngoài, đều nhấn mạnh rằng ông là một người Công giáo đạo hạnh, thánh thiện. Đây cũng là một lý do tại sao trong những ngày này người Công giáo tưởng nhớ và cầu nguyện cho linh hồn ông – người có Tên Thánh là Gioan Baotixita (hay John Baptist theo tiếng Anh).
    Hơn nữa, ông và ông Nhu bị ám sát vào ngày 02/11 – đúng ngày Giáo hội Công giáo tưởng nhớ và cầu nguyện cho những người đã qua đời. Vì vậy, đâu đó có những Thánh lễ cho ông cũng là chuyện bình thường và là việc nên làm.

    Một người yêu nước


    Hàng năm vẫn có người đến viếng mộ Tổng thống Ngô Đình Diệm trong nước
    Một điểm khác về ông đều được nhiều người công nhận đó là ông là một người yêu nước, yêu dân tộc. Chẳng hạn, trong cuốn ‘Patriots and Tyrants: Ten Asian Leaders’ xuất bản năm 1999, Ross Marlay và Clark Neher, nhận định rằng cả ông và Hồ Chí Minh đều là những người yêu nước nồng nàn. Có điều định mệnh, thời cuộc và chính kiến đã biến họ thành kẻ thù của nhau.
    Một chi tiết được các tài liệu đề cập đến khi viết về ông đó là việc ông từ chức Thượng thư Bộ lại (gần tương đương với chức Thủ tướng) trong chính phủ Bảo Đại năm 1933 để phản đối việc Pháp không tiến hành những cải cách cần thiết để trao thêm quyền tự trị cho Việt Nam.
    Trong bài ‘Vision, Power and Agency: The Ascent of Ngô Ðình Diệm, 1945-54’ – được coi là một trong những nghiên cứu quan trọng, trung thực về ông Ngô Đình Diệm – được đăng trên Journal of Southeast Asian Studies, Edward Miller nêu rằng trong thời gian ông Diệm nắm quyền (1954-63), có nhiều người ở Việt Nam và những nơi khác mô tả ông như là một con rối của Mỹ được Washington đưa lên nắm quyền và giúp đỡ nhằm thực hiện những mục đích của Mỹ trong thời kỳ Chiến Tranh Lạnh.
    Nhưng theo tác giả này, các tài liệu được viết từ những năm 1960 trở về sau đều nhấn mạnh việc ông nhất quyết từ chối những lời khuyên của Mỹ và không muốn chịu sự chỉ đạo của Mỹ. Việc ông và chính quyền Mỹ cuối cùng chia tay nhau là một ví dụ.
    Cựu Đại tá Lý Trọng Song cũng nhấn mạnh rằng Tổng thống Diệm chỉ muốn nhận viện trợ của Mỹ chứ không chịu sự áp đặt, can thiệp của Mỹ và nhất quyết từ chối cho lính Mỹ vào Miền Nam Việt Nam vì ông cho rằng cho quân đội nước ngoài chiếm đóng trên lãnh thổ Việt Nam làm cho chính phủ của ông mất chính nghĩa.
    Cũng theo người cựu cận vệ này, ông Diệm là một người yêu dân, yêu nước, yêu dân tộc vì nếu không ông có thể chọn ra nước ngoài và tránh bị ám sát. Ông nhắc lại rằng trước những ngày diễn ra cuộc đảo chính, Đại sứ Mỹ ở Sài gòn lúc đó là Henry Cabot Lodge gọi điện thoại cho ông Diệm và ‘nói rằng nếu ngài muốn an toàn thì tới Tòa đại sứ’ và ông Diệm đã trả lời ‘đây là đất nước của tôi, tôi không đi đâu hết’.
    Hơn nữa, cũng như Edward Miller nêu lên trong bài báo của mình, trong những giai đoạn 1945-54 ông bôn ba ở ngoại cũng chỉ vì muốn tìm con đường giúp đất nước thoát khỏi ách đô hộ của Pháp và giành tự do, độc lập. Trong cuốn sách của mình, Seth Jacobs cũng nêu lên rằng có thể người dân Miền Nam không thích ông như họ tôn trọng ông và khâm phục tinh thần dân tộc mạnh mẽ nơi ông.

