7/4/14

BÍ ẨN TÂM HỒN NGA (BÀI 1)

BÍ ẨN TÂM HỒN NGA (BÀI 1)

Theo pro&contra

Tháng 3 28, 2014
Phạm Nguyên Trường dịch

Trên tờ báo mạng viết bằng tiếng Anh Russia Profile cách đây 4 năm xuất hiện một bản báo cáo đặc biệt về quan niệm hiện đại về “Tâm hồn Nga”. Trong 15 bài báo, các tác giả là người Nga và người nước ngoài đã phân tích, từ nhận thức đương đại, quan điểm đã tồn tại gần 150 năm của những người cầm bút viết về nước Nga. Những phân tích này có thể giúp chúng ta hiểu sâu hơn các diễn biến đang diễn ra trong sự kiện được gọi là “Khủng hoảng Krym” và tình thế đầy nguy cơ leo thang trong quan hệ giữa Nga và các nước phương Tây, đặc biệt là Mỹ, với Ukraine là sân khấu chính trị. Người dịch sẽ lần lượt giới thiệu bản báo cáo này.
Người dịch
_________
Các chuyên gia phá hoại
Các cuộc cách mạng đã bộc lộ tính cách châu Á trong tâm hồn Nga.
Các nhà cách mạng Nga là những người tài năng, những người được thúc đẩy bởi tình cảm bài phương Tây suốt nhiều thế kỉ và không có khả năng thành công trong xã hội ổn định.
Tính chất của cách mạng Nga được ghi nhận và nổi tiếng khắp thế giới vì một số người trong những nhân vật nổi tiếng nhất của lịch sử nước Nga, ít nhất là ở một số giai đoạn của cuộc đời họ, là những nhà cách mạng. Vladimir Lenin[1] và Joseph Stalin[2] là những nhà cách mạng chuyên nghiệp, đã chọn sự nghiệp của người làm loạn chuyên nghiệp ngay từ những năm đầu đời. Alexander Herzen[3], Pyotr Kropotkin[4] và Mikhail Bakunin[5], khác với Lenin và Stalin, chưa bao giờ nắm được quyền lực chính trị, nhưng tính cách cá nhân đầy ấn tượng của họ, cũng như phạm vi và sự dũng cảm của tư duy chính trị và triết học của họ, đã làm cho các nhà tư tưởng phương Tây phải ngạc nhiên. Từ Albert Camus[6] đến Tom Stoppard[7], những kịch tác gia Tây Âu đã biến các nhà cách mạng Nga thành các nhân vật trung tâm trong các vở kịch của họ, đều tập trung vào hai đặc điểm chính của các nhà cách mạng Nga – theo đuổi các kế hoạch phần lớn là không tưởng và sử dụng một cách bừa bãi những phương tiện có tính đạo đức và (thường xuyên hơn) là các phương tiện phi đạo đức để thực hiện những kế hoạch không tưởng mà họ ấp ủ. Cách hành xử như thế của các nhà cách mạng, hình thành ở Nga vào giữa thế kỷ XIX, hóa ra là khá vững chắc và có tính phổ quát. Hiện nay cách hành xử như thế vẫn còn tiếp tục không chỉ ở Nga mà còn ở các nơi khác trên thế giới, từ Trung Quốc tới Venezuela.
Hủy diệt là mục đích tự thân
Hai nhân vật khác, không nổi tiếng bằng Lenin hay Stalin, và nhiều người – do những tai tiếng mà họ tự chuốc vào cho mình – sẽ muốn coi họ là những tên tội phạm bình thường chứ không phải là những người hoạt động chính trị. Nhưng, nhà cách mạng triệt để Sergei Nechayev[8]sống vào thế kỉ XIX và Shamil Basayev[9], một người li khai Chechnya vừa mới qua đời lại tự coi mình là những nhà cách mạng, cách mạng hơn cả Lenin và Stalin. Họ đã rất kiên định trong việc theo đuổi sự hủy diệt đến mức mà đối với họ, ngay cả những người tiến hành cuộc Cách mạng Nga năm 1917 cũng chỉ là những kẻ “lệch lạc” yếu đuối mà thôi.
Nechayev và Basayev tạo điều kiện cho chúng ta nghiên cứu hiện tượng cách mạng Nga vì cả hai đều là những nhà cách mạng “tinh khiết”, họ dành cả cuộc đời cho niềm đam mê này và không bao giờ thỏa mãn với số mức độ hủy diệt mà họ đã đạt được. Nechayev là thủ phạm của một trong những vụ ám sát chính trị tàn bạo nhất thế kỉ XIX ở Nga, và chỉ vì tình cờ mà ông ta không thực hiện được thêm những tội ác tương tự. Có lẽ chúng ta sẽ chẳng bao giờ biết được số nạn nhân của những cuộc tấn công khủng bố của Basayev, vì ông ta nhận trách nhiệm về những vụ bắt cóc con tin đẫm máu nhất trong lịch sử – chiếm bệnh viện ở Budyonnovsk năm 1995, chiếm nhà hát trên phố Dubrovka ở Moskva năm 2002, và chiếm trường học ở Beslan năm 2004.
Bài Âu
Việc Basayev là người dân tộc Chechnya và tuyên bố là người Hồi giáo dù sao cũng không làm suy yếu vị thế của ông ta như là một nhà cách mạng Nga, đấy không chỉ vì Basayev đã rời Chechnya khi mới tuổi 17 và sống nhiều năm ở Moskva và các thành phố khác của Nga. Và không chỉ vì ông ta tự coi mình là một nhà cách mạng kể từ hành động khủng bố đầu tiên vào năm 1991 – cướp một chiếc máy bay để phản đối những nỗ lực của chính phủ Nga nhằm chấm dứt tình trạng bất ổn tại Chechnya. Ông ta cũng giải thích tội ác khủng khiếp nhất của mình – cuộc tấn công khủng bố vào Dagestan năm 1999 – là muốn “phát động” cuộc cách mạng Hồi giáo ở Nga. Việc những người thiểu số tôn giáo và các sắc tộc thiểu số thường là đội tiên phong của cách mạng Nga, ít nhất là từ giữa thế kỉ XVII, đã đẩy Basayev vào hàng ngũ những người cách mạng Nga.
Yemelyan Pugachev[10], lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa lớn nhất của nông dân Nga chống lại Nữ hoàng Catherina II – cho đến khi bị hành hình năm 1775 – đã dựa vào người Hồi giáo và người Công giáo chống cải cách[11]. Điều thú vị cần ghi nhận là những người không có cảm tình với Nữ hoàng Catherina II ở Tây Âu đã đặt hy vọng lớn vào thành công của Pugachev, mặc dù kẻ mạo danh này, tức là kẻ tuyên bố là “chồng” Catherina đã lập kế hoạch sau khi chiếm được chính quyền ở St Petersburg thì sẽ quay sang chống lại những kẻ “đồi bại” theo Tin lành và Công giáo ở phương Tây.
Sự trớ trêu của câu chuyện này sẽ còn lặp lại nhiều lần trong tương lai. Các nhà cách mạng Nga, từ những người lưu vong bất đồng chính kiến như Nechayev và Lenin đến “người báo thù cho dân tộc, đầy lãng mạn” như Basayev, thường được phương Tây thông cảm, thậm chí là hỗ trợ trực tiếp nữa, nhưng khi giành được chính quyền chắc chắn là họ sẽ có những quan điểm bài phương Tây. Ngay sau khi trở thành “Thủ tướng” của nước Chechnya độc lập vào năm 1996, Basayev đã bắt đầu có những phát biểu bài phương Tây cay độc và làm ngơ trước những vụ bắt cóc các nhà báo phương Tây. Đấy cũng thường là những nhà báo mà ông nuông chiều và bảo vệ khi còn là phát ngôn viên của Chechnya trong cuộc chiến tranh từ năm 1994 đến năm 1996 và khuyến khích họ viết những câu chuyện gây hoang mang về hành vi của quân đội Nga.
Và đây chỉ là một trong nhiều ví dụ như thế. Sau khi lên nắm chính quyền ở Nga vào năm 1917, Lenin đã bắt đầu cung cấp tài chính và vũ khí cho các tổ chức lật đổ ở chính nước Đức, đất nước đã giúp ông trở về Petrograd vào tháng Tư năm 1917 và đã coi ông như một công cụ hữu ích trong việc lật đổ chế độ Sa hoàng. Stalin, từng là đại biểu tại Hội nghị London của phái Bolshevist vào năm 1905, và đã được hưởng chế độ miễn thị thực đang có hiệu lực trên toàn châu Âu lúc đó, trong đó có cả Nga, sau khi nắm quyền liền tách Nga ra khỏi phương Tây bằng một bức màn sắt mà ngay cả một người ủng hộ chủ nghĩa biệt lập thời Trung cổ là Ivan Khủng khiếp[12] cũng không thể tưởng tượng nổi.
Tính chất bài phương Tây của các chế độ được lập nên sau cách mạng đã chứng tỏ rằng bản chất bài phương Tây của các cuộc cách mạng Nga là một hiện tượng xã hội. Mặc cho những diễn ngôn hoa mĩ ban đầu có vẻ “tiến bộ” của họ (những diễn ngôn hoa mĩ này thường dùng để chống lại các chế độ chuyên chế ở Nga, nhưng lại giành được cảm tình của phương Tây), các cuộc cách mạng ở Nga có xu hướng trở thành phản động vì chúng đẩy đất nước thụt lùi và tách nó với phần còn lại của châu Âu. Nhiều nhà sử học tin – mà có cơ sở – rằng các cuộc cách mạng cho thấy thành tố châu Á trong tâm hồn Nga.
Cách mạng tháng Hai năm 1917 và sự sụp đổ của chế độ Xô-viết năm 1991 không phải là một cuộc cách mạng theo nghĩa cổ điển của Nga, vì đấy là những “cuộc cách mạng từ bên trên” – đấy là những âm mưu giành được thắng lợi ngay trong các nhóm cầm quyền, họ đã lợi dụng sự phản đối của đám dân chúng bị bần cùng hóa nhằm gỡ bỏ sự kiểm soát của chế độ cũ đang đè lên vai những người đại diện trẻ hơn của giới tinh hoa của chính chế độ. Trong những cuộc cách mạng “thực sự” (“cách mạng từ bên dưới”, nơi mà quần chúng có vai trò tích cực) mô hình đầy bất hạnh như thế liên tục xuất hiện. Ngay sau khi các chế độ chuyên chế đáng ghét buông lỏng quyền lực, các thành phần cấp tiến nhất và thường có thái độ bài phương Tây liền tìm cách thoát khỏi những người có tư tưởng tự do “mềm yếu” trong nội bộ phong trào, rồi thiết lập chế độ khủng bố, đầu tiên là trong đảng của họ và – nếu thành công – thì trong cả nước.
Những tham vọng không có tương lai
Sergei Nechayev (sinh năm 1847, mất năm 1882) là một ví dụ điển hình về cách hành xử của các nhà cách mạng Nga vừa được nói tới bên trên, và đây là một phần của lý do vì sao nhà văn nổi tiếng người Nga Fyodor Dostoevsky, vốn cũng là một nhà cách mạng, đã dùng Nechayev làm nguyên mẫu cho một trong những nhân vật trong cuốn tiểu thuyết Lũ người quỷ ám  có tính chất phản cách mạng của ông. Sinh ra trong một gia đình có thu nhập khiêm tốn, mẹ là một người nông dân chất phác, Nechayev là một thanh niên tài năng và đầy tham vọng, nhưng trật tự chính trị hiện hành chỉ dành cho tham vọng của ông một ít cơ hội mà thôi. Ở tuổi 21-22, sau khi chuyển sang những tư tưởng mang tính cách mạng triệt để nhất, ông ta đã cho thấy một tài năng tổ chức và lãnh đạo tuyệt vời. Việc ở tuổi 31, ông ta đã có thể truyền những quan điểm cách mạng của mình cho cả những cai ngục của nhà tù tối mật ở St Petersburg, nơi ông ta bị buộc phải sống mười năm trong cuộc đời ngắn ngủi của mình vì tội giết người, chứng tỏ khả năng thuyết phục phi thường của ông ta. Kế hoạch vượt ngục của Nechayev với sự giúp đỡ của những cai ngục đã được ông “cải hóa” thất bại chỉ vì một trong những kẻ đã “cải hóa” báo cáo với cấp trên.
Các nhà sử học cũng đồng ý rằng Lenin cũng có khả năng thuyết phục phi thường. Tương tự như Nechayev – trong những cuộc trò chuyện riêng tư sau này, Lenin thường có những nhận xét tích cực về Nechayev – Lenin đã quyết định sống cuộc đời của một nhà cách mạng chuyên nghiệp ngay từ khi mới 20 tuổi. Vì sao ở Nga những người tài năng như vậy thường trở thành các nhà cách mạng?
