9/12/08

HOÀNG TỬ BÉ ( Le Petit Prince - Saint - Exupéry ) - Bản dịch Bùi Giáng

Tác phẩm Văn học


NXB AN TIÊM 1973



HOÀNG TỬ BÉ

Le Petit Prince

với những họa màu nước của tác giả



Nguyên tác: Saint - Exupéry

Bùi Giáng dịch



GỬI LÉON WERTH

Tôi xin lỗi các bé con, vì đã đề tặng cuốn sách này cho một người lớn. Tôi có một lẽ chân xác để tự bào chữa, và xin được thứ lỗi: người lớn nọ là người bạn chí thiết trong đời tôi. Tôi còn một lẽ nữa: người lớn nọ có thể hiểu hết mọi sự ngay cả những cuốn sách viết cho bé con, người ấy cũng hiểu nốt. Tôi còn một lẽ thứ ba để được tha thứ: người lớn nọ hiện sống ở nước Pháp, và đang chịu đói và rét. Y thật cần được an ủi. Nếu tất cả những lẽ đó không đủ để bào chữa cho mình, thì tôi rất muốn đề tặng cuốn sách này cho đứa con mà xưa kia người lớn nọ vốn đã từng là (nó) vậy. Mọi người lớn, ban sơ, đều đã từng là những bé con. (Nhưng ít người trong số đó ghi nhớ điều kia). Vậy tôi xin sửa chữa lời đề tặng:


Gửi Léon Werth
Thuở ông ta còn là bé con


I.

Thuở lên sáu, một lần nọ tôi thấy một bức tranh lộng lẫy, trong một cuốn sách viết về rừng thẳm nhan đề Sự tích đã sống. Bức tranh đó họa một con trăn đương nuốt con mãnh thú. Trên đây là bản đồ mô phỏng bức họa kia.

Trong cuốn sách người ta nói: “Giống trăn nuốt toàn thể con mồi không nhai nghiền gì cả. Rồi sau đó, giống trăn không còn có thể rục rịch nữa, nên nằm ngủ ròng rã suốt sáu tháng trời là thời gian tiêu hóa".

Từ đó, tôi đã suy ngẫm rất nhiều về những trận lưu ly mạo hiểm của rừng sâu và, tới phen mình, tôi cũng đã dùng một cây bút chì màu mà vẽ nên bức họa đầu tiên. Bức họa số 1. Nó như thế này:

Tôi có đưa cho những người lớn xem kiệt tác của mình, và hỏi họ có kinh khiếp trước bức họa kia không.

Họ đáp: “Làm sao một cái mũ lại có thể xui người ta kinh khiếp?"

Bức họa của tôi không thể hiện một cái mũ. Nó vẽ một con trăn đương nằm tiêu hóa một con voi. Tôi bèn vẽ phía trong của cái bụng con trăn, cốt là để cho người lớn dễ lĩnh hội. Người lớn bao giờ cũng cần có những sự giảng giải thì họ mới hiểu. Bức họa thứ hai của tôi nó như thế này:

Những người lớn đã khuyên tôi nên gác lại một bên những thứ họa trăn, trăn mở bụng hoặc trăn khép bao tử, và hãy nên chuyên tâm vào bài học địa dư, sử ký, tính toán và văn phạm. Thế là thuở lên sáu, tôi đã đành bỏ dở một tiền đồ sự nghiệp họa sĩ huy hoàng. Tôi đã chán nản vì sự thất bại của bức họa số 1 và bức họa số 2. Những người lớn chẳng bao giờ tự mình hiểu được cái gì cả, và trẻ bé nếu cứ phải giải thích đi giải thích lại, mãi mãi, hoài hoài, cho họ hiểu, quả thật là điều mệt nhọc vô cùng.

Thế là tôi đành phải chọn một nghề khác, và tôi đã học lái máy bay. Tôi đã bay lăng quăng khắp chốn trên địa cầu. Và quả thật, môn địa dư đã có giúp ích tôi nhiều. Tôi chỉ cần thoáng nhìn qua một cái, là nhận ra được đất Trung Hoa từ quận Arizona. Sự đó rất cần ích, nếu ta lạc nẻo giữa ban đêm.

Và như thế, trong đời tôi, tôi đã từng tiếp xúc hàng đống bự, với hàng khối bự những nhân vật bảnh bao. Tôi đã từng sống nhiều ngày nơi nhà những người tai to mặt lớn. Tôi nhìn họ ở sát nhãn quan mình. Và điều đó chả có canh cải ý kiến của tôi được chi mấy chút.

Lúc nào tôi gặp một kẻ nào trong bọn họ, xem ra có vẻ sáng suốt một tí, thì tôi lại thử làm cuộc thí nghiệm về họ với bức họa số 1 của mình mà tôi vẫn còn giữ luôn luôn. Tôi muốn rõ xem họ có thật quả là sáng ý hay không. Hay vẫn tối dạ như lẽ hằng. Nhưng luôn luôn họ bảo tôi: “Đấy là một cái mũ". Vậy thì tôi chẳng nói gì nữa với họ, chẳng nói gì về giống trăn, về rừng hoang, rú thẳm, chẳng nói gì về những ngôi sao trên trời. Tôi hạ mình xuống cho ngang tầm khả năng của họ. Tôi nói về cách đánh bài, đánh cầu, về chính trị và về ca vát, những lối thắt “nơ". Và người lớn đã rất hài lòng được quen biết một con người sao mà lịch thiệp thấu lẽ thị phi đến thế.


II.

Thế là tôi đã sống cô đơn vậy đó, không ai để chuyện trò thật sự, cho tới ngày phi cơ hỏng máy rơi tòm giữa sa mạc Sahara, cách đây sáu năm. Một cái trục, một cái chốt nào đã gãy lìa trong máy. Và vì lúc lên phi cơ không có đem theo thợ máy, cũng không chở hành khách, tôi phải một mình lo toan cuộc chữa chạy hì hục khó khăn. Một vấn đề sống chết. Tôi chỉ còn đủ nước để dùng giỏi lắm là trong tám ngày thôi.

Đêm đầu, tôi đành phải nằm ngủ trên cát ở ngàn ngàn dặm để cách biệt với mọi miền có người ta cư trú. Tôi đã chịu biệt lập còn hơn một kẻ đắm tàu, bó gối ngồi trên chiếc bè giữa sóng gió đại dương. Thì hẳn bạn cũng hình dung ra cơn ngạc nhiên của tôi, lúc bình mình đến, chợt một giọng nói nhỏ lớ ngớ kỳ lạ bỗng đánh thức tôi dậy:

"Nếu vui lòng... hãy vẽ cho tôi một con cừu!"

"Hả!"

"Vẽ cho tôi một con cừu..."

Tôi nhảy nhổm dậy một cái trên hai chân như bị sấm sét đập vào lưng. Tôi giụi tay lên hai mắt. Tôi mở to mắt ra nhìn. Và tôi thấy một chú chàng tí hon rất mực kỳ lạ đương chằm chặp trầm trọng nhìn tôi. Đây là bức chân dung khá nhất về chú bé mà sau này tôi đã gắng thực hiện được. Nhưng cố nhiên, bức tranh của tôi, đẹp là thế đó, vẫn còn thua xa dáng dấp tuyệt vời của chú bé. Đó chẳng phải lỗi tại tôi. Từ lâu, từ thuở mới lên sáu, tôi đã quá nản lòng trong nghề nghiệp hội họa bởi tại những người lớn, và nào tôi có học vẽ được cái gì đâu, ngoài những con trăn khép bụng và những con trăn mở bao tử.

Thế là tôi chằm chặp nhìn sự đột hiện huyền ảo nọ, nhìn với hai con mắt tròn xoe kinh ngạc. Đừng quên rằng lúc đó, tôi hiện đương ở cách xa những miền cư trú của con người, xa đến ngàn ngàn dặm đất. Thế mà chú bé tí hon của tôi lại chẳng có vẻ gì lạc lối, chẳng có vẻ gì là mỏi mệt, hoặc chết đói, hoặc chết khát, hoặc chết vì kinh hoàng. Chú bé chẳng có vẻ gì một đứa trẻ lạc lỏng giữa sa mạc, ở cách cõi sống của con người ngàn ngàn dặm đất. Cho tới lúc tôi gắng gỗ thốt được lời ra tiếng, thì tôi bảo:

"Nhưng... nhưng mà chú bé làm cái gì tại đây vậy?"

Và chú bé dịu dàng lặp lại lời cũ, như dường coi đó là một sự vụ rất trang trọng:

"Nếu ông vui lòng... xin vẽ cho tôi một con cừu..."

Khi sự huyền bí nó quá mức kích động thì người ta không dám bất tuân. Dẫu sự vụ kia xảy ra có vẻ phi lý bao nhiêu đi nữa ở cách xa ngàn dặm mọi chốn cư trú của con người và đứng trước hiểm họa thập tử nhất sinh, tôi vẫn rút trong túi ra một tờ giấy và một cây bút máy. Nhưng tôi chợt nhớ ra là mình vốn nghiên cứu nhiều nhất là môn địa dư, sử ký toán tính, và văn phạm, và tôi bảo với chú bé (với một chút bực dọc) rằng tôi đâu có biết vẽ. Chú đáp:

"Không hề gì. Vẽ cho tôi một con cừu đi".

Vì tôi vốn từ xưa chẳng bao giờ có vẽ một con cừu, nên tôi đành vẽ lại cho chú một trong hai cái loại tranh trong vòng khả năng của tôi. Đó là bức tranh con trăn khép bụng. Và tôi đờ đẫn kinh ngạc khi nghe chú bé tí hon đáp:

"Không! không! Tôi không muốn, tôi không thích cái con voi trong bụng cái con trăn. Một con trăn, thật là nguy hiểm, và một con voi, thì thật là lịch kịch rầy rà. Quê tôi thì bé tí. Tôi cần một con cừu. Hãy vẽ cho một con cừu đi."

Và tôi đã vẽ.

Chú bé chăm chú nhìn, rồi nói:

"Không! Con này coi đã ốm yếu quá. Vẽ một con khác đi."

Tôi vẽ.

Người bạn nhỏ mỉm cười một cách thật dễ thương, với giọng bao dung:

"Bác thấy đó... đó không phải là một con cừu, đó là một con dê đực, nó có hai cái sừng..."

Vậy là tôi phải vẽ trở lại.

Nhưng bức này cũng bị từ khước, như mấy bức trước:

"Con này coi già nua cọm rọm quá. Tôi muốn một con cừu sống sao cho thật lâu."

Vậy là tôi mất kiên nhẫn, vì bận lo khởi sự vội vã tháo máy ra xem, tôi nguệch ngoạc vẽ bừa bức tranh sau đây.

Tôi văng ra một lời:

"Đó, đó là cái thùng. Con cừu chú muốn, nó nằm ở trong ấy."

Nhưng tôi kinh ngạc xiết bao khi nhìn thấy gương mặt chú “quan tòa" nhỏ dại bỗng rạng ngời ra:

"Thật đúng y như hệt! Đó là cái tôi muốn đó! Bác nghĩ có cần nhiều cỏ cho con cừu nó ăn?"

"Vì sao hỏi vậy?"

"Vì quê tôi, thật bé tí..."

"Không hề gì. Vẫn đủ được lắm, chắc chắn vậy. Tôi cho chú một con cừu thật bé tí đó mà."

Chú nghiêng đầu lên bức tranh:

"Không thật bé tí lắm đâu... Coi kìa! Nó đã ngủ rồi."

Và như vậy đó, tôi đã làm quen với hoàng tử bé.


III.

Phải một thời gian lâu tôi mới rõ chú bé từ đâu lại. Hoàng tử tí hon, vốn chất vấn tôi rất nhiều, lại chẳng bao giờ có vẻ nghe những câu tôi hỏi. Chỉ nhân những tiếng thốt tình cờ, những lời nói ngẫu nhiên, mà dần dà tôi rõ được hết mọi sự. Chả hạn như khi chú bé nhìn thấy phi cơ của tôi lần đầu tiên (tôi sẽ không vẽ phi cơ tôi, đó là bức tranh quá phiền phức đối với tôi) chú hỏi:

"Cái đó là cái vật chi thế?"

"Đó không phải là cái vật. Đó biết bay. Đó là phi cơ. Đó là phi cơ của tôi đấy."

Và tôi rất hãnh diện lúc cho chú bé biết rằng tôi là phi công bay. Chú thốt lớn:

"Sao! bác từ trên trời rớt xuống!"

"Vâng", tôi nhũn nhặn đáp.

"A! đó là cái lạ..."

Và hoàng tử bé cười rộ một cái thật tươi xinh, làm tôi phát cáu. Tôi muốn rằng thiên hạ phải coi trầm trọng những hoạn nạn của tôi. Rồi chú hoàng bé nói tiếp:

"Thế thì té ra bác cũng rớt từ trên trời xuống! Bác ở tinh cầu nào?"

Tôi chợt thoáng nhận thấy một tia mờ, lóe ra giữa huyền bí của sự hiện diện hoàng tử, và tôi đột ngột hỏi:

"Chú bé cũng từ một tinh cầu khác mà tới đây?"

Nhưng chú bé không đáp. Chú ngẩng đầu dịu dàng một cái, vẫn nhìn phi cơ tôi:

"Thật thì nằm ở trong đó, bác chẳng có thể nào tới đây từ một cõi xa xôi gì cho lắm..."

Và chú bé chìm vào trong một cơn mơ kéo dài dậm duộc. Rồi rút trong túi ra con cừu của tôi, chú triền miên ngắm nghía kho tàng mình.

Bạn cũng hình dung được là tôi đã xiết bao khích động hiếu kỳ bởi chút thổ lộ nửa vời về “những tinh cầu khác" nọ. Tôi gắng tìm cách hiểu thêm:

"Này chú bé ơi, chú từ đâu tới ? Đâu là cái chốn “quê của chú" ? Chú định mang con cừu tôi đi đâu?"

Sau một lúc trầm ngâm lặng lẽ, chú đáp:

"Cái tốt ấy là, với cái thùng bác cho tôi thì ban đêm, nó là cái nhà cho con cừu nó ngủ."

"Hẳn là vậy. Và nếu mà chú ngoan, thì tôi sẽ cho thêm chú một sợi giây nữa để cột con cừu lại ban ngày, và cho một cái cọc nữa."

Lời đề nghị này dường như làm phật ý chú bé:

"Cột con cừu lại? Cái ý gì kỳ cục vậy!"

"Nhưng nếu chú không cột nó lại, nó sẽ chạy quàng, nó sẽ lạc lối đi..."

Người bạn nhỏ của tôi lại một phen cười rộ:

"Nhưng bác sợ nó chạy lạc đi đâu mới được chớ!"

"Bất cứ đâu đâu. Thẳng tới trước mặt..."

Bấy giờ hoàng tử bé mới trang nghiêm nhận định:

"Cái đó không hề gì, quê tôi nhỏ chút xíu đó mà."

Rồi với một chút sầu tư, có lẽ, chú tiếp:

"Thẳng tới trước mặt, người ta đâu có thể đi xa chi mấy đâu..."


IV.

Và như vậy, tôi lại được một phen nữa biết được một sự vụ tối quan hệ: ấy là tinh cầu quê quán của chú bé, giỏi cho lắm thì cũng lớn hơn cái nhà một chút xíu thôi!

Điều đó cũng chẳng thể nào làm tôi ngạc nhiên chi lắm. Tôi biết rõ là ngoài những tinh cầu to bự như Trái Đất, như Jupiter, Mars, Vénus, được thiên hạ đặt tên tuổi cho, còn hàng trăm những tinh cầu khác, lắm khi nhỏ quá đến nỗi người ta khó nhọc lắm mới nhìn thấy sơ bóng dáng qua ống kính viễn vọng. Khi một nhà thiên văn học khám phá ra một trong những tiểu tinh cầu đó, thì ông cho nó một con số gọi là của tin canh thiếp làm ghi. Ông gọi nó chả hạn: “tiểu tinh cầu 325".

Tôi có nhiều lý lẽ chắc chắn để tin rằng cái tinh cầu của hoàng tử từ đó về đây là tiểu tinh cầu B 612. Tiểu tinh cầu nọ chỉ một lần được thấy bóng phía sau ống viễn vọng vào năm 1909, bởi một nhà thiên văn học người Thổ Nhĩ Kỳ.

Ông ta đã từng mở một cuộc chứng minh đồ sộ về sự khám phá của mình tại một đại hội quốc tế thiên văn (Thiên văn quốc tế hội nghị). Nhưng thuở đó không ai tin lời ông cả. Vì lối y phục luộm thuộm của ông ta. Những người lớn, họ là như vậy đó.

May thay cho tăm tiếng của tiểu tinh cầu B 612, một nhà độc tài Thổ Nhĩ Kỳ đã ban hành đạo luật cho toàn dân phải ăn vận theo lối sành điệu Âu Châu, nếu bất tuân phải chịu tử hình.
Nhà thiên văn học nọ đến năm 1920, đã tái khai cuộc chứng minh một trận nữa, lần này ông chỉnh tế ngăn nắp trong một bộ y phục rất mực bảnh bao nhẵn nhụi. Và lần này mọi người thiên hạ cùng tán đồng nấc nở ý kiến của ông.

Nếu tôi kể lại cho bạn nghe những chi tiết này về tiểu tinh cầu B 612, và nếu tôi ký thác cho bạn cái số hiệu của nó, ấy chỉ bởi tại những người lớn. Những người lớn, họ ưa thích những con số. Khi anh nói với họ về một người bạn mới, họ chẳng bao giờ hỏi anh về cái cốt yếu. Họ chẳng bao giờ hỏi: “Giọng nói của anh ta nghe ra thế nào? Anh ta yêu chuộng trò chơi gì? Anh ta có thích sưu tập chuồn chuồn bươm bướm chăng?" Họ lại hỏi: “Y bao nhiêu tuổi? Tứ tuần? Anh em, tớ thầy của y, lao xao sau trước là bao nhiêu? Y cân nặng mấy trăm ký lô? Thân phụ của y lĩnh lương hằng tháng là bao nhiêu thế?" Và chỉ từ đó trở đi thôi, họ mới tin rằng mình biết gã nọ. Nếu anh nói với những người lớn: “Tôi có một ngôi nhà kiều diễm xây bằng gạch hồng thắm, với những chậu hoa phong lữ thảo ở bệ cửa sổ, và những cặp bồ câu đậu ở mái nhà..." họ sẽ không thể nào hình dung ra được cái nhà của anh. Phải bảo họ rằng: “Tôi có thấy một ngôi nhà trị giá một trăm nghìn phật lăng." Thì khi đó họ sẽ thốt to: “Ồ! Sao mà xinh thế nhỉ."

Vậy đó, nếu anh bảo: “Bằng chứng hoàng tử quả có thật ở trong đời, ấy là chú rất quyến rũ dễ yêu, chú cười, chú muốn một con cừu. Một phen người ta muốn một con cừu, thì đó là một phen có đủ bằng chứng là người ta hiện hữu", thì những người lớn sẽ nhún vai và coi anh là con nít! Nhưng nếu anh bảo: “Tinh cầu từ đó hoàng tử tới đây là tiểu tinh cầu B 612" thì khi đó họ sẽ tâm đầu ý hiệp với anh ngay, siết tay du khoái hả hê ngay, gọi rằng tâm phúc tương cờ ngay, và để yên cho anh túc mục an lành với bao câu hỏi họ lăng xăng ngay. Họ là như vậy đó. Cũng chẳng nên hờn giận họ làm chi. Con trẻ phải nên rất mực độ lượng với những người lớn.

Nhưng cố nhiên, chúng ta là kẻ am hiểu sự đời, chúng ta cứ mà tha hồ cợt cười những con số! Tôi còn muốn khởi đầu câu chuyện này theo điệu mở đầu chuyện thiên thần tiên nữ nữa là khác. Tôi còn ắt muốn nói:

“Thuở xưa kia từng đã một lần hoàng tử bé con, bé nhỏ, đã từng phen lưu trú tại một tinh cầu chơi với bé bỏng, bé tí, có lớn hơn tí chút hoàng tử mà thôi, và hoàng tử đã từng có thiết tha mong chờ một người bạn thiết..." Đối với những ai am hiểu cõi đời tồn sinh mát mẻ, thì đó thật quả ắt có vẻ xác thực chân chính hơn nhiều.

Bởi vì tôi không muốn người ta đọc cuốn sách tôi theo lối phiêu hốt lai rai. Tôi cảm thấy xiết bao sầu não khi kể những kỷ niệm này. Đã sáu năm tròn rồi, người bạn bé nhỏ của tôi đã từ biệt ra đi với con cừu của tôi. Nếu tôi gắng thử miêu tả lại chàng, ấy cũng là cốt để đừng quên nhau. Buồn xiết bao nếu phải quên một người bạn thiết. Đâu có phải ai ai trong thiên hạ cũng đã có một người bạn thiết. Và chính tôi, tôi cũng có thể từ sớm sang chiều, trở thành giống như những người lớn chỉ biết lưu tâm ý tới những con số mà thôi. Chính cũng vì đó mà tôi đã mua một hộp màu và bút chì vậy. Thật khổ nhọc xiết bao, cái việc khởi đầu trở lại vẽ hình, họa bóng, vào cái tuổi của tôi khi mà người ta từ bấy tới nay nào có bao giờ biết mưu đồ gì khác ngoài cái sự rắp ranh vẽ một con trăn khép bụng và một con trăn mở lòng, vào lúc lên sáu! Tất nhiên, tôi sẽ gắng thử họa những chân dung giống được chừng nào hay chừng đó. Nhưng tôi không hoàn toàn chắc dạ là mình sẽ thành công. Một tấm vẽ đi qua, hỏng rồi, một tấm khác không còn giống như hình được nữa. Một dư ảnh gái đã lạc gót sen hương, một dư huệ về sau không níu giữ trong ngón tay sầu xe chỉ nữa. Về tầm vóc hình dài, tôi cũng nhầm lẫn chút ít. Đây, hoàng tử quá to. Kia, hoàng tử quá bé. Tôi cũng ngại ngùng trước màu sắc y phục của em. Vậy nên chi tôi quờ quạng loăng quoăng thế này, thế nọ, thế đó, thế kia, được cũng tốt, không được cũng cam. Rồi nữa, tôi cũng sẽ còn lầm lẫn về đôi chi tiết quan trọng hơn. Nhưng cái đó, chỉ xin người hãy phải nên tha thứ. Người bạn thiết của tôi chẳng bao giờ ban cho tôi một lời giải thích. “C’est les vipères!". Rồi thôi. Tôi bước bên đường kêu gọi mãi. Nhớ người bạn cũ thuở anh niên. Nhưng bặt âm. Người bạn chắc có lẽ đã tưởng rằng tôi giống bạn. Nhưng khổ thay, tôi chẳng biết làm thế nào nhìn thấy cho ra những con cừu ở bên kia những thùng chứa. Có lẽ tôi cũng là có phần nào giống như những người lớn. Có lẽ tôi là kẻ đã phải về già.


