NAM DAO Thứ Hai, Ngày 10 tháng 5-2010
Trong giòng thơ Việt Nam ở thiên niên kỷ 20, thơ Hoàng Cầm là những giọt nước trong veo nhưng mặn chát vị đắng, vị của thuốc mang tên Hoàng Cầm. Gặp anh đầu thập niên 80 kỷ trước, liên hệ trân quí này hẳn đã ảnh hưởng đến nghiệp viết của tôi, và hàng năm, cứ dịp Tết tôi lại điện thoại thăm hỏi chúc tụng anh. Mỗi lần, anh lặp đi lặp lại ‘’ cố về, để anh em còn gặp nhau…’’. Tết năm nay, đứa cháu anh trả lời : ‘’ ông cháu nay chẳng còn nhớ gì nữa rồi! ‘’ Cho nên, tuy tin anh về một cõi khác không đột ngột, nhưng sao vẫn rất đỗi đau lòng. Thơ Việt Nam lại vắng thêm một cái bóng khổng lồ, bóng anh.
Xin chép dăm câu thơ anh làm trên gường bệnh gửi tôi :
Thì em cứ đi
đã quá vòng định mệnh
Sao còn loanh quanh bên số phận của rừng
Tưởng đã đến một tầng sâu giun bướm
Hóa ra còn con dế vẫn dưng dưng
Và, thay nén nhang thắp lên tiễn biệt anh, tôi xin đưa lên trang mạng này bài tôi viết về anh, thấm thoát thế mà đã quá mười năm.
MỘT VỊ THUỐC ÐẮNG, MỘT VỊ THƠ....
1
Thế đấy. Anh chép miệng cười. Nụ cười rất tươi, rực lên cùng ánh mắt. Anh bảo : «...nó vận vào người», lại rót rượu.
Ðó là một loại rượu ngâm với mơ, màu vàng óng, vị hơi ngọt, uống khá đầm. «Rượu làng Vân, ngâm mơ thế này là đã cả năm rồi», anh lại cười, tay với điếu cày. Tiếng nước reo sòng sọc. Mùi thuốc lào hăng hắc xông lên. Anh ngả đầu ra sau, mắt lim dim. Tôi ngắm anh. Những nét hào hoa nay hằn xuống, nhưng vẫn là những nét hào hoa.
Anh quả là một người hào hoa.
Chị đi đâu về. Tôi đứng dậy. Chị bảo «...à, chú đấy à !». Rồi chị ra ngồi, tay rót nước. Tôi nhìn chị. Chị quả là một người đàn bà đẹp. So với người Hà Nội những năm đó, chị đỏm dáng. Có lẽ chị biết là mình đẹp.
Tôi đưa ly rượu lên môi, bâng khuâng nhớ người con gái trùng tên chị đã hẹn tôi rồi không đến một năm xưa. Tôi nhìn anh, vẩn vơ hồi tưởng lần đầu đến quán rượu này. Tai tôi lại văng vẳng tiếng cười ròn rã của họa sĩ Hoàng lập Ngôn «... muốn thì đi với tớ, không đi lại chê Hà Nội không có !» Ngồi trên chiếc ghế đẩu chông chênh chỉ chực đổ soài ra, tôi nghe tiếng ngâm thơ. Anh ngâm một cách ngâm lạ lùng. Ngâm như than, như khóc, như rên rỉ, như van vỉ. Như hát chầu văn. Như rủ người nghe nhập đồng.
Quái lạ. Lời thơ lại vượt khỏi tầm trí tuệ. Nó lơ lửng ở chốn nửa nhân gian nửa thần thánh. Nó chém xuống tâm linh, để lại vết cắt, thứ vết cắt hằn sâu xuống ở lớp thứ tám. Vâng, hiểu thì chỉ cần lớp một cho đến lớp ba, bốn. Sau đến lớp năm, lớp bảy là cảm. Khi đó chữ nghĩa hết là chữ nghĩa. Nó thành những tác động tâm - sinh lý. Nhịp tim không còn đều đặn đẩy máu đi như làm thứ nghiệp vụ buồn tẻ trong một cơ thể bình thường. Nhịp thở không còn đều đặn như khi người ta ngủ say đến mất hết khả năng tiếp nhận bất cứ gì. Còn lớp tám ? Tôi phải nói thế nào ? Tôi biết như kẻ có lòng tin vào Thượng Ðế, nhưng làm sao nói đây ?
Tôi lẩm nhẩm «... Ta soi. Chỉ còn ta đạp lùi tinh tú. Ngủ say rồi đôi cá đòng đong». Ở tầng thứ tám, một bàn chân người nhỏ bé đạp vào không gian mênh mang bí ẩn đẩy lùi lại những vì sao long lanh trên dải ngân hà trong suốt. Cúi xuống, cũng ở tầng thứ tám đó, con người nhỏ bé soi mình trong lạch nước, và an bình thay, đôi cá đòng đong còn nhỏ bé hơn nữa đã ngủ say rồi. Từ vô cùng lớn, chỉ vài chữ là đến li ti nhỏ. Ở giữa, con người kia cô đơn làm cái ảo tác đạp lùi tinh tú. Hình ảnh đó còn bi tráng hơn huyền thoại Sisyphe lăn đá lên cao. Hòn đá tới đỉnh lại lăn xuống như một thứ định nghiệp vô căn do, lăn xuống để rồi lại phải đẩy lên, theo cách diễn tả sự phi lý kiếp người của Camus. Lăn đá là hình phạt của Zeus, thứ thần linh hóa ra đại bàng đi đánh cắp một cô con gái nhưng bị Sisyphe - kẻ được bàn dân coi như một vì vua mong xây dựng một vương quốc có văn minh - nhận diện và tố cáo. Văn minh nằm ép dưới quyền lực. Còn luân lý, luân lý đã nhiều lần chùn bước trước sức mạnh trong lịch sử nhân loại.
Hình ảnh lăn đá của Sisyphe khắc nghiệt hơn đôi cá đòng đong ngủ say. Con người cô đơn nổi loạn đạp lùi tinh tú, nhưng hiểu ra sự bất lực của ảo tác đó nên vội quay về tìm an nhiên bằng giấc ngủ của đòng đong. May thay, đòng đong vẫn có đôi. Ðó là một cách an ủi. Dĩ nhiên kém triệt để, nhưng bao dung hơn. Phải chăng Ðông khác Tây là vậy ? Nhưng thế thì sao «nó vận vào người» được nhỉ ?
2
Buổi sáng hôm ấy lành lạnh gió. Hai mươi năm sau, cứ mỗi lần gió như thế, tôi lại nhớ, lại mang mấy tấm ảnh cũ ra nhìn. Ảnh có cụ Sìn, có Văn Cao, có Thái bá Vân, những người đã khuất. Có anh. Có Duy. Có tôi. Những người vẫn còn. Có chị Băng, dĩ nhiên. Còn có T và L, hai cô gái nuôi của cụ Sìn, một họa sĩ đầu đàn của Hà Nội vào những năm ba mươi. T kéo violon cho dàn nhạc giao hưởng. Duy làm bài thơ khá đẹp về bàn tay và chiếc vĩ cầm. Còn L, cô dạy học ở Hải Phòng, nhưng nay đã lưu lạc đâu đâu bên Hòa Lan rồi. Duy đèo tôi bằng chiếc xe đạp Phượng Hoàng cứ dăm trăm thước lại tuột xích. Chúng tôi đi dọc đại lộ Lê Duẩn về hướng Nghi Tàm. Tôi bảo «Chẳng biết các ông ấy gặp nhau thì thế nào nhỉ ?». Khi mời anh, Duy chỉ nói «...anh lên xem bức tranh cụ Sìn vẽ anh năm tiếp thu thủ đô !». Khi mời Văn Cao, tôi chỉ nói «...cụ Sìn nhắn anh lên, lại khà khà bảo không có anh thì thôi không đình đám nữa. Cụ yếu lắm rồi...». Chúng tôi đều biết là từ cái thuở Nhân Văn gần ba mươi năm xa lơ xa lắc, anh và Văn Cao không gặp nhau nữa. Lý do ? Tôi kêu lên «...miễn bàn !». Cả nước hòa hợp hòa giải. Văn hóa thì thế. Một dúm tác phẩm. Dăm ba ông đứng đầu, ông nọ tránh không nhìn mặt ông kia. Con cháu sau này trông vào thì sẽ nghĩ gì ? Thái bá Vân gật gù, nhỏ nhẻ «Cho tôi đi với !» rồi hồn nhiên tiếp «...cũng đến lúc các ông ấy nên gặp nhau rồi !»