    Giai đoạn khó khăn

    Ngoài ra, dù muốn hay không cũng phải thừa nhận rằng ông là một người có tầm nhìn, có tài. Nếu không ông chẳng bao giờ có thể trở thành Thủ tướng, Tổng thống và lập nên nền Đệ nhất Cộng hòa.
    Nhưng trong thời năm nắm quyền của ông, miền Nam Việt Nam nói riêng và Việt Nam nói chung, cũng như bất cứ quốc gia nào trong thời đầu hậu thuộc địa, phải đối diện nhiều khó khăn.
    Những khó khăn đó một phần do tích cách, quan điểm hay chính con người ông tạo nên. Chẳng hạn Ross Marlay và Clark Neher nêu rằng ông ‘là người không thực cho một hoàn cảnh không thể’. Theo hai tác giả này là một người Công giáo nhiệt thành ông lại lãnh đạo một đất nước đa phần Phật giáo và những đức tính của ông lại trở thành những nhược điểm hủy hoại ông.
    Cựu Đại tá Lý Trọng Song cũng cho rằng vì ông quá thánh thiện, nhân từ ông bị nhiều người khác lợi dụng, ám hại.
    Rồi bối cảnh miền Nam Việt Nam, Việt Nam và thế giới nói chung lúc ấy cũng không dễ dàng gì để có thể xây dựng một thể chế vững mạnh, hiệu quả, một xã hội dân chủ, tự do và một đất nước hòa bình, phát triển trong một thời gian ngắn.
    Nhưng chỉ trong một thời ngắn ít hay nhiều ông đã làm được một số việc quan trọng. Chẳng hạn, như Đại tá Lý Trọng Song nêu lên, ông đã giúp dẹp được các phe nhóm, đảng phái gây bất ổn cho Miền Nam lúc đó. Theo Seth Jacobs đây cũng là một thành công của ông được người Miền Nam ghi nhận.
    Và trên hết, như Edward Miller nhận định, việc anh em ông bị lật đổ không thể chứng minh được rằng những ý tưởng, dự định của họ là luôn xấu, vô hiệu. Sau biến cố 1963, Miền Nam Việt Nam thay đổi tổng thống, chính phủ liên miên và mọi chuyện càng tệ hơn.
    Đâu đó có nhiều ý kiến cho rằng ông là một người độc tài. Nhưng nếu so sánh ông, chính phủ ông với những chế độ cầm quyền ở Đông Á, Đông Nam Á hay ở Miền Bắc Việt Nam trong giai đoạn ấy, chưa chắc ông đã độc tài hơn những chế độ đó.
    Đặt ông trong bối cảnh như vậy, ít hay nhiều để thấy rằng cựu Tổng thống Ngô Đình Diệm và Đệ nhất Cộng hòa ông thiết lập không tệ như mọi người nhận định, mô tả hay được nghe.
    Đó cũng là một lý do đâu đó có nhiều người Việt hải ngoại tổ chức tưởng niệm, cầu nguyện và công nhận đóng góp của ông trong những ngày này.
    Bài viết thể hiện quan điểm và văn phong của tác giả, một trí thức Công giáo hiện làm nghiên cứu tại Viện Global Policy, London.
    Source BBC

    Alan Phan - SỰ LỰA CHỌN KHI HÃNH DIỆN HAY XẤU HỔ?