V.

Mỗi ngày, tôi biết thêm chút ít về tinh cầu, về ly biệt, về viễn du. Cái đó tới rất dịu dàng, tùy cơn ngẫu nhĩ ưu tư. Vậy đó, ngày thứ ba, tôi được biết tấn bi kịch của những cây cẩm quỳ.
Lần này nữa cũng là nhờ con cừu, vì chứng đột ngột hoàng tử bé hỏi tôi, dường như chàng đang chịu một cơn nghi hoặc trầm trọng:

"Thật vậy chăng ru, rằng những con cừu ăn cây cối nhỏ?"

"Vâng. Chính thật là vậy."

"A! Tôi hài lòng lắm."

Tôi chẳng rõ vì sao cái việc cừu ăn cây cối nhỏ lại là việc trọng đại. Nhưng hoàng tử nhỏ tiếp:

"Vậy thì hẳn nhiên là cừu cũng ăn cây cẩm quỳ?"

Tôi bèn nói cho hoàng tử hiểu rằng cẩm quỳ không phải là loại cây cối nhỏ, mà thuộc loại cây to bự như những ngôi nhà thờ, và cho dẫu chàng có lôi theo với mình một bầy voi đồ sộ, cũng hồ dễ mà làm nao núng được mỗi một cây cẩm quỳ khổng lồ đơn độc đó thôi.

Ý tưởng một bầy voi lớn rộng xui hoàng tử cười to:

"Vậy phải sắp đặt con voi này nằm chồng chất trên lưng con voi khác..."

Nhưng rồi hoàng tử lại thâm thúy nhận xét thêm:

"Những cây cẩm quỳ, trước khi lớn rộng, thì cũng phải khởi đầu bằng hình thù thân thể nhỏ nhoi."

"Đúng vậy! Nhưng tại sao chú muốn rằng những con cừu của chú phải ăn cây cẩm quỳ?"

Chú đáp: “Hi! Khéo hỏi!" như chừng đó là một chuyện cố kỳ nhiên. Tôi phải gắng gỗ kịch liệt cho thông minh nảy nở ra mới tự mình tìm hiểu được một mình vấn đề nọ.

Thật vậy, trên tinh cầu của hoàng tử bé, cũng như trên mọi tinh cầu, có những cỏ lành, và những cỏ dữ. Do đó, có những hạt giống lành của cỏ lành, và những hạt giống dữ của cỏ dữ. Nhưng hạt giống thì nhỏ, nên mắt không nhìn ra. Chúng nằm ngủ yên trong thớ đất u huyền cho tới lúc cao hứng ùa về với một hạt nào trong lũ hạt nọ, và cao hứng hạt nọ đột khỏi cơn thức giấc bò ra. Thế là hột nọ duỗi thân một cái, và thoạt tiên e ấp nảy mầm, hướng tới ánh nắng mà ngoi đầu lên cho dài ra thành một đọt cỏ non bé bỏng diễm kiều vô hại thơ ngây như hồn tuyết bạch gái. Nếu là một ngọn lá cải củ, hoặc tường vi, thì thiên hạ có thể để mặc tình tha hồ nó mọc. Nhưng nếu là một ngọn cỏ dữ, thì phải liệu mà rứt nhổ nó đi liền liền, khi người ta nhận ra nó là bê bối. Mà trên tinh cầu của hoàng tử bé thì có những hạt giống kinh khủng... ấy là những chủng tử cẩm quỳ. Đất đai tinh cầu bị nhiễm độc bởi những phôi châu ác liệt nọ. Mà một cây cẩm quỳ, nếu người ta đối phó muộn màng một chút, thôi thì không còn mong chi trừ khử nó được nữa. Nó sẽ làm rầy rà cho toàn khối tinh cầu. Nó sẽ làm rầy rà cho toàn khối tinh cầu. Nó sẽ đâm rễ nó xuyên qua cho nứt rạn cả khối. Nếu tinh cầu quá nhỏ, nếu những cây cẩm quỳ quá nhiều, thì tinh cầu ắt vỡ toang vì chúng.

“Đấy là một vấn đề kỷ luật, sau này hoàng tử bảo tôi thế. Khi ta xong xuôi cuộc tắm rửa thân mình buổi mai, thì phải chăm sóc kỹ lưỡng tới cuộc tắm rửa tinh cầu. Phải tự ước thúc mình một cách đề huề đều đặn trong công việc trừ khử những cây cẩm quỳ ngay khi ta chợt phân biệt ra chúng với những cây tường vi. Hai loại này, thuở sơ sinh non dại trông giống hệt nhau. Công việc làm thật là chán ngấy, nhưng chả khó nhọc gì."

Và một ngày nọ, hoàng tử bé khuyên tôi hãy chịu khó gắng công hoàn thành một bức họa đẹp, để mà đem sự nọ tạc vào kỹ lưỡng trong đầu óc những trẻ con xứ sở tôi. Hoàng tử bảo: “Nếu có ngày chúng nó viễn du, thì việc đó sẽ hữu ích cho chúng lắm. Đôi lúc kể ra thì cái sự trì hoãn công việc làm cũng chẳng là điều đáng ngại. Nhưng nếu sự vụ có liên can tới cẩm quỳ, thì đó lại là một thảm họa khôn lường. Tôi có biết một tinh cầu, tại đó một gã lười lưu trú. Gã coi nhẹ ba cây cối nhỏ..."

Và, thể theo những chỉ bảo của hoàng tử bé, tôi đã vẽ tinh cầu nọ. Tôi không thích lấy giọng nhà đạo đức. Nhưng cái hiểm họa của cẩm quỳ lại rất ít kẻ am hiểu, và kẻ lạc lõng nơi một tiểu tinh cầu bị hăm dọa bởi những nguy cơ đồ sộ đến nỗi tôi phải xin phép, một lần, được sự dè dặt thường hằng vào trong vòng ngoại lệ, và xin nói liều. Tôi xin nói: “Hỡi các bé con! Hãy coi chừng đó, những cây cẩm quỳ!" Chính vì muốn báo trước cho những bạn thiết biết một mối nguy cơ từ lâu, cũng như tôi, họ đã từng cọ vào sát mép mà chẳng hay chẳng biết, vâng, chính vì thế mà tôi đã cố gắng mài miệt rất nhiều để hoàn thành bức tranh ấy. Bài học tôi đưa ra, thật cũng đáng cái công lao. Các anh sẽ tự hỏi có lẽ: Tại sao trong cuốn sách này chẳng có bức nào đồ sộ như bức tranh cẩm quỳ ? Lời đáp rất đơn giản: Tôi đã gắng gỗ, nhưng không thể thành công. Lúc tôi vẽ những cây cẩm quỳ, tôi đã bị thôi thúc bởi tình cảm bức bách.


VI.

A! Hoàng tử bé ơi, tôi đã lần hồi hiểu, theo vậy đó, cuộc đời bé bỏng sầu tư của chú. Từ lâu, chú chỉ có một chút khiển muộn, là bóng chiều vàng êm ả. Tôi đã rõ chi tiết mới mẻ này, vào buổi mai ngày thứ tư, lúc chú bảo:

"Tôi yêu chuộng những buổi chiều hồng. Chúng ta hãy đi nhìn một cảnh mặt trời lặn..."

"Nhưng phải chờ..."

"Chờ gì?"

"Chờ cho mặt trời lặn."

Thoạt tiên, chú đã tỏ vẻ ngạc nhiên, rồi sau đó chú đã tự cười mình lẩn thẩn. Chú bảo:

"Tôi cứ tưởng mình luôn luôn ở tại quê hương xứ sở."

Thật vậy. Khi tại Huê Kỳ, mặt trời đứng ngọ, thì ai cũng biết rằng tại Pháp, mặt trời đương lặn. Chỉ cần có thể chạy bay trong một phút sang Pháp là có thể ngắm một cảnh hoàng hôn. Rủi thay nước Pháp lại quá xa vời. Nhưng, tại trên tinh cầu tí tẻo của hoàng tử bé, hoàng tử chỉ cần kéo đẩy sơ cái ghế ngồi một chút. Và hoàng tử nhìn thấy cảnh mặt trời lặn tùy thích bất cứ lúc nào...

"Một ngày nọ, tôi đã nhìn mặt trời lặn liên tiếp bốn mươi ba lần!"

Và ít lâu sau, chú nói thêm:

"Bác biết đó... lúc người ta buồn quá đỗi, người ta yêu dấu cảnh mặt trời lặn xiết bao..."
"Cái ngày chú nhìn bốn mươi ba lần nọ, chú đã buồn quá đỗi phải không?

Nhưng hoàng tử bé không đáp.


VII.

Ngày thứ năm, vẫn cũng vì con cừu, sự bí ẩn trong cuộc đời hoàng tử bé được biểu lộ. Đột ngột hoàng tử hỏi tôi, không nhập đề gì ráo, như đó là kết quả một vấn đề đã được trầm ngâm suy gẫm lâu rồi.

"Một con cừu, nếu có ăn cây cối nhỏ, thì nó cũng ăn những đóa hoa."

"Một con cừu thì ăn bất cứ cái gì nó gặp. Bạ đâu ăn đó rất mực bừa bãi vậy."

"Cả những cành hoa có gai nhọn?"

"Ừ. Cả những cành hoa có gai nhọn."

"Vậy thì những gai nhọn, dùng vào việc chi?"

Tôi không biết điều đó. Lúc ấy tôi hết sức bận, loay hoay vặn một cái đinh bù lon ăn cứng trong máy phi cơ. Tôi bận tâm lo lắng lắm, vì trận hỏng máy này đã bắt đầu cho thấy quá trầm trọng, và nước uống cứ hao cạn hoài xui tôi lo sợ nặng nề: càng ngày càng khốn đốn về sau.

"Những gai nhọn dùng vào việc chi?"

Hoàng tử bé không bao giờ rút lui câu hỏi, mỗi phen chú đã nêu nó ra rồi. Tôi đã bực mình vì cái bù lon, nên đáp bừa:

"Gai nhọn, không dùng vào cái tích sự chi ráo, đó chỉ là cái ác hại thuần túy của hoa!"

"Ồ!"

Nhưng sau một lúc im lặng chú văng ra một câu, với giọng thật là oán hận:

"Tôi không tin lời bác! Hoa mảnh khảnh lắm. Hoa thơ dại lắm. Hoa phải tự gắng làm cho mình yên dạ phần nào hay phần nấy. Hoa tự nghĩ là mình ắt ghê gớm lắm với những gai nhọn của mình..."

Tôi không trả lời. Lúc đó tôi tự nhủ: “Nếu cái đinh bù lon này mà còn cứng cổ, thì ta sẽ đập một nhát búa vào thì nó phải nhảy tung ngay". Hoàng tử nhỏ lại quấy rầy ý tưởng tôi:

"Và bác tưởng, bác tưởng rằng hoa..."

"Nhưng không! Không! Tôi chẳng tưởng tư gì ráo ráo! Tôi trả lời bạ đâu bù đó. Tôi bận tâm lo chuyện hệ trọng!"

Chú đờ đẫn nhìn tôi.

"Bận tâm lo chuyện hệ trọng!"

Chú nhìn tôi bàn tay cầm búa, ngón tay đen sì những dầu nhớt, đương nghiêng thân trên một cái vật chú xem ra xấu xí quá.

"Bác nói chuyện nghe như những người lớn!"

Câu đó làm tôi thấy hổ thẹn chút ít. Nhưng chú vẫn tiếp tục:

"Bác lẫn lộn tuốt luốt hết! Lẫn lộn tuốt hết."

Trông chú thật quả là cáu tiết. Chú lắc đầu tóc vàng óng bay tung trong gió:

"Tôi biết một tinh cầu có một Ông Cụ mặt đỏ như gấc chín. Chẳng bao giờ ông ta ngó một ngôi sao. Chẳng bao giờ ông ta yêu ai hết. Chẳng bao giờ ông ta làm một cái việc chi khác, ngoài cái việc làm những bài toán cọng. Và suốt ngày ông ta lặp đi lặp lại y hệt như bác: “Tôi là một con người trang nghiêm! Tôi là một con người trang nghiêm" và cái đó làm ông ta phình to lên cái lỗ mũi tự hào. Nhưng đó không phải một con người, đó là một cái nấm!"

"Một cái gì?"

"Một cái nấm!"

Hoàng tử bé bây giờ mặt mày tái xanh vì tức giận.

"Từ hàng triệu năm rồi, hoa đã tạo gai. Từ hàng triệu năm rồi cừu vẫn cứ ăn hoa. Và cái sự tìm hiểu xem tại sao mà hoa phải nhọc mệt tạo mãi những gai nhọn chẳng dùng được vào việc gì gì hết cả, sự đó chẳng phải là chuyện nghiêm trang hay sao? Cuộc chiến tranh giữa cừu và hoa, không phải là chuyện hệ trọng hay sao? Chẳng nghiêm trang hệ trọng hơn những bài toán cọng của ông cụ bự đỏ như gấc chín hay sao? Và nếu tôi có biết, chính tôi có biết một đóa hoa duy nhất ở đời, không đâu có cả, ngoài tinh cầu tôi, và nếu một con cừu bé có thể rỡn chơi liếm sơ qua một chút, mà tiêu diệt tan hoang mất cái đóa hoa ấy như vậy đó trong một buổi mai dịu dàng và chẳng nhận thấy rằng cái việc mình làm kia gớm guốc thế nào, đó không phải là chuyện hệ trọng hay sao?

Chú đỏ mặt, rồi tiếp:

"Nếu có một kẻ yêu một đóa hoa duy nhất chỉ duy có một mà thôi trong hàng triệu triệu tinh cầu, chừng đó đủ để kẻ ấy sung sướng lúc nhìn ngàn sao ở trên trời. Anh ta tự nhủ: “Đóa hoa của mình hiện nằm tại đó, nơi đó, chốn kia...". Nhưng nếu con cừu ăn đóa hoa, thì sự đó đối với anh ta cũng như thể là đột nhiên trong một nháy ngàn ngàn ngôi sao thình lình tắt lịm! Và đó, không phải là chuyện hệ trọng hay sao!

Chú không nói thêm gì được nữa. Đột nhiên, chú òa lên khóc. Đêm xuống rồi. Tôi bỏ rơi tay búa. Tôi chả còn sá gì búa dao bù lon nữa, chả thiết chi tới chuyện chết khác, chết đói. Trên một tinh cầu, tinh cầu của tôi, trên Địa cầu của tôi, có một hoàng tử bé cần được an ủi! Tôi ôm chú vào lòng. Tôi ru. Tôi bảo: “Đóa hoa chú yêu dấu đó không gặp nguy hại gì đâu... Tôi sẽ vẽ thêm một cái rọ bịt mõm vào cái mồm con cừu của chú... Tôi sẽ vẽ một tấm áo giáp sắt cho đóa hoa của chú... Tôi sẽ...". Tôi chẳng còn biết nói chi nữa. Tôi thấy mình vụng về quá. Tôi không biết làm cách gì để đi tới cõi lòng chú, gặp gỡ linh hồn chú... Thật huyền bí không xiết, là cái xứ sở của lệ vàng.




VIII.



Tôi đã sớm biết rõ đóa hoa kia. Từ xưa, trên hành tinh của hoàng tử bé, luôn luôn có những cành hoa rất đơn sơ, điểm trang bằng một hàng cánh hoa thưa thớt, không choán chỗ gì nhiều, không làm phiền rộn ai. Các đóa hoa hiển hiện một sớm mai trên đồng cỏ, rồi tàn rụng lúc chiều hôm. Nhưng còn đóa hoa riêng biệt nọ đã nảy mầm một ngày kia, do một chủng tử chẳng rõ từ đâu tới, và hoàng tử bé đã từng chăm sóc thiết thân cái ngọn lá kia, trông không giống chút nào những ngọn lá khác. Đó có thể là một loại cẩm quỳ mới. Nhưng mà cành cây nhỏ sớm dừng phát triển, và khởi sự soạn sửa cho nảy nở một đóa hoa. Hoàng tử bé chứng giám cuộc hình thành một búp hoa đồ sộ, đã linh cảm chắc chắn rằng một sự hiển hiện huyền ảo sẽ xảy tới, nhưng đóa hoa vẫn không ngừng soạn sửa cho càng thêm kiều diễm, mỗi mỗi ngày cư trú êm đềm trong căn phòng xanh lục. Nường chọn lựa kỹ lưỡng màu sắc cho mình. Nường vận xiêm y một cách thật thong dong chậm rãi, nường sửa sang, xếp đặt từng mỗi mỗi cánh hoa của mình. Nường không muốn xuất hiện tả tơi nhàu nát như những cành mỹ nhân thảo, hoặc những đóa hoa anh túc. Nường chỉ muốn xuất hiện trong vẻ sáng ngời lộng lẫy mở phơi của dung nhan kiều lệ. Ê, vâng ạ. Nường rất ưa làm duyên! Xiêm y huyền bí của nường như vật lạ hằng hằng soạn sửa từng ngày, từng tuần, từng cữ... Và thế đó một sáng mai kia, chính lúc vừng hồng trỗi dậy, nường đã lồ lộ hiện thân thập thành tráng lệ.



Nường, nường đã chăm nom chỉnh bị xiết bao tỷ mỷ chú tâm nường lại giả vờ ngáp dài một cái, và dã dượi bảo rằng:



"A! thiếp mới chớm trở giấc. Xin chàng thứ lỗi. Đầu tóc của thiếp tóc còn xổ bung rối bù."



Hoàng tử bé bấy giờ không kìm hãm nỗi lòng lâng lâng thán phục:



"Sao mà nường đẹp thế!"



"Phải chăng? Thật chăng? Chàng hãy nhớ rằng thiếp sinh ra đời song song với vừng dương đó ạ..."



Hoàng tử bé cũng đoán biết là nường ta chẳng phải nhũn nhặn khiêm nhượng gì cho lắm, nhưng sao mà nàng xui lòng cảm động đến thế!



"Có lẽ đã tới giờ điểm tâm, nàng nói tiếp, chàng có chút độ lượng bao dung nào đối với thiếp thì, xin hãy..."



Và hoàng tử bé ngượng ngùng đầy mặt, đã chạy đi tìm chiếc thùng tưới đầy ắp nước trong veo phơi phới mang về phục vụ đóa hoa.



Thế đó, nường đã sắp khiến chàng chịu bao cơn loay hoay bối rối, ấy cũng bởi cái thói ưa làm đỏm khoe khoang pha chút hoài nghi e e ngại ngại. Chả hạn một ngày kia nói tới bốn cái gai nhọn của nường, nường đã bảo:



"Chúng có thể tới lắm, những con cọp với những vuốt nanh nhọn nanh nhe của chúng!"



"Trên tinh cầu của tôi không có cọp đâu, hoàng từ bé đáp, vả chăng cọp không có ăn cỏ."



"Thiếp không phải là một lá cỏ", đóa hoa đã dịu dàng đáp.



"Xin lỗi nường..."

"Thiếp chẳng sợ gì cọp, chỉ duy có ghê sợ những trận gió lò mà thôi. Chắc đâu rằng chàng có một tấm bình phong che gió?"



"Ghê sợ gió lò... thật chả hay ho gì, đối với một ngành thảo một, hoàng tử bé nhận xét như vậy. Đóa hoa này coi có bộ ưa sinh chuyện phiền phức đa đoan lắm lắm..."



"Chiều hôm sương xuống chàng hãy đặt thiếp trong bầu tròn. Nơi nhà chàng rét buốt lắm. Chẳng đặt định đúng hướng gì lắm đó. Nơi quê tôi..."



Nhưng nàng chợt ngừng môi. Nàng đã về đây trong hình hài hạt giống. Nường biết đâu vào đâu mà nói tới những cõi miền xa lạ. Ngượng nghịu xấu hổ vì bị bắt quả tang sắp giở trò bố láo một cách khờ khạo vụng về, nường đã ho ho hai ba tiếng hắc hắc, cố tình đẩy hoàng tử vào cõi lầm lỗi cho mới cam tâm:



"Tấm bình phong kia?..."



"Tôi sắp đi tìm đó mà, sao mà nường lắm lời thế!"



Thế là nường lại húng hắng ho thêm, cũng là cố tình khiến chàng phải ân hận thì lòng nàng mới cam!



Thế đó, hoàng tử bé mặc dù rất chí ý trong tình yêu dấu, cũng đành phải cảm thấy nghi hoặc cái cô nàng đa đoan. Chàng đã coi trọng những lời chẳng hệ trọng gì, và chàng trở nên khốn khổ vô cùng.



"Đáng lẽ ra thì tôi chả nên nghe cô ta làm chi, hoàng tử bảo tôi một bận như thế, chả bao giờ nên nghe đóa hoa nó nói. Chỉ nên nhìn hoa và hít mùi hương của hoa thôi. Đóa hoa của tôi tỏa thơm cho tinh cầu tôi, thế mà tôi không biết thỏa lòng chừng đó. Câu chuyện những móng vuốt nhọn của con hùm đã làm tôi phát cáu, đáng lẽ phải khiến tôi cảm động mới là đúng."



Chú bé còn thổ lộ thêm:



"Tôi chẳng biết gì ra gì gì cả. Đáng lẽ tôi nên xét đoán theo những lời nàng nói ra. Nàng làm thơm tôi và soi sáng cho tôi. Đáng lẽ tôi chẳng nên bỏ đi trốn. Đáng lẽ tôi phải đoán thấy tình ý yêu dấu của nàng ở phía sau những mánh khóe lai rai kia mới phải. Hoa mang mâu thuẫn nhiều lắm ở trong mình! Nhưng xưa kia tôi còn nhỏ quá, đâu có biết cách thương yêu đúng lối."





IX.



Tôi tưởng chừng chàng đã nhân một đoàn chim di thê mà thoát vòng thao túng của cô nàng. Buổi sáng lần ra đi, chàng đã xếp đặt tinh cầu gọn ghẽ. Chàng đã nạo kỹ những ngọn hỏa sơn đương thời kỳ nổi trận làm mưa làm gió. Chàng có được hai hỏa sơn náo động. Và kể thật là tiện lợi cho việc nấu nướng bữa điểm tâm. Chàng cũng có được một hỏa sơn đã tắt. Nhưng theo lối của chàng, “Ai biết đâu ra đâu", vậy là chàng nạo kỹ luôn cả hỏa sơn đã tắt. Nếu được nạo kỹ, thì những hỏa sơn cháy đều đặn êm đềm, không có sôi trào cuồng bạo. Hỏa sơn phun lửa cũng như ống khói nhả khói. Cố nhiên trên địa cầu chúng ta, chúng ta quá nhỏ nhoi, thì cái việc nạo hỏa sơn là không thể được rồi. Do đó mà hỏa sơn gây cho chúng ta lắm điều phiền não.



Hoàng tử bé cũng nhổ kỹ những gốc cẩm quỳ còn sót, với một chút ưu sầu. Chàng đã tưởng sẽ rằng bao giờ trở lại. Nhưng mọi công việc thông thường này, buổi mai đó dường như êm dịu vô biên đối với chàng. Và khi chàng tưới nước lần cuối cho đóa hoa, và sắp sửa đặt nàng yên trú trong bầu tròn thì chợt chàng cảm thấy lòng nao nao muốn khóc.