Câu trả lời thật đơn giản: không có cơ hội phát triển sự nghiệp và không thể có một đời sống thịnh vượng trong cấu trúc xã hội đã ổn định. “Những người như Nechayev, một giáo viên trong trường Công giáo với một nền học vấn không đầy đủ, một trợ lí luật sư tỉnh lẻ như Vladimir Ulyanov (tên thật của Lenin) hoặc một người viết văn tầm thường như Viktor Chernov (nhà lãnh đạo tương lai của Đảng Cách mạng Xã hội Chủ nghĩa Nga) – ở nước Nga Sa hoàng, những người này có thể hi vọng có một sự nghiệp nghiêm túc hay không?”- Felix Lourie, người viết tiểu sử Nechayev và cũng là một nhà sử học chuyên về lịch sử cách mạng Nga sống ở St Petersburg, đặt câu hỏi như thế ngay trên trang đầu tác phẩm của mình. Lourie đưa ra câu trả lời tiêu cực. “Họ nhồi nhét vào đầu óc mình rằng phải làm một cuộc cách mạng của riêng mình thì họ mới có thể bước lên những đỉnh cao của quyền lực, và họ không chấp nhận bất cứ thứ gì kém hơn. Tư tưởng đơn giản này nuôi dưỡng khát vọng một cuộc cách mạng nhanh chóng, làm bùng lên trong họ sự nôn nóng và thái độ bất dung.”
Cho đến năm 20 tuổi, Nechayev chỉ là một kẻ mới nổi trung bình (Nechayev sinh ở Ivanovo,  một tỉnh nằm ở trung tâm nước Nga). Ở tuổi thanh niên, ông ta đã đến Moskva và St Petersburg để thi vào đại học. Thi trượt, ông phải làm giáo viên thần học tại một trường Công giáo và kiếm thêm bằng những buổi dạy ở nhà. Bài giảng tại các trường đại học mà ông ta tham gia trên cơ sở tự nguyện không làm ông ta thỏa mãn, vì nền giáo dục đại học chỉ cho phép người ta vượt qua hai nấc đầu tiên trong 14 nấc thuộc hệ thống thang bậc hành chính cấp cao mà Peter Đại đế thiết lập và mãi cho đến cách mạng năm 1917 vẫn không hề thay đổi. Vì vậy, thay vì trở thành một nhà khoa học, Nechayev nuôi lòng thù hận mạnh mẽ đối với lũ trí thức “vô dụng”, lòng thù hận mà Lenin, trẻ hơn Nechayev 23 tuổi, sẽ thừa kế một phần. Trong một lá thư, Lenin tuyên bố rằng giới trí thức Nga “là cặn bã của dân tộc”, và điều đó cho thấy chiều sâu thực sự của sự khinh bỉ kiến thức của ông ta, tức là khinh bỉ cái kiến thức không thể được sử dụng vào thực tế cách mạng hay tệ hơn, có thể dùng để chống lại cách mạng.
Giết là sự ràng buộc
Năm 1868 Nechayev tham gia vào một cuộc bạo loạn của sinh viên và làm quen với Pyotr Tkachyov[13], một trong những nhà lãnh đạo của phong trào cách mạng gọi là “Narodniki” (“Người Chiến sĩ của Nhân dân”), tức là phong trào ủng hộ cuộc cách mạng do nông dân lãnh đạo và không ghê tay khi thực hiện những hành động khủng bố chống lại các quan chức của chế độ Sa hoàng. Năm 1869, Nechayev đã sống vài tháng ở London và Geneva, tại đây ông đã gặp những nhân vật huyền thoại thuộc giới lưu vong chính trị Nga – đấy là Mikhail Bakunin, một người “vô chính phủ” và Alexander Herzen, một nhà “dân chủ tự do”. Trong nhiều năm, nếu không nói là nhiều thế kỷ, địa chỉ của giới kiều dân cấp tiến Nga vẫn là Anh, Thụy Sĩ và Pháp.
Nhưng, Nechayev còn đi xa hơn những gì mà những người lưu vong cấp tiến nhất có thể hình dung. Trên thực tế, Nechayev đã đưa ý tưởng của họ đến kết luận hợp với logic của chúng, đấy là khi ông ta nói rằng cách mạng biện minh cho tất cả mọi thứ, trong đó có những vụ giết người, cả kẻ áp bức lẫn người bị áp bức. Ông ta tóm tắt quan điểm của mình trong cuốn Sách giáo lý của một nhà cách mạng, một bản tuyên bố cương lĩnh được xuất bản có vài cuốn tại Nhà xuất bản Geneva (Geneva Publishing House), do một người lưu vong Ba Lan tên là Ludwig Czernecki làm chủ, và bằng cách đó đã tạo ra một liên minh tội lỗi giữa những kẻ chống chính phủ cực đoan người Nga và người Ba Lan. Liên minh này tồn tại suốt mấy thập kỷ, và đã tự thể hiện mình, ví dụ như trong vụ ám sát một ông vua có tư tưởng tự do là Sa hoàng Alexander II, do hai kẻ khủng bố, một người Nga và một người Ba Lan, thực hiện.
“Nhà cách mạng là người chắc chắn sẽ bị diệt vong,” Nechayev tuyên bố như thế. “Anh ta cắt đứt mọi liên hệ với trật tự dân sự và với môi trường có giáo dục, với luật pháp, với sự tử tế, với những điều kiện và đạo đức được mọi người chấp nhận. Nhà cách mạng là kẻ thù tàn nhẫn của thế giới này, và nếu nhà cách mạng tiếp tục sống trong thế giới này thì chỉ vì muốn hủy diệt nó một cách chắc chắn hơn … Nhà cách mạng chỉ biết một khoa học – khoa học của sự hủy diệt… Nhà cách mạng khinh thường dư luận. Anh ta coi khinh và căm thù đạo đức của xã hội hiện thời. Đối với anh ta, chỉ có những thứ có ích cho chiến thắng cuối cùng của cuộc cách mạng mới là đạo đức mà thôi.”
Nechayev không sống để thực hiện trọn vẹn các nguyên tắc của “giáo lý” của mình. Năm 1869, sau khi trở về từ Thụy Sĩ, lần đầu tiên ông ta không thực hiện được “đạo đức cách mạng” của mình. Nhằm gắn kết các thành viên của nhóm sinh viên cách mạng của mình bằng  máu, ông ta đã tổ chức cho cả nhóm giết một trong các thành viên của nhóm là Ivan Ivanov. Tội lỗi của anh sinh viên này là không chịu dán truyền đơn chống chính phủ trong quán cà phê sinh viên. Mục đích là khiêu khích cảnh sát, để cảnh sát ra tay đối với sinh viên, mà theo kế hoạch của Nechayev thì sẽ làm cho số sinh viên bất mãn gia tăng và bằng cách đó sẽ làm cho chế độ Sa hoàng cáo chung sớm hơn. Ivanov đã từ chối, điều này dẫn Nechayev đến ý định loại bỏ anh ta bằng biện pháp bẩn thỉu nhất, đấy nói chung là đặc điểm của Nechayev và các nhà cách mạng khác của Nga trong tương lai. Đầu tiên, Nechayev vu khống Ivanov, ông ta nói với các thành viên của nhóm rằng Ivanov đã lập kế hoạch báo cáo cho cảnh sát biết. Sau đó ông thuyết phục mọi người rằng cách duy nhất để tránh bị bắt là cả nhóm cùng giết “tên phản bội”. Ivanov đã bị Nechayev và bốn sinh viên khác giết một cách tàn bạo vào tháng 11 năm 1869 trong khu vực vắng vẻ tại công viên của Viện Hàn lâm Nông nghiệp Moskva. Nechayev làm cho tất cả những những người có mặt trở thành đồng phạm của vụ giết người, nhưng chính ông ta đã bắn phát súng cuối cùng vào đầu Ivanov.
Những kẻ giết người đã giấu xác một cách cẩu thả và vụ giết người được được cảnh sát Moskva giải quyết một cách nhanh chóng. Các thành viên của nhóm bị bắt giữ, nhưng Nechayev đã tìm cách trốn được sang Thụy Sĩ, chính phủ Thụy Sĩ từ chối dẫn độ, vì cho rằng ở Nga ông ta sẽ không được xét xử một cách công bằng. Nhưng, năm 1872, cảnh sát mật của Nga tổ chức bắt giữ Nechayev ở Zürich. Kiều dân Nga và một số người khác – mà gọi theo lối bây giờ là những nhà hoạt động nhân quyền – tổ chức các vụ phản đối. Phải vượt qua những khó khăn rất lớn và sau khi đẩy lui được những nỗ lực nhằm giải thoát cho ông ta, các nhà tình báo Nga mới đưa được Nechayev về đến Moskva và sau đó là đưa ra tòa. Ông ta bị kết án 20 năm lao động khổ sai. Nhưng ông ta chỉ bị ngồi tù có mười năm. Sau vụ vượt ngục thất bại, dẫn đến việc bắt giữ 34 cai ngục và vụ ám sát Sa hoàng Alexander II do những “Narodniki” thực hiện vào năm 1881, Nechayev bị canh phòng còn chặt chẽ hơn trước đây. “Tất cả các khoản dự trữ trong cơ thể ông đã cạn kiệt”, Lourie viết như thế. Năm 1882 Nechayev chết vì bệnh hoại huyết.
Càng xấu thì càng tốt
Trong khi có sự khác nhau về hình thức, các nhà cách mạng Nga lại thống nhất với nhau bằng công thức “càng xấu thì càng tốt.” Không những không chiến đấu chống lại những hiện tượng bất công mà họ thường tìm cách níu giữ chúng, nhằm làm cho trật tự xã hội “phản động” nhanh chóng sụp đổ. Nechayev cố tình gửi những bức thư phản đối Nga hoàng cho một số người theo phái tự do, mặc dù ông ta biết rằng cảnh sát sẽ đọc những lá thư này và sẽ gây ra rắc rối cho người nhận và bằng cách đó làm cho số người ủng hộ cách mạng tăng lên. Basayev cũng tìm cách khiêu kích quân đội Nga để họ phản ứng lại hành động của ông ta, làm cho người dân Chechnya bị đau khổ nhiều hơn và trở thành kẻ thù không đội trời chung với nhà nước Nga – và trở thành những người ủng hộ trung thành hơn với mình.
Cuộc tấn công của Basayev vào Dagestan, tháng 8 năm 1999, dường như không có ý nghĩa gì, đấy là nếu nhìn từ quan điểm lợi ích dân tộc của Chechnya. Trước đó không lâu, tức là vào năm 1996, quân ly khai Chechnya mới chiến đấu nhằm giành độc lập trên thực tế từ tay nước Nga. Tại sao lại khiêu khích Nga để họ lao vào cuộc tấn công mới, còn tồi tệ hơn so với cuộc tấn công mà Chechnya đã phải đương đầu trong những năm 1994-1996? Ngoài ra, Dagestan là đất nước của những người đồng đạo Hồi giáo, họ sẽ là những người đầu tiên bị đau khổ vì cuộc tấn công của quân Chechnya. Từ quan điểm của một người có lí trí bình thường thì cuộc tấn công này hoàn toàn không có ý nghĩa gì. Nhưng từ một quan điểm cách mạng thì có. Vòng xoáy mới của bạo lực sẽ làm cho nhiều người Chechnya và Dagestan trở thành cực đoan, tạo điều kiện cho Basayev gia tăng số “binh sĩ” tham gia vào những vụ khủng bố tàn độc ở Dubrovka và Beslan. Thời gian hòa bình ở Chechnya cho thấy sự bất tài toàn diện của Basayev trên cương vị “Thủ tướng” của Chechnya, một cương vị mà ông ta chính thức nắm giữ dưới thời “Tổng thống” Aslan Maskhadov. Cả Basayev lẫn Maskhadov đều chứng tỏ rằng họ là những nhà cách mạng tốt nhưng quản lý kinh tế thì kém hơn hẳn – một mẫu người mà Lourie là người đầu tiên phát hiện: “Các nhà cách mạng Nga ghét những cuộc cải cách bộ máy nhà nước và nền kinh tế một cách chậm rãi và bình tĩnh, bởi vì quá trình này không dành cho họ chỗ đứng trong hệ thống hành chính của nhà nước Nga”, Lourie viết trong cuốn tiểu sử Nechayev xuất bản năm 2004 như thế. “Lo sợ trước bản hiến pháp đã được chuẩn bị, các nhà lãnh đạo của phong trào ‘Ý Dân’ vội vã ám sát một ông vua có tư tưởng tự do là Sa hoàng Alexander II. Bản hiến pháp do Sa hoàng ban hành chắc chắn sẽ hạ nhiệt các hoạt động cách mạng. Hệt như vậy, Lenin vội vã làm cuộc đảo chính ở Cung điện Mùa Đông năm 1917, trước khi Hội nghị của Quốc hội Lập hiến khai mạc có mấy tuần. Sự cải thiện điều kiện sống của nhân dân làm cho các nhà cách mạng sợ hãi vì nó có thể biến họ thành những người thất nghiệp.”
Khuôn mẫu ứng xử như thế lí giải hành động của nhiều nhà cách mạng thời hiện đại của Nga, từ Basayev đến nhà văn Eduard Limonov[14]. Khiêu khích nhà nước để nhà nước đáp trả bằng bạo lực và nếu cần thì khiêu khích nữa – đó là chiến thuật mà ít khi họ thất bại. Nó cũng luôn luôn mang đến cho họ những người ủng hộ mới trong số các nhà báo cao quý của phương Tây. Nhưng điều mà nhà cách mạng Nga không bao giờ đạt được – đấy là làm người dân hạnh phúc. Hạnh phúc là hiện tượng không tương thích với cách mạng Nga; đối với các nhà cách mạng Nga, hạnh phúc cũng là một thứ tình cảm tư sản.
___________
Dmitry Babich là nhà báo, đã làm việc cho các tờ Komsomolskaya PravdaMoscow News, cho truyền hình, Đài tiếng nói Nga và trangRussia Profile.
Nguồn: Dmitry Babich – “The Engineers of Destruction“, Russia Profile07/7/2010
Bản tiếng Việt © 2014 Phạm Nguyên Trường & pro&contra