     

    Alan Phan

    29/10/2013

    Một người hãnh diện luôn “nhìn xuống” vật thể và người khác ; do đó, khi nhìn xuống, chúng ta không thể thấy bất cứ điều gì “bên trên” chúng ta (A proud man is always looking down on things and people; and, of course, as long as you are looking down, you cannot see something that is above you – C.S. Lewis)

    Vài bạn đọc gởi đến tôi một bài viết có tựa đề là, “Đâu Là Nơi Duy Nhất Người Việt Nam Không Bị Khinh Bỉcủa một tác giả Việt Kiều. Sau khi chu du khắp thế giới và chịu đựng những khinh miệt vì lỡ “làm” người Việt, kể cả ở VN nơi mà các ông bà ba lô Mỹ trắng được yêu chuộng hơn, tác giả mới khám phá ra nơi duy nhất mà người Việt không bị khinh miệt là xứ Mỹ.

    Bài viết chứa đựng những chi tiết khá chuẩn xác và phổ thông, mà mọi người đều đã cảm nhận không ít thì nhiều khi tiếp cận với thế giới bên ngoài. Tuy nhiên, tôi lại cho rằng những vụ việc kể lại có thể nhìn qua một lăng kính khác, mà không cần đem yếu tố dân tộc liên quan vào.

    Cho tôi vắn tắt: những khinh khi rẻ rúng mà các bạn Việt thường xuyên gặp phải, vốn bắt nguồn từ những nguyên nhân đơn giản trong đời sống hàng ngày của nhân loại qua nhiều thời đại; chứ không phải là một hiện tượng đặc thù của dân tộc ta.

    Tự hào ngược đời

    Tuy nhiên, trước khi phân tích các yếu tố này, tôi muốn ghi nhận một nghịch lý (có lẽ là một phản ứng thì đúng hơn). Đó là càng bị chê bai khinh thị, con người càng bị tự ái làm mờ mắt và “chảnh” hẳn ra, ngôn ngữ thời đại gọi là “lòng tự hào” đi quá đà về mặt tâm thần (đến tận đỉnh cao). Thắng được một giải bóng đá do hãng bia địa phương tổ chức là sẵn sàng để vào chung kết với Brasil trong World Cup năm tới. Vừa được 2, 3 tờ báo lề phải gọi là siêu sao (mà mình phải bỏ tiền cho chúng viết) là mang niềm tin chắc nịch về vương miện Miss Universe đang thiết kế cho mình. Tôi còn nhiều thí dụ rất thú vị, nhưng dành cho các BCA “còm” chơi, và cũng vì không muốn chạm tự ái của ai.

    Một yếu tố khác mà tác giả ghi nhận là chỉ có ở xã hội Mỹ, con người Việt của ông mới không hề bị xúc phạm. Thực ra, trong một quốc gia luôn thượng tôn pháp luật như tại Mỹ, việc kỳ thị chủng tộc là một hành vi phạm pháp. Thêm vào đó, từ hồi luật nhân quyền (civil rights) được ban hành (1964), xã hội Mỹ đã biến cải rất nhiều trong tâm thức người dân về chủng tộc hay tôn giáo. Khi dân Mỹ chọn Obama làm Tổng Thống, gần như trang sử Mỹ về kỳ thị mầu da coi như đã khép lại. Nhưng không có nghĩa là người dân Mỹ không kỳ thị.

    Mặc dù cảnh sát Mỹ luôn gọi mọi người là “sir” (ngài), các tội phạm vẫn thường xuyên bị dùi cui mỗi khi “khó bảo”. Trong mắt nhân viên công lực Mỹ, tỷ lệ phạm pháp của dân da đen hay dân gốc Mễ rất cao, do đó đây là thành phần cần được nhắm tới (targeted) trong công vụ hàng ngày. Họ hoàn toàn không kỳ thị chủng tộc (một bộ phận không nhỏ lập gia đình với người Mỹ đen hay gốc Mễ), nhưng cách đối xử của họ với dân đen hay gốc Mễ chắc chắn là “rough” so với một anh chị Mỹ trắng.

    Việt cồ hay vịt con?

    Quay lại những yếu tố mà tôi cho là làm người Việt cảm thấy bị khinh miệt, tôi có thể suy ngẫm ra…vài điều sau đây. Xin nói rõ là trong bài “phiếm luận” này, tôi không hề vơ đũa cả nắm; bởi vì những thành quả vẻ vang của nhiều cá nhân Việt là một sự kiện không ai chối bỏ.