"Vĩnh biệt nhé", chàng bảo hoa.



Nàng không đáp.



"Vĩnh biệt nhé", chàng lập lại.



Nường ho ho vài tiếng. Nhưng không phải vì chứng cảm hàn.



"Thiếp đã ngu dại lắm, cuối cùng nường nói thế. Thiếp xin lỗi chàng. Chàng hãy gắng mà vui."



Chàng ngạc nhiên không thấy nàng thốt lời nào oán trách cả. Chàng đờ đẫn đứng im, tay cầm cái bầu tròn chới với trong khoảng không. Chàng không hiểu nỗi niềm dịu dàng thân thiết ấy của đóa hoa.



"Nhưng thật đó, thiếp yêu chàng, hoa bảo vậy. Chàng chả có ngờ ra cái gì hết, đó là lỗi tại thiếp. Cũng chẳng có chi hệ trọng. Nhưng chàng cũng khờ dại y như thiếp đó thôi. Chàng gắng mà sống cho vui đi... Để yên cái bầu tròn nằm đó. Thiếp chả cần tới nó nữa."



"Nhưng còn cơn gió..."



"Thiếp đâu có cảm hàn gì nhiều đến thế... Gió thổi chiều hôm mát mẻ rất tốt đối với cơ thể thiếp. Thiếp là một cành hoa."



"Nhưng còn những con thú vật..."



"Thiếp cũng phải liều liệu mà chịu kham một vài con sâu bọ chứ, nếu muốn được biết mùi con bướm. Dường như nó đẹp lắm chứ chẳng phải chơi đâu. Nếu không đó, thì đào đâu ra kẻ thăm viếng? Chàng sẽ ở xa, xa lắm. Còn những con thú vật to bự, thiếp chả sợ gì. Thiếp có móng nhọn của thiếp đó."



Và nường đã ngây thơ đưa ra bốn cái gai nhọn. Rồi nàng tiếp:



"Cũng đừng nấn ná lai rai nữa làm chi. Con đường thôn lắm. Ngày dài chi mô. Hồ đồ mở môi kề cà, là đáng bực lắm. Chàng đã quyết đi, thôi thì hãy đi cho trót."



Bởi vì nường không muốn chàng nhìn thấy nường khóc. Một cành hoa kiêu hãnh xiết bao...


X.



Chàng đã từng ở trong vùng những tiểu tinh cầu 325, 326, 327, 328, 329 và 330. Chàng bèn khởi sự thăm viếng chúng vậy, cốt để tìm một công việc giải sầu và cũng để học hỏi thêm.

Tinh cầu thứ nhất có một vì vua cư trú.



Vị vua nọ, vận xích bào và da lông chồn bạch, nghiễm nhiên chễm chệ trên một cái ngai vàng rất đơn sơ và rất trọng thể.



"A! Đây là một con dân, vị vua nọ thốt to lúc nhìn thấy thoáng hoàng tử bé."



Và hoàng tử bé tự nhủ:



"Làm sao ngài lại có thể nhận ra ta được, vì bấy nay có bao giờ ngài gặp gỡ ta đâu."



Chàng không rõ là: đối với vua chúa, thì thế gian được tài tình rút gọn một cách đơn giản lạ thường. Mọi người trong thế gian đều là con dân trăm họ của một đấng Con Trời.



"Lại gần đây cho trẫm xem rõ mày mặt", nhà vua bảo thế, vì ngài rất lấy làm hãnh diện được dịp đóng vai vua chúa với một con người, con kẻ, con dân.



Hoàng tử bé đưa mắt nhìn quanh kiếm một chỗ ngồi, nhưng tinh cầu này toàn thể bị ngổn ngang lấp phủ bởi cái áo bào lộng lẫy lông chồn quá ư đồ sộ bao la. Chàng đành đứng im và vì mỏi mệt quá, chàng ngáp dài.



"Triều nghi không cho phép thiên hạ đứng trước mặt một vì vua mà ngoác miệng ra ngáp. Trẫm cấm nhà ngươi cái sự vụ ngáp đó."



"Tôi không tự kiềm chế nỗi cái ngáp", hoàng tử bé đáp, và lóng cóng ngại ngùng khôn xiết. “Tôi đã trải một cuộc hành trình dằng dặc, và chưa có ngủ chút nào, nên thèm ngủ quá..."



"Thế thì", vua phán. "Trẫm ra lệnh cho nhà ngươi hãy ngáp. Ngáp đi. Từ bao năm nay trẫm cũng chưa gặp cơ duyên run rủi có được một phen gió nhìn thần dân ngáp. Những cái ngáp, ngáp ngắn ngáp dài, đối với quả nhân là thứ của lạ. Nào! Ngáp đi. Ngáp nữa đi. Trẫm ra lệnh cho nhà ngươi ngáp đó."



"Sự vụ này xui tôi lóng cóng ngẩn ngơ... tôi không còn có thể nữa..." hoàng tử bé lúng túng nói, đỏ mặt tía tai.



"Hừ! Hừ!" Vua đáp. "Thế thì... ta ra lệnh cho nhà ngươi lúc thì ngáp, lúc thì..."



Nhà vua cà lăm lặp cặp chút ít và có vẻ bực mình.



Bởi vì nhà vua chủ trương triệt để cốt yếu cái điều: uy quyền của mình phải được thiên hạ tôn trọng. Ngài không dung thứ sự nham nhở bất tuân. Còn ra thể thống gì nữa. Vua này là vua tuyệt đối chuyên chế chí tôn. Tuy nhiên vì ngài rất nhân hậu, nên ngài ban ra những mệnh lệnh hữu lý.


Ngài thường nói: “Nếu ta ra lệnh cho một vị tướng lãnh phải biến thể ra làm hình hài con chim biển, và nếu vị tướng không tuân lệnh ta, thì lỗi không phải ở nơi vị tướng. Lỗi là ở ta vậy."



"Tôi được phép ngồi chăng?", hoàng tử bé e ấp thưa bẩm.

"Trẫm ra lệnh cho nhà ngươi ngồi xuống", nhà vua đáp và long trọng kéo bớt một vạt áo lông chồn trắng lên.



Nhưng hoàng tử bé ngạc nhiên. Tinh cầu bé bỏng tí hon. Nhà vua trị vì trên cái gì mới được nhỉ?



"Tâu bệ hạ", chàng hỏi... "Xin bệ hạ mở lượng hải hà cho phép hạ thần nêu tiếng hỏi..."

"Ta ra lệnh cho nhà ngươi hãy hải hà nêu lên tiếng hỏi", nhà vua vội vã nói.

"Tâu bệ hạ... bệ hạ trị vì trên cái chi?"

"Trên tất cả", nhà vua đáp, "một cách thật đơn giản".

"Trên tất cả?"



Nhà vua làm một cử chỉ nhỏ, biểu thị tinh cầu mình, những tinh cầu khác và những ngàn sao.



"Trên tất cả những cái đó?", hoàng tử bé hỏi.

"Trên tất cả những cái đó...", nhà vua trả lời.



Bởi vì đây không chỉ là một nhà vua chuyên chế, mà còn là một vị chúa tối thượng chí cao trị vì trên càn khôn cùng vũ trụ suốt năm tháng thời gian chon von tuế nguyệt.



"Và ngàn sao tuân lệnh bệ hạ?"

"Tất nhiên", nhà vua đáp. "Chúng chúng ngàn sao lập tức tuân lệnh. Trẫm không dung tha sự vô kỷ luật."



Một quyền uy khôn xiết như vậy xui hoàng tử bé bàng hoàng kinh thán. Nếu xưa kia chàng mà nắm được quyền bính đó, ắt là chàng đã từng có thể chứng giám, không phải chỉ bốn mươi bốn, mà bảy mươi hai, hoặc tới cả trăm hoặc không chừng hai trăm cảnh trời lặn trong một ngày, mà chả cần chi phải xê dịch cái ghế đi nửa bước. Và vì chàng cảm thấy hơi buồn khi sực nhớ tới tinh cầu bé bỏng của mình bị bỏ rơi xa biệt, chàng đánh bạo thỉnh cầu vị chúa ban một hồng ân:



"Tôi muốn nhìn thấy một cảnh mặt trời lặn... Xin ngài vui lòng cho tôi được... Xin bệ hạ ra lệnh cho mặt trời hãy đi ngủ..."



"Nếu ta ra lệnh cho một vị tướng phải bay từ một đóa hoa này sang đóa hoa kia theo điệu con bướm, hoặc phải viết một vở bi hùng kịch, hoặc biến dạng cho thành ra hình hài hải điểu, và nếu như vị tướng không thi hành mệnh lệnh, thì ai lả kẻ quấy, vị tướng nọ hay là trẫm này?"



"Hắn là bệ hạ quấy", hoàng tử cương quyết nói.



"Đúng. Phải yêu cầu nơi mỗi kẻ mỗi người cái gì mà người ấy có thể cho ra được. Uy quyền trước hết phải thiết lập trên cơ sở lý tính. Nếu nhà ngươi ra lệnh cho con dân nhảy xuống biển, thì dân con sẽ nổi loạn làm cách mạng con dân, lật đổ nhà ngươi nhào xuống khỏi ngai vàng chín bệ. Ta có quyền đòi hỏi sự tuân lệnh, bởi vì những mệnh lệnh ta ban ra đều hợp lý."



"Vậy thì cảnh mặt trời lặn của tôi?" Hoàng tử bé nhắc trở lại, vì chàng chẳng bao giờ quên một câu hỏi nào, một khi chàng đã nêu nó ra.

"Cảnh mặt trời lặn của ngươi, ngươi sẽ có nó. Ta sẽ đòi hỏi điều đó cho ngươi. Nhưng thể theo thuật cầm quyền, ta sẽ chờ cho tới lúc những điều kiện thuận lợi đầy đủ đi về."

"Lúc nào thì tới lúc?"

"Hừ! Hừ!" nhà vua đáp, sau khi tra xét một cuốn lịch bự, hừ hừ, "vào khoảng... vào khoảng bảy giờ bốn mươi chiều nay! Và nhà ngươi sẽ có dịp nhìn thấy rõ mệnh lệnh ta được tuân theo một cách nghiêm mật khôn hàn."



Hoàng tử bé lại ngáp. Chàng tiếc rẻ cơn tịch dương xí hụt của mình. Và chàng cũng đã thấy chán ngán buồn tình chút ít:



"Tôi chả còn biết lưu lại đây nữa để làm gì, chàng nói với vị vua. Tôi sắp xin đi!"



"Đừng đi, nhà vua đáp", nhà vua vốn rất lấy làm hãnh diện được có một con dân. "Đừng đi, trẫm sắp ban chức thượng thơ cho ngươi đó!"



"Thượng thơ bộ gì?"

"Bộ... tư pháp!"

"Nhưng có ai đâu để mà xét xử!"

"Nào đã biết đâu, nhà vua bảo. Trẫm chưa ngự giá tuần du khắp vương quốc. Trẫm đã già lắm rồi, và xứ sở cũng không có đủ chỗ để mà đặt một cỗ xe ngựa, còn đi bộ thì gân xương ta lỏng lẻo chịu sao nổi."



"Ồ! Nhưng tôi đã nhìn thấy", hoàng tử bé nói khi nghiêng mình nhìn thêm một trận nữa về mặt bên kia tinh cầu. "Bên kia cũng chẳng có một ai..."



"Nếu vậy nhà ngươi hãy tự mình xét xử mình vậy, nhà vua đáp. Đó là điều khó nhất. Tự xét xử mình, còn khó khăn gấp mấy xét xử kẻ khác. Nếu nhà ngươi mà tự xét xử mình được công minh, nhà ngươi quả nhiên là một bậc hiền thánh đích nhiên thượng thừa hy hữu vậy."



"Tôi", hoàng tử bé đáp, "tôi có thể tự mình xét xử mình bất cứ ở nơi chốn nào. Hà tất phải ở lại đây. Ích chi mô."



"Hừ, hừ!" nhà vua nói, "ta tưởng rằng đâu đó trên tinh cầu này có một con chuột cống già. Đêm đêm ta nghe nó rục rịch kêu rêu heo hút. Nhà ngươi sẽ thỉnh thoảng lên án nó từng trận trận mà chơi. Và như vậy, số kiếp nó sẽ tùy thuộc nơi quyền tài phán công minh tối thượng của nhà ngươi. Nhưng cứ mỗi một phen ngươi lại xá miễn cho nó, là cốt để dành dụm con chuột lại cho còn đó mãi mãi về sau. Suốt xứ, chỉ có một nó duy nhất mà thôi."



"Tôi", hoàng tử bé đáp, "tôi không thích lên án tử hình ai cả, và tôi tưởng mình sắp xin ra đi."

"Không", nhà vua bảo.

Nhưng hoàng tử bé, soạn sửa chỉnh bị đã xong, không có ý muốn làm phiền lòng vị chúa già.

"Nếu bệ hạ muốn được hạ thần tuân mệnh một cách thật tinh tế dòn dã, thì bệ hạ có thể thử ra một cái lệnh hợp lý xem sao. Chả hạn, bệ hạ có thử ra lệnh cho hạ thần ra đi gấp bây giờ. Dường như tình thế đã tới chỗ rất mực thuận lợi rồi..."



Thấy nhà vua không đáp, hoàng từ ban đầu có ý ngần ngừ đôi chút, rồi thở dài một tiếng, đứng dậy cất bước.



"Trẫm ban cho khanh chức đại sứ của trẫm đó", nhà vua vội vã kêu to một lời như thế.



Trông ngài có vẻ uy nghiêm tối thượng.



"Những người lớn quả thật là kỳ dị", hoàng tử bé tự nhủ trong lòng, suốt trên lộ trình dằng dặc.


(to be continued )


Fujisawa Shuhei : Kiếm pháp Tàn nguyệt của kẻ bị cô lập

Kiếm pháp Tàn nguyệt
của kẻ bị cô lập

Fujisawa Shuhei

Phạm Vũ Thịnh dịch

1

-"Này, anh có nhớ tên Ukai Saheita không nào?".

Quan Gia lão [1] ngày trước là Mitsui Yagoemon hỏi.

Kojika Shichibee chỉ biết ấp úng không rõ lời gì, đưa mắt nhìn lại. Nhưng làm sao mà quên được chứ? Ukai Saheita là kẻ mà Shichibee đã lãnh mệnh lệnh của Lãnh Chúa tìm giết ngày trước. Ở chỗ vắng ngoài xóm nhà Kaneya trên đường Tokaido đấy chứ đâu. Chuyện 15 năm trước rồi, nhưng đến bây giờ, quang cảnh tử-đấu ấy vẫn còn ghi khắc rõ ràng trong trí Shichibee. Saheita đã nghênh chiến với bốn người võ sĩ tìm bắt hắn, dũng mãnh không lùi một bước. Ánh nắng trắng xoá nẩy bật lên trên bãi sông. Lau lách uốn mình theo gió. Và tiếng thét hoảng hồn của bà chủ quán trọ khi thấy bọn anh ướp muối thủ cấp của Saheita mà bọn anh đã cắt mang về. Tiếng hoan hô của người trong thành nghênh đón bọn anh bốn người dưới sự chỉ huy của anh, Shichibee, trở về. Rồi được tăng lương nữa chứ. Đó là vinh quang duy nhất trong quãng đời đã qua của anh. Làm sao quên được chứ!

-"Hừm, phải rồi. Làm sao quên được nhỉ. Nhưng mà này, anh có biết là Saheita còn có một người em trai đấy không?"

-"Thưa, là Hanjuro đấy ạ?"

Yagoemon gật đầu. Hanjuro là em cách Saheita đến hơn 10 tuổi, sau cái chết của Saheita trốn chạy khỏi thành và nhà Ukai bị triệt phế, đã được nhà Toda trên Edo [2] lãnh nuôi. Nhà Toda là gia thần của Lãnh Chúa trú đóng tại Edo, có con dâu là người cô của Hanjuro. Lúc đó, hẳn là Hanjuro mới 12 tuổi.

-"Thưa, Hanjuro ấy làm sao ạ?"

-"Được Lãnh Chúa cho phép tái hưng nhà Ukai, mới đây ta được tin từ quan Gia lão trên Edo cho biết là Hanjuro vừa chính thức nối dõi nhà ấy đấy".

-"Thế ạ?"

Vậy là nhà Ukai được lập lại rồi. Đối với Hanjuro và họ hàng nhà Ukai thì đấy là chuyện đáng mừng quá, nhưng đâu có dính dáng gì đến mình. Shichibee không hiểu vì lý do gì quan Gia lão ngày trước lại phải gọi mình đến để nói về chuyện này.

-"Tin thì từ quan Gia lão trên Edo cho biết đấy, nhưng chuyện tái hưng này chắc chắn đã do Yano và Okuzawa ở xứ này bàn tính với nhau mà tiến ngôn lên cho Lãnh Chúa trên Edo đó rồi".

Shichibee lơ đãng nhìn Yagoemon. Anh bắt đầu hiểu lý do mình được gọi đến đây.

Yano Sonshichiro và Okuzawa Gonbee là địch thủ chính trị của Yagoemon. Chừng một năm trước đây, hai người này đã đá văng được địch thủ chính trị mà lên đến địa vị nhiếp chính trong phiên trấn. Nắm được chính quyền phiên trấn, hai người này bắt đầu thay đổi tất cả nhân sự, từ ban nhiếp chính cho đến các Trưởng tổ, đưa người cùng phe vào để củng cố quyền lực, xong xuôi chuyện đó rồi thì bây giờ mới ra tay triệt bỏ hoặc thay thế tất cả những bộ phận thực thi chính sách nào còn có người của thế lực cũ, mà đầu têu là Mitsui Yagoemon này. Chuyện thay hình đổi dạng này chẳng có gì lạ vì xưa nay vẫn thế rồi, mỗi khi thay đổi chính quyền. Lần này được tiến hành không ngưng nghỉ suốt hơn một năm nay. Vì thế, có lẽ chuyện cho phép nhà Ukai tái hưng và Hanjuro nối dõi vừa rồi cũng nằm trong kế hoạch của nhóm quyền lực mới muốn gạt bỏ thành phần chính quyền cũ, nên Yagoemon mới bất mãn mà gọi anh đến để thổ lộ đây chăng? Mà Shichibee cũng đã nghe đồn rằng chuyện Saheita trốn chạy ngày trước cũng đã có dính dáng gì đến việc tranh chấp chính trị của các phe phái thời đó nữa. Tuy chi tiết như thế nào thì anh không rõ. Shichibee chỉ biết là có lệnh của Lãnh Chúa bảo tìm giết Saheita thì hăng hái lên đường đuổi theo Saheita đó thôi. Thời đó, anh còn trẻ quá, mới 26 tuổi mà.

-"Hanjuro sẽ theo Lãnh Chúa trở về vào mùa xuân này đấy".

-"......"

-"Phiền phức lắm đấy".

Shichibee đang cúi mặt xuống, bất giác ngẩng đầu lên. Có vẻ chẳng phải Yagoemon gọi anh đến chỉ vì muốn nói ra lời bất mãn đối với thành phần nhiếp chính mới. Ông ta thở dài có vẻ lo âu.

-"Thưa, phiền phức như thế nào ạ?"

-"Matsumura Ganzaburo trên Edo bí mật báo tin rằng Hanjuro về xứ thì sẽ thách anh tử đấu đấy".

Shichibee sửng sốt nhìn Yagoemon. Chuyện gì điên rồ thế! Anh nghĩ.

-"Thế nghĩa là sao ạ?"

-"Nghĩa là, có vẻ từ lâu nay Hanjuro vẫn còn uất hận chuyện anh hắn là Saheita bị anh giết. Nên hắn đã nói công khai rằng lần này về xứ sẽ thách đấu với anh để thanh toán mối thù bao năm nay. Ganzaburo bảo là chính tai nghe như thế nên không sai đâu".

-"Thế nhưng, tiện nhân có phải vì tư thù mà tìm giết Saheita đâu? Hận thù như thế thì sai lầm rồi!"

-"Thì quả là sai lầm thật đấy. Nhưng Hanjuro đã công nhiên mà nói ra như thế, thì hẳn là phía sau lưng hắn đã có Yano và Okuzawa ngấm ngầm cho phép rồi. Không thể cứ cho là lời nói điên rồ mà bỏ qua được đâu".

-"......"

-"Anh có biết lý do tại sao Saheita trốn khỏi thành không nào?"

-"Thưa không".

-"Lúc bấy giờ, Trưởng tổ Ochiai Ichibee, giờ đây cũng đang ăn cơm hẩm, rời thành một đêm nọ thì bị đón đường chém giết. Người nhà cùng đi bị chém chết nhưng Ichibee thì chỉ bị thương ở tay. Sau này điều tra ra kẻ đón đường ấy là Saheita, và sau lưng hắn có Yano chỉ đạo nữa. Yano và Ichibee vốn có hiềm khích với nhau. Saheita bị bắt, nhưng trước khi bị hỏi cung về chuyện cấu kết với Yano thì hắn trốn thoát".

-"......"

-"Sự tình là như thế. Bây giờ có thể Yano Sonshichiro muốn nhân chuyện tái hưng nhà Ukai mà lấp liếm luôn sự kiện ngày trước đi".

-"Thế nhưng, tiện nhân cũng đâu có dính dáng gì đến chuyện ấy. Chỉ mỗi mình tiện nhân bị thù oán như thế thì vô lý quá!".

-"Đúng như anh nói thật... Lý lẽ thì như thế..." Yagoemon co ngón tay út gãi cằm. -"nhưng bảo là bốn người đi tìm giết Saheita mà trên danh nghĩa thì anh vẫn là thủ lãnh, ba người kia chỉ là phụ tá đi theo mà thôi, có đúng thế không nào?"

-"......"

-"Ta đọc lại báo cáo thì thấy ghi là trong trận ấy, cuối cùng anh đã đánh bại Saheita, và chém nhát chém ân huệ theo đúng phép tắc đấy. Có vẻ Hanjuro cũng đã biết được đến chi tiết như thế rồi".

-"Thế thì tiện nhân nên làm như thế nào?" Shichibee hỏi, trong lòng hoang mang vô cùng.

Nhưng Yagoemon chẳng trả lời ngay. Ông chậm rãi nhắp trà, lấy tay chùi miệng, rồi quay lại nhìn Shichibee. Tia nhìn hiền hoà nhưng yếu đuối quá!

-"Dù gì đi nữa, cũng phải đề phòng đấy. Có thể là Hanjuro sẽ thách thức anh quyết đấu dưới một danh nghĩa thích ứng gì đấy, được quan Gia lão hiện tại mặc nhận không chừng. Phải cẩn thận mới được".

-"Thưa, quan có thể nào giúp tránh được chuyện ấy không?"