[1] Vladimir Lenin (1870-1924), là người tổ chức Đảng Cộng sản Liên Xô và nhà nước Xô Viết, được coi là một trong mười nhà độc tài khét tiếng nhất thế kỉ XX. (Các chú thích trong bài đều của người dịch.)
[2] Joseph Stalin (1878-1953) là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô từ năm 1953 đến khi chết, từ năm 1941 là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô. Joseph Stalin được coi là một trong mười nhà độc tài khét tiếng nhất của thế kỉ XX.
[3] Alexander Herzen (1812-1870), nhà báo, nhà văn và nhà triết học nổi tiếng người Nga.
[4] Pyotr Kropotkin (1842-1921), nhà sử học, nhà địa chất học, nhà phê bình văn học và nhà cách mạng Nga, một lí thuyết gia nổi bật về chủ nghĩa vô chính phủ.
[5] Mikhail Bakunin (1814-1876), một nhà tư tưởng và cách mạng Nga, theo đường lối Đại Slav, một người vô chính phủ, một trong những tư tưởng gia của phong trào Narodniki, đối thủ tư tưởng của Karl Marx.
[6] Albert Camus (1913-1960), nhà văn, triết gia nổi tiếng người Pháp. Cùng với Jean-Paul Sartre, Albert Camus là đại diện tiêu biểu nhất của chủ nghĩa hiện sinh, được Giải Nobel Văn học năm 1957.
[7] Sir Tom Stoppard (1937 – ), kịch tác gia người Anh gốc Czech.
[8] Sergei Nechayev (1847-1982), nhà cách mạng Nga thế kỉ XIX, một trong những dại diện đầu tiên của chủ nghĩa khủng bố của cách mạng Nga.
[9] Shamil Basayev (1965-2006), thành viên tích cực của lực lượng khủng bố đòi tách Chechnya ra khỏi Liên bang Nga.
[10] Yemelyan Pugachev(1742 – 1775), một người kazak vùng sông Đông, lãnh đạo cuộc chiến tranh nông dân ở Nga từ năm 1773 đến 1775.
[11] Cuộc cải cách Công giáo trong giai đoạn 1650-1661
[12] Ivan Khủng khiếp (1530-1584), Sa hoàng toàn Nga đầu tiên, từ năm 1547 (còn được dịch là Ivan Bạo chúa)
[13] Pyotr Tkachyov (1844-1886), nhà phê bình văn học và nhà báo. Tư tưởng gia của phong trào Narodniki.

[14] Eduard Limonov (1943), một trong những nhà văn Nga hiện đại gây nhiều tranh cãi nhất, từng lưu vong ở phương Tây đồng thời kịch liệt bài Mỹ và chống chủ nghĩa tư bản; từng tham gia những hoạt động chính trị cánh tả cực đoan rồi chuyển sang cánh hữu cực đoan; sáng lập Đảng Bolshevist Quốc gia Nga và tuyên truyền tư tưởng Đại Nga; gần đây nhất bị phạt tù 15 ngày khi tham gia biểu tình chống Putin năm 2010. Tác phẩm nổi tiếng nhất: It’s Me, Eddie (1976).

5/4/14

Dầu Khí Âu-Mỹ và Ống Dẫn Khí Nối Ruột Nga-Hoa


  Saturday, April 5, 2014

Dầu Khí Âu-Mỹ và Ống Dẫn Khí Nối Ruột Nga-Hoa



Nguyễn-Xuân Nghĩa - Việt Báo Ngày 140404

Chuyện Dầu Khí - Thổi Từ Ukraine Qua Đông Hải


 * Ống dẫn Nga Hoa, dự án trên mạn Bắc * 


Việc Vladimir Putin thôn tính bán đảo Crimea của Ukraine xảy ra khi kinh tế Liên bang Nga tăng trưởng chậm hơn – bị suy trầm – và có thễ dẫn tới suy thoái, là không tăng trưởng dù chậm mà còn tụt xuống số âm. Nhìn trong một viễn cảnh dài, vụ khủng hoảng Ukraine còn đánh dấu một chuyện động lớn lao hơn vậy, đó là vai trò mới của năng lượng, khi cuộc cách mạng về dầu thô và khí đốt tại Hoa Kỳ sẽ làm thay đổi tương quan kinh tế giữc các khu vực của toàn cầu.

Chúng ta hãy cùng nhìn lại....