Tôi không hề hỏi đến lúc là đến lúc nào. Tôi cũng vô tâm, chẳng thắc mắc thế nào là nên , thế nào là không nên . Bữa ăn nhà cụ Sìn khá vui vẻ. T và L chạy lên chạy xuống. Cụ bà đi vào đi ra. Tôi vui trong bụng, chỉ cảm thấy một thoáng sượng sùng khi hai anh bắt tay nhau, để ý các anh tránh nói với nhau, nhưng cả hai đều góp chuyện. Văn Cao thích làm dáng, đôi khi hơi gượng trong dăm ba hoạt cảnh đầy tính kịch. Còn anh, anh hồn nhiên. Cụ Sìn mang bức tranh cũ ra. Bức tranh không có khung, vải bố nhem nhuốc, nhưng anh, anh cười trong bộ quân phục màu vàng, đọâi mũ có đính sao. Cụ Sìn lại khà khà móm mém bảo «...lính Vệ quốc đẹp thế đấy !». Anh mơ màng «...đẹp và trẻ. Có lẽ đẹp vì trẻ...», mắt nhìn T và L đang cúi xuống thẹn thùng. Quả thế. Tôi cũng nhìn. Cô giáo ở Hải Phòng đằm thắm hơn. Cô nhìn lại rồi chạy vụt đi. Cô nhạc sĩ vĩ cầm dáng dấp có nét bốc lửa, nhưng mắt lại mơ màng chút u uẩn than tro. Cô làm vẻ thản nhiên, nhìn về phía sân, nơi nước ao đã tràn lên mấp mé ven bờ.
Buổi trưa hôm đó qua đi, rất nhẹ, không khác cơn gió lành lạnh chớm đông. Cõi nhân duyên chập chờn oái oăm. Hai anh lại chia chung cái chiếu rượu này. Và chia với chúng tôi. Mỗi kẻ một vẻ đời. Làm lính. Làm thơ. Kéo đàn. Dạy học. Ðến từ một bờ Ðại Dương xa lắc bên kia. Lên từ Cảng, quê hương của người tài tình thõng một câu thơ nhập « Sinh ra tôi đã có Hải Phòng...» cho bản trường ca Những người trên cửa biển dính dấp đến vụ quyền lực hãm và hiếp văn học vào năm 1956. Ðè xuống rồi nằm lên dăm ba tờ báo để che bớt đi cái ê chề có tên là cải cách ruộng đất, quyền lực thở phì phò, xong việc kéo quần lên, tay chùi mép dính nước bọt phán lửng một lời «...có phải con gái nhà lành đâu, quí báu đéo gì !». Chữ đéo không thừa. Nó vạch ra tính chất của hệ tương quan giữa chính trị và văn hóa. Con gái nhà lành thì dĩ nhiên không phải là con gái tạch tạch sè thành thị. Họ dẫu còn trinh nhưng điều đó không thể bảo đảm rằng họ thuộc thành phần cốt cán của dân tộc. Nước ta vốn là một nước nông nghiệp và sẽ còn lâu vẫn là một nước có rất nhiều nông nô. Nhưng chuyện đã xưa rồi. Bây giờ khác, người cày có ruộng và công bằng ra thì người viết có giấy có bút để góp phần xây dựng một xã hội tươi đẹp. Có lẽ chính vì vậy là đã đến lúc các ông ấy nên gặp nhau ? Tôi ngây thơ nghĩ thế. Còn anh, hồn nhiên như anh, chắc anh cũng nghĩ thế. Cụ Sìn, cụ chỉ cười khà khà. Cụ không nhầm, mặc dù tuổi đã cao.
Tối ăn cơm, không biết là chân ai khều nhè nhẹ vào chân tôi. Hẳn vô tình. Giá mà cố ý nhỉ. Ai biết được, lại chuyện nhân duyên. Ðêm hôm đó, tôi ngủ lại nhà cụ Sìn với Duy. Hai đưa lau sàn xi măng đã lên dầu mồ hôi sáng bóng rồi mắc màn. T và L cũng thế, hai cô nằm chiếu bên cạnh.
Tiếng ễnh ương bờ ao. Vẫn gió. Gió xào xạc. Ngọn đèn hoa kỳ vặn xuống li ti sáng một màu xanh biếc. Tiếng cụ Sìn ho. Tiếng đập muỗi. Tiếng thở dài nhè nhẹ chiếu bên. Duy bắt đầu ngáy. Tôi thiếp dần đi trong mùi đàn bà bay thoang thoảng. Tôi mơ bay lên thật cao, cao đến độ trái đất ở dưới chỉ còn là một hòn bi ve óng ánh màu hy vọng một hạnh phúc trong tầm với của cả dân tộc tôi. Thú thật, tôi đã là một kẻ có niềm tin như vậy. Cho đến tận bây giờ, tôi vẫn cố gắng tin và còn hy vọng nên mới viết được những giòng chữ này, dẫu rằng đôi khi bóng tối có lúc đã bao trùm cả đời tôi lẫn đời những người tôi yêu.
Hình như ai thò tay sang nắm lấy tay tôi. Tôi để yên, lòng ngậm ngùi, vờ ngủ. Cho đến nay tôi vẫn chưa biết bàn tay đó là tay L hay tay T. Tôi chỉ biết tờ mờ sáng L đã đi ra bến xe về Hải Phòng. Và sau đó tôi rồi cũng phải bay sang bờ Ðại Dương bên kia. Nỗi ngậm ngùi sau này đọng lại được đúng hai câu : Em đi rón rén trời chưa sáng. Bước động ao bèo bỗng hóa sông.
3
Thuở đó anh biết tôi yêu thơ. Thật ra, tôi yêu tất cả những cái đẹp. Và yêu, dĩ nhiên là mù quáng. Là như bị thôi miên. Là buông hết, và thả luôn đời mình vào cái mình yêu, hệt như những kẻ tử vì đạo. Cái đẹp, gộp luôn cả chân - thiện, trở thành tất yếu cho sự tồn sinh, và mặc dầu tôi là người ngoại đạo, thỉnh thoảng lại mập mờ mang hình tượng Ðức Chúa đóng đinh trên thánh giá cứu rỗi, sườn loang lổ máu một vết dao đâm vì lòng tham tàn cộng thêm sự ngu muội.
Tôi đến chơi với anh như đến với cái đẹp. Người ta chặc lưỡi «...giao du phải cẩn thận.» Tôi bảo «Nếu phải xin phép thì cho tôi một cái danh sách, những ai là người không nên giao du !». Người ta trừng mắt. Tôi quay lưng đi. Người ta cho là tôi thách thức quyền lực. Tôi thì không. Vì tôi nghĩ, rất ngây thơ, là đã «đến lúc» vì bây giờ chỉ có ta, và ta phải «cùng nhau» góp tay vào xây lại một mảnh đất đã quá đọa đầy. Ðòi hỏi của hai từ ghép «cùng nhau» là phải xóa đi lằn ranh dĩ vãng đã chia nhau ra thành đôi, thành ba, thành năm thành bảy mảng. Những mảng băng rời trôi mỗi mảng một hướng. Nước ơi, chỉ có tình của nước mới làm tan những mảng băng chia cắt lạnh lẽo kia. Người ta lắc đầu nghi ngại. Tôi đến chơi với anh. Với Trần Dần, Lê Ðạt. Với Ðặng Ðình Hưng. Người ta nhăn mặt «Trải chiếu hoa cho mà không biết lên ngồi à ? ». Tôi giật mình. Thì ra phải chọn giữa mảnh chiếu hoa đã trải và cái đẹp ! Nhưng tôi đã thưa, cái đẹp là tất yếu cho sự tồn sinh, và tôi xin trả lại một góc chiếu vẽ hoa đỏ không hợp tạng.
Anh biết tạng tôi, cái tạng con trẻ không làm sao cho khôn ngoan thích ứng hơn được với cuộc đời. Tôi không kể cho anh cái đêm có một bàn tay đàn bà thò qua màn nắm lấy tay tôi ở chiếu bên. Anh tặng tôi một chai rượu mơ anh ngâm, dán thêm hai chữ Men Quê và Bốn câu thơ. Anh kể :
«... Tên nàng cũng là Yến. Chúng mình lên đồi, mặt đất xanh rì, nhấp nhô mềm dịu như mông như vú đàn bà. Nắng đã bắt màu vàng tươi trên mái chùa Phật Tích ngói đỏ xa xa. Ngả mình nằm xuống thảm cỏ, nàng nhìn, cái nhìn như bảo ban. Bỗng nàng chồm dậy, hai tay bíu lấy đầu mình kéo xuống, rồi áp môi hôn những nụ hôn cuồng nhiệt. Khi buông nàng ra, mình đọc «Một con bướm lửa đậu môi». Nàng nắm hai tay mình kéo ra, miệng thầm thì «Hai nhành hoa lửa chia đôi tay cầm». Nhìn lên trời, những ráng mây xa óng ánh như sắp cháy bùng lên, mình tiếp «Ba làn mây lửa về thăm». Nàng như say sóng, ôm choàng lấy mình để giữ thăng bằng trong một cơn bão biển bất ngờ ào vào thân thể, mắt nửa khép nửa mở, tay quơ lên, miệng thở dốc. Mình lao vào nàng, vào cơ thể nàng, vào tâm hồn nàng bằng tất cả sinh lực đàn ông, cứ thế cho đến khi cùng kiệt. Nàng ngước mắt, vừa cười dịu dàng, vừa đếm «... Bốn lần chim lửa đến nằm rậm hoang».
Hai mươi năm sau, tôi vẫn nghĩ cho đến nay câu chuyện anh kể không chỉ là một câu chuyện thật. Nó có chất cốt tủy như khi anh bảo với tôi rằng nàng Thơ vốn dĩ lẳng lơ, gặp ai cũng quyến rũ, nhưng chung chạ gối chăn với nàng lại là chuyện khác... Tôi tin lời anh. Anh hồn nhiên nhận mình là người may mắn. Như vậy cái gì có thể lại «vận vào người» anh ?