-"Tất nhiên, chuyện quyết đấu vì tư thù thì trong thành nghiêm cấm. Nếu thế thì ta cũng không thể không lên tiếng. Nhưng mà Yano và Okuzawa đời nào lại nghe lời ta đâu".

Mitsui Yagoemon là người được cả trong lẫn ngoài phiên trấn tin tưởng là tay nhiếp chính thông minh, nhưng một khi đã rút khỏi địa vị trong chính quyền rồi thì cũng khó mà chen miệng vào chuyện chính trị được. Shichibee thấy cụ già trước mắt mình chẳng còn có thế lực gì nữa cả. Mà chính Yagoemon cũng không giấu diếm gì sự bất lực của mình. Sau khi đã truyền đạt tin cần thông báo ấy xong, ông ngồi im lặng, khom lưng nhắp trà. Chẳng màng ngó tới Shichibee nữa.

Sau một hồi lặng thinh khó ở, Shichibee nói nhỏ lời từ biệt rồi đứng dậy. Yagoemon nghe chào từ biệt cũng chỉ im lặng gật đầu, nhưng khi Shichibee mở cửa sắp bước ra hành lang thì ông nói vói theo:

-"Ta quên nói một chuyện. Thư Ganzaburo cho biết Ukai Hanjuro là tay kiếm nổi danh của phái Itto đấy".

2

Có lẽ đã ngồi trong phòng Yagoemon có lò than sưởi ấm quá lâu nên khi ra đến ngoài đường, Shichibee cảm thấy khí trời lạnh cóng. Đã sang tháng 3, ánh nắng ban ngày rõ ràng là đã báo hiệu mùa xuân sắp đến, thế mà ban đêm vẫn còn lấp ló bộ mặt ảm đạm lạnh lẽo của mùa đông còn vương lại. Ngày nào trời đẹp thì khác biệt ấy lại càng rõ rệt trong mùa này.

Vừa bước đi, Shichibee vừa run lập cập. Nhưng anh bước đi vội vã chẳng phải chỉ vì trời đêm giá buốt. Từ lúc ra khỏi tư dinh Mitsui, Shichibee đã cảm thấy lòng mình nôn nao kỳ lạ. Phải làm gì chứ!

Tùy năm mà khác đi dăm ba ngày nhưng thường lệ thì Lãnh Chúa về xứ vào đầu tháng Tư. Cho đến ngày Ukai Hanjuro trở về đây, chỉ còn có một tháng. Trong khoảng thời gian ấy, anh phải tìm cách nào đối phó với chuyện điên rồ vừa nghe được. Shichibee thật chẳng có lòng nào muốn nhận thách đấu quyết tử. Giá như anh trẻ lại mười năm thì Shichibee cho dù có nghĩ chuyện Yagoemon nói lúc nãy là điên rồ đi nữa, nếu quả thật phía kia muốn đấu như thế, hẳn là anh cũng nghiêng theo về phía chấp thuận quyết đấu không chừng. Thế nhưng bây giờ đã 41 tuổi rồi, anh chỉ cảm thấy bấn loạn vì chuyện quá bất ngờ mà thôi. Thân thể anh bây giờ đã dính thêm những khối thịt mềm nhão, thêm bụng dưới lại phình ra mập tròn, mỗi khi dội nước tắm, chính anh cũng phải quay mắt đi không dám nhìn vẻ xấu xí thô tục đến như thế.

Shichibee nhớ lại mùa thu năm ngoái, khi anh xoay vần tảng đá trong vườn nhà. Nhà Shichibee lãnh lương 60 hộc [3] thì chẳng phải có thứ đáng gọi là vườn nhà, chỉ vì ông nội của anh là người thích vườn tược nên ngoài hiên nhà, ông đã đặt vài chậu cây và vài tảng đá làm cảnh. Sau một đêm giông bão, mảnh vườn nhỏ nhoi thô sơ ấy khuyết một lỗ lớn, tảng đá to nhất đã lăn vào lỗ hổng ấy mất. Vợ anh, Takae cứ than ồn lên là trông không được mắt tí nào, nên vài ngày sau đó, Shichibee đã phải xăn tay áo kiếm cách trục tảng đá ấy lên. Không có tiền thuê người ta, mà anh cũng nghĩ cỡ đó thì mình làm cũng được. Vậy mà thử rồi mới biết, tảng đá ấy quá nặng! Shichibee đã thu hết sức lực đến mức tưởng như sắp thổ huyết ra đấy, mới lôi được nó lên, mà anh đã thở không ra hơi, choáng váng nằm lăn ra bên cạnh tảng đá. Lúc đó, anh ngậm ngùi mà ngộ ra rằng mình chẳng còn trẻ nữa rồi. Ngày xưa, anh đã là kiếm sĩ nổi danh của phái Mumei, được kể là một trong 5 tay kiếm giỏi nhất trong phiên trấn, thanh danh đó bây giờ chỉ còn là chuyện đời xưa. Đã gần mười năm nay, Shichibee không còn ló mặt đến võ đường nữa.

Hanjuro là kiếm sĩ nổi danh của phái Itto kia à? Shichibee mỉm cười méo mó làm đôi má nhão chùng xuống. Bây giờ mà đấu với Hanjuro thì anh chẳng có chút hy vọng nào thắng được cả.

-"Anh ăn tối không?".

Về đến nhà, Takae hỏi anh thế. Anh đáp: không cần. Quả thật, anh chẳng thấy muốn ăn.

Nghe thế, Takae cũng chẳng buồn hỏi lại là anh đã ăn đâu đó rồi sao, chỉ im lìm bắt đầu dọn dẹp mâm cơm ngay, rồi vào trong bếp. Shichibee vào phòng ngủ thay quần áo. Như thường lệ, Takae chẳng thèm giúp chồng. Từ lâu rồi, quan hệ vợ chồng nhà anh bị trục trặc.

Shichibee trở ra phòng uống trà, chờ vợ dọn dẹp trong bếp cho xong, rồi hỏi:

-"Có rượu không?".

Takae vừa trở lại nghe hỏi thế, đáp là có.

-"Anh uống bây giờ à? Khuya rồi mà!"

-"Đừng nói lôi thôi, mang ra đi!"

Takae đưa mắt lạnh lùng nhìn chồng, nhưng cũng vào bếp mang bầu rượu và chén uống nước ra. Trên khay chỉ có thế, chứ cũng chẳng có thêm được chút dưa muối làm đồ nhắm nữa.

-"Anh cần gì nữa không?". Shichibee im lặng rót rượu, không đáp. -"Ngài Mitsui gọi vào để nói chuyện gì thế?"

-"Mùa xuân này, Lãnh Chúa sẽ về xứ, lúc đó..."

-"......"

-"Mà thôi, để khi khác!".

Nghe thế, Takae nói: -"Vậy thì, xin đi nghỉ trước".

Takae ra khỏi phòng rồi, Shichibee vào bếp lục tìm dưa muối. Tìm ra được củ cải đỏ và cà pháo muối dưa, anh bốc mỗi thứ một nắm cho vào bát, mang ra phòng uống trà. Gặm củ cải đỏ muối dưa, âm thầm nhắp rượu lạnh một hồi, Shichibee cảm thấy lòng mình thấm thía một nỗi buồn thảm man mác lẻ loi. Như chỉ một mình bị lôi ra trước mọi người để chịu trách mắng. Thảm thương cho mình không có được miệng lưỡi để biện bạch nỗi oan khuất, cũng chẳng còn sức để kháng cự lại nữa.

Nhưng khi rượu đã thấm say vào người, tâm tình thương cảm ấy như bị lên men vì hâm nóng trong hơi rượu, dần dần biến thành cơn phẫn nộ. Shichibee ưỡn ngực, trừng mắt nhìn quanh căn phòng chẳng có ai khác.

Chẳng có lý do gì để người nào có thể gọi ta là thù địch cả!

Cơn phẫn nộ của anh, trước nhất là hướng về phía Ukai Hanjuro đã xuất hiện là thù địch trước mắt anh. Thời đó mới 12 tuổi, vậy là bây giờ hắn đã 27 tuổi rồi? Hừm, cậu trẻ lại nghĩ ra được chuyện láo xược thế đấy! Muốn thế thì cứ đến đây! Ta sẽ cho xem kiếm pháp của phái Mumei là như thế nào!

Rồi Shichibee lại hướng nỗi phẫn hận ấy về phía Mitsui Yagoemon vừa gặp lúc nãy. Một người ngày trước đã là quan Gia lão thứ nhất, nắm trong tay toàn bộ quyền bính trong phiên trấn, thế mà bây giờ nhu nhược chẳng còn chút khí phách gì cả thế. Rõ ràng là phía kia sai lầm rồi, mà hoàn toàn chẳng làm gì được để ngăn ngừa, thì quả là tồi tệ quá! Mà đâu có phải ông ta chẳng dính dáng gì đến chuyện này! Ra lệnh tìm giết Saheita chính là ban nhiếp chính lúc Mitsui cầm quyền chỉ đạo đấy chứ ai! Nhân chuyện Hanjuro thù hận ta mà các ông nấp bóng để khỏi bị trả thù về chuyện các ông đã làm, thì ta không thể tha thứ cho các ông được.

Còn Takae nữa. Vợ gì mà lúc dầu sôi lửa bỏng thế này lại chẳng giúp tí gì được cả! Lòng Shichibee sôi sục luôn chuyện vợ mình đã bỏ mặc chồng trong lúc hoạn nạn mà rút êm về phòng riêng, đi ngủ. Takae là người đàn bà dễ ngủ. Giờ này hẳn đã êm đềm trên thuyền mộng rồi!

Shichibee bực dọc nốc rượu ừng ực.

Nhưng mà, khoan đã! Có trách cứ cô ta cũng vô ích thôi. Hừm, phải rồi. Đến bây giờ mới trách cứ thì cũng chẳng đi đến đâu. Chộp củ cải đỏ muối dưa cho vào mồm nhai, Shichibee vừa lẩm bẩm một mình. Anh nhìn lại những tháng năm dài bất hoà với vợ. Hai người không ly hôn chỉ vì ngại miệng tiếng thế gian về thanh danh gia đình đó thôi. Người đàn bà ấy đã thấy anh lôi tảng đá lên, mệt nhoài, ngã lăn ra đấy, mà chỉ cười diễu cợt thôi chứ chẳng phụ giúp chút gì!

Nguyên nhân của chuyện lục đục thế này, nói ra thì chuyện xưa lắm rồi. Sau khi tìm giết được Ukai Saheita trở về, Shichibee và ba người bộ hạ cùng được tăng lương. Thời đó, Takae cũng chẳng phải là người vợ xấu tính, mà chỉ là người phụ nữ bình thường, mỗi khi về nhà cũ thì kể chuyện tự hào về chồng mình. Cô cần mẫn chăm sóc chồng và bà gia lúc đó còn tráng kiện. Có chút bất mãn thì cũng chỉ là về chuyện không có con mà thôi.

Quan hệ vợ chồng đã trở nên hung hiểm là vì rượu. Từ ngày được tăng lương, Shichibee hay đi uống rượu. Vốn không ghét gì rượu, lại được bạn bè trong thành rủ đi quán nhậu, tán chuyện anh hùng trong trận đấu với Saheita, lần này tiếp lần khác, riết rồi tài kể chuyện của anh cũng giỏi giang ra không kém gì các thầy giảng, nhưng mùi rượu ngon chốn tửu điếm cũng thấm đậm vào máu anh. Mà chẳng phải chỉ có rượu, anh lại còn vui chơi thân mật với cô đầu nữa.

Chuyện anh hùng nói đủ một vòng thì không còn ai rủ đi uống rượu nữa, nhưng sau đó, Shichibee vẫn một mình lui tới thường xuyên các trà đình tửu điếm. Lấy tiền nhà ra mà chơi bời nên chẳng bao lâu thì chuyện chơi gái cũng bại lộ. Lòng ghen của Takae thật mãnh liệt. Cuộc bê tha chơi bời của Shichibee chấm dứt sau hai năm, nhưng Takae vẫn nhất quyết không dung thứ cho anh.

Nguyên do cũng tại mình bậy quá!

Cơn phẫn nộ của Shichibee hâm nóng nhờ rượu đã dần dần xẹp xuống. Anh đặt chén xuống khay, vai co lại, thất vọng về mình. Thời đó, mình đã nông nổi quá, bị cuốn hút vào thú vui hời hợt.

Đối với thú rượu chè của Shichibee, lúc đầu người trong thành và vợ anh cũng tương đối khoan dung. Dù gì đi nữa, Shichibee cũng là kiếm sĩ có danh dự, đã lặn lội một trăm mấy mươi dặm đường để tìm giết kẻ tội phạm nguy hiểm đã trốn khỏi phiên trấn này. Thế nhưng, tiếng tán thưởng càng to càng chóng tiêu tán đi mất. Lễ hội đã tan rồi mà có kẻ vẫn còn say sưa nhảy múa. Chẳng bao lâu, mắt nhìn Shichibee của mọi người trong thành đã thay đổi. Người ta thấy Shichibee là tên đàn ông đã đắm đuối trong công danh nhất thời mà sa đoạ trong rượu chè và đàn bà. Lối nhìn có phần khinh bỉ ấy vẫn còn mãi cho đến bây giờ, nhưng Shichibee chỉ mới để ý đến nó rất lâu về sau này mà thôi.

Cả người vợ cường ngạnh của anh là Takae cũng đã để ý đến điều ấy. Và căm giận người chồng đã làm tiêu tan danh dự đã khổ công tạo dựng nên của nhà Kojika.

Thế mà bây giờ Hanjuro lại bảo là muốn đòi anh trả lại món nợ cũ thời xa xưa ấy!

Đưa chén rượu mới rót lên môi, Shichibee nửa cười nửa khóc.

3

-"À, nếu có xảy ra sự tình như thế, thì ta cũng sẽ nói với ngài Aida xem sao".

Trưởng tổ Uji-ie Kibee nói, nhắc đến tên của người Trưởng tổ tham gia vào việc cai trị phiên trấn. Shichibee dập đầu xuống tận chiếu mà cảm ơn, rồi nói thêm:

-"Như đã thưa, phía tiện nhân thì không có tội lỗi gì, nhưng dù sao, việc tiện nhân đến nhờ Trưởng tổ như thế này, xin giữ kín giùm cho".

-"Ta hiểu rồi". Trưởng tổ thản nhiên gật đầu. Rồi nói, không giấu vẻ bực bội: -"Việc anh nhờ thì ta nhận rồi, thế nhưng anh vốn là kiếm sĩ có danh trong toàn phiên trấn. Cho dù trong lời Ukai Hanjuro có phần vô lý đi nữa, nhưng chính anh không có ý muốn nhận lời thách thức chút nào sao?"

-"......"

Ra khỏi tư dinh Trưởng tổ, Shichibee hấp tấp bước khỏi cổng rồi lấy giấy trong túi ra lau mồ hôi trán và cổ. Mồ hôi rịn ra vì nhục nhã.

Bước vội qua xóm Sanai có nhiều tư dinh võ sĩ, ra đến bờ sông Gomagawa, Shichibee đứng dừng lại. Anh chưa biết nên đi đâu.

Đã gần hai mươi ngày trôi qua từ lúc anh nghe Mitsui Yagoemon nói chuyện Hanjuro. Trong khoảng đó, Shichibee đã chạy đôn chạy đáo đến các nhà họ hàng và cấp trên của anh. Có suy nghĩ cách nào đi nữa, cũng thấy Hanjuro đã hiểu lầm một cách vô lý, và vu vạ anh một cách ngoan cố. Đến nhà nào, Shichibee cũng gắng sức trình bày sự tình, nhờ họ nói lên các bậc quan quyền trong phiên trấn để cân nhắc cho anh. Nhưng hầu hết đã phản ứng rất là lạnh nhạt. Họ hàng của anh hầu như chẳng ai có chức vụ quyền thế gì. Trừ một người họ hàng xa là Yoshii làm chức Trưởng tổ, nhưng Yoshii nghe Shichibee nhờ cậy cũng chỉ thản nhiên gật gù rồi trách anh thường ngày xa cách và lôi chuyện vợ chồng anh bất hoà ra mà mắng, cả chuyện anh ăn chơi trà đình tửu điếm, đem chuyện xưa ra phủi bụi mà hạch tội, khiến anh phải kiếm cách trốn chạy khỏi nhà ấy cho nhanh.

Còn cấp trên của anh cũng chẳng giúp được gì hơn. Shichibee làm việc trong tổ Giữ cờ. Thời anh được chọn vào đội tìm bắt Saheita thì anh đã làm trong tổ Kỵ binh Cận vệ kia, nhưng vài năm sau đó, đã bị chuyển sang chức vụ nhàn tản này. Ngay cả cấp trên của anh làm chức quản lý Giữ cờ cũng chỉ là chức vụ nhàn tản, chẳng có thế lực gì trong việc cai trị phiên trấn. Tuy nhiên, cấp trên là Matsukawa Hachijuemon đã tỏ vẻ đồng tình sâu đậm với lời khẩn cầu của Shichibee nên đã viết cho mấy bức thư gửi lên những người ông quen biết đang giữ các chức vụ có thế lực trong phiên trấn, như quan Kiểm sát Nội thị Shiraishi Chujiro, Trưởng tổ Cận vệ Izawa Shobee, Chưởng quản Địa phương Nakasato Sadayu, Huyện lệnh Tsuge Kannojo, và người anh vừa gặp hôm nay là Trưởng tổ Uji-ie Kibee. Là chuyện khó nói ra bên trong thành nên Shichibee đã phải xin Matsukawa cho nghỉ, nhắm lúc các quan rời thành hoặc nghỉ ở nhà để mang quà cáp đến thưa chuyện, nhưng anh cũng không hiểu công khó ấy sẽ có được hiệu quả như thế nào. Mình cần quá thì phải chịu quỵ luỵ người ta thôi, anh nghĩ thế mà cố công đi vòng vòng nhờ vả, nhưng các quan nghe chuyện xong, chẳng biết có hiểu cho mà nói lên trên để cân nhắc giùm cho chăng? Ngài Uji-ie là người thẳng thắn nên đã nói với anh như thế, chứ Shiraishi Chujiro chỉ im lìm từ đầu đến cuối, hay Nakasato Sadayu không ngừng mỉm cười,... sự thật các vị này nghĩ như thế nào, anh chẳng hiểu được. Có khi họ nghe anh trần tình mà nghĩ đó là chuyện người võ sĩ không nên làm!

Bất giác, lòng Shichibee trĩu nặng vì ý nghĩ rằng việc mình đã chạy chọt đến chân cứng đờ như khúc gỗ trong suốt hai mươi ngày nay, tất cả đều vô ích. Quà bánh mang đi, cúi đầu đến mức đê tiện, mà kết cuộc có vẻ chỉ phô bày mặt nhục nhã của mình ra mà thôi.

Ánh nắng hừng hực đổ xuống đầu Shichibee. Ánh nắng cũng bật nẩy vỡ vụn trên mặt sông, lúc này đang có hai chiếc thuyền đậu lại. Trên thuyền có hai người đàn ông, một người dùng sào chận giữ thuyền đừng trôi, người kia cầm liềm cán dài, cắt rong trong nước. Chẳng phải cắt để lấy rong, mà họ đang dọn sạch dòng sông đóng rong rêu suốt mùa đông vừa qua. Bờ bên kia, liễu đã đâm chồi màu trắng, bên gốc cây có một đám mấy người nam nữ đứng nhìn hai người đàn ông làm việc trên thuyền. Cho đến khi người kia kéo liềm lên thuyền, làm dấu hiệu để hai chiếc thuyền theo nhau xuôi về phía hạ lưu, thì đám người xem có vẻ mãn nguyện mà tản ra về hai phía trái phải. Shichibee cũng thức tỉnh từ một thoáng chốc mơ màng, bắt đầu cất bước. Vẫn chưa biết nên đi đâu, mà về nhà lúc này cũng chẳng biết làm gì. Takae đã về quê cũ từ ba ngày trước rồi, anh có về thì cũng chỉ có nhà trống mà thôi.

Đàn bà! Shichibee lầm bầm. Anh nhớ lại thái độ của vợ khi nghe anh thổ lộ chuyện Hanjuro trở về xứ. Thổ lộ như thế chỉ vì tinh thần anh trở nên yếu đuối quá rồi. Tối hôm đó, Shichibee đã đến gặp quan Kiểm sát Nội thị Shiraishi Chujiro. Nhân vật này nổi tiếng là có đầu óc sắc bén, lại thân với quan Gia lão thứ nhì Okuzawa Gonbee, tương lai hẳn sẽ nắm chức vụ trọng yếu trong phiên trấn đấy. Shiraishi gật gù nghe Shichibee trần tình, nhưng suốt buổi chẳng hề cho ý kiến hay hỏi anh câu nào cả. Nghe xong, cuối cùng cũng chỉ bảo: -"Ta nghe rồi. Cảm ơn anh chịu khó đến đây", thế thôi. Trở về nhà trong nỗi hoang mang lẫn hổ thẹn, lần đầu tiên Shichibee thổ lộ chuyện này với vợ, như người sắp chết đuối với tay nắm cọng rơm.

Takae to con, ngực đầy đặn. Vừa kể chuyện, Shichibee vừa liếc nhìn ngực vợ. Gò ngực vun đầy đã lâu nay anh không rớ tới ấy, trông sao mà thân thương quyến rũ thế!

Vậy mà, Takae đã phản ứng thật lạnh nhạt:

-"Chuyện quan trọng đến như thế, sao lâu nay anh lại im lìm chẳng nói cho biết?"

Lời trách như dao đâm vừa nói xong, cô còn nhìn chòng chọc vào mặt Shichibee mà nói tiếp như thế này:

-"Chuyện của anh thì anh gắng mà giải quyết. Cho đến lúc anh giải quyết xong, em xin trở về nhà cũ dưới quê".

Tất nhiên ta sẽ giải quyết một mình chứ! Shichibee nghĩ. Nhưng đồng thời, lòng anh khô cạn như đã bị cháy tan.

Chỉ còn mười ngày nữa thôi! Shichibee chợt nảy ý muốn đến võ đường. Đã mười năm nay không đến tập. Bây giờ đến đó cũng chẳng được gì, nhưng nỗi tuyệt vọng xui anh nhớ đến võ đường cũ. Anh vội vàng chùi mồ hôi, mắt nhìn thẳng, hấp tấp bước trên đường ven sông, hướng về phía đường nhỏ trên sườn núi, nơi có võ đường cũ của anh.

4

Đứng ngay cửa vào võ đường, Shichibee lặng ngắm quang cảnh tập luyện. Tiếng chân dậm trên sàn, tiếng kiếm tre va chạm nhau mãnh liệt, tiếng thét tấn công náo động. Những tiếng náo nhiệt ấy pha trộn vào nhau thành khí nóng ào đến áp đảo anh. Môn sinh đang tập kiếm đều là những thiếu niên từ 14, 15 đến quá 20 tuổi. Môn sinh cấp cao có vẻ lớn tuổi hơn thì cũng có 4, 5 người đang chỉ dẫn đàn em tập luyện, nhưng đều là những người Shichibee chưa thấy mặt bao giờ. Chẳng ai quay nhìn Shichibee cả. Anh dõi mắt tìm chủ võ đường là Inage Sokin nhưng không thấy đâu. Có lẽ ông đã già nên dạo này không còn ra đây nữa. Shichibee định ghé vào nhà chính chào hỏi ông rồi ra về, nhưng đúng lúc anh có ý nghĩ rụt rè ấy thì từ phía hông, có tiếng người gọi: -"Thưa chú Kojika".