Bài học thường thức về địa dư chính trị và an ninh kinh tế cứ hay được tóm lược như sau, đôi khi để giải thích sự tranh chấp hay chinh chiến từ hơn nửa thế kỷ vừa qua:

Thế giới có hai nhu vực sản xuất nhiều năng lượng dầu khí nhất, đó là Trung Đông và nước Nga. Và có hai khu vực tiêu thụ mạnh nhất, ở quanh Ấn Độ dương và Đông Á. Nơi tiêu thụ bao trùm lên một xứ đông dân và mới ni63i là Ấn Độ, trải qua các nước đang phát triển tại Đông Nam Á, tới Trung Quốc vừa cải cách và lên vùng Đông Bắc Á của các nước đã công nghiệp hoá mà không có dầu khí: Nhật Bản, Nam Hàn và cũng nên kể thêm Đài Loan.

Vì dầu khí, xin gọi chung là năng lượng không tái tạo, là nhiên liệu cần thiết cho công nghiệp cho nên chuyện cung cầu đã trở thành định luật chi phối quan hệ giữa các khu vực và các nước, giữa nguồn sản xuất và nơi tiêu thụ. Các nước liên kết hoặc cạnh tranh với nhau không chỉ vì y thức hệ hay tư tưởng mà còn vì nguyên liệu tối cần thiết cho kinh tế.

Trong khung ảnh đó, thế giới có "Lục địa già" là Âu Châu và siêu cường mới nổi từ trăm năm thì nghe nói là đã bắt đầu lụn bại, là Hoa Kỳ. Cả Âu Châu lẫn Hoa Kỳ đều cần năng lượng và từ bốn chục năm trước, người ta đã báo động cái ngày cạn dầu khí, peak oil khiến các nước bán dầu có thể chi phối được thế giới.

Nói về "Thế giới già", the Old World, sau nhiều thế kỷ tung hoành tứ phương để tìm nguyên nhiên vật liệu rồi giết nhau bao lần, ngày nay Âu Châu đã an phận thủ thường. Các nước trong khu vực tìm cách dung hòa với Trung Đông cùng nước Nga, để có nhiên liệu sưởi ấm tuổi già.

Còn Hoa Kỳ thì vì sợ cạn dầu và mất an toàn về năng lượng nên đòi gây chiến khắp nơi để xài dầu của xứ khác. Gần đây nhất là vụ tấn công Iraq năm 2003 "chỉ để tìm dầu", như nhiều nơi kết án! Vì đi trước, Hoa Kỳ còn sợ ô nhiễm môi sinh nên muốn làm cuộc cách mạng năng lượng xanh. Hạn chế khí thải rồi bắt gió hay nhốt ánh sáng mặt trời để có năng lượng sạch và tái tạo là chủ trương của Chính quyền Barack Obama với sự cổ võ của đảng Dân Chủ và các nhóm áp lực.

Thế rồi giữa cơn nguy nàn ấy, một cuộc cách mạng năng lượng khác đã bất ngờ xảy ra!

Chuyện quang phong năng vẫn còn hão huyền. Vụ công ty Solyndra phá sản sau khi lãnh trợ cấp của Chính quyền Obama là cái ngoặc đơn được báo chí thiên tả khép lại cho kín. Cách mạng bất ngờ là người ta tìm ra kỹ thuật giải phóng dầu thô và khí đốt bị nhốt trong các phiến đá trầm tích. Đó là kỹ thuật fracking.

Khởi đi từ năm 2006 tại Hoa Kỳ, kỹ thuật gạn cát ra dầu khí, hoặc đánh bung những túi dầu bị nhốt - dầu chặt hay tight oil - đem lại triển vọng mới cho các nước có loại trầm tích này.

Trước tiên là triển vọng cho nước Mỹ, với nhiều "túi đá" rộng lớn tại các tiểu bang Texas, Louisiana, North Dakota, Pennsylvania, Ohio, New York và nơi khác. Trong vòng mươi năm tới, Hoa Kỳ có tiềm năng vượt qua Liên bang Nga và Saudi Arabia thành quốc gia có sản lượng dẫn đầu thế giới, lại còn dư để xuất cảng qua xứ khác. Tiềm năng đó sẽ làm thay đổi vị trí địa dư kinh tế của vùng Vịnh Mễ Tây Cơ qua tới khu vực Trung Mỹ, bao trùm lên vùng biển Caribbean và có thể xuống tới xứ Brazil.

Nhưng không chỉ có Hoa Kỳ. Canada và Mexico cũng tìm ra nhiều khu vực có thể khai thác và đưa cả lục địa Bắc Mỹ thành một trung tâm năng lượng của thế giới. Chúng ta sẽ chứng kiến việc thay bậc đổi ngôi, với Trung Đông và nước Nga mất dần vị trí trọng yếu. Sự chuyển dịch trọng tâm năng lượng còn bao gồm nhiều quốc gia Âu Châu, nay cũng đã tìm ra những khối trầm tích có khí đốt. Lục địa già có thể trỗi dậy và nhìn năng lượng Nga hay Trung Đông theo cách khác....

Khi vụ khủng hoảng Ukraine bùng nổ, cả thế giới nói đến cái thế rất mạnh của Putin nhờ năng lượng của Nga đang bắt bí các nước Âu Châu. Sự quờ quạng bất nhất của Chính quyền Obama có thể kéo dài cái thế của Putin được vài năm, nhưng Hoa Kỳ cũng sẽ chuyển hướng theo thực tế mới của năng lượng và địa dư kinh tế. Các nước Âu Châu cũng vậy, sẽ phải thay đổi để thoát vòng kiềm tỏa năng lượng của Liên bang Nga.

Manh nha từ vài năm nay, chiều hướng đa diện hóa nguồn cung cấp dầu khí cho Âu Châu đã là bài toán sinh tử cho Putin. Nhìn về dài thì vụ Ukraine là đỉnh cao, hay điểm lật, của ông ta.

Từ nhiều năm nay, Nga đã thấy ra hai chuyển động nặng, hai xu hướng khó cưỡng.

Trước hết, Âu Châu sẽ ít lệ thuộc hơn vào năng lượng của Nga và tìm nguồn cung cấp điền thế. Và càng sớm đạt kết quả đó nhờ sức đẩy của Mỹ qua xuất cảng dầu khí và nhờ đầu tư vào hệ thống tái chế khí lỏng thành khí đốt để phân phối cho các nước. Hoa Kỳ cũng sẽ phổ biến kỹ thuật khai thác khí đốt cho các nước có đá trầm tích nếu được đầu tư dễ dàng để cùng chia mối lợi về năng lượng.

Chuyển động thứ hai và ngược lại, Á Châu vẫn là nơi cần năng lượng hơn cả.

Trong vòng 20 năm tới, khu vực kéo dài từ Ấn Độ dương qua Thái Bình dương sẽ tiêu thụ đến 85% số năng lượng toàn cầu. Đứng đầu là Trung Quốc, sau đó tới Ấn Độ, và thường xuyên là Nhật Bản và Nam Hàn, ở mức độ thấp hơn hai xứ đông dân kể trên. Cho nên, trong khi Hoa Kỳ có thể nhìn vào Trung Đông với con mắt khác, Á Châu vẫn cần tới dầu khí Hồi giáo tại Trung Đông.

Nhìn từ nước Nga, với khu vực dầu khí xa xôi mãi ở Tây Bá Lợi Á Siberia, thì sức hút về khí đốt của Châu Á mới có triển vọng. Liên bang Nga của Putin thấy gần gũi hơn với Trung Quốc của Tập Cận Bình và đôi bên đang nối kết sự hợp tác qua mạng lưới các ống dẫn khí xuyên lục địa.

Xuyên lục địa cũng có nghĩa là qua nhiều nước Hồi giáo Trung Á như Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan, Turkemenistan và Uzbekistan...

Ở bên này, xuyên qua Đại Tây dương, là hệ thống hàng hải có thể đưa khí lỏng từ Bắc Mỹ qua Tây Âu, dưới sự hộ tống và bảo vệ của các hạm đội Tây phương. Và vì trái đất hình tròn, dầu khí từ Bắc Mỹ cũng có thể vượt Thái Bình dương để tiếp vận cho Nhật Bản, Nam Hàn.

Cho nên, âm thầm mà mãnh liệt, cuộc cách mạng năng lượng đang dẫn tới những xoay chuyển có ảnh hưởng lâu dài.

Kết luận tạm ở đây là hai nước đồng chí, rồi cừu thù, rồi lại đồng minh, là Trung Quốc và Liên bang Nga, thấy gắn bó với nhau nhờ sợi dây nối ruột là khí đốt. Nhưng cả hai đều chỉ là cường quốc đại lục và có cảm giác như bị bao vây phong tỏa bởi các nước Tây phương, từ Bắc Mỹ qua Âu Châu tới Nhật Bản. Chưa nói gì đến Ấn Độ ở bên kia Hy Mã Lạp Sơn, bên cạnh Ấn Độ dương. Ngoài khía cạnh hợp tác và cạnh tranh Nga-Hoa, việc Trung Quốc quậy sóng Đông hải và khống chế vùng biển Đông Nam Á dĩ nhiên là có lý do an ninh và kinh tế.

Nhưng đã gây phản ứng ngược, chạy dài từ Nhật Bản qua Ấn Độ.

Nhiều người trong chúng ta đã thấy sự tương đồng giữa những gì xảy ra tại Ukraine dưới sức ép của Putin, và những gì xảy ra tại Việt Nam, dưới áp lực của Bắc Kinh. Ngoài sự phấn đấu đầy gian nan của lãnh đạo Ukraine tại Kyiv, chúng ta cũng nên để ý tới vai trò của năng lượng và những chuyển động lớn trong thập niên trước mặt....

Ngẫm lại thì 40 năm về trước, trong cơn hấp hối của Việt Nam Cộng Hoà, lãnh đạo Hà Nội chưa biết sợ khi quần đảo Hoàng Sa bị Trung Quốc cưỡng đoạt. Ngày nay, quần đảo Trường Sa và cả khu vực Đông Nam Á còn bị hải quân Trung Quốc uy hiếp. Một trong nhiều động lực của sự bành trướng cũng là dầu khí, hay an ninh về năng lượng cho một xứ đói ăn khát dầu.

Chuyện ý thức hệ - xã hội chủ nghĩa với màu sắc linh linh hay kinh tế thị trường theo định hướng lăng nhăng - nằm ở đâu trong bài toán chiến lược đó? Rõ là vớ vẩn!