4
Mẹ, Chị, rồi Vợ anh và những người đàn bà yêu anh đều là cốt đồng cho anh nhập vào tâm giới của nàng Thơ. Hiện tượng này nằm dưới tầng ý thức của chính anh. Thậm chí, nó nằm ngoài anh, và chính vì thế mà anh kể là thơ anh «... vài ba câu đầu bao giờ cũng không phải là tôi nghĩ ra, mà đúng thật là những lời văng vẳng bên tai như có một giọng nữ đang hát, hay đang đọc... mà tôi xin gọi là lời của thần linh đọc cho mình chép lại được.».
Vâng, nghe đâu anh chép được nguyên bài Lá Diêu Bông. Lần cuối gặp anh năm ngoái, anh hỏi «Thơ mình được mấy bài ?». Tôi tần ngần, đếm có Về với Ta, Ðợi mùa, Cây tam cúc, Quả vườn ổi. Ðó là những bài thơ lạ, ngôn ngữ thơ biết thở, biết hát và biết im lặng. Tôi đáp «năm, sáu bài...». Anh cười «...thế là lấy của thiên hạ quá nhiều rồi !» và hồn nhiên nói tiếp «... à, em mới kể có năm thôi !». Thật ra còn bài U gì anh làm gửi cho Ðặng Ðình Hưng. Bài Ðợi mùa, ít người nhắc. Thú vị nhất là tiếng chim tu hú, thứ chim lớn hơn sáo, lông đen nhạt điểm trắng, đẻ trứng thì đẻ vào tổ sáo hay tổ chim ác là, và cuối Xuân là kêu để gọi Hè về :
Mùa chưa về
Tu hú gọi Em đi tìm Mẹ
Dãy tre xa giấu biệt giải khăn điều
Khi gậy nắng ăn mày đã quăng sau núi
Hàng tre nhà
yếm trả
Mẹ về
lều dột đón mưa đêm
Thì chị đi
mấy lối chân chim
Ðể Mẹ về bao phương bèo nổi
Riêng Em nằm trơ đợi giờ tu hú gọi
Câu bốn và năm trong đoạn này rủ người đọc thở một nhịp thở gấp gáp, tiếp đó, nhịp thở lại chậm đi, rồi nức nở nghẹn lại. Tôi xin trích thêm một đoạn :
Em bước vào đình
ôm cột bốn người ôm
Em rẽ sang chùa
lay chân hộ pháp
Sau chùa tát đêm một, chạp
Gầu giai ai vớt Chị ơi lòa lõa thân trăng
Chị lỡ xe hồng
Mẹ đi lấy chồng
Cỗ cưới chênh vênh khoai luộc
Mật vàng mọng rách vỏ nâu non
Giữa câu bốn và năm trong đoạn này, thơ chuyển mạch bằng cách im lặng ( đọc ở giữa hai câu, nghĩa là không có chữ nào ). Và đây là đoạn cuối :
Có hôm Em lần xuống bếp
Cậy cháy sành vỡ toác chôn niêu
Một con mèo mướp ruỗi chân chiều
Lưỡi gió liếm gio vờn tóc rụng
Tưởng như Mẹ về
Vai áo toạc ba vá chằng tơ dứa
Tưởng như Chị về
Tơ tóc đêm xưa giờ rễ tre
Bao giờ Chị về
tóc phủ vai Em chiều hương nhu
Bao giờ Mẹ về
Buộc yếm đào phai vỗ hát ru
Khấn thầm như gặp Chị
Mắt nứa cứa tay Em
vẫy đón đầu làng
Khấn thầm
như mẹ lỡ đò ngang
Miệng hé hạt na nhòa bến vắng
Cổ tay tròn đẫn mía gie
Không
Bầu mẹ không tròn
Bưởi Chị không hoa
Ðã hết năm tu hú gọi rừng già
Ðã sang mùa
tu hú ngủ rừng xa
Hai câu cuối cùng, thơ là thơ biết hát. Trong đoạn vừa trích, thơ biết im lặng sáu lần và hát lên hai lần. Còn thở, thơ thở hắt ra ba lần, thở kiểu máu nhồi cơ tim một lần. Mời bạn tìm, xem sao.
Ðiều tôi thực sự muốn nói bằng cách nói trên : Thơ hay là Thơ có tác động sinh lý lên người đọc qua nhịp thở và nhịp tim. Chính tác động đó ảnh hưởng đến tâm lý, tạo ra cái đa dạng của thất tình : buồn, vui, bâng khuâng, bực dọc, phẫn nộ... Ðã nói đến nhịp, là nói về nhạc. Thơ hay không phải chỉ một câu hay. Thơ hay, không phải một chữ hay. Trò kén chữ cho khéo là trò kén chồng, kén để làm lễ cưới cho có pháo nổ và họ hàng hai bên cười cợt, xong lễ thì ém nhẹm đi cuộc sống lứa đôi dẫu ổn thỏa hay không ổn thỏa. Thơ hay là thơ nhìn dưới góc độ một tổng thể. Tác động câu chữ là tác động trên trí tuệ. Thêm một mức, một mức cao hơn mới tới tâm cảm, hệ quả của tác động trên nhịp thở - nhịp tim, yếu tố sinh lý gây lên thất tình. Thơ hay chính nó là Nhạc. Và thường thường, chúng ta đơn giản hóa Nhạc vào vần, vào điệu. Nhưng vần thì thật ra thừa, và điệu, rất sáo mòn, nhất là vần điệu của lục bát, tứ tuyệt hay thất ngôn ( nhưng nói thế, không phải bảo rằng Thơ hay không có thơ lục bát, tứ tuyệt hay thất ngôn ). Thơ anh ra ngoài thể loại vần điệu đó. Thơ anh mang âm vận của Từ đời Tống và những bài Phú thời Nguyên - Minh, tự do hơn, phóng khoáng hơn, nhưng là thơ Việt Nam vì mang mang tính cách Quan họ đặc biệt đất Bắc Ninh. Thơ anh có Mẹ, có Chị. Những «Bầu Mẹ không tròn, bưởi Chị không hoa». Cũng vì vậy nên thơ anh là thơ của Lỡ làng. «Chị lỡ xe hồng. Mẹ đi lấy chồng, cỗ cưới chênh vênh khoai luộc...». Sự lỡ làng chỉ đổi lại bằng khoai, «mật vàng mọng rách vỏ nâu non». Vỏ khoai có khác ai hơn là Em, tâm hồn tả tơi làm thơ khóc những lỡ làng ?
5
Năm 1982 là một năm đầy oan trái nghiệp nghiệt. Ngẫm lại, hình như những vết chém phi lý và vô nghĩa, những vết chém không làm sao tìm được căn do, đều chọn được loại nạn nhân riêng của nó. Cả anh lẫn tôi đều nằm ọp bốn năm liền nhấm nháp cái vị tanh của máu ứa ra từ những vết chém đó. Anh chịu cả phần xác lẫn phần hồn trong lao ngục. Phần tôi, tôi chịu phần hồn trong một nhà tù không cần cửa sắt chấn song.
Sau Tết năm Nhâm Tuất, tôi rời Sài Gòn sang Paris, ở nhà Tạ Trọng Hiệp vùng Gentilly. Nhà bị kẻ gian cậy cửa. Xe để dưới đường bị đánh cắp. Ngày đêm, tôi cứ phải trông chừng Hiệp đang bị đại nạn tình với T, nói đến cái chết rồi khóc, và dự trữ rất nhiều thuốc ngủ. Ðến tháng sáu, tôi lại về Hà Nội sau khi dặn dò Hiệp là chớ chết dại. Chết dại là chết vì tình, chết khôn là chết với tình. Lời dặn đó ngây ngô : làm gì có chết khôn hay chết dại. Chết là hết, thế thôi.
Lần về này, tôi gần như tuyệt vọng : thế quyền đã «co cụm» lại sau Ðại Hội IV, vẫn khăng khăng một thứ giáo điều lưỡi gỗ, ngược hẳn lại với những điều tôi đã trình bày về phương thức dùng qui luật thị trường nhằm ổn định kinh tế Việt Nam trong một đề nghị chuyên ngành với cấp cao nhất có thẩm quyền. Chống lại niềm tuyệt vọng, thấy ánh đèn là tôi lao vào, cứ như loài thiêu thân. Dễ nhất lại là lao vào tình yêu. Hay bất cứ gì đồng dạng với tình yêu. Anh cho tôi một món quà mừng cái tình yêu đó : tập thơ Về Kinh Bắc anh hì hục chép tay trên một quyển vở học trò. Tôi vào Sài Gòn trước khi bay sang Pháp. Một người bạn vào báo anh vừa bị công an giữ để điều tra. Tập thơ Về Kinh Bắc tôi trao cho những người trong nước giữ lại, không mang theo khi đi, tránh không để ai kết tội anh chuyển thơ «chống đối» ra nước ngoài. Thật ra, Về Kinh Bắc chẳng chống đối gì cả : nhà xuất bản Văn Học đã in nó năm 1994. Còn bắt anh, họ bắt vì lý do gì rồi giam cầm anh một thời gian khá dài ? Bán rượu ? Hút thuốc phiện ? «Hủ hóa» Việt Kiều ? Trên Métro từ Luxembourg đến Place Italie, tôi giở tờ Le Monde đọc. Báo loan tin anh bị tù. Hôm ấy, tôi đọc rồi nước mắt ứa ra. Cứ thế, tôi khóc. Kẻ đi qua thản nhiên hay chỉ khẽ nhăn mặt. Duy có một người da đen đến chìa cho tôi mẩu thuốc lá hút dở, và nói «Bonne chance !»