    1.      Nghèo là một cái tội

    Dĩ nhiên, nghèo không phải là một “tội”; nhưng gần như khắp thế giới, nghèo vẫn bị coi như là “đáng xấu hổ”. Cái thước đo “nhân cách” con người, tốt hay xấu, thiện hay ác, không liên quan đến chuyện giầu nghèo, nhưng nhân loại vẫn thích đem yếu tố này vào để xác định. Do đó, nếu đã đồng ý là “dân giàu nước mạnh” thì đừng ngạc nhiên khi các quốc gia và dân tộc láng giềng cho chúng ta là “dưới kèo” vì cái con số GDP mỗi đầu người không dấu ai được.

    Ông bà ta có dậy rằng “nghèo cho sạch, rách cho thơm” nhưng nếu chúng ta mở rộng đầu óc hơn để tập làm “giàu mà sạch, lành mà thơm” thì chúng ta đã có thể thay đổi khá nhiều cho nhân cách và giá trị của con người Việt.

    2.      Kiến thức tụt hậu và suy thoái

    Rất nhiều bạn trẻ khi lập gia đình hỏi tôi về điều kiện bền vững nhất trong một hôn nhân về lâu về dài? Tôi nói,” đừng bao giờ lấy một người ngu…nhất là khi người ngu ấy rất “kiên định” về lập trường ngu của mình…”. Tình yêu, sắc dục, tiền bạc, danh giá và ngay cả nhân cách có thể bị phai mờ biến thể…nhưng kiến thức thì ngàn đời. Nhất là trong thời buổi của tiến bộ vượt tốc…những gì nhân loại nắm biết trong 50 năm vừa qua nhiều hơn cả 5 ngàn năm trước đó.

    Khi tóc đã điểm sương, con cái đã rời tổ ấm, của cải danh tiếng đã trôi đi cùng dâu biển…không gì tệ hại hơn là ngồi tỉ tê tâm sự với một cái đầu đất. Do đó, khi các bạn trên thế giới nhìn mình với cặp mắt thương hại …vì một sự ngu dốt tập thể…thì ít nhất cũng nên biết đau xót…thay vì hãnh diện ngược đời.

    3.      Thường xuyên phạm luật

    Như những nhân viên công lực Mỹ đã bàn qua bên trên, khi họ phải đối diện hàng ngày với những vi phạm pháp luật từ một thành phần dân số, họ sẽ xếp loại nhanh chóng thiểu số này để đối phó cho hữu hiệu. Tại các quốc gia mà “pháp luật nằm trong tay cảnh sát” thì cách đối xử với người Việt quả là có sự khác biệt: các tin tức về nạn ăn cắp tại các cửa hàng bên Nhật; tình trạng trồng và buôn bán ma túy tại Úc và Canada; các tổ chức xã hội đen tại Âu Châu; trốn thuế lường gạt tại Mỹ…là những hành động của thiểu số nhưng mọi người Việt phải trả giá…

    Nếu khi đi qua cửa di trú hay hải quan mà bị “chận” lại vì mang hộ chiếu Việt, chúng ta nên hiểu là đồng hương chúng ta phạm luật hơi nhiều, nên các cơ quan công lực phải lưu tâm. Tôi không nghĩ là người Nhật hay Singapore yêu hay ghét người Việt, họ chỉ hành xử theo thói quen mỗi ngày.

    4.      Bị ảnh hưởng Trung Quốc quá đậm

    Cũng cùng chịu ảnh hưởng của văn minh Khổng Mạnh Lão, nhưng dường như người Việt đồng hóa với người Hán nhiều hơn là các dân tộc Hàn Quốc, Nhật Bản hay Mông Cổ. Thú thực, nếu bịt tai và tình cờ thức giấc tại một tỉnh nhỏ ở miến Bắc, tôi sẽ nghĩ mình đang ở một tỉnh nào bên Trung Quốc. Hiện nay, trên khắp thế giới, các chú “con Trời” không được ái mộ cho lắm vì lối xử sự hơi “nhà quê” dù mang tiếng là công dân của một siêu cường.