Source : Việt Báo . Dainamax Tribune 


Câu chuyện nước Mỹ: Kinh tế, dầu khí, và họa sỹ…Bush

Câu chuyện nước Mỹ: Kinh tế, dầu khí, và họa sỹ…Bush

Theo Hieu Minh Blog 


Phố 18. Ảnh: HM
Phố 18. Ảnh: HM
Lâu rồi Cua Times không điểm tin nước Mỹ, đâm nhớ. Mùa hoa anh đào đang về, magnolia nở rực rỡ trước cửa World Bank, nước Mỹ tạm biệt mùa đông kéo dài, lạnh lẽo và ảm đạm, đang chào đón xuân về.
Nước Mỹ có nhiều tin vui tuần qua.
Theo IMF (Quỹ Tiền tệ Quốc tế), nền kinh tế toàn cầu đang cải thiện sau cuộc suy thoái trên thế giới năm 2008, nhưng còn quá yếu kém không thoải mái.
World Bank, IMF đang chuẩn bị cho cuộc họp giữa kỳ mùa Xuân (Spring Meeting) tại Washington DC, nên các thông báo về kinh tế, dự báo sắp tới thi nhau được tung ra.
Bà Christine Lagarde, Tổng giám đốc IMF, cảnh báo rằng, vụ đối đầu giữa Phương Tây và Nga liên quan tới việc Nga sáp nhập bán đảm Crimea của  Ukraine và các cuộc khủng hoảng chính trị khác có thể gây trở ngại cho tăng trưởng kinh tế.
Dẫu vậy kinh tế Mỹ vẫn có vẻ khả quan. Nhà Trắng vừa thông báo, hơn 7,1 triệu người đăng ký chương trình y tế Obamacare, một thành tựu lớn lao về xây dựng CNXH tại Hoa Kỳ, người nghèo có được bảo hiểm y tế ưu đãi, một chương trình mà phía Cộng hòa cáo buộc Obama theo cộng sản “cào bằng, làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu”.
Trong tháng 3, có 176 ngàn việc làm mới được tạo ra, hồi tháng hai số đó là 175.000, tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống khoảng 6%, so với 9-10% mấy năm trước đây. Đó là tín hiệu tốt lành. Một quốc gia 315 triệu người mà một tháng thêm 170 ngàn việc mới đã mừng. Lạ thật :)
Dân Mỹ khen nhau “Good Job” nghĩa là được đấy, là câu cửa miệng về tầm quan trọng của việc làm tại xứ cao bồi. Không có Job, nước mất, nhà tan, hết cả mọi giấc mơ Mỹ.
Theo bà Janiet Yellen, Chủ tịch Ngân hàng TƯ Mỹ – ngang với thống đốc bên ta, 29 trên tổng số 30 ngân hàng lớn nhất nước Mỹ có đủ sức tài chính để chống chọi với một cuộc suy thoái nếu tỷ lệ thất nghiệp tăng vọt, chỉ số chứng khoán giảm 50% và giá nhà đi xuống không phanh. Triển vọng kinh tế Mỹ khá dần lên. Fitch xếp hạng tín dụng Mỹ là AAA.
Bắt chước Ba Lan, Canada và Mỹ đang quảng cáo khai thác dầu khí
Đi tầu điện ngầm, du khách thấy những tờ quảng cáo về khai thác dầu khí, hợp tác giữa Canada và Hoa Kỳ. Hóa ra họ đã đánh hơi thấy tiền từ dưới đất. Vụ khủng hoảng Ukraine, Nga dọa tăng giá khí đốt hoặc cắt sang EU, đã giúp các nhà chính sách Mỹ đang nhìn lại kho dầu khí tự nhiên của mình.
Năm 2008 và 2009, Putin từng khóa van đường dẫn khí đốt sang EU, làm cho các quốc gia này hoảng loạn. Nhưng đó là trò nghịch dại của anh Ivan.
Quảng cáo khai thác dầu khí  Mỹ-Canada. Ảnh: HM
Quảng cáo khai thác dầu khí Mỹ-Canada. Ảnh: HM
Ba Lan thấy không thể phụ thuộc vào tay hàng xóm dở người, hay thay đổi, hơi tý là dọa, họ đã lập một đường ống dẫn khí riêng, nhập từ Đức, có trạm nhận ở Mallnow bên biên giới hai nước.
Hiện nay, vừa nhập khẩu, vừa khai thác nội địa, Ba Lan gần như không phụ thuộc vào nguồn khí của Nga. Nếu họ nhập, thì giá cả sẽ được điều đình cho hợp lý.
Đường dẫn khí một chiều Yamal từ Nga sang EU cung cấp 2,3 tỷ m3 khí một năm. Đường dẫn khí của Ba Lan tự xây dựng lấy có thể nhập 620.000m3/giờ hay 5,5 tỷ m3/năm, nhập từ Tiệp, Qatar.
Sau vụ Ukraine, EU và Mỹ sẽ nghĩ lại chiến lược dầu khí, tránh phụ thuộc vào Nga. Phía Mỹ, nếu chương trình khai thác khí tự nhiên được khởi động thì không có cách nào dừng bởi tư bản coi lợi nhuận là trên hết. Các công ty sẽ hoạt động hết công suất và giá khí đốt thế giới sẽ giảm.
Ngoài ra, chương trình xanh hóa trái đất sẽ tạo điều kiện cho các nhà khoa học hàng đầu của phương Tây tích cực tìm ra nhiên liệu thay thế khí đốt tự nhiên. Xe dùng ắc qui, tiết kiệm nhiên liệu, điện dùng năng lượng mặt trời… thuộc về công nghệ cao mà phương Tây đang nắm vững.
Israel hiện đang là quốc gia cũng có hai vũ khí: chất xám và khí đốt. Năm ngoái họ đã khai thác mỏ khí ở Tamar lần đầu tiên và trữ lượng đủ dùng cho 25 năm. Nhìn EU khủng hoảng, người Do Thái chắc chắn sẽ nghĩ đến xuất khẩu.
Về ngắn hạn, Nga có thể làm phiền EU nhưng về dài hạn, đó là hành động gấu tự chặt nanh vuốt của mình.
Một khi Mỹ và EU đã xắn tay áo về dầu khí, Putin sẽ tự đặt dấu chấm hết cho cuộc đời làm chính trị của mình.
Họa sỹ Bush vẽ võ sỹ Putin
Giả sử hôm nay Thủ tướng về hưu Phan Văn Khải, TBT Lê Khả Phiêu hay ông Đỗ Mười mở phòng tranh triển lãm tranh vẽ của mình tại Sài Gòn thì liệu có choáng cho báo chí nước nhà hay không?
Thế mà bên Mỹ mọi chuyện có thể xảy ra. Ông Bush sau khi tấn công Iraq, không tìm ra được vũ khí hủy diệt, khi về vườn đã cắp sách đi học vẽ. Không “vẽ” ra chiến thẳng ở Iraq, dân chủ Arap, hay vũ khí ở sa mạc thì cũng vẽ được cái gì đó, cuộc đời ông không thể không vẽ. Lần này ông chọn người mẫu, võ sỹ judo Putin.
Dân báo chí còn nhớ câu nổi tiếng của ông Bush khen Putin khi hai người lần đầu găp nhau năm 2001 “I looked the man in the eye. I found him to be very straightforward and trustworthy, I was able to get a sense of his soul: a man deeply committed to his country and the best interests of his country. – Tôi nhìn vào mắt anh ấy, tôi thấy đó là con người thẳng thắn, đáng tin cậy, tôi cảm nhận được nội tại bên trong của anh ấy, một con người hết lòng vì đất nước và vì quyền lợi quốc gia của anh ấy.”
Chân dung Putin do TT Bush vẽ. Ảnh: WP
Chân dung Putin do TT Bush vẽ. Ảnh: WP
Câu nói đó là của tâm hồn nghệ sỹ, không phải từ trái tim sắt đá của tổng thống siêu cường. TT Bush không thể quên ánh mắt ấy, nên ông bỏ thời gian dài học vẽ và cố lột tả thần thái Putin.
Ngày 4-4-2014, bang Texas, quê hương của TT Bush, chính thức mở cửa triển lãm tranh do cựu Tổng thống Bush vẽ sau khi ông về vườn. Và bức chân dung Putin với đôi mắt sâu KGB treo trang trọng trong phòng tranh, gây nhiều sự chú ý.
Tờ Washington Post có bài đăng vui về chuyện sau này Bush có thay đổi đôi chút về Putin. Đó chính là hai con chó của hai gia đình. Ông Bush có chú chó Barney bé tý, khi cho Putin xem, thì ông này than, thế này mà gọi là chó ư.
Trong lần thăm đáp lễ ở nhà riêng ngoại ô Moscow, Putin đã cho Bush xem con chó săn to lớn hơn nhiều so với Barney và bảo khách “To hơn, khỏe hơn và nhanh hơn Barney”. Nước Nga to lớn đã dọa nước Mỹ mà không ai biết, trong lúc ông Bush cú Putin tại sao dám coi thường chú chó Barney.
Qua câu chuyện này mới biết, phương Tây còn lâu mới hiểu nổi Putin. Cho dù Bush vẽ chân dung Putin thành công, thì cũng không thể nói, Hoa Kỳ hiểu được người KGB trong điện Kremlin. Tìm ánh mắt Putin để hiểu thực sự ông nghĩ gì cũng giống như tìm vũ khí hủy diệt ở Iraq.
Một độc giả comment trên tờ WP khi đọc bài này “Think of how many millions of lives could have been saved if Hitler and Bush had simply gone to art school instead of becoming the leaders of a country. – giá như Hitler và Bush cùng đi học vẽ thay vì làm lãnh đạo quốc gia, thì thế giới này hàng triệu người  được cứu rỗi.
Độc giả này quên, lẽ ra phải thêm Putin, và vài nhà lãnh đạo độc tài khác. Thay vì biểu tình, lật đổ, thay đổi chế độ, hãy khuyên họ đi học vẽ, thế giới sẽ bình yên hơn. Bởi thay vì “vẽ” ra một chế độ không có thật, thì nên vẽ gì đó rất đời. Không thành công thì ít nhất cũng như ông Bush, tả được ánh mắt KGB của Putin bằng cành cọ vàng xứ bạch dương.
HM. 4-4-2014 – toàn số 4.

1/4/14

Năng Lượng: Mỹ Giúp Châu Âu Giảm Áp Lực Của Nga?


Tuesday, April 1, 2014

Năng Lượng: Mỹ Giúp Châu Âu Giảm Áp Lực Của Nga?