Bonne chance. Năm ấy, tôi chẳng có một thứ may mắn nào cả. Về đến chốn ngụ cư, tôi tất bật lo việc «bảo lãnh gia đình». Tôi xin giấy nhập cảnh Việt Nam. Lần này là cấm. Lý do ? Không ai cho tôi biết. Ðơn xin, không bao giờ có phép. Cấm như thế sáu năm liền. Gia đình tôi qua. Thế là đi vay, làm một quán ăn. Tất cả mười hai nhân mạng, lấy gì mà sống. Thực tế sống ở nước ngoài khác hẳn với sự mơ mộng của thành phần tương đối «dư dả» thời xưa ở Sài Gòn. Các cô em nhăn mặt, qua đây mà phải đi hầu người ta trong quán ăn thì thà ở Việt Nam còn hơn. Vài năm sau, các cô ấy đều ăn nên làm ra với dịch vụ quán ăn. Nhưng lúc đó, các cô em tôi thì thào cho tôi nghe thấy «...qua đây bị tư bản bóc lột lao động ...» và gọi tôi là ông giám đốc. Giám đốc đấy, nhưng lắm bữa trưa, tôi không có tiền ăn đến độ phải nhịn đói. Rồi sau đó, tôi phải ra tòa vì đã ký giấy bảo lãnh mà không cung ứng tiền chi tiêu cho đủ. Người trưởng thượng đâm đơn kiện lại là người ruột thịt: «Anh mang gia đình qua là cứu (sic) cả gia đình. Nhưng tôi, tôi bây giờ phải bảo vệ (sic) nó». Bảo vệ thế nào ? Cô em dâu đến đề nghị cho một món tiền cỡ ba chục ngàn đô thì xí xóa giấy bảo lãnh. Cậu em thì bảo cứ đưa cho cậu ấy quản lý toàn bộ quán ăn, tôi không được can dự, nhưng dĩ nhiên nợ nần vốn liếng thì cứ vẫn tôi thôi (!). A, thì ra thế! Tôi ở vào thế kẹt. Kẹt đủ điều: tôi không thời gian vì còn nghiệp vụ chuyên môn, chẳng một ai để tin tưởng phó thác, đầu óc căng cứng khủng hoảng. Kẹt cho nên phải chẹt. Chẹt mọi mặt, mang ra tòa gây áp lực chỉ là một phương án. Nhưng ông tòa xét thấy tôi nợ đầy đầu, đến điện thoại cũng bị cúp vì không có tiền trả, nên tha cho. Ngoài ra, nghiệp vụ chuyên môn bị xao lãng vì nào là chuyện quán ăn, nào là chuyện kiện tụng tòa án, đồng nghiệp tôi «điều đình» để tôi tự ý xin thôi việc. Lại nữa, người vợ mới cưới qua Paris, kẹt lại vì lao phổi. Thế là phải gửi gấm. Rồi bạn phản. Tình phụ. Chỉ một năm, bằng ấy cái họa. Mất nhà, mất nước, mất tình, nghề nghiệp bị đe dọa. Quán ăn phải thuê người làm, bị ăn cắp hết vì không lấy ai ra để trông coi. Lại nợ. Nợ chồng nợ chất. Nhưng ghê rợn hơn hết là sự trống rỗng.
Chính sự trống rỗng đó đã đưa tôi đến cạnh cái chết lúc ấy tôi đồng hóa với giải thoát. Tôi thức hàng đêm, nhìn ra ngoài trời tuyết trắng mênh mông, đầu óc tê điếng, vô cảm, và chỉ thấy trùng trùng băng giá, không yêu không ghét không hờn không giận. Chỉ trống rỗng. Cái trống tếch trống toác của thế gian không có một chút tình người. Tôi là tên tù nhân của cái ngục trống khủng khiếp không có cửa sắt chấn song. Lẽ sống lúc đó nhẹ tênh tênh, vậy thì tự do mà làm gì. Tôi nhịn đói hàng tuần, không thấy cần ăn, uống nước lạnh thôi là đủ. Sống chết lúc đó ở ngoài tôi. Soi gương, «kìa ai đó - tôi lạnh nhạt- chớ có phải tôi đâu». Cho đến một hôm. Vâng, hôm đó người bạn gái gốc Chilê, kẻ đã dịch một đoạn thơ tôi ra tiếng Tây Ban Nha gửi đăng trong một tờ báo phe tả ở Salvador, đến nhà tôi với một bông hồng. Nhìn tôi, nàng nói «Không nhà thơ nào có thể chết được !» và cười rất tươi.
Nghe nàng nói, không hiểu sao tôi lại nghĩ ngay đến anh. Lúc đó, anh vẫn còn nằm trong tù ngục. Anh là nhà thơ. Anh không thể chết được. Còn tôi, câu nói của Cecilia đẩy tôi ra khỏi một cuộc tuần du đầy ác mộng. Tôi phải sống.
6
Có sống mới về thăm anh được. Năm 1988, giải tỏa lệnh cấm. Dĩ nhiên, Ðại Hội VI đã Ðổi Mới Tư Duy, và thấp thoáng một nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa. Vậy thì những đề nghị ngày xưa của tôi đâu là tội. Tôi, con gà gáy trước khi trời sáng, chỉ là thứ gà non, gà ngoại, gà lai giống, gà vừa đạp vỡ vỏ trứng đã vội khập khiễng đi tìm rạng đông.
Tôi men ngách vào nhà anh, số 43 Lý Quốc Sư. Nhà vẫn vậy, nhưng quán rượu thì dẹp rồi. Cháu nội gọi ông, anh từ gác xép leo xuống. Anh đây. Anh gày gò, tóc bạc gần hết đầu, mắt trũng sâu, răng cửa đã khuyết một cái. Anh ngẩn ngơ nhìn. Tôi ôm lấy anh. Chúng tôi ngồi nhìn nhau. Giữa chúng tôi là bốn năm tù của anh. Tôi nói «... có điều gì khúc mắc anh cứ hỏi». Anh bảo «... giá em về trước hai năm thì anh em mình chẳng được thế này đâu». Tôi im lặng. Trong tù đầy, hỏi cung, quay quắt ra biết bao nhiêu thêu dệt thực hư. Tôi hỏi «Tập thơ anh chép cho em, anh đã lấy lại rồi chứ ?». Anh cười, cái cười đau xót. Ðó là cái lấy lại được, nhưng vừa ra khỏi tù thì anh mất ngay chị, rồi liền sau đó anh mất con gái anh, cũng tên là Yến. Nước mắt ứa ra, anh kể :
«... đêm hôm đó, anh đang chập chờn ngủ, sao lại ở đâu có một con bướm vàng bay vào lảng vảng quanh màn. Mở cửa màn, con bướm chui vào. Anh linh cảm, anh biết, anh khấn. Bướm bay rồi đậu lên bàn thờ. Anh lại khấn «Yến ơi, con ơi, con về đấy à, khổ thân con». Bướm từ bàn thờ bay xuống quấn quít bên anh như không nỡ rời dẫu âm dương cách trở».
Nắm tay anh, tôi không muốn để anh mất mát thêm bất cứ gì. Sau, tặng tôi tập thơ Men Ðá Vàng, anh viết «...để cùng nhớ những năm tháng đầy oan nghiệp nhưng cũng đầy hạnh phúc». Ðấy, cặp bài trùng oan nghiệp - hạnh phúc. Và hạnh phúc của nhà thơ lúc nào cũng là một điều thật bí ẩn. Bí ẩn như ngôi sao trên kia long lanh sáng, nhưng xa lơ xa lắc, kẻ bình thường như tôi có giơ tay lên với cũng không nắm bắt được.
Có một người Anh như anh, là một niềm hạnh phúc. Anh nghiêm mặt bảo «...cái vốn từ của cậu chưa đủ. Phải đọc đi đọc lại truyện Kiều. Rồi đọc cô tổ Xuân Hương...» Tôi cãi, chữ cho đơn giản chứ bí hiểm quá, sang quá, hay điển tích quá thì đều là «quá tải». Hôm ấy có cả Trần Dần và Lê Ðạt. Anh Ðạt khéo kết chữ cũ cho ra mới. Còn anh Dần, anh đi tìm chữ mới, đang thử nghiệm loại thơ cực ngắn, đôi khi chỉ đúng hai chữ. Anh quay hỏi «...nó nói thế, chúng mày nghĩ thế nào ?» Anh Ðạt lý giải. Còn anh Dần, anh nhìn tôi chằm chằm, buông gọn, cũng cực ngắn, «cứ làm !».