Anh quay lại thấy một thiếu nữ buộc khăn đầu, tay cầm kiếm tre đứng đấy. Khuôn mặt uy nghi rám nắng, mặc quần võ sinh như đàn ông, đó là Shizuno, thứ nữ của Shiga Matazaemon, một trong bốn người đi tìm bắt Saheita ngày trước. Trên mặt Shizuno còn lấm tấm mồ hôi.

-"A, Shizuno đấy à!" Shichibee kêu lên.

Vài năm trước đây, Matazaemon đã nhờ anh dạy kiếm pháp phái Mumei cho cô bé này, nên có lần Shichibee đã dắt cô về nhà. Matazaemon có ba người con đều là gái cả, nên lấy làm tiếc không có con trai, nhưng thứ nữ Shizuno tỏ ý quan tâm thiết tha về kiếm thuật nên ông đã định cho con vào tập ở võ đường Inage, nếu quả thật có tư chất hơn người. Lúc đó, Shichibee đã cho là ý điên của người say đấy, nhưng nể bạn nên cũng nhận dạy thử xem sao. Nói vậy chứ anh tự mình cũng chẳng có võ đường gì nên ngày nào đẹp trời thì cho ra vườn nhà tập mấy bài kiếm cơ sở, thế thôi. Nhưng Shizuno học hiểu rất nhanh mà động tác cũng rất đúng cách. Shizuno tập luyện như thế đâu được một năm. Shichibee bảo Matazaemon rằng Shizuno có triển vọng lắm, nên cho đến võ đường mà học thêm, rồi anh viết thư giới thiệu đến võ đường Inage nữa. Sau đó, thỉnh thoảng anh có nghe nói về Matazaemon, nhưng không gặp Shizuno.

Giờ đây, cô bé con chân tay khẳng khiu ngày nào đã trở thành một thiếu nữ cao lớn, ngực nở nang dưới lớp áo võ sinh, nhưng khuôn mặt săn chắc rám nắng vẫn còn nét quen thuộc cũ.

-"Cháu cao lớn thêm nhiều lắm". Shichibee nói. -"Bao nhiêu tuổi rồi nhỉ?".

-"Thưa, cháu 17 tuổi". Shizuno thẹn thùng đáp.

-"Hừm, thế thì sắp phải đi lấy chồng rồi đấy".

-"Cha cháu cũng bảo thế, nhưng còn sớm quá mà".

-"Tập kiếm có thích không?"

-"Thưa vâng. Vì bắt đầu hiểu được đôi chút rồi đấy".

-"Thế thì...". Shichibee chợt nghĩ ra mà hỏi. -"Cháu tập với chú một lúc nhé?"

-"Cháu đâu dám tập với chú!". Shizuno đỏ mặt. -"Chú chỉ bảo cho cháu nhé".

Thấy Shichibee gật đầu, Shizuno chạy vào trong để lấy kiếm tre.

Vào xem võ đường rồi, Shichibee cảm thấy choáng ngợp trong nhiệt khí của tuổi trẻ nên đâm ra rụt rè. Anh ngán ngẩm cho mình ngày xưa đã là kiếm khách hàng đầu trong võ đường này, mà bây giờ về già lại ra nông nổi thế này, nhưng có Shizuno ở đây thì cũng nên cầm lại thanh kiếm tre xem sao.

Thế nhưng, cầm thanh kiếm tre mượn được ấy đối diện với Shizuno thì anh mới thấy mình thảm hại làm sao! Shizuno thì tiến bộ rõ rệt, thi triển thuần thục các thế kiếm thật trôi chảy, trong khi Shichibee cố sức ứng tiếp một hồi thì cảm thấy đuối sức, mồ hôi lạnh toát ra đầm đìa trên mặt. Miệng anh khô rang, mắt mờ đi.

-"Chờ tí!". Shichibee giơ tay ngăn động tác của Shizuno rồi bước ra phía dưới cửa sổ trên nóc võ đường, khom mình ngồi bệt xuống sàn. Anh há miệng thở hổn hển, thầm than rằng mấy năm rồi đắm đuối rượu chè, hoàn toàn chẳng rớ đến thanh kiếm tre, nên bây giờ bị quả báo như thế này đây.

-"Sao thế chú?". Shizuno nhìn anh chăm chú, kinh ngạc hỏi.

-"Xuỵt, đừng nói lớn!". Shichibee nói nhỏ. -"Chú chưa ăn cơm..."

-"Ủa, tại sao thế?"

-"Cháu cho chú chén nước".

Shizuno chạy đi rồi, Shichibee tựa lưng vào vách tường, ngồi xếp bằng lại. Ngực đập nhanh đến anh cũng phải ngạc nhiên. May là người trong võ đường có vẻ bận rộn tập luyện, không ai để ý gì đến chuyện xảy ra nhỏ nhặt này. Tiếp tục nghe tiếng thét tấn công vang động, tiếng kiếm tre va chạm nhau, và tiếng chân dẫm đạp không ngừng. Những tiếng động ấy Shichibee lại nghe như từ đâu xa vọng lại qua một bức vách ngăn, trong khi tai anh lắng nghe tiếng tim mình đập dồn dập đến ghê rợn.

Tự nhiên mà làm chuyện đáng xấu hổ. Nếu mọi người biết được kẻ đang co rúm lại nơi đây lại là môn sinh cao cấp ngày xưa của võ đường này thì hẳn là họ cười chê cho thối óc. Takae hết thương tưởng gì mình cũng là chuyện phải.

-"Nước đây, thưa chú". Shizuno đã trở lại, trao cho anh bát nước.

Shichibee nâng bát nước uống ừng ực, cảm thấy trống ngực dần dần dịu bớt.

-"Sao chú không ăn cơm trưa thế chứ?"

-"Takae về quê rồi, chẳng có người nào thổi cơm. À không, cơm sáng thì đã tự nấu và ăn rồi, nhưng cơm trưa thì chú quên lửng đi mất".

-"Tại sao cô lại về quê mà bỏ chú một mình thế?"

-"Cãi nhau đấy mà. Cháu Shizuno ngày xưa đến nhà chú tập luyện thỉnh thoảng cũng thấy hai vợ chồng chú cãi nhau đấy thôi".

-"Tội nghiệp chú quá". Shizuno nói.

Shichibee ngẩng mặt lên, thấy Shizuno rưng rưng nước mắt nhìn anh. Hừm, có vẻ bây giờ mình trông thê thảm lắm, đến nỗi cô bé này cũng phải thương hại cho mình nữa.

Nhưng chuyện chưa ăn cơm trưa chỉ là cái cớ nói ra để Shizuno khỏi kinh ngạc mà thôi. Quả đúng là anh quên chuyện cơm trưa thật, nhưng bị mệt cùng cực thế này thì chẳng phải chỉ vì đã không ăn com trưa. Thân thể mình đã suy nhược hơn là mình tưởng nhiều.

Nỗi tuyệt vọng bóp chặt tim anh. Chỉ còn mười ngày nữa thôi, Ukai Hanjuro sẽ về đây. Lúc đó sẽ là ngày cuối cùng của cuộc đời Kojika Shichibee này rồi chăng?

Anh đã đi vòng các nhà có quyền lực rồi, nhưng đâu có trông mong gì được! Mà đến võ đường thì tình trạng lại thê thảm thế này đây.

Shichibee chầm chậm đứng lên. Shizuno lại gần, có vẻ lo âu: -"Chú có sao không?"

-"Có sao đâu, đừng lo".

Gắng gượng đáp lời Shizuno đang lo lắng ra mặt như thế, trong trí Shichibee chợt thoáng hiện một tia chớp sáng kiến. Phải rồi, còn sớm quá để chịu thua. Mình quên đám ấy rồi sao?

-"Này cháu Shizuno". Shichibee nói. -"Lâu nay không gặp, nhưng cha cháu thế nào?"

-"Thưa, cha cháu cũng già đi, nhưng vẫn ngang ngạnh không khác gì ngày trước". Shizuno có vẻ bớt lo, tươi cười đáp.

-"Sắp đến giờ rời thành rồi nhỉ. Hay là để chú ghé lại gặp cha cháu rồi về nhà"

-"Nhưng mà, chú phải về nhà sớm để ăn cơm nữa chứ!". Shizuno nhíu mày nói, cô có vẻ đã kinh ngạc lắm về tình trạng của Shichibee lúc nãy. -"Hay là, nếu chú ghé lại nhà, thì để cháu nói với mẹ làm cơm cho chú luôn".

Shichibee cười, anh cảm thấy sung sức trở lại rồi.

-"Có sao đâu. Chú ghé lại thăm cha cháu một lúc thôi mà. Đừng lo."

5

-"Cậu nhìn tôi xem". Nghe Shichibee kể xong, Shiga Matazaemon im lặng một lúc lâu rồi ngẩng mặt lên nói. -"Nhìn kỹ đi! Già quá rồi. Bao lâu nay đã chẳng rớ đến thanh kiếm tre..."

-"......"

-"Giá là 5 năm trước nhỉ, Shichibee. Thì chả cần cậu phải đến nhờ cậy. Nghe chuyện như thế, dù gì đi nữa, cũng đã vác kiếm chạy ngay đến với cậu rồi..."

-"......"

-"Nhưng bây giờ thì thân thể không còn cử động đúng theo ý mình được nữa. Nói chuyện xách kiếm giúp cậu thì lố bịch quá. Chỉ tổ làm vướng tay vướng chân cậu thêm mà thôi".

Shichibee nhìn bạn. Matazaemon cao mà gầy ốm. Tóc bạc một nửa, những nếp nhăn khắc đầy mặt. Nhắc cho Shichibee nhớ lại rằng Matazaemon lớn hơn anh 4, 5 tuổi. Quả là không được rồi!

-"Có thể cậu khinh tôi là không hết lòng với bạn, thế nhưng thực tế là không được đâu. Vô ích thôi..."

-"......"

-"Vả lại, ngay bây giờ thì chuyện nhân duyên của con gái đầu cũng đang tiến hành đây".

Shichibee nhỏm đầu gối lên. Ngay cả Matazaemon là người được tiếng quả cảm, cũng phải nghĩ đến thân mình trước đã. Thế nhưng, nếu anh đứng vào chỗ của Matazaemon thì hẳn là anh cũng sẽ nói như thế thôi.

Shichibee đứng lên rồi, Matazaemon còn nói: "Xin lỗi cậu" rồi đưa anh ra tận cổng.

Trời đã xế chiều, nhưng bên ngoài vẫn còn sáng lắm, trên đường vẫn còn hâm hấp nóng. Shichibee đưa mắt nhìn con đường vắng lặng không một bóng người, rồi quay lại hỏi Matazaemon:

-"Thế Tsuchihashi và Yagi thì sao nào? Có thể giúp được một tay không?"

-"Nghe nói Tsuchihashi bệnh nằm một chỗ. Yagi Kanpei thì từ khi đổi sang tổ Xây dựng đi làm việc ngoài trời nên lâu lắm không gặp, chẳng biết là thế nào".

Tsuchihashi và Yagi cũng là người trong bọn đi tìm bắt Ukai Saheita với anh. Thời đó, Tsuchihashi Kinnosuke mới 22 tuổi, Yagi Kanpei 20, cả hai đều là tay kiếm giỏi, nhưng còn trẻ quá. Không biết bây giờ hai người có còn giữ được tay kiếm thời ấy không?

-"Cậu định đi gặp hai người ấy à?"

-"Chưa biết. Để nghĩ xem một đêm nữa đã rồi tính sau".

Dợm cất bước đi, Shichibee chợt nhớ lại nên nói: -"Lúc nãy ghé lại võ đường thì gặp cháu Shizuno. Bây giờ đã lớn lên thành cô thiếu nữ giỏi giang lắm đấy".

Matazaemon không đáp lại. Đôi mắt tối thẩm nhìn Shichibee đăm đăm.

Shichibee quay người bước đi, lần này không ngoái lại nữa. Anh cảm thấy phía sau lưng, Matazaemon vẫn còn nhìn theo, hẳn là đang tự trách lung lắm.

Khi Shichibee về đến xóm nhà anh là Kobukuro, chung quanh đã phủ bóng hoàng hôn, người đi ngang qua không còn thấy rõ mặt. Shichibee chân bước nặng nề chui qua chiếc cổng nhỏ, chợt sửng sốt dừng chân. Trong nhà anh có ánh đèn hắt ra. Takae đã trở lại sao chứ?

Khi ra đi, Takae đã nói lời lạnh nhạt rằng không còn muốn ở bên cạnh anh chịu cay đắng mãi được, nhưng dù sao, cũng là nghĩa vợ chồng đấy. Có lẽ Takae đã lo lắng cho chồng mà trở về đấy rồi. Nghĩ như thế, Shichibee bước những bước dài qua sân.

Thế nhưng, nghe tiếng chạy ra đón anh không phải là vợ anh mà là Shizuno.

-"Ủa, cháu Shizuno". Shichibee ngạc nhiên. -"Cháu làm gì ở đây?

-"Mong chú không mắng là lắm chuyện, nhưng cháu định nhân lúc chú chưa về thì nấu cơm sẵn cho chú đây".

-"Ồ". Mặt Shichibee rạng rỡ hẳn lên. Shichibee nhớ lại Shizuno vốn thích nấu nướng, thuở nhỏ đến nhà Shichibee tập kiếm thường xong buổi tập là vào bếp giúp Takae.

Phòng uống trà đã được quét dọn sạch sẽ, bên lò than lại có sẵn khay và ống điếu hút thuốc nữa. Từ bếp thoang thoảng mùi canh tương thơm ngát.

Shichibee ngồi xuống nghỉ mệt. Anh thơ thẩn nghĩ quả thật nhà mà không có bàn tay phụ nữ thì không nên chuyện được nhỉ. Trong thoáng chốc, Shichibee quên đi được nguy nan sắp ập đến, mà chỉ nghĩ đến cuộc sống sắp tới.

-"Cháu Shizuno thích việc nấu nướng đấy nhỉ. Bây giờ cũng vẫn giúp mẹ cháu đấy chứ?"

-"Thưa vâng".

-"Thế thì cháu sẽ thành cô dâu giỏi lắm đấy". Không nghe đáp lời, chỉ có tiếng thái rau vẳng lại. -"Hay là, làm con nuôi nhà chú đi nhé. Rồi chú kiếm chàng rể quý vào nối dõi nhà này".

-"Chú bảo gì thế?". Shizuno ló mặt vào phòng uống trà.

-"Hỏi xem cháu có muốn làm con nuôi nhà chú không đấy".

Shizuno chỉ mỉm cười, rồi quay vào bếp lại.

Hừm, mình lại nói chuyện quá tầm tay với rồi. Shichibee phản tỉnh. Lúc này đâu còn tâm trí để mơ mộng như thế chứ. Anh lại ngán ngẩm cho mình đã đến lúc muốn nương tựa cả vào một cô gái như Shizuno nữa.

6

Ngày hôm sau, giờ rời thành ra về, Shichibee đã ghé thăm Tsuchihashi và Yagi. Nhưng Tsuchihashi thì đúng như Matazaemon nói, đã bệnh nằm liệt giường. Nhìn Tsuchihashi mặt mày xanh xao, đen đủi phồng lên vì bệnh thận, Shichibee chỉ nói được vài câu thăm hỏi bệnh tình rồi từ biệt. Còn lại một người bạn là Yagi.

Yagi nghe Shichibee kể xong chuyện thì hăng hái nhận lời ngay.

-"Sẵn sàng giúp anh một tay chứ. Hanjuro nói như thế là giận ngược rồi. Ngay cả em cũng không thể làm ngơ được".

Thường phải làm việc ngoài trời nên da mặt Yagi đen sạm, nhưng vẫn còn căng đầy, giọng nói hùng hồn. Thân thể trông cũng có vẻ còn nhanh nhẹn lắm. Matazaemon ước gì trẻ lại được 5 tuổi, còn Yagi đây thì còn có được sức trẻ ấy.

-"Thế thì cảm ơn lắm. Tôi được an tâm rồi". Shichibee nói. Từ đáy lòng như thoảng ra hơi thở an tâm. Những tưởng cứ mãi bị cô lập mà lại phải nghe lời tạ từ tệ bạc nữa, nhưng may thay, cuối cùng rồi cũng đã kiếm ra được người tiếp viện.

Anh vừa nghĩ như thế thì có người đàn bà trẻ tuổi bước vào, chào hỏi, xưng là vợ của Yagi. Nhắp xong chén trà thì cáo từ ra khỏi phòng, dáng lưng thật là son trẻ. Có vẻ chỉ khoảng tuổi đôi mươi.

-"Cô ấy là vợ cậu đấy à?"

-"Vâng".

-"Có vẻ còn trẻ quá. Cậu cưới về lúc nào thế?"

-"Lễ cưới mới xong hai tháng trước đấy anh".

-"Hai tháng trước thôi à?". Shichibee sửng sốt nhìn mặt Yagi đăm đăm.

Trong thành có lời đồn rằng Yagi Kanpei là người lập dị khác đời. Cùng được chọn vào đội đi tìm bắt Saheita nên lên đường chung với nhau trong một tháng ấy, chứ ngoài ra thì tổ làm việc khác nhau mà cũng không giao du gì với nhau nên Shichibee chẳng hiểu Yagi khác đời ở chỗ nào. Hay là những chuyện khác đời như thế này đây? Yagi đến 35 tuổi mới cưới vợ, lại mới cưới có hai tháng!

Sau một khoảng im lặng dài, Shichibee ngừng khoanh tay nghĩ ngợi. Quyết đấu lần này là chuyện đánh cuộc sinh tử. Không thể lôi cậu này vào chỗ quyết định sống chết như thế được. Phải nghĩ cho Yagi, nhất là phải nghĩ cho người vợ trẻ mới cưới chẳng biết gì về chuyện thù oán này cả.

Shichibee bảo Yagi:

-"Cảm ơn cậu sốt sắng nhận giúp, nhưng thôi, chuyện này cậu bỏ qua đi cho".

Shichibee bước đi vội vã như bị ai đẩy sau lưng, trên đường vắng trong xóm nhà. Thế là xong rồi. Kết cuộc cũng vẫn là chuyện một mình anh phải nhận lãnh, vậy mà đã tốn bao nhiêu là công dã tràng xe cát. Dù sao, nếu Hanjuro thách thức thì anh đành phải chấp nhận, rồi gắng mà quyết đấu sao cho khỏi hổ thẹn, thế thôi. Chẳng ích gì nghĩ trước chuyện sống chết. Tâm tình ấy dần dần định hình trong lòng anh.

Ra đến đường ven bờ sông, Shichibee bước chậm lại. Trong không khí ban đêm ẩm nóng mờ tối, người ta qua lại khá đông. Có lẽ đang có chợ đêm ở đâu đó, hay là đã đến mùa đi xem hoa anh đào mãn khai ban đêm rồi chăng? Shichibee nhướng mắt nhìn đám người khá đông đúc cùng đi về một hướng. Theo họ đi quá chân cầu Rosoku, Shichibee chợt dừng chân. Anh nhận ra dáng cô Shizuno trong dòng người ấy. Shizuno cùng đi với một chàng trai, có vẻ là một võ sĩ trẻ. Anh ta đi trước một bước, Shizuno theo sau, nhưng rõ ràng là một cặp rồi. Có lẽ hai người đang đưa nhau đi xem hoa anh đào ban đêm rồi. Dưới ánh đèn chong đêm nơi chân cầu, người võ sĩ trẻ quay lại nói gì đấy với Shizuno, rồi hình dáng hai người biến dần vào bóng đêm.

Hừm. Shichibee vừa bước đi vừa mỉm cười cay đắng. Anh đã có chút hy vọng hão huyền rằng không chừng khoảng tối nay, Shizuno lại đến chuẩn bị cơm nước cho anh... nhưng hoá ra chuyện hôm qua chẳng qua chỉ là nghĩa cử do một thoáng thương tâm của cô thiếu nữ đó thôi. Tuy vậy, chuyện như thế cũng là phải, và anh cũng cảm thấy thanh thản.

Trở về nhà, ăn xong bát cơm dầm nước nóng, cầm thanh kiếm gỗ ra vườn tối, Shichibee nghĩ: cho dù có quyết đấu thất bại đi nữa, con không có, vợ cũng chẳng than thở gì. Cấp trên là Matsukawa và Mitsui Yagoemon có nghe tin mình chết, hẳn cũng chẳng đặc biệt thương tiếc gì. Matazaemon và Shizuno có lẽ sẽ buồn thương cho mình một lúc rồi cũng sẽ quên đi ngay thôi.

Dẫm chân trần trên đất vườn, Shichibee cầm kiếm gỗ tấn theo thế Bát song [4]. Lúc anh được chọn đi tìm bắt Saheita, thầy anh là Inage Sokin đã gọi anh đến truyền thụ cho kiếm pháp bí truyền, chỉ trong một đêm, gọi là có món quà tiễn biệt. Kiếm pháp bí truyền ấy tên là Tàn nguyệt, anh đã không dùng đến trong trận tử đấu với Saheita, rồi sau đó cũng phủ bụi biết bao nhiêu năm tháng rồi không dùng đến, bây giờ anh cố gắng nhớ lại.

Tàn nguyệt tóm gọn trong một thế chém. Kiếm pháp này đánh cuộc tất cả vốn liếng vào một thế chém ấy, có thể là đường sống cuối cùng cho anh trong hoàn cảnh cô lập này.

Cuộc đối đầu với kẻ địch tưởng tượng trong bóng tối đêm ấy đã kéo thật dài. Khoảng quá nửa giờ sau, Shichibee mới chém kiếm gỗ xuống trong một nhát kiếm thầm lặng. Rồi thu chân, anh trở lại với cuộc đối đầu âm thầm, thật lâu.

7

Ở thượng lưu sông Gomagawa có một đồng cỏ mùa hè thì trở thành khu đất ẩm thấp. Đến đó, Kojika Shichibee mở bao vải mang theo, lấy ra giày rơm, dây cột tay áo, khăn quấn đầu, để mặc vào người. Chuẩn bị áo xống xong, anh xem xét kỹ lưỡng thanh kiếm của mình. Sau đó, chẳng còn gì phải làm nữa. Anh quay nhìn về phía con đường ven sông đã đi qua, nhưng chưa thấy bóng dáng của Ukai Hanjuro. Vả lại, cũng còn một lúc nữa mới đến giờ hẹn là 6 giờ chiều.