Nguyễn-Xuân Nghĩa & Thanh Hà 
Tạp Chí Kinh Tế RFI

Khí Đốt Mỹ Giải Tỏa Sức Ép Của Nga tại Âu Châu  
Quy trình sản xuất, biến chế và xuất cảng khi đốt của Hoa Kỳ




















Khủng hoảng Ukraina càng thúc đẩy Bruxelles dựa vào Mỹ để giảm mức độ lệ thuộc vào dầu khí của Nga? Tại thượng đỉnh Liên Hiệp Châu Âu với Hoa Kỳ ngày 26/06/2014, tổng thống Obama tuyên bố Washington sẵn sàng giúp đỡ châu Âu giải tỏa bớt áp lực của Matxcơva về vấn đề năng lượng. Nhờ những phương pháp khai thác mới, Mỹ đang trở thành nơi có trữ lượng dầu khí ‘tiềm năng’ nhất thế giới.


Năng lượng là một nhược điểm của châu Âu. Hiện tại Liên Hiệp Châu Âu nhập cảng đến hơn phân nửa năng lượng - chủ yếu là dầu hỏa và khí đốt - để đảm bảo nhu cầu tiêu thụ cho 28 thành viên trong khối. Theo thẩm định của Bruxelles nếu giữ nguyên tình trạng như hiện nay, đến năm 2035 Liên Hiệp Châu Âu sẽ lệ thuộc đến 80 % vào năng lượng của các nước ngoài khối.


Trong năm 2013, chỉ một mình nước Nga cung cấp đến 27 % khí đốt cho Liên Hiệp Châu Âu và 70 % trong số đó phải trung chuyển qua ngả Ukraina. Ngoài khí đốt, Nga còn là một nguồn cung cấp dầu hỏa và than đá quan trọng của châu Âu. Chính vì vậy mà Bruxelles đã không thể mạnh tay trừng phạt Matxcơva sau khi tổng thống Putin thôn tính Crimée.


Vào lúc châu Âu và Nga đang cơm không lành, canh không ngọt thì Washington đề nghị bán khí đốt của Mỹ cho châu Âu. Tổng thống Barack Obama nhân thượng đỉnh Âu Mỹ đã dùng lá bài năng lượng để vừa thúc đẩy tiến trình thành lập khu vực tự do mậu dịch với Bruxelles, vừa làm đối trọng với ảnh hưởng của Matxcơva trên Lục địa Già. Dự án này được Ngoại trưởng John Kerry và đại diện châu Âu, bà Catherine Ashton thảo luận thêm vào ngày 02/04/2014 tại Bruxelles.


Câu hỏi đặt ra là liệu khi nào thì khí đốt của Mỹ mới chảy tới châu Âu? Washington chấp nhận xuất khẩu đến bao nhiêu triệu mét khối cho Bruxelles hàng năm và trong thời gian là bao lâu? Đừng quên rằng Hoa Kỳ luôn coi các nguồn dự trữ của mình là yếu tố chiến lược để bảo đảm về an ninh năng lượng của bản thân nước Mỹ. Liệu rằng với dầu khí của Mỹ,Liên Hiệp Châu Âu giảm bớt mức độ lệ thuộc vào ông khổng lồ Nga hay không?



Năng lượng, lá bài mới của Mỹ?


Từ California, chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa lần lượt trả lời các câu hỏi trên nhưng trước hết ông nói qua về tiềm năng rất lớn của dầu hỏa và khí đốt Hoa Kỳ: Mỹ đang trở thành một ông khổng lồ về năng lượng nhờ kỹ thuật khai thác mới. 

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Từ mấy chục năm nay, nước Mỹ đã biết nhiều phương pháp khai thác năng lượng, chủ yếu là dầu thô và khí đốt, ngoài than đá là một lợi thế có sẵn. Nhưng họ không muốn thử nghiệm công nghệ mới vì quá tốn kém. Khi giá năng lượng trên thế giới tăng vọt và từ năm 2006, nước Mỹ dồn sức khai triển phương pháp mới và thật sự hoàn thành một cuộc cách mạng về công nghệ làm đảo lộn tất cả. 

- Kỹ thuật "fracing" ấy - đọc như "fracking" - gồm có đào sâu xuống các tầng địa chất trầm tích và xoay ngang để tìm đến mạch năng lượng bao quanh rồi bơm xuống với sức ép cực mạnh một dung dịch nước và hóa chất. Sức ép này mở bung cả dầu thô hay khí đốt bị nhốt trong đá và được hút lên làm năng lượng. Riêng về khí đốt thiên nhiên, Hoa Kỳ có công nghệ dùng áp suất mạnh để biến khí thành nước lỏng đựng trong bồn, gọi là LNG, liquefied natural gas, dễ di chuyển qua nơi khác để từ khí lỏng lại trở về trạng thái khí đốt có thể phân phối qua ống dẫn khí. 

- Kết quả của cách mạng kỹ thuật là Mỹ đã nâng sản lượng khí đốt của mình lên hàng vô địch với trữ lượng dự báo là hơn 900 ngàn tỷ thước khối, khả dĩ sử dụng cả trăm năm tới. Nhưng hậu quả là số cung gia tăng từ năm 2009 làm giảm giá khí đốt tại Mỹ. Khi ấy, Hoa Kỳ nghĩ tới việc xuất cảng trong điều kiện mà giá khí đốt tại Âu Châu và mọi nơi khác đều đắt hơn. 

- Trở ngại cho việc xuất cảng gồm có hai phần. Thứ nhất là hạn chế về chính sách vì Mỹ vẫn cấm bán năng lượng ‘ra bên ngoài’ để có an toàn năng lượng ‘bên trong’, lại còn muốn bảo vệ môi sinh nên kiểm soát chặt chẽ việc lập nhà máy LNG chế biến khí lỏng. Thứ hai là về kỹ thuật để đưa khí đốt từ Mỹ tới các thị trường khác. 

- Vấn đề kỹ thuật thật ra dễ giải quyết dù tốn kém và mất dăm ba năm mới hoàn thành. Vần đề chính sách mới nan giải vì nhiều ràng buộc chính trị bên trong nước Mỹ, thí dụ như các nhóm lợi ích hay doanh nghiệp chế biến, muốn hạn chế xuất cảng để mua nguyên liệu rẻ nhờ giảm giá. 

- Thế rồi khủng hoảng Ukraina và đối sách thiếu thống nhất của Âu Châu trước sức ép của Nga làm dư luận chính trị tại Mỹ thay đổi. Giải phóng khí đốt có thể góp phần giải phóng Châu Âu ra khỏi vòng kiềm tỏa của năng lượng Nga.

- Chúng ta thật ra đang ở giữa cuộc cách mạng cho nên tình hình thay đổi và mỗi năm người ta lại thấy tiềm năng của Mỹ thật ra cao hơn mọi dự đoán trước. Mỹ hiện có sản lượng và mức tiêu thụ khí đốt nhiều nhất thế giới, và trong vài năm tới thì có dư để bán ra ngoài với giá rẻ chỉ bằng một phần ba giá của thiên hạ. Mà dù có xuất cảng thì cũng không nâng giá nội địa quá mạnh và nếu giá tăng thì càng khuyến khích các doanh nghiệp khai thác thêm.


Khí đốt, lá bài lợi hại mới của Mỹ?


Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Hệ thống luật lệ Mỹ nhiêu khê vì áp lực của nhiều trung tâm quyền lợi. Thí dụ giới bảo vệ môi sinh đòi hạn chế nhà máy chế biến, doanh nghiệp chế biến muốn có nguyên liệu rẻ nên đòi hạn chế xuất cảng. Một cách cụ thể thì doanh nghiệp Mỹ muốn sản xuất để xuất khẩu phải vượt sáu ải, của Cơ quan Liên bang Kiểm soát Năng lượng, Bộ Năng lượng, Cơ quan Bảo vệ Môi sinh, Cơ quan Bảo vệ Thú hiếm, Cơ quan Bảo vệ An ninh Hàng hải, Bộ Vận tải, v.v.... Mà muốn bán khí đốt cho một quốc gia chưa ký Hiệp ước Tự do Mậu dịch FTA với Mỹ, trường hợp của vài nước Âu Châu, thì còn phải có giấy phép riêng của Bộ Năng lượng với lý do là việc xuất cảng này "phù hợp với quyền lợi của công chúng Mỹ."

- Ngày nay, nhờ hay vì sự ngang ngược của Tổng thống Vladimir Putin, chính trường Mỹ đang thay đổi quan niệm, với Lập pháp yêu cầu Hành pháp áp dụng thủ tục khẩn cấp cho xuất cảng khí đốt để vừa bảo vệ Ukraina vừa giải tỏa sức ép của Putin trên các nước Âu Châu.


RFI: Nếu Mỹ thay đổi chính sách thì sẽ bán khí đốt cho Âu Châu dưới hình thức nào và bao giờ thì bán được?


Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Chúng ta mường tượng ra hai bước kỹ thuật là, thứ nhất, ép khí thành nước trong nhà máy khí lỏng để vận chuyển như dầu thô đến các thị trường khác. Rồi từ chất lỏng trở lại thành khí có thể phân phối qua ống dẫn khí ở nơi mua. Khi bán như vậy thì từ đầu ra ở bên Mỹ phải có giấy phép và đầu vào là nơi mua phải có đầu tư để lập nhà máy cải biến khí lỏng ra khí đốt. Việc mua bán bao hàm cả đầu tư tốn kém để lập nhà máy bên kia đại dương và mất từ ba đến năm năm. Do hoàn cảnh đặc biệt ngày nay, nếu thủ tục cho phép và hoàn thành có thể ngắn hơn thì cũng mất hai năm.

- Thật ra nhiều nước Âu Châu, kể cả Ukraina, có thấy mối nguy của áp lực Nga nên đã đa diện hoá nguồn cung cấp. Thí dụ là Pháp và Hà Lan lập dự án khí lỏng tại Dunkerque và Rotterdam với công xuất là 12 tỷ thước khối một năm, sẽ khởi sự hoạt động năm nay. Còn Ba Lan có dự án nhỏ hơn tại hải cảng Swinoujscie có thể hoàn thành năm nay với công xuất năm tỷ thước khối.

- Ukraina thì lệ thuộc vào khí đốt của Nga đến 60% của số tiêu thụ là 50 tỷ thước khối một năm. Từ năm 2013 xứ này ký hợp đồng với hai tập đoàn năng lượng là Shell và Chevron để khai thác khí đốt từ đá phiến của mình, với hy vọng sản xuất được từ năm đến 10 tỷ thước khối. Song song tổ hợp ExxonMobil của Mỹ cũng đang nghiên cứu việc khai thác khí đốt bên Tây ngạn của Hắc Hải để Ukraina có thêm từ năm tới 10 tỷ thước khối. Ngay trước mắt, Ukraina dự tính đảo ngược nguồn cung cấp, từ Tây sang Đông thay vì từ Nga, với ống dẫn khí qua xứ Slovakia. Trong nỗ lực đa năng hóa như vậy của Âu Châu, Hoa Kỳ có thể đóng góp về kỹ thuật và đầu tư chứ không chỉ qua việc bán khí đốt.