Cãi thế, nhưng tôi về tôi nghĩ. Tôi đọc đi đọc lại Truyện Kiều. Tôi đọc đi đọc lại thơ Xuân Hương. Tôi học chữ Hán để đọc cả Bắc Hành Thi Tập. Rồi tôi dịch lại hai trăm bài thơ Ðường mà khi chuyển sang tiếng Việt, những người đi trước tôi lại dùng thể lục bát. Rồi tôi dịch lại cả Chinh Phụ Ngâm của Ðặng Trần Côn cho sát lối Tập Cổ, tránh kiểu song thất lục bát của bà Ðiểm. Ðấy, chỉ một câu anh nó thôi mà khi hiểu ra tôi đã đổ mồ hôi như vậy. Chuyện này, tôi chỉ mới nói thoáng cho anh nghe. Nay nói lại, một cách gửi lời cảm tạ anh. Quả là vốn từ của tôi nay có hơn xưa. Song có ân ái được với nàng Thơ hay không lại là một chuyện khác.
Hợp rồi tan. Tôi lại phải ra đi. Cứ mỗi lần như thế, anh nhắn nhe «...lại anh thêm dăm phút». Lúc tôi về, anh lại đạp xe đạp theo đến khách sạn. Và khi chia tay, anh ôm tôi, anh hôn, anh khóc. Tôi nhìn theo anh trong bóng đêm. Mái tóc anh trắng bồng bềnh lồng lộng gió ven hồ Hoàn Kiếm. Bóng anh mãi cũng xa dần rồi mất tăm. Lúc ấy tôi cũng khóc.
Chúng tôi là những kẻ mau nước mắt.
7
Nhưng cũng có một thời những giọt nước mắt chảy vào trong. Và rồi một thời khóc - cười là một. Hè năm 1990, bước vào Nội Bài thì người ta đã hờm sẵn. «Xin mời ông qua bên này !». Vâng. Cuối cùng, «Ông hiểu cho. Ông không có phép nhập cảnh !». Tôi hỏi «... thị thực nhập cảnh đây. Giấy mời đây. Chắc là lầm lẫn gì đó...». «Vậy ông đợi, chúng tôi điện vào Hà Nội». Trưa hừng hực nắng. Chiếc quạt máy vừa quay vù vù, vừa lắc đầu qua lắc đầu lại. Nhìn ra sân phi trường, chiếc máy bay Air-Thai vẫn nằm lì ở đó. Một tiếng đồng hồ qua. Rồi hai tiếng. Hai vị công an cấp tá lại ra. Các vị bắt chiếc cái quạt máy lắc đầu «... Lệnh trên không cho phép. Ông thông cảm...». Tôi nói «...cứ để tôi ở khách sạn của phi trường. Hôm nay là ngày nghỉ. Ðợi đến thứ hai, ngày làm việc, tôi xin điện vào hỏi kỹ...». Lại tiếp «... vậy, ông đợi...». Một lát sau «... Lệnh trên không cho !». Chiếc máy bay Air-Thai không được phép cất cánh vẫn đó. Tôi hỏi «Lệnh trên là trên thế nào ?». Ðáp «...trên là cao lắm, chúng tôi chỉ thừa hành». Tôi cũng biết vậy, lắc đầu.
Tôi bước lên máy bay, được hai vị cấp tá xách hộ va-li đi hai bên. Cô chiêu đãi viên hàng không Thái hai tay chắp, cúi đầu reo như thông lệ «Welcome to Air -Thai !», rồi đưa lên ghim một bông lan vào áo tôi. Cô kịp nhìn ra bông lan cô gài cho tôi khi tôi sáng nay rời Bangkok bay đi Hà Nội vẫn còn đó. Cô ngại ngần, ánh mắt tối đi một thoáng, nói nhỏ «I am sorry !»
Ðến Bangkok, tôi phải đợi máy bay. Tôi quyết định ra bãi biển nằm, tránh cái hừng hực hè và mùi xăng dầu sùng sục xông vào mũi. Lúc đó, tôi thừa thời giờ để tìm nguyên do cái việc thô bạo kia ở Nội Bài. Phải, thời gian đó là chưa chẵn một năm từ khi bức tường Bá Linh xụp đổ. Và chỉ vài tháng sau những tiếng hò trên quảng trường Thiên An Môn. Rồi đám Việt Kiều ngây thơ chúng tôi lại ký Tâm Thư này nọ ( mặïc dầu riêng tôi, tôi không ký vì lý do Tâm Thư chưa đủ tính triệt để đáp ứng với thời cuộc lúc bấy giờ). Rõ ghét. Và tôi, cái con gà non ngông nghênh chưa sáng đã gáy, cho vào là lại tổ bực mình rách việc !
Vâng, tôi nghĩ là chỉ có thế. Lúc ấy, khóc - cười thành một. Tôi không còn hờn oán gì nữa, chỉ thấy tội nghiệp cho quyền lực.
Những cánh phượng vĩ vẫn đỏ rực dưới nắng vàng óng ánh mật ong. Ðỏ như phượng vĩ Hà Nội. Biển vẫn xanh và sóng vẫn rì rào. Xanh như biển Việt Nam, quê hương tôi. Và rì rào như đòi quyền sống. Tôi thanh thản nhìn trời, nhìn nước. Bấy giờ, rõ ràng quê hương đích thực chính là lương tâm. Và mảnh đất lưu đày nào cũng là những mảnh đất không tôn trọng nhân phẩm và quyền con người. Thôi, từ biệt nhé, ảo vọng về trí tuệ và lòng thành tín trong guồng quay của thế quyền. Từ biệt nhé, giấc mơ nóng vội đổi đời. Tôi viết một bức thư dài gửi cho cái trục chính của guồng quay gọi là bộ Chính Trị, khẳng định tôi tin rằng dân chủ là tất yếu, và làn gió ấy sẽ rồi thổi đến quê hương tôi như điều không khiên cưỡng được.
Ngửng mặt nhìn những cụm mây trắng thong dong, tôi biết tôi là một người có tự do. Vấn đề đặt ra : tôi làm gì với sự tự do đó. Tôi, một người may mắn, không thể vô trách nhiệm.
8
Là một người có tự do, tôi lại càng hiểu thế nào là tù ngục. Những năm anh tù tội nằêm trong trại giam lại ám ảnh tôi. Anh tội gì ? Ai có quyền cướp sống dăm ba năm một đời người ? Nhân danh ai, nhân danh gì ? Và hẳn anh rồi không có tội nên anh mới được phục hồi «hội tịch» vào năm 89 !
Phục hồi, chắc cũng trả cho tí tiền. Liệu tiền đó có đổi được những đêm dài lắng nghe muỗi vo ve, tiếng chuyện trò duy nhất với những tội nhân. Riêng anh, loại tội nhân có cái tội là chót làm nhà thơ. Và tội to hơn, thơ lại là thơ hay. Nhưng hình như có ai nói dân tộc ta toàn là những nhà thơ. Ðó là một điều đáng hãnh diện. Ðồng thời đó cũng là một điều bất hạnh trong cái cặp biện chứng oan nghiệt - hạnh phúc.
Thôi im đi, tiếng hát ngọng nghịu của thứ gió định mệnh khắc nghiệt sụp về đánh úp hạnh phúc. Thôi im đi, những lạc quan đen, những cú phất cờ hô khẩu hiệu, hoan hô và đả đảo. Hãy trả cho chúng tôi những cái tay bắt chân thành, những cốc rượu của tình bạn, những cuộc đoàn viên có tiếng cười, những phi vụ vui chơi lương thiện... Tôi bị cấm về, chỉ thỉnh thoảng nghe tin anh qua bè bạn, là ông ấy năm nọ ốm đã tưởng đi, ông ấy khỏe lại yêu, yêu PQ, yêu B.Ng, Yêu ÐÐ..., yêu vân vân và vân vân. Tôi mừng, ông ấy vẫn đó. Cho đến 1998 tôi mới lại đặt chân trở lại Hà Nội. Lần này về, về cho bè bạn. Và đi kèm có cháu Việt, con trai lớn của tôi.
Lại men cái ngách 43 Lý Quốc Sư. Ngách vẫn thế nhưng nhà anh nay khác, lên ba tầng, trước nhà vẫn còn một đống cát, xi-măng, và dăm ba chiếc xẻng. Bây giờ, không ai réo tên nhau. Phải bấm chuông. Tôi hồi hộp. Cửa mở. Anh thò đầu nhìn, mắt nhắm mắt mở. Tóc anh xù ra bạc trắng màu mây. Anh còm xuống. Răng thật rụng hết, nay chỉ có răng giả. Anh cười. Ở một cái tuổi nào đấy, cười làm sao thì cũng như hơi mếu máo. Anh ngồi xuống ghế salon bọc simili-cuir. Bàn kính. Nhà lát gạch hoa. Thế thì đâu rồi những chiếc ghế đẩu nằm soài ra trên nền đất nện ? Thế thì đâu rồi cái điếu cày, dăm chiếc đóm, chai rượu mơ và ngọn đèn hoa kỳ bâác vặn thật thấp li ti đốm cháy ? Tôi xin anh, thôi lên chỗ anh ở, chứ ngồi salon làm gì. Leo gác hai, anh đẩy cửa. Một cái giường đơn. Trên sàn, trải chiếu, khay nước nằm tênh cạnh ngọn đèn hoa kỳ. Và chiếc điếu với dăm vê thuốc lào. Rồi dăm chiếc đóm. Tôi ngồi sụp xuống đất. Tôi bắt đầu nhận ra anh. Anh cười. Bấy giờ, cái cười mới hết mếu máo.