Mặt trời vẫn còn lơ lửng trên đồi cao. Những người ra chơi ngoài đồng cỏ có lẽ đã về cả rồi, đâu đây trên cánh đồng vắng lặng có những đám hoa cỏ lấp lánh ánh nắng chiều. Xóm nhà xa phía hạ lưu con sông nằm ngang kéo dài thành một dải màu xanh đen mờ nhạt.

Lúc đầu anh đã hoài nghi không hiểu tại sao Hanjuro lại chọn nơi này làm chỗ quyết đấu, nhưng đến đây rồi, anh nghĩ ra có lẽ đây là chỗ mà thuở nhỏ Hanjuro thường ra chơi.

Dù sao đi nữa, cũng là chuyện điên rồ quá. Shichibee nhớ lại lúc anh nhận được thư thách đấu. Lãnh Chúa về xứ trễ hai ngày, đến nơi thì đã là tối hai hôm trước đây. Ngay sau trưa ngày hôm sau, lúc náo động về chuyện Lãnh Chúa về xứ chưa kịp lắng đọng xuống, Hanjuro đã cho người đưa ngay đến anh thư thách đấu ấy. Điều đó đã cho thấy anh ta chuyên chú vào mối hận thù ấy đến như thế nào. Tuy là hận thù không đúng chỗ đấy, nhưng có lẽ chẳng ai xem thường được sự chuyên chú hận thù mãnh liệt đến thế.

Thư thách đấu có nói trước là Hanjuro đã được phép của quan Gia lão Yano mà gửi thư đi. Cũng đúng như dự tưởng thôi, nhưng mới về đến nơi, Hanjuro đã thương lượng ngay với quan Gia lão về chuyện này, sự quyết liệt ấy đã biểu lộ rõ ràng qua vài câu ngắn trong bức thư. Tuy đã cầm bằng phải chấp nhận thôi chứ không làm gì khác được từ lâu rồi, nhưng Shichibee cũng nghĩ: sự việc được Hanjuro thúc tiến nhanh chóng đến mức như vậy thì chẳng còn ai can thiệp gì cho kịp nữa rồi.

Có bóng người đen thẩm hiện lên trên đường ven sông phía hạ lưu. Đồng thời, Shichibee nghe có tiếng chuông chùa Eijuin ngoài xóm. Bóng người tiến dần lại. Quả là Hanjuro đấy rồi, Shichibee nghĩ. Anh rút kiếm ra xem lại, liếm chỗ đinh đóng cán kiếm cho có chút hơi ẩm.

Người đàn ông kia đến gần còn khoảng mười tầm kiếm thì dừng chân. Người cao, gầy. Xương má gồ nhọn khiến khuôn mặt càng lộ vẻ gầy ốm.

-"Kojika Shichibee đấy à?"

-"Đúng đấy"

-"Tốt lắm. Vậy thì thanh toán cho xong đi".

-"Thách đấu vô lý quá, nhưng đã buộc phải đối đầu thì ta cũng không thể làm ngơ được".

-"Vô lý hay không chẳng cần biết". Hanjuro vừa cởi bỏ áo khoác vừa nở nụ cười ghê rợn. -"Hận thù là hận thù đó thôi. Hận thù này phải trả".

Hanjuro điềm nhiên rút kiếm ra, lừng lững bước đến gần, còn cách khoảng vài tầm kiếm thì ngừng lại. Bởi hắn thấy Shichibee đã tuốt kiếm đứng tấn theo thế Bát song.

Hanjuro tấn kiếm theo thế Thanh nhãn [5], hoàn toàn không có chút khe hở. Thân người cao trông như rút lại còn một nửa nấp ngay sau lưỡi kiếm.

Đúng là cường địch đây. Shichibee nghĩ thầm. Có vẻ là địch thủ cao tay hơn kẻ địch mà anh đã tưởng tượng ra khi tập kiếm trong vườn nhà đêm tối ấy. Shichibee đứng yên xem chừng Hanjuro đang nhích dần tới, thu hẹp khoảng cách giữa hai người. Anh cảm thấy miệng mình khô rang.

Kiếm pháp bí truyền Tàn nguyệt kiên trì chờ cho đến khi nào có chút sơ hở lộ ra trong động tác của kẻ địch mới chém ra một nhát quyết liệt. Cơ bản là thủ thế phòng vệ. Cực ý của bí kiếm ấy, thầy Inage đã dạy cho Shichibee bằng lời từ này: "Mắt không ngủ mới thấy được trời sáng. Tưởng khung trời, lại thấy ánh trăng tàn". Phải mở mắt không được ngủ cho đến khi trăng tàn để kiên nhẫn chờ địch thủ áp vào chém tới mà lộ chút sơ hở cho mình thi triển thế chém Tàn nguyệt. Thế nhưng, cần phải thấm nhuần vào thân thói quen như thế do tập luyện đều đặn để có khả năng theo dõi bước tiến của đối thủ mới được, chứ không thì chưa kịp nhìn ra sơ hở của địch đã bị chém rồi. Mà Shichibee đã bỏ luyện tập một thời gian quá lâu.

Bây giờ mà vung kiếm chém lại thì cũng đã bị chém trúng trước rồi. Nỗi khiếp sợ đó làm miệng Shichibee không còn chút nuớc bọt. Thình lình Shichibee nhận ra là Hanjuro tăng tốc xáp đến gần thì tức khắc đã có ngay đường kiếm mãnh liệt chém vào người anh. Shichibee tràn người tránh được nhưng cũng bị chém xước nơi cánh tay. Đường kiếm thật sắc sảo, nhưng một phần cũng vì Shichibee nhìn không tinh.

Không để trống một giây nào, lần này Hanjuro lại chém sả xuống vai anh. Shichibee oằn người tránh thoát nhưng vẫn bị chém nhẹ vào vai. Cứ thế, mỗi lần lưỡi kiếm của Hanjuro im lìm vươn dài ra khỏi tay hắn, là Shichibee lại bị chém trúng một chút. Shichibee há miệng thở hổn hển. Nhưng thế tấn Bát song của anh vẫn gắng giữ nguyên không suy suyển.

Động tác của Hanjuro thật là nhanh nhẹn, nhát chém sắc bén vừa phóng ra xong là thân người hắn đã trụ lại, không lỡ thế chút nào. Trông đến như là nhát chém này mời gọi nhát chém ngay sau, liên miên không dứt. Chẳng thấy có chút sơ hở nào cả.

Đột nhiên, Hanjuro lùi lại mấy bước. Shichibee thấy trên khuôn mặt gầy gò ấy thoáng hiện nụ cười đắc ý. Rõ ràng là hắn đã nhận ra được lực lượng của Shichibee, và đã đến lúc hắn chuyển sang nhát kiếm quyết định rồi. Vừa nhìn hắn, Shichibee vừa gắng thở. Hơi thở của anh như bị nghẽn trong cuống họng, chỉ thoát ra tiếng rên như hen suyển.

Hanjuro dò dẫm chân tìm chỗ tấn.

Đúng lúc đó, Shichibee nhìn thấy sau lưng Hanjuro có chuyện dị thường. Có người đang chạy đến. Đàn bà. Buộc tay áo lên, quấn khăn đầu, tay cầm kiếm ngắn, người đàn bà ấy mở mắt trừng trừng, trông như mặt quỷ dạ-xoa.

-"Không được lại gần!". Bất giác, Shichibee hét lớn.

Người đàn bà đang chạy đến ấy chính là vợ anh, Takae. Đồng thời với tiếng hét của anh, Hanjuro có vẻ cũng đã để ý có người áp đến sau lưng mình. Anh ta hơi ngoái đầu nhìn. Chỉ là một cái liếc mắt bất ngờ. Nhưng Shichibee đã thấy được "ánh trăng tàn". Anh gầm lên, chém xuống từ thế Bát song. Nhát kiếm anh đã tập luyện mỗi đêm cho đến khi trời sáng suốt những ngày chờ Hanjuro về xứ, đã chém chính xác vào cổ Hanjuro. Thân hình Hanjuro im lìm nẩy bật lên rồi ngã ngửa đánh đùng xuống mặt đất.

Shichibee khụy gối xuống, không còn sức để chém nhát kiếm ân huệ nữa. Anh chống kiếm, thở hổn hển.

Takae chạy vội đến bên anh:

-"Anh có sao không?". Takae quỳ gối, đặt tay lên vai chồng, nhìn chăm chú vào mặt anh. -"Em nghe nói anh quyết đấu ở đây, mới lúc nãy. Anh không sao cả thì tốt quá". Đột nhiên, mặt Takae méo mó, bật khóc. Miệng méo xệch, nước mắt đầm đìa, mắt Takae vẫn nhìn chồng không chớp.

Nhìn gương mặt ấy, Shichibee vẫn còn thở hồng hộc, há miệng như chó tru, chẳng thốt được lời nào.

Phạm Vũ Thịnh dịch
Sydney, 01/08-06/08
t4phamvu@hotmail.com

Chú thích:

[1] Gia lão : Karo, cấp quan cao nhất, giúp Lãnh Chúa cai trị phiên trấn.

[2] Edo : trung tâm cai trị của Phủ Chúa Tokugawa, bây giờ là Tokyo.

[3] Hộc : Koku, đơn vị đo lường, khi dùng để tính bổng lộc của võ sĩ thì khoảng 150 kí gạo, khi dùng để tính dung tích thuyền bè thì khoảng 180 lít.

[4] Bát song : Hasso, thế tấn giương kiếm lên trên vai, lưỡi kiếm hơi nghiêng vào trong, làm thành một nửa chữ Bát. Tấn bên vai phải vai trái thành hai (Song) nửa của chữ Bát.

[5] Thanh nhãn : Seigan, thế tấn giương thẳng kiếm, chĩa mũi kiếm vào mắt đối thủ.

Truyện ngắn "Koritsuken - Zangetsu" của Fujisawa Shuhei, đăng lần đầu trên tạp chí văn học O-ru Yomimono tháng 3 năm 1980, được dịch từ nguyên tác là truyện thứ 8 trong tập truyện "Kakushiken Shufusho" (Kiếm ẩn trong gió thu), bản bỏ túi, do nhà Bunshun Bunko tái bản lần thứ 12 tháng 12 năm 2006.

8/12/08

Sông Gành Hào

Sơn Nam

Hồi đó ông kiểm lâm "Rốp" được dân chúng thương mến lắm.

Ông Rốp có vài đức tánh mà các tay thực dân khác không có. Từ hồi đáo nhậm tại vùng rừng sông Gành Hào đến giờ, chung qui là hai năm nhưng ông Rốp chỉ đi "rỏn" có bốn lần. Mổi chuyến đi, mục đích của ông không phải là rình bắt các ghe xuồng chở củi lậu thuế. Vào rừng ông ngắm nghía từng lá cây, lắng nghe từng tiếng chim kêu, đập muỗi rồi xem giò, xem cánh từng con. Ông lại còn hái các loại ráng, dây bòng bong, dây choại, tầm gởi... đem về đồn phơi khô để nghiên cứu. Cây súng đem theo xuồng cũng chỉ để bắn khỉ, bắn lọ nồi ; bắn mà chơi chớ không cần trúng đích.

Dân chúng trong vùng sông Gành Hào bàn tán qua lại để tìm hiểu ông Tây khác thường này :

- Ông "Rốp" hiền hậu quá ! Bà con có biết tại sao không ? Ổng thỏ thẻ với thầy hương quản rằng nhà ổng ở bên Tây nghèo quá mức. Nhờ lập công đánh A Lơ Măn hồi Âu châu đại chiến nên ổng được phong chức kiểm lâm qua xứ Nam kỳ này. Mẹ của ổng trồng nho ở cù lao "Cọt" cù lao "Kiệt" gì đó. Phen nọ, bà mẹ đốt đống lá khô, rủi cháy qua mấy vườn nho lân cận. Thiên hạ đòi bắt thường, kiện tới toà. Bên này, ông Rốp vô cùng sầu thảm vì không tiền dư gởi vể để cứu nguy, báo hiếu.

Người khác nói thêm :

- Phải ! Phải ! Cha nội nghèo thiệt, hèn chi muốn ở xứ này luôn, đòi ăn mắm sống, tập nói chuyện "An Nam" rành như tụi mình. Bà con giữ kín giùm chuyện này : phen đó thầy hương quản làm thịt chó rồi nói gạt là thịt nai, mời ổng tới nhậu. Ổng khen nức nở : thịt nai Cà Mau ăn sao mềm quá.

Một ông lão tỏ vẻ không bằng lòng :

- Ông Rốp là người mộ đạo. Gạt như vậy, tội chết. Nghe anh "bồi" nói lại trên lầu đồn kiểm lâm, ổng có treo tượng Phật. Kế bên là tủ sách văn chương đạo đức, toàn chữ Tây và chữ nho... Ðêm nào ổng cũng thức đọc sách bằng đèn cầy, tới khuya.
Rốt cuộc họ kết luận : Ông Rốp là người nhơn đức, ít làm khó dễ dân chúng, lãnh trách nhiệm cầm chừng, tuy đang hành sự nhưng cũng như đã về hưu trí, ẩn sĩ qui điền. Họ càng yên tâm mà tiếp tục phát triển việc phá rừng, đốn củi lậu thuế.

***

Hôm đó, cha con của Tư Ðức chở xuồng củi ngang đồn kiểm lâm.

Trời tối như mực, sắp chuyển mưa to, ngửa bàn tay cũng không thấy. Trên đồn yên lặng. Ánh đèn vàng vọt chiếu ra ngoài cửa sổ hé mở.

Bên bờ sông, một giọng lơ lớ, sửng sốt :

- Ghé lại ! "Chéc" ghe hay là con "xấu" ?

Tư Ðức điếng hồn, nhận ra được giọng của ông kiểm lâm Rốp. Trời đất hỡi ! Quá nửa đêm giờ Tí rồi mà ổng còn làm gì dưới bến này ? Chú Tư Ðức nín tiếng, toan bơi lẹ cho qua khỏi ải. Ngặt ông Rốp trên bờ nói lần nữa :

- Con "xáu" hay là "chéc" ghe. Ông lớn bắn đà !

Ðốn củi lậu thuế nào phải tội nặng đáng xử tử, lỡ bề gì, chết cũng lảng quá ! Cực chẳng đã, chú Tư đành lên tiếng :

- Chiếc ghe, quan lớn ơi... Tôi đi rước mụ cho vợ đẻ. Xin quan lớn cho tôi đi.

Ông Rốp càng trầm tĩnh :

- "Chéc" ghe thì ghé lại ! Thầy đội đâu rồi ! Ðem đèn xuống coi thử...

Bước lên bờ, chứ Tư Ðức năn nỉ ỉ ôi, xin tha tội một phen, thề nếu tái phạm thì ở tù rục xương cũng cam đành. Ông Rốp lắc đầu, ra lịnh quăng củi lên bờ, kéo xuồng vào tận "phú de" sát vách đồn. Ðêm đó, báo hại hai cha con chú Tư Ðức phải ngủ trần, tay đập muỗi lia lịa, trí óc buồn đã nhớ đến ngày mai đen tối thiếu gạo nấu. Và đứa con trai đang đau bịnh rét rừng.
Sáng hôm sau, ông Rốp bảo chú Tư Ðức cứ về nhà, chờ ngày trát đòi đến đóng tiền phạt vì đây mới là lần phạm tội đầu tiên thôi. Chú Từ bèn làm núng :

- Chết thì tôi chịu chớ tôi thề không đi về. Cha con tôi không có nhà cửa gì ráo.

- Vậy chớ mọi khi chú ăn cơm tại đâu, ngủ tại đâu ?

- Dạ thưa ăn tại xuồng này, ngủ tại xuồng này. Nó là cái nhà của tôi.

Như động lòng trắc ẩn, ông Rốp suy nghĩ rồi nói :

- Xứ này thiếu gì cây để cất nhà, thiếu gì lá để lợp nhà. Chú làm biếng, không chịu tạo lập.

Chú Tư Ðức cố nén cơn giận :

- Bởi vì tôi không có đất, quan lớn thương dùm. Tôi đã cất nhà nhiều lần rồi mà ở không yên. Ban đêm hai cha con tôi phải thức quá khuya, quan lớn cũng thấy. Chịu đựng mưa gió muỗi mòng, đâu phải là làm biếng sợ cực !

Có lẽ nhờ câu nói khảng khái ấy mà cha con Tư Ðức được ông Rốp cho ở đậu tại nhà dưới của đồn kiểm lâm, cơm ăn không tính tiền, bù lại hai cha con phải làm cỏ, quét nhà. Tội nghiệp thằng nhỏ con trai của chú Tư ! Mấy viên "ky ninh" của ông Rốp không chặn được cử rét hằng ngày hoành hành nó. Nó khóc đòi trốn về rừng. Buổi trưa không ngủ, nó lấy than bếp vẽ lên vách tường nào là hình xe hơi, hình con chim, hình cọp, hình sấu... báo hại chú Tư phải lau chùi sạch sẽ, e ông Rốp thấy mà bị rầy to.

Ðứa con trai khóc sụt sùi :

- Mình phải về, ba à !

Chú Tư chép miệng :

- Ở đây có cơm ăn qua ngày. Con đừng lo. Ổng đuổi mình, mình cũng không thèm về.

Thằng bé không hiểu cha nó đang suy nghĩ mưu kế gì.

Lâu ngày rồi quen, hằng đêm chú Tư Ðức được phép lên phòng riêng của ông Rốp để châm nước pha trà. Ngạc nhiên làm sao, trong phòng nọ toàn là sách vở, tranh ảnh ! Trên vách treo nào là sừng nai, da cọp, cây tằm gởi, hình Phật Thích Ca ngồi thiền dưới cội bồ đề. Ngay trước mặt ông Rốp là tấm bản đồ lớn, ghi nhiều mũi tên xẹt qua lại. Bên dưới bản đồ có tấm hình hai người mặc áo rộng màu vàng : họ quì gối đâu mặt lại, chắp tay xá lẫn nhau.

Ðoán sự tò mò của chứ Tư Ðức, ông Rốp hỏi :

- Biết hình gì đây không ? Quí lắm đó.

Chú Tư Ðức đáp :

- Dạ, chưa biết vì hồi nào tới giờ tôi không được vô trường mà ăn học.

- Chú theo tín ngưỡng nào ?

Chú Tư suy nghĩ hồi lâu :

- Tôi chưa hiểu hai tiếng tín ngưỡng nghĩa là gì. Tôi tin Trời, tin Phật, thờ cha kính mẹ, quí mến ông già bà cả. Lại còn việc cúng vái mấy ông cọp, ông sấu. Ðất có Thổ Công, sông có Hà Bá.

- Nhiều thứ quá vậy. Tôi hỏi cái đạo kia. Chú theo đạo gì ?

- Dạ, theo cha mẹ tôi nói lại thì người "an Nam" mộ đạo Phật. Tôi cũng như cha mẹ tôi.

Ông Rốp cười đắc chí :

- Nghĩa là chú Tư theo đạo Phật. Tốt lắm. Theo đạo Phật mà sao không biết hình này ? Ðó là ông vua Hy Lạp tên Mi Lanh Ða hỏi kinh với pháp sư Ấn Ðộ tên Na Ga Sơ Na. Vua Hy Lạp phục tài của thầy tu Ấn Ðộ, thầy tu Ấn Ðộ phục tài của vua Hy Lạp. Hai người chắp tay xá lẫn nhau. Họ đối đáp hay lắm, ghi lại thành một bộ kinh đây này...

Ông Rốp bèn rút trong tủ hai ba cuốn sách hơi dày mà nói tiếp :

- Chữ Phạn gọi nó là "Mi lanh đa băng ha". Chữ nho dịch lại... là Na Tiên Tỳ Kheo Kinh. Na Tiên là dịch âm lại tên thầy tư Ấn độ Na Ga Sơ Na.

Mấy tiếng "Băng ha, xơ na" khiến chú Tư Ðức rối trí quá. Chú cố gắng nhớ lại trong chuyện Tàu những đoạn nói về Ấn Ðộ, tứ là nước Thiên Trúc.

- Sao trong Tây Du không nghe nói vậy ông ?

- Trước Tây Du của thầy Huyền Trang cỡ tám chín trăm năm lận ! Hồi 150 năm trước Thiên Chúa, phía bắc Ấn Ðộ có mấy ông vua Hy Lạp cai trị, giống như người Pháp cai trị An Nam bây giờ. Hồi đó, người cai trị với người dân bổn xứ thương nhau.

- Tại sao vậy, quan lớn ?

- Tại người dân bổn xứ tài giỏi quá, đâu phải như người An Nam bây giờ. Bây giờ không còn cảnh đó nữa ! Thí dụ tôi là vua Hy Lạp từ Âu Châu tới, chú là thầy tu Ấn Ðộ bị tôi cai trị. Chú có điều gì giỏi hơn tôi đâu mà hàng dạy lại tôi.

Chú Tư Ðức buồn bực vô cùng khi thấy ông kiểm lâm Rốp khinh rẻ người Việt Nam ra mặt. Phận vậy, đành chịu vậy, biết sao bây giờ ! Cãi lại thì rất nguy hiểm, ngoài tội ăn cắp cây rừng của nhà nước, chú có thể mang thêm tội làm "quốc sự" !

***

Hằng đêm, ông Rốp thức đến canh ba để đọc sách.

Ðưới này, chú Tư gác tay lên trán suy nghĩ liên miên. Ông Rốp có mòi mến chú hơn trước, bằng cớ là ổng bố thí cho cái mùng và chiếc áo bành tô cũ ! Lúc đứa con trai ngủ say, chú Tư thường ra sân, nhìn trở lại ngọn đèn cầy mà ông Rốp đốt lên để đọc sách trên lầu. Chú lẩm bẩm, phì cười một mình :

- Tại ổng thức đêm đọc sách Phật cho nên mình mới bị bắt giam như vầy. Ðêm đó, có lẽ ổng suy nghĩ một chuyện xưa tích cũ "ga xơ na, ma lanh đa" gì đó. Suy nghĩ không ra, ổng mới đi dạo như mình đang đi bây giờ. Rồi ma đưa lối, quỉ dẫn đường, ổng nhè gặp xuồng củi lậu của mình. Cái việc cầu đạo của ổng có hại cho bá tánh vì dục vọng của ổng còn quá nhiều.
Gió thổi hiu hiu. Dừa nước bên bờ sông uốn éo, vang lên rào rạt. Ðằng xa, một vật gì từ từ nổi lên, đi ngược giòng nước đang chảy xiết. Chú Tư Ðức nghĩ :

- Thằng cha nào ngu quá ! Xe trước gãy bánh, xe sau phải tránh. Ðêm trước, cũng vào giờ này mình đi ngang qua đây bị rình bắt. Bộ họ chưa hay biết sao vậy kìa ?