RFI: Nếu Mỹ giúp như vậy thì Liên Hiệp ChâuÂu có thể giảm được mức độ lệ thuộc vào khí đốt của Nga tới chừng nào?


Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Cho đến nay, ta chưa có giải đáp về mức hiệu quả là giảm bao nhiêu phần trăm vào khí đốt của Nga nhiều lý do, cả tiêu cực lẫn tích cực.

- Thứ nhất, vì yếu tố cục bộ, áp lực cản trở xuất cảng vẫn còn mạnh trong Chính quyền Obama. Thứ hai, việc đầu tư vào nhà máy ở nơi mua là Trung Âu hay Đông Âu thật ra tốn kém và ít lời hơn bán khí cho Đông Á nên nhiều doanh nghiệp Mỹ còn ngần ngại. 

- Thứ ba, các nước Âu Châu cũng có khu vực đá phiến đầy triển vọng, thí dụ như khi Pháp và Hoà Lan khởi động hai dự án năm nay thì Pháp hết cần khí đốt của Nga, hai nước có thể bảo đảm yêu cầu cho nước Bỉ và còn dư 22 tỷ thước khối để bán ra ngoài, tức là Âu Châu cũng từ giảm mức lệ thuộc vào khí của Nga. Thứ tư là ngay tại Âu Châu, nhiều quốc gia cũng e ngại môi sinh ô nhiễm nên chưa mạnh dạn chấp nhận công nghệ gạn đá phiến ra khí đốt, mặc dù vẫn dùng than đá còn ô nhiễm hơn!

- Ngoài ra, chưa nói đến xuất cảng thì Hoa Kỳ vẫn có thể góp sức giải tỏa khi phổ biến kỹ thuật khí đốt cho nhiều quốc gia, từ biển Baltic qua Ba Lan, Rumani xuống Hắc Hải nếu các nước này cải tổ thuế khóa để tiếp nhận đầu tư của Mỹ. Ngược lại, khi thấy Mỹ ra đòn, Nga có thể phản đòn và xuống giá để duy trì ưu thế cạnh tranh và thế lực chính trị. Khi ấy, ta thấy ra bài toán khác. Giá khí đốt của Nga thật ra rất đắt vì còn phải chở từ Tây Bá Lợi Á (Sibérie) tới Âu Châu. Và mỗi dự án khí đốt tại Âu Châu làm giảm số mua thí dụ như là 12 tỷ thước khối trong tổng số bán của Nga cho Âu Châu là 200 tỷ thước khối một năm là có thể làm Nga mất từ 5 đến 10 tỷ đô la. 

- Sau cùng, dù việc xuất cảng chỉ trở thành thực tế trong hai ba năm tới, việc Mỹ thông báo sẽ cho xuất cảng dầu thô và khí đốt cũng lập tức làm sụt giá trên thị trường quốc tế. Mà giá khí của Nga lại giàng vào giá dầu, nếu dầu thô sụt giá dưới mức 90 đô một thùng là Nga bị hụt ngân sách. Ông Poutin ngày nay còn hung hăng khi dầu thô còn trên trăm đồng một thùng, chứ nếu sụt tới 90 đồng là kinh tế và ngân sách Nga bị khủng hoảng như đã bị vào năm 2009.


RFI: Tình hình chung về khí đốt trích xuất từ đá phiến tại Mỹ là thế nào?


Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Trong mươi năm tới, Hoa Kỳ sẽ dẫn đầu thế giới về khí đốt và làm giảm giá năng lượng toàn cầu với lượng xuất cảng ngày càng cao hơn. Biến cố Ukraina sẽ đẩy mạnh chiều hướng ấy. Thứ hai, trong nội địa Hoa Kỳ, công nghệ mới cũng nâng cao hiệu suất tiêu thụ và giảm phí tổn về năng lượng, thí dụ dễ thấy là xe hơi ít hút xăng dầu và dùng khí đốt nhiều hơn, hay người ta dùng người máy tự động nhiều hơn. 

- Nói về kế toán, trong cơ cấu sản xuất, phí tổn nhiên liệu giảm mạnh khiến doanh nghiệp Mỹ có thế cạnh tranh rất cao và nhu cầu đầu tư ra ngoài để tìm nhân công rẻ sẽ không còn như trước, nên ta sẽ thấy "tư bản hồi hương". Sau cùng, vì lệ thuộc ít hơn vào năng lượng bên ngoài, như dầu thô Trung Đông, trong trường kỳ, nước Mỹ sẽ có đối sách khác về an ninh chiến lược. Trong khi ấy, Liên bang Nga vẫn chỉ thuộc loại chậm tiến có võ khí và còn tùy thuộc quá nhiều vào việc xuất cảng nguyên liệu và năng lượng.

RFI: Theo báo cáo gần đây nhất của Cơ quan Năng lượng Quốc tế đến năm 2018, Hoa Kỳ sẽ là nguồn cung cấp đến 1/5 khí đốt cho nhân loại. Đến năm 2025, nhập khẩu dầu thô vào nước Mỹ sẽ giảm xuống chỉ còn bốn triệu thùng một ngày thay vì 10 triệu như hiện nay. Trong chưa đầy một chục năm nữa, Hoa Kỳ sẽ thành nhà sản xuất dầu hỏa số một thế giới đứng trước cả Á Rập Xê Út và Nga. Dầu hỏa và khí đốt sẽ là hai lá chủ bài cho phép FWashington phác họa lại chính sách đối ngoại và sẽ làm thay đổi cục diện trên bàn cờ quốc tế.

Source : RFI . dainamax tribune

“Kịch bản Putin” cho chính khách Việt?

“Kịch bản Putin” cho chính khách Việt?

Cập nhật: 04:39 GMT - thứ ba, 1 tháng 4, 2014
Không ai có tiên định được tương lai chính trị Việt Nam sẽ biến động thế nào. Cũng không ai đoán định được số phận của các chính khách cao cấp Việt Nam sẽ kết thúc ra sao…
Chỉ đến khi chợt hình dung ở cuối dòng sông sẽ hiện ra một vực xoáy khủng khiếp, các chủ nhân ông mới cuống cuồng sục tìm một lối thoát đỡ va đập nhất từ con thuyền sắp đắm.

Cho đến một ngày, một trong những trang mạng bị xem là giả danh Thủ tướng Chính phủ Việt Nam - nguyentandung.org, bắt đầu seri bài về “Việt Nam có cần một nguyên thủ quốc gia như Putin?” và tiếp nối “Làm thế nào để Việt Nam có nhiều Putin?”.
“Kịch bản Putin” là một lối thoát hầu như đã được lượng định và lượng thứ.
Nhiều ngày trôi qua, vẫn không ai biết rõ trang mạng trên thực chất là do ai đạo diễn. Nhưng nói gì thì nói, cần ghi nhận một thành công nho nhỏ về sức hút công luận từ trang mạng này.
Khi mà tuyệt đại đa số báo chí quốc doanh chìm lắng trong cơn sầu muộn vô cùng tận của không ít chuyện không thể nói cùng quá nhiều việc không dám thưa thốt, vài ba tiếng chuông nguyện cầu cho cuộc chiến biên giới Việt - Trung năm 1979 trên trang nguyentandung.org hẳn làm các cựu chiến binh nguôi ngoai đôi chút về tâm trạng “người lính già đầu bạc, kể mãi chuyện Nguyên Phong”. Thậm chí trong một lần hiếm muộn, một đài quốc tế Việt ngữ còn phải đặt dấu hỏi về trang mạng vừa hoài niệm vừa đáng hoài nghi này.
"Chủ tịch nước kiêm tổng bí thư vốn là một phương án mà giới chính khách [Việt Nam] ngày càng nồng nàn, thậm chí tỏ rõ độ mẫn cảm đặc biệt với khung nhân sự này."
Cũng như những gì mà người ta đang hoài nghi về Vladimir Putin và đương kim thủ tướng chính phủ Việt Nam…

Nét tương đồng chính khách?