Lần sau đến, tôi kể cho anh nghe ý định viết một vở kịch về quan họ. Lần ấy, có TK, rất duyên và cực xông xáo vui chơi. TK hẹn sẽ cùng nhau đi Bắc Ninh làm một chầu quan họ, dọa là «các em» bên đó «tình» lắm. Còn phần tổ chức «hành quân», TK la «...cứ để tôi». Về, tôi hẹn đến đưa anh đi ăn cơm trưa với Việt ngày mai. Khi bố con tôi đến thì người nhà anh bảo anh ốm lắm. Chúng tôi lại leo gác hai. Trong phòng, anh co quắp trên chiếc chiếu giải trên sàn, mình đắp chăn. Tôi cúi xuống nhìn. Mắt anh nửa khép nửa mở, trắng đục, vô hồn. Anh không nhận ra tôi.
Anh phải vào viện. Năm ngày sau, bố con tôi đến thăm anh trong nhà thương. Anh bị xưng phổi sau cái chuyến đi «trình diễn» thơ ở Thái Bình thì phải. Mỗi chuyến đi thế, cũng được thù lao một hai triệu, nghĩa là một, hai trăm đô Mỹ. Lộc thơ chỉ có thế, và phải chờ những ngày cuối năm. Chúng tôi đến thì đã có dăm ba phóng viên những tờ nhật báo của Hà Nội. Anh lại khều tôi, miệng cười rất tươi, chỉ một chị phóng viên ước độ trên dưới ba mươi, và hỏi «...trông được chứ nhỉ !». Rồi anh víu vai cháu Việt, nói bằng tiếng Pháp, «Bác về là sẽ hỏi cô ta làm vợ». Ngớ ra, Việt không hiểu nhìn tôi dò hỏi. Anh tiếp tục, rất chân thành, «Mais oui, je vais lui demander sa main... c ’est sur». Sau, con tôi cứ cười, bảo «...quả bác ấy là nhà thơ. Un poète-fou !»
Ðúng đấy Việt ạ. Có nhà thơ nào không điên ? Tôi lại nhớ lời ra tiếng vào của một người bạn, bàn «Ông ấy nỡm lắm. Già thế mà lên tivi cứ nói tình yêu này, tình yêu kia... Nghe ngượng đỏ cả mặt !». Thưa anh bạn đứng đắn, anh Cầm thế, vì anh ấy sống phút nào là chong mắt tìm một cốt đồng để nhập vào, hy vọng thêm một lần ân ái với nàng Thơ. Nỡm ư ? Nhưng ngẫm kỹ mà xem, cứ giả thử như chúng ta có tất cả nhưng không còn yêu thương được nữa, giả thử như trái đất này đánh rơi vào cái rọ đen - black hole - tất cả tình yêu và đam mê. Chúng ta có tất cả đấy, nhưng lại không còn gì ngoài cái hành trình của những người không tim trong thiên hà mênh mang kia. Anh bạn đứng đắn ơi, trong hành trình đó anh cứ đi một mình. Chúng tôi xin ở lại.
Tôi đến chào anh một lần cuối trước khi bay vào Ðà Nẵng. Lần ấy, chúng tôi tẩn mẩn đếm sổ văn hóa xem có ai và đã làm được những gì suốt ba mươi năm qua trong nền Thơ - Văn của chúng ta. Lần ấy là lần anh kêu «... thế là lấy của thiên hạ quá nhiều rồi !». Có lẽ. Huy Cận của Lửa Thiêng, trước khi làm quan thì cũng chỉ được dăm ba bài. Làm thơ, không thể làm quan. Không thể làm giàu. Làm quan làm giàu rồi, thơ chết. Nàng Thơ không ưa công đường. Không thích nhà cao cửa rộng, ngươì hầu kẻ hạ. Và nàng chúa ghét những kẻ nói khéo, nói láo, nói dai, nói ngoa, nói nhiều và nhất là loại nói-không-ai-nghe. Nàng hay ghen. Yêu, thì Nàng phải là Cứu Cánh, là vợ cả. Không bao giờ Nàng chịu làm lẽ cho phương tiện danh lợi và quyền lực. Và ân ái với Nàng, bạn chớ chơi trò chơi «kiểu». Kiểu hiện sinh, hiện thực, hiện đại hay thậm chí hậu hiện đại theo chữ nghĩa thời thượng. Trong 36 kiểu, xin hãy làm tình theo cách tự nhiên phát sinh từ bản năng mình. Với Nàng là chỉ có Thơ. Thế thôi.
Ðếm, đếm đi đếm lại. Cuốn sổ văn hóa mỏng dần. Mỏng làm cho bật máu và chảy nước mắt. Tôi thấy dẫu anh bảo anh có lấy quá nhiều của thiên hạ, anh còn phải lấy nữa. Ngoài dăm ba vì sao lấp lánh, văn hóa của chúng ta mươi năm trở lại đây lại hụt hẫng vào cái rọ đen - cái black hole - ghê rợn kia trong một nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa. Nếu phải hô khẩu hiệu, tôi đả đảo cả hai, chỉ hoan hô một mình nàng Thơ.
9
Bây giờ, trên đầu hai thứ tóc nên tôi rất sợ hô khẩu hiệu. Chẳng hạn loại khẩu hiệu như «... tất cả cho mai sau», hoặc «Tự do hay là chết». Bây giờ, trên đầu hai thứ tóc, tôi rất do dự khi đụng vào cái chết. Tôi linh cảm rằng sự sống quí hơn tất cả. Nó đèo bồng trên lưng tự do. Và càng tự do thì gánh nặng càng nhiều. Cái gánh nặng đó nằm trong câu hỏi là ta làm gì và sống ra sao với cái tự do đó. Cho những người theo đòi nghiên bút, làm gì là viết gì. Sống ra sao đồng nghĩa với ý thức trách nhiệm thế nào với người và với mình.
Ngày bức tường Bá Linh sụp đổ, có người bạn gửi cho tôi một cục đá nhỏ. Anh viết kèm «... kể từ nay, tự do không còn là một cụm từ trong thứ ngôn ngữ chết. Con người biết tự mình cởi ra những sợi dây trói buộc, kể cả đám lính kín, công an. Chúng ta có quyền hy vọng...». Anh ta kể ra hoài bão thực hiện một bộ tiểu thuyết về bức tường mà không còn sợ hãi gì nữa. Mươi năm qua, anh vẫn chưa viết gì được. Tôi hỏi, anh đáp hai trăm trang đã viết là viết trước ngày bức tường sụp đổ. Từ đó, anh chịu. Tự do đấy, nhưng anh chỉ thêm được vài trang. Còn hai trăm trang kia, anh đã lặng lẽ viết trong nỗi lo âu. Lo và sợ. Ðến độ vợ con anh cũng không hay biết. Tôi lại hỏi, tại sao, tại sao thế. Anh buồn bã trả lời «...ngày trước, tôi viết chống một cái gì để cho một cái gì khác chưa có. Nó thật rõ ràng. Bây giờ ư ? Cái gì đó chưa có đã thành ra có, nhưng có đấy mà lại mù mờ nên tôi không còn định hướng viết cho cái gì được nữa. Có nhà xuất bản bảo tôi, hãy viết để giải trí cho công chúng người đọc thôi, vừa dễ viết, vừa dễ bán. Viết hay sẽ dịch ra tiếng Anh, có cả thị trường toàn thế giới. Tôi đã thử, nhưng rồi xấu hổ đem đốt cả đi. Tôi không muốn là một nhà văn vô trách nhiệm...».
Nhưng trách nhiệm đó là gì ? Có lẽ với anh là ca ngợi Tình Yêu chăng ? Chỉ năm ngoái tôi mới được anh cho tập thơ Về Kinh Bắc, tập cuối cùng anh giữ lại. Sách in lem nhem, bìa photocopy đen trắng trên nền xanh lơ, mặc dầu để là nhà xuất bản Văn học in năm 1994. Tôi cầm cuốn sách, lòng ngậm ngùi. Những vần thơ mượt mà nhất trong thơ Việt Nam thế kỷ hai mươi bị tình phụ trong nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa ?
Nhưng đó là những vần thơ tình rất đẹp. Tình yêu Kinh Bắc. Bắt đầu bằng năm đêm, trong ngũ hành. Rồi anh đi liền bảy nhịp, trong một cuộc tuần du có Mẹ, có Chị và Lỡ Làng. Lỡ làng, bến tình không người đợi. Lỡ làng, mắt mỹ nhân khép đến thiên thu. Lỡ làng, những mảng hoa bèo ao cá quẫy. Lỡ làng, xin Chị một quả ương, Chị lại dối quả ương chim khoét thủng dẫu chẳng con chim nào lại chọn quả ương. Lỡ làng, cúi nhặt chiều mưa dăm quả rụng... Lỡ làng, quan đốc đồng áo đen nẹp đỏ, thả tịnh vàng cưới Chị võng mây trôi. Lỡ làng, em đứng nhìn theo em gọi đôi. Lỡ làng, đứa con anh thai nghén sau những đêm ân ái với nàng Thơ. Lỡ làng, cơn đau của con tằm rút ruột nhả tơ. Lỡ làng, là đời anh. Bởi anh biết yêu. Biết yêu là yêu đến cuồng dại, tôi viết tặng anh :
«Hờ hững buốt căm, bờ sóng lụy
cuồng si thiêu rụi bến đa tình,
Ba ngả sông về người bơi đứng
Cợt đám hoa bèo dạt đến quanh..»