Nhưng dường như vật nó không phải là chiếc xuồng ; khi thì nó thối lui, cập vào bờ, khi thì tiến tới, day ngang qua, chậm chạp. Khúc cây chăng ? Thây ma chăng ? Vô lý ! Nếu vậy thì nó theo nước xuôi, mất dạng rồi. Ðằng này, nó từ từ trôi ngược. Chú Tư Ðức cố nhướng mắt chấp chóa như muôn ngàn con đom đóm đậu khít nhau. Và trước mũi của chiếc xuồng quái dị nọ. Hai tia sáng xanh ngời rọi tới như hai cái đèn "bin". Nghi ngờ gì nữa ! Nó là con sấu lửa mà chú Tư thường nghe mấy người đóng đáy nói lại. Hồi đó, chú Tư không tin. Bây giờ chú đã thấy tận mắt con sấu thần đó.

Thiên hạ nói sấu ấy đi có cặp. Tu luyện hàng trăm năm rồi, nước mặn đóng trên da nó một lớp dày, sáng chiếu lên như nước biển, đêm có trăng. Người thì cãi lại, bảo rằng đó là ánh sáng của các cô hồn bị sấu ăn thịt.

Chú Tư Ðức phập phồng trong dạ, vừa mừng vừa sợ. Có lẽ ông Rốp đã nghe nói đến cập sấu thần này nên quá bị ám ảnh, hôm nọ ông hỏi chú : "Chéc" ghe hay là con "xáu" ! Chú vào đồn kiểm lâm, lập tức đốt đèn lên. Chú lục mấy cái hũ để tìm nếp. Không có nếp, chú hốt tạm vài nắm lúa, bắc chảo lên bếp nhúm lửa mà rang.

Lúa nổ ra trắng phếu, nhảy tưng bừng trong chảo, văng tứ phía.

Chú Tư Ðức bước ra sân, khấn vái lâm râm rồi thảy mấy hột nổ ấy khắp tám hướng đen ngòm :

- Ngay cô hồn các đẳng. Sống thì khôn, thác thì thiêng. Những ai xa cây, xa cội, xa nhành, đầu bãi cuối gành, hùm tha sấu bắt... Tôi tên là Ðức, họ Trường, tuổi Dần.

***

Thầy hương quản tất tả chạy vào đồn mà hỏi rối rít :

- Ông kiểm đâu rồi ? Có ở nhà không ?

Chú Tư nói :

- Dạ có, ổng đọc sách trên lầu.

Tức thời, thầy hương quản đến chào ông Rốp rồi trình bày :

- Sấu cỡ này lộng quá rồi ! Hôm kia nó đập đuôi nhận chiếc xuồng trên đó có hai mẹ con. Mẹ mất xác, đứa con gái bị táp cụt chưn.

Ông Rốp hoảng hốt :

- Dữ quá vậy ! Con "xáu" là thú dữ. Bên Phi Châu, bên Ấn Ðộ cũng có nó. Người Ai Cập hồi xưa sợ con "xáu" ăn thịt nên tôn thờ nó.

Thầy hương quản nóng ruột quá :

- Nhưng mà bên nước mình, tại sông Gành Hào này, nó giết người.

Ông Rốp cảm thấy áy náy :

- Nó giết người dưới sông. Thầy hương quản nên ra lịnh khuyên dân chúng tạm ngưng việc lưu thông dưới sông. Như vậy tiện hơn.

Thầy hương quản nói :

- Dạ không được. Không lui tới dưới sông, dân chúng phải chết đói hết. Lại còn ghe xuồng từ xứ khác tới, làm sao họ biết mà đề phòng. Người ở trên bờ cũng bị sấu táp nữa kì.

- Sấu chạy lên bờ à ?

- Hôm qua, sấu nổi lên lần nữa. Cô gái nọ ngồi rửa chén dưới bến, bị sấu táp, rinh luôn cái cầu thang. Hồi lâu, sấu nhả ra, cô nọ tỉnh trí lội vào bờ.

- Làm sao bây giờ, thầy hương quản ?

- Khó lắm, ông kiểm ơi ! Dân chúng trông cậy sự bảo hộ của nhà nước Tây trong lúc này. Mình phải giúp họ.

Ông Rốp nhìn mấy cuốn sách bìa da mạ chữ vàng trong tủ rồi lắc đầu, thở dài :

- Trong sách không có nói tới. Mình cứ bắn nó thử. Cây súng của thầy đâu rồi ? Bì đạn còn không ? Tôi cho thầy mượn cây súng trận của tôi.

Thầy hương quản tỏ vẻ thất vọng. Thầy dư hiểu rằng súng đạn khó mà bắng lũng da con thú nọ. Không khéo, nó bị thương rồi trở nên hung tợn hơn trước. Hơn nữa làm sao mà bắn nó ? Phải đứng dưới ghe. Nghĩ tới đó, thầy sợ quá, muốn nhường vai tuồng anh hùng nọ cho ông Rốp :

- Tôi bắn dở lắm, ông kiểm lâm à. Ông từng đánh giặc A Lơ Măn, cầm súng giỏi hơn tôi, ông phải trổ tài mới được. Hồi nào tới giờ tôi chỉ quen cây "cà líp xây", nó yếu lắm.

- Chiều nay, tôi sẽ tính.

Ông Rốp tạm trả lời như vậy để tống khô thầy hương quản một cách khéo léo. Ông rất sợ sấu, đó là nhược điểm của trời phú cho. Ðó cũng là nguyên nhơn khiến cho ông ít dám đi "rỏn" bắt củi lậu thuế ; do đó dân làng tưởng lầm rằng ông là kẻ nhơn từ.

Ðứng trước tình trạng khó xử đó, ông chợt nghĩ đến Tư Ðức, hy vọng rằng "nuôi quân ba tháng, dụng quân một ngày".

Chú Tư Ðức nói với ông :

- Việc đó không khó cho lắm. Từ mấy bữa rày, tôi có ý mong chờ để ra tay. Cô hồn đã hiện về báo tin cho tôi biết. Dè đâu, sấu này dữ tợn quá vậy !

- Chú hay trước à ? Chú có phép ? Tôi không tin.

Tư Ðức bèn dẫn ông Rốp ra sân, chỉ mấy hột nổ rải ra khắp hướng, đêm hôm trước.

Ông Rốp gật đầu hỏi tiếp :

- Bây giờ mình làm thế nào ?

Tư Ðức hỏi ngược lại :

- Tôi là kẻ quê mùa. Ông cần dạy tôi trước chớ !

- Tôi kiếm chiếc ghe thật lớn. Chú Tư chèo sau lái ; tôi đứng trước mũi, rình bắn nó. Ðược không ?

Chú Tư Ðức mỉm cười :

- Sấu lâu lâu mới nổi lên một lần. Biết nó nổi ngay khúc sông nào, đúng giờ phút nào mà rình. Chừng hay được thì nó lặn mất. Nếu nó không lặn mất thì...

Chú Tư cố tình không nói dứt. Ông Rốp nhướng mắt :

- Thì sao ?

- Thì nó quật đuôi, ghe phải chìm. Sấu này dài ít nhứt năm thước. Ðứa con nít có thể ngồi chàng hảng cưỡi trên đuôi của nó được. Lớn lắm ! Nó nhai luôn cây súng của ông. Sấu đội đèn mà !

Ông Rốp hoảng hồn, chú Tư Ðức nói tiếp :

- Ðể đó cha con tôi trị nó. Miễn là hương chức làng giúp chừng vài trăm cây tre là bè. Mồi thì dùng heo, chó. Dân "An Nam" xưa nay bắt sấu không cần súng đạn, họ bắt sấu từ hồi Tây chưa qua lận kìa ! Phải là thứ sấu nhỏ, tôi lặn xuống sông, bắt lên trong nhấp nháy cho ông coi chơi.

- Cách nào ?

- Tôi móc con vịt cô lưỡi câu rồi tôi đứng dưới nước, cầm đầu sợi dây. Chừng sấu lại ăn mồi vịt, tôi lặn xuống đáy sông, đi vô bờ, ghịt đầu dây vào gốc cây mà kéo con sấu nọ lên. Cặp sấu dưới sông kỳ này lớn lắm. Ông cho phép tôi về rừng đem vài món đồ nghề lại. Ông nhắc thầy hương quản cho tôi xin chừng bảy trăm cây tre và bốn người dân phụ sức.

Tre đốn về, Chú Tư Ðức nhờ bà con kết một cái bè thật to, trên dựng hai cái thang, cao chừng ba thước.

Năm sáu lưỡi câu sắt đã buộc vào chung quanh ; trên sàn bè, chú Tư xây cái chuồng nhỏ trong có để hai con heo, một con chó. Nóc chuồng có rơm, lá dừa che lại kỹ.

Hai hôm sau, chú nói :

- Mời quan lớn, thầy hương quản và anh em quen biết xuống bè làm lễ. tới giờ rồi.

Ông Rốp hỏi :

- Lễ gì ?

- Dạ, lễ cúng cô hồn.

Heo nọ thọc huyết ra để tế cô hồn. Chú Tư rảy hột nổ khắp sàn và trên mặt sông. Nhang đen tỏa nghi ngút. Chú bèn đánh lên ba hồi mõ. Xác con heo nọ bị móc vào lưỡi câu, thả xuống.

- Bây giờ thì mời quan lớn lên bờ. Nếu quan lớn muốn đi theo cũng được.

Ông Rốp nói :

- Thôi... tôi ở trên bờ ghi chép. Bậy quá ! Ở đây mình không có máy chụp hình, tôi muốn chụp làm kỷ niệm để gởi về bên Tây. Cái bè này sao giống chiếc tàu binh ở Âu Châu quá. Hai cái thang bắc cao lên coi như cây cột dây thép gió.

Ông Rốp, thầy hương quản lần lượt vỗ vai, "bủa xua" hai cha con chú Tư. Chú hút thuốc rồi hỏi đứa con trai :

- Thúng cơm khô con có đem theo không ?

Nó đáp :

- Dạ có.

- Nhiều hay ít vậy con ?

- Nhiều lắm. Ðủ ăn ba bốn người. Con có mua chịu cho cha một lít rượu.

Ðứa bé trao chuyền qua Tư Ðức bốn cái ống tre đựng đầy ngọn mun (lao sắc). Phần nó thì cầm cái mỏ bằng tre.

***

Ngày qua, ngày lại.

Chiếc bè trôi lên trôi xuống theo nước lớn nước ròng. Hai cha con Tư Ðức ngồi cú rũ bên chuồng nọ. Thỉnh thoảng, chú nhắc chừng thằng bé, bảo nó chọc cho con heo, con chó kêu lên.

Trên này, ông Rốp mãi theo dõi, nhưng lần lần thất vọng. Qua ba ngày sau, miếng mồi (con heo) đã sình nổi lên, diều quạ, kên kên bu lại kêu ỏm tỏi, chú bèn thọc huyết con heo còn lại mà thay vào.

Con chó sủa ngày một thỏn mỏn, vì mệt, vì đói.

Ðã đến ngày thứ tư. Mặt trời chưa mọc, ông Rốp bỗng giựt mình thức dậy vì tiếng mõ nổi lên inh ỏi.

Ông lập tức xuống lầu, chạy lại mé sông nhưng nào thấy gì đâu ! Sương mù chưa tan, chỉ nghe dưới sông tiếng ồ ồ như bầy trâu đang lôi. Ông thủ cây súng trận nạp đạn vào nòng, chờ bóp cò.

Thầy hương quản đã đến :

- Ông kiểm ơi ! Nó mắc câu rồi ! Ông có nghe tiếng mõ không ?

Rồi thầy quát to :

- Hương ấp đâu ? Hương tuần đầu ? mấy người chạy khắp xóm mà truyền rao mỗi nhà phải đánh mõ, đánh trống lên... Không thì đập xuống ván ngựa, đánh vô mâm thau, nồi đồng gì cũng được. Mình phải tiếp sức với hai cha con Tư Ðức !

Nắng lên cao.

Tiếng mõ dưới sông càng thúc giục. Rõ ràng cha con Tư Ðức đang đứng chót vót trên hai cái thang, lú khỏi mặt nước. Chiếc bè đâu không thấy. Hai cái thang nọ chạy tới hàng trăm thước, đứng sựng lại rồi vụt chạy lui, nhanh hơn tàu đò.

Tư Ðức cầm ngọn lao, hờm sẵn. Ðứa con đứng kế bên gõ vào mõ lia lịa. Hai cái thang lắc qua lắc lại như cột buồm ghe bị bão, vậy mà họ không té. Chập sau, cách chiếc bè chừng năm mươi thước, con sấu mắc câu bỗng nổi lên thoi thóp, dài như chiếc ghe độc mộc.

Chiếc bè từ từ nổi lên.

Dân chúng hai bên bờ la lớn :

- Nó kìa ! Trời ơi ! Làm sao giết nó mau.

- Mình phải tiếp sức với Tư Ðức.

- Trời thần ơi ! Thằng nhỏ con của Tư Ðức gan dạ quá. Thiệt cha nào con nấy !

Ông kiểm lâm Rốp liền nói với thầy hương quản :

- để tôi bắn con sấu !

Thầy hương quản vô cùng e ngại :

- Không nên ! Quan lớn đừng làm vậy ! Sấu hoảng hồn chạy mạnh quá đứt dây đỏi thì sao ?

Một người phía sau nói với tới :

- Sợ bắn không trúng con sấu mà nhè bắn trúng sợi dây ! Báo hại công trình của người ta chịu cực mấy ngày rày.

Thầy hương quản day lại :

- Ðứa nào đó ? Ðừng nói bậy. Ông kiểm lâm ổng buồn.

Hằng chục người, một tiếng thét to :

- Giết chết nó đi !

Mặc dầu bị nước văng lên, mình mẩy ướt loi ngoi lóp ngóp, chú Tư đức vẫn tỉnh táo phóng xuống lưng con sấu một ngọn lao.
Sấu nó hụp xuống, ghì chiếc bè khuất dưới nước.

Hai cha con Tư Ðức đứng cheo leo trên thang mà chờ, ngọn lao khác hờm sẵn nơi tay. Ông Rốp há miệng, nói với thầy hương quản :

- Hay quá ! cái bè này giống chiếc tàu lặn đó. Khuất hết chỉ còn hai cái thang.

Chưa dứt lời, sấu nó nổi lên, uốn éo đập đuôi đùng đùng. Ngọn lao ghim trên lưng nó khi nãy đã văng đâu mất !

Tư Ðức hươi tay lên phóng xuống ngọn lao khác. Rối không đợi nó lặn xuống, nhanh như chớp, chú phóng thêm ngọn nữa, cũng ngay lưng.

Sấu ta lại chìm.

Nhưng từ phía xa, một con sấu lạ hiện ra, lội nhanh tới sát hai cái thang của cha con Tư Ðức. Ai nấy rú lên :

- Sấu đực chạy lại tiếp sấu cái. Coi chừng nó nghe chú Tư !

Thầy hương quản la lớn :

- Ðánh trống, đánh mâm thau cho nó sợ. Bà con mình cứ đứng coi hoài, quên hết phận sự. Tệ quá !

Một mình mà đối phó với hai con sấu ! Tình thế của chú Tư Ðức càng nguy nan ! Lợi hại nhứt là con sấu mạo hiểm vừa xuất hiện đến cứu bạn. Nó còn sung sức, dám đánh bạo lại sát bè. Miệng nó đỏ hói, hàm răng dài như lưỡi cưa. Bình tĩnh, chú chờ nó lại gần.

Hai cây lao phóng xuống.

Sấu ta quay mình lại, đập đuôi thật mạnh vao hai cái thang. Hai cha con Tư Ðức đề phòng kịp thời nên không té nhào.
Con sấu lạ nọ lại nổi lên đằng xa, quậy nước rồi lặn mất.

Trong khi ấy, bè tre từ từ nổi lên. sợi đỏi dài rung rinh. Nơi đầu dây đằng kia, con sấu bị mắc câu đã quá mệt mỏi, nằm lé đé.

Mấy cây lao còn lại trong ống tre đã lần lượt phóng xuống, sấu ta không còn đủ sức để hất mấy mũi sắt đó nữa. Hắn lắc lư cái đầu rồi khuất dạng như chiếc tàu chìm.

Phen này, chiếc bè không bị ghì xuống như trước.

Chú Tư vô cùng mừng rỡ, đoán chừng sấu nọ chịu chết. Ðứa con trai của chú ngưng tiếng mõ. Chú lấy khăn chùi mấy giọt nước trên mặt rồi quơ khăn lên, làm dấu hiệu :

- Bà con đâm xuồng ra mau để kéo bè này vô bờ ! Tôi mệt quá rồi !

Hằng chục chiếc xuồng và ghe biển đâm ra. Ai nấy buộc đỏi vào bè rồi cố sức kéo. Họ vừa mừng vừa cảm động. Trên bè, không có một món gì ráo ; chuồng heo, thúng cơm khô, chai rượu đều văng mất. Nhiều nuột mây bị đứt, chiếc bè dường như sắp rã ra từng cây tre nếu cuộc chiến đấu kéo thêm vài giờ nữa.

Vừa bước lên bờ, chứ Tư Ðức liền gặp ông kiểm lâm Rốp. Ông ôm chú và thằng bé nọ vào lòng rồi nói tiu tít :

- Giỏi quá ! Chú Tư giỏi quá ! Thằng nhỏ gan quá ! Nó bị bịnh rét mà còn mạnh quá ! Tôi mời hai cha con vô đồn.

Chú Tư Ðức nhìn lại xác con sấu mà mỉm cười :

- Ðể tôi ở lại coi nó.

Ông Rốp nói :

- Thầy hương quản ơi ! Trước khi mổ bụng con sấu, thầy phải cho tôi hay nghe. Tôi dẫn chú Tư vô đồn uống rượu ấm, thay quần áo để chú Tư ngừa bịnh.

Vào đồn, ông Rốp bắt buộc chú Tư phải nằm xuống nghỉ mệt, thay quần áo ka ki mới, đắp mền.

- Rượu "cổ nhác" bên Tây nè ! Uống đi chú Tư. Rượu này của mẹ tôi bên cù lao "Cọt" gởi riêng qua cho tôi.

Chú Tư hớp một miếng :

- Ðược rồi, quan lớn.

Ông kiểm lâm nói :

- Uống hết đi ! Tôi rót nữa cho.

Miệng nói, tay của ông thoa bóp lia lịa dùm chú Tư :

- Hết sức giỏi ! Người "An Nam" hết sức giỏi. Chú Tư câu được bao nhiêu sấu rồi ? Học nghề với ai vậy ?

Chú Tư nói :

- Dạ, nghiệp của ông bà truyền lại. Bây giờ con cháu noi theo.

Ông Rốp gật đầu :

- Phải ! Bữa nào chú nói kỹ lại cách thức câu sấu để tôi viết thành cuốn sách, gởi về bên Tây cho mẹ tôi được biết. Rồi chú rán câu con sấu còn lại. Chừng đó tôi đi theo, đứng trên cái thang đánh mõ thử một lần.

Chú Tư suy nghĩ :

- Không được đâu !

- Con sấu kia lợi hại lắm. Phải trừ cho hết. Tôi đọc trong sách thấy rằng loại sấu lớn thường ở nơi yên tịnh, luôn luôn đi hai con đực và cái.

- Ông lớn nói đúng. Nhưng mình giết một con đủ rồi, giết hết mình có tội với Trời Ðất.

- Tội gì vậy, chú Tư ?

- Tội sát sanh. Ðể con còn lại cho nó đi tu. Ðạo Phật của ông bà có nói lại như vậy đó.

Ông Rốp mãi suy nghĩ, vuốt râu :

- Dân "An Nam" giỏi quá, hiền từ quá. Chú Tư họ gì, mấy tuổi. Ðể tôi chạy tờ về quan Tham biện chủ tỉnh xuất số tiền về thưởng công lao cho chú. Chú muốn làm lính kiểm lâm không ? Tôi cho chú làm chức "bếp", ăn lương mỗi tháng mười lăm đồng bạc.

Chú Tư Ðức cười :

- Vì đất nước chớ đâu phải vì danh vì lợi. Sách có chữ : "Kiến nghĩa bất vì vô dõng giả, lâm nguy bất cứu mạc anh hùng". Công việc của tôi đã làm tròn. Tôi ao ước hương chức làng mình cất một cái miễu lá, thờ cái đầu con sấu nọ. Bất luận là sấu hay cọp, hễ nó hại mình thì mình giết. Hễ giết được rồi, mình nên thờ...

- Chi vậy ?

- Ðể tỏ rằng mình sợ nó nhưng mà cũng... không sợ nó. Phải để cho nó tu tâm dưỡng tánh trong kiếp sau. Tôi không ưa sát sanh. Tôi muốn làm nghề khác.

- Nghề gì ?

- Nghề đốn củi. Chừng hết củi thì đào kinh, làm ruộng. Phen này tôi mừng vì cứu được vong hồn mấy người đã bị sấu ăn thịt. Theo lời tục truyền : họ thành cô hồn, sống vất vưởng trên lưng sấu. Lần lần cô hồn nọ bị sấu mê hoặc nên dẫn đường dắt nẻo cho sấu đi sát hại kẻ đồng loại. Bây giờ sấu chết, bao nhiêu cô hồn đã thảnh thơi, có thể tự do đi đầu thai trở thành người lương thiện.

Ông Rốp trầm ngâm suy nghĩ. Ông dè đâu người đốn củi lậu nọ có tài, có đức, biết thương người, thương cuộc đời đến mức ấy.

Ông chắp tay lại mà nói :

- Tôi khen chú nhiều lắm.

Chú Tư Ðức bèn chắp tay xá ông Rốp mà trả lễ :

- Ông xá tôi, tôi ngại quá. Giống như hình ông vưa Hy Lạp với thầy tu Ấn Ðộ trên vách, dưới tấm "bông đồ". Hôm nọ, hồi tôi mới bị bắt, ông nói cái tích "xơ lanh đa" gì đó...

Ông Rốp giựt mình, nhìn lại bức tranh, tấm bản đồ Châu Âu, Châu Á rồi sực nhớ tới mấy lời nói hôm trước. Tấm hình nọ diễn lại cảnh đẹp ngàn xưa : hai ngàn năm về trước, tại hoàng thành của tiểu quốc nọ ở phía bắc Ấn Ðộ, lần đầu tiên người phương Ðông và phương Tây thông cảm nhau, cư xử bình đẳng. Giờ đây, qua bao cuộc luân hồi, hưng vong đầy nước mắt mà máu trên giải đất tận cùng của nước Việt Nam lại có hai người cũng đồng cảnh ngộ, đồng niềm thông cảm.

Ông Rốp buột miệng :

- Chú Tư Ðức là thầy tư Na Ga Sơ Na.

Chú Tư nói :

- Trời ơi ! Không dám, tội chết ! tôi là người làm ăn. Tôi không xứng đáng lên Niết Bàn. Quan lớn có thương thì cho tôi xin lại chiếc xuồng bị tịch thâu bỏ "phú de" hổm rày. Nó là nồi cơm của tôi. Ðể trên khô, nó mau hư lắm.

Chú Tư Ðức muốn nói thêm nữa. Chú muốn ví phận mình như một cô hồn bị sấu ăn thịt, hổm rày sống vất vưởng trong đồn này như sống trên lưng con sấu đội đèn nọ. Không khéo, thiếu khí phách ngang tàng, chú có thể bị ông Rốp quyến rũ làm "bếp" kiểm lâm.