Mỗi chính khách đều có một con đường và một thân phận. Nhưng nếu cần, lịch sử có thể được cải biên cho những con đường ấy giao thoa với nhau, còn các thân phận lại mang tính giao đồng và thậm chí còn có nét nhân văn.
Nếu một nhà sử học không tiếng tăm từng tô thắm điểm chung lớn lao giữa Nguyễn Tấn Dũng và Putin - một người từng là thứ trưởng Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an), người kia có nguồn gốc xuất thân từ Cơ quan an ninh quốc gia KGB; có thể hiểu trong tương lai không thật quá xa xôi, nhân vật được coi là quyền lực nhất Việt Nam hiện nay sẽ không còn quá cần thiết phải đứng đầu chính phủ nữa, mà vai trò của ông sẽ bằng cả vị trí hiện thời của hai ông Nguyễn Phú Trọng và Trương Tấn Sang gộp lại.
Chủ tịch nước kiêm tổng bí thư vốn là một phương án mà giới chính khách ngày càng nồng nàn, thậm chí tỏ rõ độ mẫn cảm đặc biệt với khung nhân sự này.
Chưa cần biết vai trò tương lai đó có quy tập được quyền lực gần như tuyệt đối như Tập Cận Bình ở Trung Quốc hay không, nhưng vẫn có hy vọng rằng dù ai trong số các chính khách hiện thời vươn tới chân trời “nhất thể hóa”, họ đều có cơ hội để thực hiện giấc mơ trở thành một Vladimir Putin thứ hai.
Vậy Vladimir Putin là ai? Ivan Hung bạo hay Tư bản dã man?
15 năm ròng rã kể từ khi thay thế vai trò của Boris Yeltsin, sức mạnh giấu kín trong con người Putin đã đưa nước Nga trở lại vị thế một cường quốc. Sẽ chẳng phải hoài nghi nếu thuật lại câu chuyện Putin thuộc hàng hiếm hoi trong giới tổng thống trên thế giới bắn chết hổ, và là nhân vật duy nhất có đặc quyền khuấy đảo chính trường nước Nga.
Chắc chắn đó là hình ảnh mà giới chính khách kém bản lĩnh hơn nhiều ở Việt Nam phải nhất tâm mê mẩn. Dù rằng nếu chấp nhận đi theo “thuyết Putin”, chính giới Việt Nam sẽ đồng thời phải thừa nhận trạng thái đa nguyên chính trị và thể chế đa đảng, kể cả đảng đối lập.
Xét cho cùng, hệ lụy đó có hề gì một khi những người hậu bối của chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam vẫn đút gọn nền kinh tế vào túi mình, còn các tập đoàn kinh tế nhà nước chẳng cần phải lo nghĩ đến chuyện dẹp bỏ thế độc quyền muôn thuở, và nạn tham nhũng không những không cần bị triệt tiêu mà còn được hiểu như một động lực làm hài hòa tính chính danh của chế độ.
"Rõ ràng có một sự khác biệt hết sức quá quắt giữa một nước Nga đang lao đi với gia tốc ngày càng nhanh trên cỗ xe độc tôn với hiện tình chia rẽ dẫn đến tương lai cát cứ ở Việt Nam."
Nước Nga thời hậu Liên Xô đã là như vậy và vẫn đang là như vậy, nơi mà có thể đến hơn một nửa số người Nga tạm hài lòng với những gì Putin đang làm, kể cả việc ông vừa định đoạt một cách thô bạo vào số phận của khu vực Crimea mà rất có thể bị giới sử học so sánh với Ivan Hung bạo.
Nhưng hầu như ngược lại, chẳng có ai trong số chính khách Việt hiện thời đủ tầm và tâm để quy tụ đủ 10% dân chúng ủng hộ mình, nếu họ chấp nhận một cuộc trưng cầu dân ý mở rộng đến tận những vùng mà học sinh phải bắt chuột ăn thay cơm, những đứa trẻ lang lang không mảnh áo trong trời giá buốt, hoặc những cô giáo phải chui vào túi nylon để vượt suối…
Rõ ràng có một sự khác biệt hết sức quá quắt giữa một nước Nga đang lao đi với gia tốc ngày càng nhanh trên cỗ xe độc tôn với hiện tình chia rẽ dẫn đến tương lai cát cứ ở Việt Nam.
Không thể có được một Ivan Hung bạo và thậm chí cũng không có nổi một Ivan Đại đế để tái thiết đất nước, từ vài chục năm qua các tầng lớp cách mạng lão thành, cựu chiến binh, một phần lớp trẻ và một nhúm công dân còn rực cháy tâm nguyện đối với dân tộc luôn cầu nguyện giấc mơ cháy bỏng để Việt Nam có được một bàn tay sắt của Putin nhằm vãn hồi trật tự xã hội và đạo đức Khổng Tử.
Nhưng có vẻ điều quá quắt không kém lại đang gấp gáp: người ta tự đánh bóng cho nhau đặc biệt quá đáng. Đồng ý là nước có thể nâng thuyền, nhưng không ai biết được khi nào nước sẽ lật thuyền. Con thuyền chính trị Việt Nam, với nhiều chỗ vá víu đầy tham vọng vào thời kỳ mà tính dã man của chủ nghĩa tư bản đã khỏa lấp hầu hết những ưu việt của “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, vẫn đang cố vượt qua thác ghềnh trong ít ỏi vọng tưởng còn lại.
Để có thể gia tăng hy vọng, cách duy nhất là người ta cần phải tìm ra “người cầm lái vĩ đại”.

Ai là “người cầm lái vĩ đại”?

Những trang tin không chính thức và chưa bao giờ được coi là chính thống như nguyentandung.org đã vừa đề cập đến hai nhân vật Chủ tịch nước và Thủ tướng Chính phủ nhưng lại không buồn nhắc đến dù chỉ hình bóng của Tổng bí thư và Chủ tịch quốc hội, và càng biến mất hình hài của Bí thư thành ủy Hà Nội - nhân vật đang có ít nhiều triển vọng cho chức vụ cao nhất trong Đảng vào Đại hội 12 năm 2016.
Ít nhất, hai trong số “tứ trụ triều đình” đã có thể đang bị quên lãng. Và cũng ít nhất, một trong hai nhân vật còn lại cũng chỉ được nêu ra như một thủ pháp “làm vì” cho một tương lai bị lãng quên đối với cá nhân ông ta.
Người còn lại, ẩn số cuối cùng và có vẻ được cố ý xem là đáp số duy nhất cho phương trình chính trị tương lai của Việt Nam, nghiễm nhiên đang mở ra gương mặt mang tính “cải cách thể chế” lộ liễu nhất, cho dù tất cả mới chỉ thể hiện trên phương diện ngôn từ.
Song cứ cho là chính khách cuối cùng ấy - người có cùng xuất xứ “an ninh” như Vladimir Putin - đang được tô vẽ bởi một thế lực truyền thông ẩn hiện nào đó và có thể trở thành nhân vật “nắm chắc ngọn cờ dân chủ” như thông điệp đầu năm 2014 của ông ta phác họa, thì liệu cái gì sẽ chứng thực cho điều được xem là “lòng thành chính trị” của chính khách này?
Chứng thực cực kỳ đơn giản là sau ba tháng, bản thông điệp đầu năm 2014 của ông Nguyễn Tấn Dũng vẫn chưa được thành thực bởi bất kỳ hành động thành thật nào, trong khi các nhóm kinh tế độc quyền xăng dầu, điện và sữa vẫn mặc sức đẩy bão giá trên đầu dân chúng.
Chưa từng tồn tại trong từ điển bách khoa Việt Nam, nhưng “Thành tâm chính trị” lại là một khái niệm nhân văn từng được cộng đồng quốc tế ghi nhận nơi con người Thein Sein - vị tướng thoát thân từ chế độ quân phiệt mà đã khiến đất nước Myanmar chuyển mình kỳ diệu kể từ năm 2011.
"Thông điệp đầu năm 2014 của ông Nguyễn Tấn Dũng vẫn chưa được thành thực bởi bất kỳ hành động thành thật nào, trong khi các nhóm kinh tế độc quyền xăng dầu, điện và sữa vẫn mặc sức đẩy bão giá trên đầu dân chúng. "
Thả tù chính trị và mở cửa cho các đảng phái đối lập - ít nhất những cử chỉ đó cũng khiến hình ảnh Thein Sein được tôn tạo trên bức tranh nhân quyền, khiến dĩ vãng đàn áp của lề thói quân phiệt dần chìm vào quá khứ.
Nhưng Việt Nam lại luôn là một bài học đáng quên của độ trễ không chỉ về kinh tế mà cả với những xảo thuật tủn mủn nhất về chính trị. Dù luôn được mô tả như “người cầm lái vĩ đại”, nhưng không một lãnh đạo nào bên khối chính phủ có đủ đức hạnh và trí tuệ để trở thành lãnh tụ sáng suốt đưa nền kinh tế thoát khỏi bóng đêm suy thoái. Rất đồng pha, những lãnh đạo tư tưởng cũng không hề khá hơn khi làm cho cảm xúc của người dân về một “nhà tù lớn” ngày càng minh bạch hơn lúc nào hết.
Tất cả những hệ lụy chất chồng và còn chưa lao đến đáy như thế đang khiến cho học thuyết kinh tế - chính trị ở Việt Nam rơi nhanh xuống hố sâu phá sản chỉ trong ít năm nữa.
Chỉ đến lúc này, khi tất cả đã dợm chân vào vực xoáy khủng hoảng và sự tồn vong của thể chế một đảng bị đe dọa cực kỳ nghiêm trọng, giới chính khách đặc trưng bởi tinh thần bảo thủ và vun vén cá nhân ở Việt Nam mới buộc phải liên tưởng đến một kịch bản mà trước đó họ hoàn toàn không nghĩ đến: kịch bản Thein Sein.

Putin, Thein Sein hay lưu vong?

Làm thế nào để một chế độ và trên hết là giới cầm quyền trong chế độ đó thoát khỏi đòn roi hồi tố và quyết tâm trả thù của đám đông dân chúng bừng bừng phẫn nộ từ áp bức lâu năm? Làm thế nào để không cần đến động tác lưu vong và tẩu tán tài sản, giới chính khách và các nhóm lợi ích bên cạnh họ vẫn giữ được phần nào quyền lực và đất đai nhà cửa cùng các tài khoản ngân hàng ngay trên mảnh đất Việt Nam khốn khó trăm bề?
Kịch bản Thein Sein có lẽ vẫn còn là một phương án tương đối xa vời ngay vào thời điểm những tháng đầu năm 2014, ít nhất trong não trạng khá thiển cận và bị che mờ bởi các nguồn lợi cận kề của lớp chính khách thời nay.
Kịch bản Thein Sein vẫn là phương án xa vời
Đối với họ, hình dung từ ngày càng rõ nét hơn là con đường mà nước Nga đã trải qua cùng hình tượng thủ lĩnh hội tụ uy quyền gần như tuyệt đối là Putin. Đối lập mà không có đối trọng - đó chính là điều mà Putin và đảng “Nước Nga thống nhất” bên cạnh ông đã cố gắng, bằng nhiều thủ pháp và cả thủ đoạn, kéo mòn cho đến ngày hôm nay.
Với những chính khách Việt Nam đang lẫn lộn về phương pháp luận trong thế “đu dây”, chắc chắn đó sẽ là một kịch bản tốt ưu dành cho đảng cầm quyền, dù có phải trả một cái giá nhỏ nhoi khi phải cho phép hình thành những đảng phái đối lập một cách hợp pháp, trong khi không mấy nặng lòng về tâm thế phải chia sẻ quyền lực với nhân dân.
“Kịch bản Putin” cũng bởi thế rất có thể sẽ chiếm vị trí then chốt trong não trạng của không chỉ một mà một số chính khách đầy tham vọng lẫn tham quyền cố vị.
Chỉ có điều, hoàn cảnh nước Nga và con người Putin quá khác với tình cảnh và thực chất bản lĩnh của giới chính khách Việt Nam. Ngẫu nhiên, giới quan sát và người dân Việt Nam lại dần hiểu ra một chi tiết cốt tử: giới chính khách ở đất nước này đang túc trực bên số phận nhau bằng một tinh thần không mấy tương thân tương ái.
Thời gian đang chạy đua với Đại hội 12 của Đảng sẽ diễn ra trong năm 2016.
Với cuộc chơi được ăn cả ngã về không trong vài năm tới, sẽ chẳng có bất cứ cơ hội hoặc kịch bản nào cho bất kỳ chính khách nào nếu họ không tự gấp rút biểu hiện một lòng thành chính trị và thực tâm cải cách tối thiểu nào đó trước dân chúng, và tất nhiên sự trưng bày ấy phải được phô diễn trước đoàn diễu hành mang biểu ngữ không hẳn tung hô của chính giới phương Tây.
Bài phản ánh văn phong và quan điểm riêng của tác giả, một nhà báo tự do sống tại TP Hồ Chí Minh.
Source : BBC