Ðể kết một cuốn sách đọc lâu rồi nên tôi đã quên tên, Albert Breton - một cột sống trong phái siêu thực - viết «Je vous souhaite d’ être follement aimée.» ( Xin chúc bạn được yêu đến cuồng dại ). Ðược yêu thôi ư ? Cũng tạm. Nhưng tôi, tôi chúc anh khác, chúc anh hơn vậy nhiều. Tôi chúc anh yêu đến cuồng dại. Tôi cũng chúc tôi yêu, với chữ Yêu cùng một lúc hiểu như danh từ, trạng từ và nhất là như động từ. Vâng, yêu có bao giờ lại là tĩnh từ. Nhất quyết là phải thế chứ. Vì Yêu là trách nhiệm cứu rỗi của những con chữ có nghĩa. Những con chữ đẹp. Những con chữ có đời sống. Muốn đẻ ra chúng, thì có hề chi những cơn đau trở dạ. Thì có hề chi những lỡ làng.
Tôi nhớ đã hỏi anh Hoàng Cầm, tại sao là Hoàng Cầm, và Hoàng Cầm có nghĩa gì ? Anh cười, có chút gì như là chua xót, «Hoàng Cầm là tên một vị thuốc đắng... Tên nó vận vào người».
Hoàng cầm còn vận vào thành một vị thơ. Vị của những vần thơ sang nhất, đẹp nhất, nhưng cũng xót xa nhất của dòng thơ Việt Nam ở thế kỷ 20. Cơn mây mưa giữa nàng Thơ và Anh đã sinh hạ ra Lỡ Làng, dấu vết cặp oan nghiệp -hạnh phúc như vết chân con rắn và trái táo cắn dở của Eva. Nhưng hề chi, có hề chi.
Viết đến dòng này, đếm ra còn đúng bốn ngày nữa là chúng ta cùng bước qua ngưỡng cửa thế kỷ 21. Tôi lại chúc, anh Cầm, chúc anh yêu đến cuồng dại cả thiên niên thứ ba này, anh nhé.
NAM DAO
27-12-1999
Copyright © 2008 www.hopluu.net.
23/5/10
Thuở Đất Tình Lên Ngôi
Thuở Đất Tình Lên Ngôi
PHAN XUAN SINH
Ngày cúng thành hoàng làng Nghi An năm đó (1890), tiên chỉ, lão làng đang dâng hương cầu xin quốc thái dân an, nghi lễ cúng bái trang trọng và thành tâm, thì có một thằng bé đứng bên ngoài nói lớn:
-“Quốc thái dân an” là do mình tranh đấu mới có. Cớ sao lại xin xỏ tầm phào như vậy?
Nói xong thằng bé đó bỏ chạy.
Các chức sắc trong làng ngẩn ngơ, không ngờ có người to gan dám nói lên điều cấm kỵ. Hỏi thằng bé đó là con nhà ai mà dám xúc phạm đến uy danh thần linh như vậy. Có một tráng đinh bước lên chấp tay thưa:
-Đó là thằng bé con ông Hương Tân đang có mặt ở đây. Tên hắn là Thái Phiên.
Các chức sắc và lão làng mời ông Hương Tân đến hỏi chuyện về sự ngỗ nghịch của thắng bé. Hương Tân tái mặt, không ngờ thằng con mình làm điều hổn láo như vậy. Mới tám tuổi mà đã đụng đến điều húy kỵ, thì thằng nầy không còn dạy được nữa rồi. Ông chấp tay xin lỗi và hứa sẽ về dạy con. Mọi người trong làng cũng vị nể ông vì dù sao ông cũng thuộc hàng hương mục của làng, một gia đình danh gia thế phiệt, có sự đóng góp đáng kể mỗi khi làng Nghi An cần có sự quyên góp. Ông nghiến răng tỏ vẻ tức giận, sau bữa tiệc cúng làng, về nhà ông sẽ cho nó một trận đòn nên thân. Ông ngồi ăn mà cảm thấy mắc cở với chức sắc và dân làng. Ông cúi đầu cố nuốt trôi miếng ăn cho xong bữa rồi vội vàng đứng lên”kiếu” tất cả mọi người ra về. Ông hầm hầm trong bụng, sẽ đánh thằng con nát thây cho nó chừa cái tội hổn láo, làm nhục gia cang.
Từ đằng xa nhìn về nhà, ông thấy thằng Phiên con ông ngồi nói chuyện với ông nội như có điều gì đắc ý, ông cháu ôm nhau cười, ông càng cảm thấy lộn ruột. Bước vào hiên nhà, ông la lên:
-Thằng kia tới đây cho tao biểu.
Ông nội của Phiên đứng lên, đưa tay như che chở cháu mình:
-Chuyện chi còn có đó, từ từ hỏi cho ra lẽ rồi hãy đánh nó, chưa muộn.
-Hắn phá đám bữa cúng làng hôm nay, cha nghĩ coi có tức không?
Ông nội từ tốn trả lời:
-À, thì ra chuyện nớ. Thằng Phiên có nói lại với tao. Tao khen nó mới chừng đó tuổi
mà có chí khí, sau nầy làm được việc lớn.
-Trời đất, cha che chở cho hắn làm bậy?
-Ai bảo là nó làm bậy. Chỉ có những người bậy mới không chấp nhận lời ngay thẳng của thằng bé. Giặc giã hoành hành khắp nước, không lo tìm cách chống trả. Đi lo cái chuyện cúng bái vu vơ, cầu xin những điều không thể thần thánh làm được. Chỉ có con người, chỉ có sức mạnh của con người mới làm được. Thế thì xin xỏ làm chi ở thần thánh vô ích.
Ông Hương Tân giật mình. Ai dạy cho thằng bé nầy cái ý nghĩ sâu xa như vậy? Chính ông cũng chưa nghĩ ra được thì nó đã nói ra điều nầy. Cơn giận dữ của ông tự nhiên tan mất. Mấy ngày nay, ông Tú không để ý câu nó đọc sang sảng trong nhà: “Quốc vinh ngô thân vinh, quốc nhục ngô thân nhục”*. Mới có tám tuổi đầu mà đã biết được “vinh nhục” của đất nước. Những xáo trộn bên ngoài đã nhập tâm vào đời sống trẻ thơ. Ông lẳng lặng vào nhà, trong lòng ông có chút gì như thỏa mãn. Thế nhưng ông biết con người “hiểu biết” sớm quá, biết “lo” sớm quá cuộc đời sẽ khổ. Biết làm sao hơn khi mà con người không thể nào cưỡng lại được với số mạng. Thôi thì vận nước trong thời loạn, ai cũng có trách nhiệm đóng góp dù trách nhiệm đó đi đến chỗ phân thây.
Thái Phiên học hành rất thông minh nhưng cũng rất ngỗ nghịch. Giữa thời mạt vận của chữ nghĩa thánh hiền, ông không đi thi và sau nầy chuyển qua tây học. Ông mau chấp nhận nền học thuật của tây phương và tỏ ra xuất sắc, am tường kim cổ, đông tây nên ông hành xử mọi việc một cách hợp tình hợp lý. Gia đình giàu có mà lại con một, nên ông được cha mẹ chìều chuộng. Ông phải nghe lời cha mẹ lấy bà Trịnh Thị Nhuận khi mới mười sáu tuổi để có con nối dõi tông đường. Ông nổi tiếng ăn chơi trác táng, chuyện gia đình không hề ngó ngàng tới, một tay người vợ đảm đang. Còn cha mẹ ông, sau khi ông lấy vợ vài năm thì cha mẹ qui tiên. Ông càng buồn càng uống rượu và đi đây đó nhiều nơi. Chính cái chuyện đi nhiều, hiểu biết rộng, lại có tấm lòng nên ông lại càng đau khổ cho vận mệnh đất nước. Người ta nghĩ rằng ông không chấp nhận đường lối nào hết để đi theo. Ông cao ngạo không phục ai vì thế ông lại càng đắm chìm trong chén rượu. Thế nhưng ai biết được lòng ông?
Một hôm ông đến Cẩm Lệ, ghé qua một quán rượu bên đường. Người chủ quán là một cô gái mặn mòi xinh đẹp. Vừa uống rượu vừa tán tỉnh, giễu cợt chơi. Thử xem cô gái thuộc loại nào cho biết. Cô gái không trả lời một tiếng, chỉ cười. Ông thấy thái độ của cô gái có chút gì không bình thường, trong đôi mắt của cô có vẻ khinh khi ông. Từ trước tới nay, đi đâu ông cũng được người ta cung phụng, nể nang. Đây là lần đầu tiên ông gặp một người không nể ông dưới con mắt của họ. Ông thấy cô gái nầy toát lên một cái gì đó có một chút kiêu hãnh, một chút hiểu biết thầm kín mà ông cảm thấy quý trọng. Ông không còn có thái độ khinh bạc như lúc mới bước vào, ông trầm ngâm uống rượu và giữ mình không đến độ phải say để đi nghiêng ngã. Ông thấy trong người vừa đủ, ông đứng lên trả tiền rồi ra về.