    Do đó, nếu thiên hạ cho mình là những chú “Mao con”, thì phải ráng mà bắt chuột thôi. Mèo đỏ, mèo đen…mèo gì thì cũng là mèo.

    Có thể có những yếu tố khác ngoài 4 yếu tố trên để giải thích sự kiện này. Có thể vì chúng ta nhiều anh hùng quá, nên nhân loại ganh tị và bầy trò thử thách? Có thể vì đất nước này tiền rừng bạc biển, nên nhân loại không chấp nhận để mình “xin-cho” mãi? Dù sao, tôi nghĩ là hiện tượng này còn kéo dài trong vài thập kỹ nữa vì chúng ta rất “kiên định” trong việc xây dựng một thiên đường mới (hay là một nhà thương điên?)

    Vẫn do ta chọn lựa

    Tôi chỉ xin chia sẻ với các bạn trẻ là đừng bực bội hay thất vọng. Vài chục phút bị rẻ rúng có thể là động lực bắt chúng ta cố gắng nhiều hơn để hoàn thiện bản thân mình. Nghĩ cho cùng, chỉ những anh chị đầu đất mới quan tâm là mình từ đâu “rớt ra”. Chúng ta chỉ nên lưu ý đến những chỗ chúng ta “cho vào”? Vì rớt ra là một tai nạn tình cờ của vài nguyên tử trong vũ trụ. Còn cho vào là một sự lựa chọn hoàn toàn có chủ đích. Chúng ta không được chọn tổ quốc hay gia đình hay nguồn cội; chúng ta chỉ phải chọn nhân cách, kiến thức và thành quả.

    Tấm gương mình tự soi mặt mỗi sáng là niềm tự hào hay xấu hổ. Hình ảnh mình trong cặp mắt người khác chỉ là thoáng qua.

    Alan Phan

    Source : GOC NHIN ALAN

    Nguyễn-Xuân Nghĩa - Hào Quang của Vladimir Putin



    Saturday, November 2, 2013

    Hào Quang của Vladimir Putin



    Nguyễn-Xuân Nghĩa - Việt Báo Ngày 131102

    Nhờ Obama, leo lên ngai ảo. Được bao lâu?

     * Vladimir Putin toả hào quang * 



    Khi niềm tin vào Barack Obama sụt tới mức thấp nhất thì cũng là lúc Vladimir Putin lên ngôi là người quyền thế nhất địa cầu. Chuyện hấp dẫn cho truyền thông, mà thật sự là vô vị!

    Hôm Thứ Tư 30 vừa qua, tạp chí kinh doanh Forbes công bố đưa ra danh sách 72 nhân vật được coi là có ảnh hưởng nhất năm cho một nhân loại có bảy tỷ hai trăm triệu người. Về phương pháp, tờ tạp chí mời các biên tập viên của mình trên toàn thế giới chấm điểm theo bốn tiêu chuẩn: 1) nhân vật đó điều động được bao nhiêu người, với ngân sách bao nhiêu tiền, có ảnh hưởng toả rộng ra nhiều lãnh vực khác hay không, và vận dụng ảnh hưởng như thế nào để thay đổi thế giới? Nói vắn tắt thì tờ báo chú ý đến dân số, tiền bạc, lãnh vực và ý chí tác động.

    Cứ theo tiêu chuẩn đó thì nhờ dân số Mỹ đứng hạng ba, kinh tế và quân sự hạng nhất, với ảnh hưởng toàn cầu cùng công việc toàn thời và đa diện của một người lãnh đạo, Tổng thống Hoa Kỳ dễ chiếm bảng vàng hàng năm. Quả nhiên là Obama đứng đầu danh trạng trong mấy năm làm Tổng thống. Ngoại lệ là năm 2010, khi nhường hào quang cho Chủ tịch Hồ Cẩm Đào của Trung Quốc vì Hoa Kỳ bị chấn động tài chánh vào năm 2009.