Chú không dám nói ra điều ấy e mất lòng ông Rốp. Chú lắng tai, chờ lịnh xá tội, trả lại chiếc xuồng. Nhưng ông Rốp dường như không chú ý. Có lẽ ổng đang suy nghĩ chuyện khác. Ổng chắp tay sau lưng, đi tới đi lui cứ nhìn bức tranh và tấm bản đồ, đôi mắt mơ mơ màng màng như sám hối trong giây phút những sự hiểu lầm chồng chất trong tâm ông từ mấy chục năm qua.

Bỗng từ dưới lầu, thầy hương quản gọi vọng lên :

- Quan lớn ơi ! Chú Tư ơi ! Xuống đây mà xem. Bà con đang mổ bụng con sấu, lớn lắm. Thằng con của chú Tư cưỡi trên cái đuôi sấu mà hai chân nó như hỏng mặt đất lận kia !

***

Người Mù Giăng Câu Sơn Nam

Ðứa con trai độc nhứt của ông đã bị "A lơ măn" (người Ðức) giết lúc phải cầm súng giữ vùng An Sác Lo Ren cho Pháp. Ta có thể nói : ông mù vì khói lửa của trận Âu châu đại chiến kỳ nhứt. Còn lại một mình, ông cất căn chòi ở Rộc Lá, ấp Tây Sơn. Rộc là con rạch nhỏ ngoằn ngoèo, bắt nguồn từ môt gò đất cao giữa đồng, chảy thẳng vào một cái lung, phần đất thấp hơn, đầy những rau muống, cóc kèn, ô rô và cá.

Ở Rộc Lá này, cá tôm quá nhiều so với mấy nơi khác trong ấp. Từ tháng mười đến tháng giêng, cá lội từng bầy trở về sông Cái, suốt ngày suốt đêm không ngừng. Ban ngày, cá đi đớp bọt, trắng bờ rạch. Ban đêm thức giấc vào bất cứ lúc nào, ta cũng nghe cá lóc táp mồi, cá trê chép miệng kế bên nhà. Nguồn lợi to tát vô cùng !

Nhưng nào đâu cái cảnh "Một vùng trời đất vui thầm ai hay".

Cá ăn câu về đêm. Muốn giăng câu phải thức trót canh gà, thức bốn năm tháng ròng rã, hao phí bao nhiêu sức lực ! Ngày thì đi gặt lúa mướn, thời giờ đâu để ngủ bồi dưỡng lại. Ðêm thì muỗi mòng, gió bấc lạnh, lắm khi gặp mưa. Nhiều em bé đuối sức ngủ gục, té xuống sông, leo trở lên xuồng ướt loi nhoi như chuột...

Ông thường bảo :

- Phải có kinh nghiệm mới đỡ cực nhọc. "Con cá trương vi quạt đuôi ra biển Bắc thì còn mong gì cá ấy trở lại chốn cũ ao nhà". Câu ca Vọng cổ đó nói sai. Cá có hang ở sông Cái. Mùa mưa, cá tìm đường lên ruộng, vào rừng mà đẻ. Bắt đầu mùa hạn, cá bỏ ruộng, bỏ rừng quay trở về hang cũ ở sông. Sự khôn ngoan của con người là chặn chuyến về của loài cá. Chặn cho đúng nơi, đúng lúc.

Vào đầu mùa, cá thường ăn mồi khi nước lớn. Giữa mùa, cá ăn lúc chạng vạng, lúc trăng sửa soạn mọc. Hừng sáng, chừng đâm mây ngang, cá trở lại ăn một lần chót.

Khó nhứt là chọn nơi để giăng câu. Cá sợ ngọn nước ngoài biển chảy tràn vào sông. Gặp nước mặn, cá hết nhớt ngoài da, con mắt xốn xang, nhưng nơi nước quá ngọt lại ít có cá vì cá chưa đi tới. Cá tập trung nơi lằn ranh nước lờ lợ và nước ngọt.
Tại lằn ranh đó, nên biết chọn từng điểm nhỏ. Rạch nào lắm ghe xuồng qua lại, cá ăn ở sát bờ. Rạch nào im lặng, cá lội ngay giữa dòng. Trước khi giăng cá trê, phải quậy cho nước đục. Mỗi chỗ cá chỉ ăn một lần. Vì nó đi lưu động, mình nên khéo dời chỗ...

Gió bấc thổi ròng rã, cá lần lần về sông Cái. Nếu bỗng nhiên trời trở mực, chuyển mưa, cá lui trở lại rừng và không ăn mồi. Những ngày ấy, đi giăng câu cũng hoài công.

Có người chất vấn : Ðã mù sao còn giăng câu được ?

Ông đáp :

- Mù lòa là mắt không thấy, chớ nào phải vô tri vô giác ? Con người có thể thấy bằng lỗ tai, bằng hai bàn tay, bằng mũi... Nghe hát máy, thiên hạ đâu dùng cặp mắt mà vẫn hiểu thấy được cảnh ly biệt, cảnh giặc giã trong vở tuồng ! Ban đêm, nằm nhà đóng cửa lại, tắt đèn nhưng thiên hạ vẫn thấy hiển hiện cảnh ngoài trời : ếch nhái kêu, tàu chuối phất phơ, chó sủa ma hay sủa kẻ trộm. Người ta thường nói : xanh mát, đỏ hực. Mát, là màu xanh, màu đen. Nóng, là màu vàng, màu đỏ. Bần hàn, là nghèo lạnh. Vô nhà nào mà mình có cảm giác lạnh lẽo, đó là nhà nghèo. Gặp người bạn, rờ lên vai áo thấy rách, chắc là người ấy đang suy sụp... nghèo rã bành tô. Ði lâu, là đường dài. Ði mau là đường ngắn. Tôi thường bơi xuồng đến tiệm mua đồ một mình. Trong kinh nhỏ có bông súng của mái đầm, khó bơi. Tới ngã ba, khúc quẹo, là chỗ nghe tiếng con sáo, con cưỡng ăn trái trên cây gừa bên miễu ông Tà. Gần mương vàm, hơi xông nồng nực, hôi tanh vì nước ít lưu thông. Chưa tới tiệm, có cầu ván bắc ngang. Chân cầu lớn lắm, tôi thấy nhột nhột màng tang, vì sợ đụng. Người mù có thể vá quần áo. Lại còn nấu cơm, nghe tiếng củi nổ, nghe hơi nước nóng để biết cơm sôi, cơm khét... Tóm lại, thiếu cặp mắt vẫn còn sống được! Người ta có đủ cột kèo thì cất nhà lớn, đúng ni tấc. Mình đây đui mù, như thiếu cây cột cái, nhưng nếu khéo léo một chút cũng cất được mái nhà nhỏ che gió che mưa... hà huống là việc giăng câu ! Giăng câu lúc ban đêm, cặp mắt không cần thiết. Người không mù, họ đốt lửa trước xuồng un muỗi cho vui mắt, ấm lòng, chớ nào phải soi đường đi. Ðó là chưa nói tới loài cá! Nó ở dưới nước, núp trong cỏ, người có mắt cũng như tôi, làm sao thấy cá được. Phải dùng óc xét đoán để hiểu tánh ý của nó, nhờ đó mình mới giăng được nhiều cá, ngày càng vui thú với nghề nghiệp của mình.

***

Dân trong xóm thường gọi ông là ông Vân Tiên lại có biệt danh là "Sư tổ giăng câu". Dường như tạo hóa đã dành cho ông một số phận : sinh trong thời pháp thuộc, chết trong thời Pháp thuộc. Nhưng chúng ta hãy tưởng tượng rằng ông còn đó, đêm đêm hiện ra ngồi trước mũi thuyền, trên sông nước, không phải để làm ma nhát những người yếu bóng vía nhưng để giải nỗi lòng đối với con cháu đời sau.

Ðêm tạnh vắng. Trăng sao đều khuất trong sương mù.

Nước dưới kinh lạnh ngắt. Bếp un đỏ lên, xua đuổi đàn muỗi rừng. Khói bay lan tỏa, lẫn lộn vào mái tóc bạc, chòm râu bạc. Thỉnh thoảng, gà gáy lên eo óc.

Lền khên rong đuôi chồn,
Ðặc nước, bông súng bông,
Ô ro và ráng, sập,
Mọc đầy theo mé lung.
Mắm đen, chen dà diệp,
Che khuất mấy cánh đồng.
Nơi đây, nơi giáp giới,
Ba ngã, một đường lung.

Ðôi mắt ông vẫn còn trập trừng. Miệng ông vẫn còn nói lên mắp máy, buồn buồn, chậm rãi.

***

Bắt sấu rừng U Minh Hạ Sơn Nam

Nơi sông rạch, cá sấu là giống hung hăng nhứt. Có điều đáng chú ý là chúng không thích những chốn sông sâu nước chảy, có sóng gió. Chúng lên tận ngọn cùng, tìm nơi yên tĩnh, chật hẹp. Vùng U Minh hạ, sấu thường đi ngược sông Ông Ðốc, rạch Cái Tàu vào giữa rừng tràm.

Tại sao vậy ?

Tuy là thích ăn thịt người, loại sấu vẫn tìm cá làm món ăn chánh. Rừng U Minh hạ thuộc về loại trầm thủy (1) cá sanh sôi nẩy nở rất nhanh chóng ; lên đó tha hồ mà ăn.

Ðến mùa nắng hạn rừng khô, sấu khỏi phải trở về sông Cái . Trong rừng có sẵn nhiều ao, nhiều lung (2), sấu cứ gom vào đó mà lập căn cứ sanh con đẻ cháu, năm này qua năm khác, cứ như vậy cho tới khi người Việt Nam ta đổ tràn xuống rạch Cái Tàu mà lập nghiệp. Ban đầu, họ ngỡ rằng sấu chỉ ở dưới sông, sau khi câu được chừng năm mười con sấu ở ngọn rạch họ đinh ninh cho là sấu đã giảm bớt... Mười phần chết bảy còn ba. Mãi đến khi có người lên rừng ăn ong (3) chạy về loan báo :

- Sấu ở giữa rừng nhiều như trái mù u chín rụng !

So sánh như vậy, không phải là quá đáng ! Dân làng xúm nhau lên rừng để nhìn tận nơi. Cái ao lớn ước một công đất, bên bờ, dưới nước, toàn là lau sậy, dây cóc kèn (4). Sấu nổi lên, chen vào những bức tranh mầu xanh ấy những vệt đen chi chít : con thì nằm dài như chiếc xuồng lường (5), con thì dùng hai chân trước mà vạch sậy, ngóng mỏ xéo lên trời như họng súng thần công đại bác. Biết có loài người đến quan sát, chúng vẫn điềm nhiên sưởi nắng, bắt cá . Duy có con sấu già trợn mắt hướng về lũ người rồi bò thối lui vào giữa lòng ao, để thủ thế. Dân làng nhìn nhau như ra lịnh rút lui. Nghi ngờ gì nữa ! Con sấu nọ có đốm đỏ ngay giữa tam tinh (6). Nó là "sấu chúa" sống lâu đời, nhiều phen kịch chiến với loài người. Khi ở trên cạn, sấu không nguy hiểm bằng một con rắn hổ. Sấu chúa khôn lắm, nó toan dụ địch thủ vào hang của nó nơi nước sâu. Trong số người khi nãy, có kẻ cẩn thận mang theo mác thông (7), lao, ná lẫy, nhưng họ dư hiểu rằng mớ khí giới ấy chỉ có hiệu lực đối với cọp, heo rừng. Ðằng này, sấu lại là loài ở nước, ở bùn lầy . Chống xuồng vào thì ao quá cạn, còn đi bộ xuống thì lún ngập gối.

Cái ao sấu ở ngọn rạch Cái Tàu đã bị phát giác. Tin ấy đồn đãi lần lần, thấu đến tai ông Năm Hên, người thợ già chuyên bắt sấu ở Kiên Giang đạo (8), tức là vùng Rạch Giá ngày naỵ Ông bơi chiếc xuồng ba lá nhỏ đến địa phận làng Khánh Lâm, ngọn rạch Cái Tàu. Trong xuồng, có vỏn vẹn một lọng nhang trần (9) và một hũ rượu.
Từ sớm tới chiều, ông bơi xuồng tới lui theo rạch mà hát :

Hồn ở đâu đây ?
Hồn ơi ! Hồn hỡi !
Xa cây xa cối,
Xa cội xa nhành,
Ðầu bãi cuối gành
Hùm tha, sấu bắt
Bởi vì thắt ngặt
Manh áo chén cơm
U Minh đỏ ngòm,
Rừng chàm xanh biếc !
Ta thương ta tiếc,
Lập đàn giải oan...

Giọng nghe ảo não, rùng rợn. Dân làng thấy chuyện kỳ lạ, xuống đứng dưới bến để nhìn kỹ. Ðoán chừng ông lão nọ là người có kỳ tài, họ mời ông lên nhà, làm thịt gà, mua rượu thết đãi.

Sau khi tự xưng danh tánh, ông bảo :

- Nghe đồn có ao sấu, tôi chẳng nệ đường xa để tới xứ Khánh Lâm này.

- Té ra ông thợ câu sấu !

Ông Năm Hên lắc đầu :

- Thợ bắt sấu chớ không phải thợ câu. Hai nghề đó khác nhau. Câu thì dùng lưỡi sắt, móc mồi bằng con vịt sống. Ðó là ở dưới nước. Ðằng này tôi chuyên bắt sấu trên khô, không cần lưỡi.

- Vậy chớ ông bắt bằng gì ?

- Tôi bắt bằng... hai tay không.

Ai nấy ngạc nhiên. Ông Năm Hên cười giòn :

- Bà con cô bác không tin sao ?

Ai nấy nửa tin nửa nghi. Họ cố nhớ lại cách bắt sấu của mấy người thợ nào đến giờ. Bắt sấu bằng hai tay không quả là phi phàm, thế gian hi hữu. Không lẽ ông Năm Hên này lại nói láo để lường gạt, ổng nào đã mở miệng xin tiền bạc cơm gạo gì của xóm này ! Ai nấy nôn nao, thiếu điều muốn năn nỉ ông đi bắt sấu tức thì để coi thử cách thức.

- Thưa ông, chừng nào ông ra nghề để cho dân làng chúng tôi được mừng ? Nếu cần tiếp giúp chuyện chi, chúng tôi sẵn sàng. ở xóm này thiếu gì trai lực lưỡng đã từng gài bẫy cọp, săn heo rừng.

Ông Năm Hên đáp :

- Sáng mai sớm, đi cũng không muộn. Tôi cần một người dẫn đường đến ao cá sấu đó. Có vậy thôi ! Chừng một giờ đồng hồ sau là xong chuyện ! Sấu ở ao giữa rừng, tôi bắt nhiều lần rồi. Bà con cứ tin tôi. Xưa nay, bị sấu bắt là người đi ghe xuồng hoặc ngồi rửa chén dưới bến, có bao giờ sấu rượt người ta giữa rừng mà ăn thịt ? Tôi đây không tài giỏi gì hết, chẳng qua là biết mưu mẹo chút ít, theo như người khác thì họ nói đó là bùa phép để kiếm tiền. Nghề bắt sấu có thể làm giàu được ngặt tôi không mang thứ phú quới đó. Nói thiệt với bà con : cha mẹ tôi sanh ra chỉ có hai anh em tụi tôi. Anh tôi xuống miệt Gò Quao phá rừng lập rẫy hồi mười hai năm về trước. Sau được tin cho hay : ảnh bị sấu ở Ngã ba Ðình bắt mất. Tôi thề quyết trả thù cho anh. Cực lòng biết bao nhiêu khi nghe ở miệt Rạch Giá, Cà Mau này có nhiều con rạch, ngã ba, mang tên Ðầu Sấu, Lưng Sấu, Bàu Sấu, sau này hỏi lại tôi mới biết đó là nơi ghê gớm, hồi xưa lúc đất còn hoang. Rạch Cà Bơ He, đó là chỗ sấu lội nhiều, người Miên sợ sấu không dám đi qua nên đặt tên như vậy, cũng như phá Tam Giang, truông nhà Hồ của mình ngoài Huế.

***

Sáng hôm sau, ông Năm Hên đi lên ao sấu, có Tư Hoạch một tay ăn ong rất rành địa thế vùng Cái Tàu dẫn đường. Nhiều người nài nỉ xin đi theo. Ông Năm Hên cản lại :

- Ði nhiều chộn rộn lắm. Tôi không giấu nghề với bà con đâu. Có Tư Hoạch đi theo coi mà .

Ðã quá giờ ngọ.

Ngóng về phía ao sấu U Minh hạ, ai nấy đều thấy một làn khói đen bốc lên. Ban đầu ngỡ là cháy rừng, chập sau, khói lụn xuống. Trong lúc đó, bà con xóm Cái Tàu lo nấu cơm, mua rượu đợi chiều làm tiệc ăn mừng. Nhưng ngạc nhiên làm sao, trời về xế, lúc ai nấy đang nghỉ trên nhà, bỗng nghe tiếng kêu réo từng hồi :

- Bà con ơi ! Ra coi sấu. Bốn mươi lăm con còn sống nhăn.

Rõ ràng là giọng Tư Hoạch.

- Diệu kế ! Diệu kế ! Tôi là Tư Hoạch đi bắt sấu về đây. Bà con coi sấu lội có hàng dưới sông mình nè ! Một đời người mới có một lần.

Dưới sông, Tư Hoạch ngồi trên xuồng, bơi nhè nhẹ như đi dạo mát.

Tiếp theo lái xuồng là một bầy sấu, con này buộc nối đuôi con kia, đen ngòm như khúc cây khô dài. Mỗi con sấu, hai chân sau thúc kê trên lưng, hai chân trước tự do, quạt nước cầm chừng như tiếp sức với Tư Hoạch để đẩy chiếc bè quái dị kia đi nhẹ nhàng. Thực tế hay là chiêm bao ? Người thì đứng há miệng sửng sốt rồi toan chạy vào nhà trốn. Người khác khấn vái lâm râm, e nay mai xóm này bị trừng phạt của quỷ thần. Vài người dạn hơn, bơi xuồng ra giữa sông, nhìn bầy sấu nọ cho tỏ rõ rồi rước Tư Hoạch vào bờ hỏi han rối rít.

Ðại khái Tư Hoạch trình bày :

- Tới ao sấu, ông Năm Hên đi vòng quanh dòm địa thế rồi ngồi xuống uống một chung rượu. Kế đó ổng với tôi lấy xuổng (10) đào một đường nhỏ, ngày một cạn, từ ao lên rừng chừng mười thước. Xong xuôi, ông biểu tôi bứt cho ổng một nắm dây cóc kèn. Phần ổng thì lo đốn một đống cây mốp tươi (11), chặt ra khúc chừng ba tấc.

Lửa châm vô sậy đế, cóc kèn xung quanh, bắt cháy xuống đám sậy đế trong ao. Chập sau, bị khói bay cay mắt, ngộp thở, phần thì nước sôi nóng, sấu bò lên rừng theo con đường đào sẵn hồi nãy. Tức thời, ông Năm Hên chạy lại. Sấu há miệng hung hăng đòi táp ổng. ổng đút vô miệng sấu một khúc mốp. Sấu táp lại, dính chặt hai hàm răng : như mình ngậm một cục mạch nha quá lớn, muốn há miệng cho rộng để nhả ra cũng không được. Sau khi bị khúc mốp khóa miệng, còn cái đuôi đập qua đập lại. Ông Năm Hên xách cây mác nhắm ngay sau lưng sấu mà xắn nhè nhẹ để cắt gân đuôi. Ðuôi sấu bị liệt. Thế là mình yên trí, lấy dây cóc kèn trói thúc ké hai chân sau của nó lại, chừa hai chân trước để nó bơi tiếp với mình.

- Thực là bực thánh của xứ này rồi ! Mưu kế như vậy thực quá cao cường. Ổng đâu rồi ? Sao không thấy ổng vể Xóm mình nhất định đền ơn ổng một số tiền, nuôi ổng cho tới già, ở xóm này. Bà con tính sao ?

Tư Hoạch nói :

- Mà quên ! ổng biểu tôi về trước cho bà con coi thử. Phần ổng mắc ở lại cúng "đất đai vương trạch" (12) rồi đi bộ về sau.
Chưa dứt lời, bên sông nghe tiếng hát của ông Năm Hên, ngày một rõ :

Hồn ở đâu đây ?
Hồn ơi ! Hồn hỡi !
Xa cây xa cối,
Xa cội xa nhành,
Ðầu bãi cuối gành,
Hùm tha, sấu bắt,
Bởi vì thắt ngặt,
Manh áo chén cơm,
U Minh đỏ ngòm,
Rừng tràm xanh biếc !
Ta thương ta tiếc,
Lập đàn giải oan...

Tiếng như khóc lóc, nài nĩ. Tiếng như phẫn nộ, bi ai. Ghê rợn nhứt là khi thấy ông đi ra khỏi mé rừng, áo rách vai, tóc rối nùi, mắt đỏ ngầu, bó nhang cháy đỏ quơ qua quơ lại trên tay.

- Coi tướng của ổng ghê như tướng thầy pháp ! Một người thốt lên như vậỵ

Nhưng có tiếng khóc sụt sùi đâu đây. Ðó là vài cụ già, bà lão chạnh nhớ đến tổ tiên, đến bạn bè của mình, biết đâu trên bước đường sanh nhai giữa chốn nước đỏ rừng xanh, có thân nhân của họ đã bỏ thân vì đàn sấu này. Bó nhang đang cháy kia có giải oan được cái chết của họ không chớ ?

***

Chú thích :

(1). Trầm thủy : Loại đất thấp ngậm nước.
(2). Lung : đầm nhỏ, sình lầy cạn (3). Ăn ong : lấy mật ong trong rừng
(4). Dây cóc kèn : loại cây dây leo ở rừng nước mặn bền chắc, dùng để trói buộc rất tốt.
(5). Xuồng lường : xuồng được làm bằng một cây đục thành (xuồng độc mộc)
(6). Tam tinh : điểm ở trán, giữa hai mắt.
(7). Mác thông : mác có cán dài .
(8). Kiên Giang đạo : đạo là đơn vị hành chính thời xưa tương đương một châu, một quận.
(9). Lọn nhang trần : bó (lọn) nhưng không có bao (trần). Nhà nghèo dùng loại nhang này, vì rẻ tiền.
(10). Xuổng : thuổng (dụng cụ để đào đất).
(11). Mốp tươi : loại cây như cây vông, gỗ xốp, dẻo, có thể làm nút chai hay cốt mụ Cá sấu ngậm phải khúc gỗ mốp, hai hàm răng dính chặt không há miệng ra được nữạ
(12). Cúng "đất đai vương trạch" : cúng thần cai quản đất đai (vương trạch, thực ra là viên trạch, nghĩa là vườn đất, dân gian nói trệch ra là vương trạch)

Sơn Nam