    Năm nay, 2013, Obama mất vị trí quyền lực số một. để Tổng thống Putin của Nga leo lên ngai.

    Đáng chú ý là lời giải thích của tờ báo: "Putin đã củng cố việc kiểm soát nước Nga khi Obama lại quá sớm gặp cảnh "vịt què" của một Tổng thống hai nhiệm kỳ - thí dụ mới nhất là sự tèm lem của vụ chính quyền bị đóng cửa. Bất cứ ai nhìn vào cuộc cờ Syria hay vụ tiết lộ tin tức của cơ quan (tình báo điện tử) NSA đều thấy rõ động lượng của sự chuyển dịch quyền lực".

    Hết trích dẫn.

    Ngay sau đó, cuộc khảo sát hỗn hợp của hệ thống truyền hình NBC và tờ Wall Street Journal cho biết tỷ lệ tín nhiệm Obama đã sụt tới mức thấp nhất, chỉ còn 42% so với số thất vọng là 51%. Thấp nhất của sự nghiệp Tổng thống tính đến ngày 28 vừa qua. Trong thời gian tới, khi dân Mỹ khám phá thêm hậu quả của "quả lừa vĩ đại" - mượn chữ năm xưa của Lê Tất Điều – là đạo luật cải tổ chế độ bảo dưỡng y tế ACA, mức tín nhiệm vào Obama và toàn ban sẽ còn sụt nữa. Tờ Forbes chưa đếm chuyện ấy.

    Trở lại hào quang của Putin. Ông ta hiểu ra quy luật "sai lầm của đối thủ là cơ hội của mình".

    Sau khi uốn éo rồi tuột tay về chuyện Syria – có vượt lằn ranh không, do ai vẽ ra mà lại chối, tưng bừng phát pháo rồi âm thầm tháo chạy – Obama cho Putin cơ hội chứng minh cùng lúc mấy chuyện.

    Thứ nhất, Hoa Kỳ không mạnh mà cũng thiếu khả tín, chẳng đáng sợ mà cũng không đáng tin. Thứ hai, Liên bang Nga mới có thực lực, từ vùng ngoại vi truyền thống là Trung Âu, mở rộng đến tận Trung Đông - các nước mơ tưởng chuyện chống Nga như Ba Lan hay Turkey hãy cảnh giác! Thứ ba, sau chuyện WikiLeaks, việc Edward Snowden trong tay Putin tiếp tục tiết lộ tin tức về NSA cho truyền thông sốt sắng loan tải càng gây bất mãn cho các đồng minh của Hoa Kỳ, từ Âu Châu đến Nam Mỹ. Từ Pháp, Đức, Tây Ban Nha tới Brazil – và sau này nữa....

    Là bậc kỳ thủ trước một tay mơ, Putin còn xác định tư thế của Liên bang Nga qua bài xã luận Tháng Chín trên tờ New York Times. Hoa Kỳ chẳng có gì là siêu hạng và nên khoanh tay học bài. Nga mới là cường quốc có khả năng dàn xếp thiên hạ sự....

    Vì thế Putin mới đội hào quang của tờ Forbes. Lần lượt đứng sau là Obama, Tổng bí thư Tập Cận Bình, Đức Giáo hoàng Francis và Thủ tướng Đức Angela Merkel rồi mới đến Bill Gates.... Nhờ hào quang sáng loé, Putin mong là thiên hạ khỏi thấy nhiều mảng tối ở sau lưng và dưới gối.

    Không muốn theo đám đông hồn nhiên ngợi ca thế lực ảo thì ta nên soi vào khoảng tối đó.

    Liên bang Nga chỉ là quốc gia thuộc loại "Đệ Tam Thế Giới", sống nhờ sản xuất và xuất cảng nguyên nhiên vật liệu. Với lợi tức đồng niên một đầu người là dưới 15 ngàn đô la, dân Nga chỉ có mức sống trung bình, mà cũng chẳng thíết sống nên dân số co cụm dần.

    Dù kiếm bạc nhờ bán năng lượng, kinh tế Nga vẫn trì trệ, chỉ đạt tăng trưởng có 1,8% và tiếp tục suy trầm trong nhiều năm tới. Đà tăng trưởng 3-4% của những năm trước chỉ là vang bóng.

    Đã vậy, sức bật nhờ dầu khí còn giảm dần vì cuộc cách mạng âm thầm về năng lượng. Công nghệ phát triển khí lỏng và gạn cát ra dầu và khí đốt là sức cạnh tranh mới, với vai trò của một đại gia là Hoa Kỳ, đã thay đổi cuộc cờ sinh tử của Nga. Tất nhiên, đòn "Khí công" của Mỹ không nhắm vào nồi cơm của Putin mà cũng chẳng là công lao của Obama.

    Nhưng vì 50% ngân sách của Nga tùy thuộc vào dầu (80%) và khí đốt (20%), nếu giá dầu mà sụt dưới 90 đô la một thùng thì Putin hết múa! Người ta đã thấy chuyện ấy vào năm 2009 – mà đã quên.

    Cũng như đã quên rằng từ năm 2010 trở về sau, Liên bang Nga đã gặp nhiều biến động xã hội, dội lên thượng tầng chính trị và thách đố quyền lực của Putin. Chuyện hãn hữu cho bậc cứu tinh đứng hàng đại bá có thể kiểm soát được truyền thông báo chí.

    Đã vậy, người ta ít chú ý đến tình trạng nổi loạn chống di dân và người Hồi giáo, với phản ứng dội ngược là những vụ bạo động hay đánh bom của các nhóm dân quân Hồi giáo và di dân ở bên ngoài khu vực Caucasus cố hữu.

    Khi tờ Forbes tiến hành khảo sát, có lẽ người ta quên rằng Volvograd bị đặt bom vào ngày 21 vừa qua khiến sáu người thiệt mạng, mấy chục người bị thương. Hung thủ đánh bom tự sát có thể là một phụ nữ Hồi giáo của xứ Dagestan đang đòi ly khai. Volvograd nằm không xa Sochi, thành phố ven biển Hắc Hải, nơi sẽ tổ chức Thế vận hội mùa Đông, vào năm tới.

    Nếu nhìn lại cho kỹ thì ta có thể thấy ra mâu thuẫn trong/ngoài và gần/xa của nước Nga.

    Sau 15 năm lãnh đạo - với ấn tín Thủ tướng (1999-2000), rồi Tổng thống hai nhiệm kỳ (2000-2008), rồi Thủ tướng (2008-2012) rồi lại Tổng thống từ Tháng Năm 2012, chuyện khá bi hài - Putin đã thấy hào quang lợt sắc trên một hệ thống chính trị tê liệt còm cõi. Nhìn về tương lai thì các phần tử ưu tú có thể tạo ra sự thay đổi cho khá hơn đều nản chí. Hoặc chỉ còn lo thu vén cho quyền lợi riêng. Bên dưới là nạn suy trầm kinh tế và phân hóa xã hội.

    Vì hoàn cảnh đó, Liên bang Nga chỉ có cái thế đại cường là với thế giới, chứ thực lực bên trong thì đã tan loãng. Nhờ sự vụng dại của Obama, Putin có thể mượn hào quang bên ngoài để che phủ nhược điểm bên trong.

    Cũng được một vài trống canh.

    Sau đó, nếu có buồn vì sự đời nghiêng ngửa thì Putin có thể tìm vòng tay an ủi của Tập Cận Bình, người quyền thế số ba, cũng đang ngổn ngang chuyện kinh tế, năng lượng, động loạn xã hội và dân Hồi giáo đòi ly khai với đòn khủng bố, v.v....

    Nguyễn-Xuân Nghĩa 
    Source : - Việt Báo / DAINAMAX TRIBUNE