Ngày nào cũng vậy, từ Nghi An ra Cẩm Lệ đoạn đường cũng xa, thế nhưng ông thấy không có một nơi nào trong vùng có rượu ngon như quán cô gái đó. Vì vậy ông là vị khách thường xuyên của quán. Làm gì mà không có rượu ngon, hay là ông phải lòng cô gái đó cũng chẳng biết. Bao giờ bước vào quán ông cũng có cái cảm tưởng như trút bỏ cái trần tục ra bên ngoài, lòng ông thanh thoát như tiên, như Từ Thức mà gặp phải Giáng Kiều. Ông chọn một góc quán, để có cái nhìn rộng và hình như cũng để quan sát cô gái.
Vợ ông mấy lúc rày trong mình không được khỏe, bà đến nhà người thầy thuốc làng bên để hốt vài thang thuốc. Người thầy thuốc bắt mạch và cho bà biết là mạch của bà yếu và hình như có một triệu chứng khác thường, một chứng bệnh hung hãn đang bắt đầu hoành hành. Bà lo lắng không biết nếu có mệnh hệ nào, không thể sống được thì gia đình con cái ra sao. Người chồng suốt ngày rượu chè với bạn bè, không hề biết một chút xíu những công việc quán xuyến gia đình thì làm sao bà yên tâm. Chính những lo lắng nầy đã làm cho bà càng ngày càng yếu thêm, bà biết là bà đang bị cơn bệnh tấn công sắp đến giai đoạn khẩn trương, sức khỏe xuống rất thấp. Một hôm nghe người làm trong nhà báo cho bà biết, là ông thường đến Cẩm Lệ để uống rượu trong quán của một cô gái. Tự nhiên mắt bà sáng lên, bà nghĩ ngay đến chuyện phải kiếm tìm cho ông một người vợ kế để thay cho bà sau nầy, nếu không may bà mất đi. Người mà ông phải lòng lại càng tốt, sẽ giúp cho gia đình thuận lợi, suông sẻ. Bà chưa gặp cô gái nầy nhưng bà có linh cảm người nầy sẽ giúp được gia đình bà qua cơn nguy ngập.
Bà gọi người xà ích tới nhà để chở bà đi Cẩm Lệ. Bà cho người xà ích biết là bà muốn tới quán rượu mà ông Phiên nhà bà hay lại đó. Người nầy tưởng rằng bà ghen tuông muốn tìm tình địch, nên nói thẳng cho bà hay đây là quán của một cô gái đàng hoàn, ông nhà chỉ uống rượu chứ hai người không có tình ý gì với nhau. Bà gật đầu cười và có vẻ hiểu biết, trên nét mặt hiền từ tươi tắn, không tỏ một chút ghen tương. Nên người xà ích cũng yên lòng chở bà đi. Buổi trưa quán vắng khách, bà bước vào dở nón ra đến ngồi bên góc quán, vô tình bà ngồi vào chỗ nơi ông thường ngồi. Cô chủ quán từ dưới bếp bước ra thấy bà gật đầu chào, bà tươi cười chào lại. Bà xin một bát nước chè tươi và tự giới thiệu là vợ của ông Phiên, người khách thường đến uống rượu ở quán nầy. Cô chủ quán “à” lên một tiếng ngạc nhiên và hỏi bà có gì xin dạy bảo.
Bà ngần ngừ rồi xin cô ngồi xuống cho bà được hầu chuyện. Bà trình bày bệnh tình của bà, một chứng bệnh nan y mà bà nghĩ rằng không thoát được. Bà không thể yên lòng nhắm mắt khi các con còn quá nhỏ, gia đình bộn bề công việc không ai chăm sóc. Bà thực sự muốn tìm một người vợ kế cho ông để bà yên lòng nhắm mắt, người đó được bà trông thấy và biết trước thì lòng bà được bình yên hơn. Khi trông thấy cô, linh tính cho bà biết ngay đây là người đảm đan mà bà tìm kiếm, người ân nhân cho chồng con bà sau nầy, người có thể thay thế bà quán xuyến gia đình trong tư thế tề gia và nội trợ. Bà trình bày hết tất cả ý nguyện của mình và khẩn khoản nhờ cô giúp. Cô chủ quán suy nghĩ vì bất thần quá cô không chuẩn bị kịp. Thế nhưng cô thấy tôi nghiệp cho bà, một người đàn bà sắp chết vẫn còn lo lắng cho chồng con. Dưới mắt của cô, ông Phiên cũng là người có phong cách đặc biệt, người mang nhiều suy tư, chất chứa u uất mà thường thấy ở các sĩ phu khi đất nước lâm nguy. Đây là cơ hội để cô tìm hiểu thêm về con người có chút bí mật nầy.
Cô nắm lấy tay bà, rồi nói:
-Thôi được để rồi tôi định đoạt sau. Thế nhưng còn phải ý kiến của ông nhà, ông ấy có chịu cho tôi về làm vợ lẻ không?.
-Chuyện đó cô khỏi lo, tôi có cách sắp xếp cho ổn thỏa.
Rồi bà từ tạ ra về. Không quên lấy về cho ông mấy bầu rượu.
Vài tháng sau, căn bệnh của bà trầm trọng. Ông phải ở nhà chăm sóc vợ nhưng cơn bệnh ngặt nghèo bà không qua khỏi. Bà mất để lại cho ông mấy đứa con thơ dại. Lúc nầy ông mới hối hận, không giúp vợ trong cuộc sống gia đình. Từ xưa tới giờ ông không làm gì, chỉ biết đi uống rượu, mọi chuyện do vợ quán xuyến. Bây giờ vợ mất ông lúng túng và phải xoay sở để nuôi con. Ông thèm và nhớ đến cái quán rượu nho nhỏ bên vệ đường, gần một tháng nay ông không tới được. Người phu xe thổ mộ trước đây mỗi ngày chở ông ra quán, cũng buồn thiu. Thấy ông người nầy chỉ biết cúi đầu chào, chứ không dám nhắc ông ra quán uống rượu giải khuây. Vợ mới mất, cái tình, cái đạo nghĩa nó không cho phép ông tìm vui trong chén rượu. Ông không muốn để người ngoài chê cười cho cái không biết giữ lễ của mình. Mặc dù ông sống bạt mạng, bỏ ngoài tai những dị nghị, nhưng những cái đó là không tổn hại đến gia đình con cái. Còn đằng nầy nó nằm trong vòng lễ giáo mà ông là người thấm nhuần chữ nghĩa của thánh hiền, ông phải giữ nó cho phải đạo.
Mỗi ngày sau bữa cơm, ông rót ra một chén rượu ngồi nhâm nhi một mình. Hôm nay cũng vậy, ông vừa rót rượu ra chén thì người nhà vào báo cho ông biết có một người khách đến thăm. Một người khách đến thăm vào chạng vạng tối, ông chỉ đoán ra đây là người quan trọng vì những bạn bè chung quanh đây người nhà đều quen mặt. Người nầy phải ở xa. Ông cho người mời vào. Ông đứng dậy đón khách, người khách dỡ nón ra chào lại. Khách thuộc tuổi trung niên, khuôn mặt quắc thước, có một nụ cười cởi mở. Khách nhìn quanh không có ai, rồi thưa:
-Thưa ông Thái Phiên, tôi đường đột tới đây trước là thăm ông, sau có một vài chuyện thưa với ông.
-Thưa, ông chưa cho tôi biết ông tên gì và đang làm việc ở đâu? Trước khi chúng ta bàn qua chuyện khác.
Người khách cười ha hả:
-Ông thật sự muốn biết tên tôi? Thì tôi cũng không giấu giếm ông làm gì. Chắc ông không biết, nhưng tôi vẫn nói, tôi là Trần Cao Vân.
-À, thì ra tên ông không những người dân Quảng Nam thôi, mà cả nước đều biết. Tên ông vang lừng bốn bể. Tại sao ông nghĩ rằng tôi không biết.
Trần Cao Vân lại cười to hơn và cũng nói to hơn:
-Tôi nghe người ta nói ông cao ngạo, không cần biết ai thì cái tên Trần Cao Vân đâu là gì với ông.
Thái Phiên cũng cười hả hả, trả lời:
-Đó là đối với bọn sâu dân mọt nước, chứ còn như ông tôi phải cúi đầu.
-Cám ơn lời đối đáp thiệt lòng của ông. Còn ông là người tôi mến phục.
Thái Phiên gọi người nhà làm một con gà nấu cháo, gọi người khác qua nhà người xà ích chạy đi Cẩm Lệ lấy mấy bình rượu ngon đãi khách. Hai người uống rượu, nói chuyện thâu đêm. Trần Cao Vân ở lại đó ba ngày. Không biết đã nói với nhau chuyện gì, sáng sớm Trần Cao Vân lên xe ngựa ra đi, Thái Phiên đến tận xe tiễn bạn mà lòng còn bịn rịn.
Vài hôm sau ông đón xe ra Cẩm Lệ, đến quán và trở lại ngồi vào góc quán thong thả uống rượu. Ông gọi thêm một bầu rượu nữa thì cô chủ quán bảo rằng hết rượu. Ông ngạc nhiên la lớn:
-Quán thế nầy mà không đủ rượu sao?
-Nước mà cạn kiệt, thì rượu làm sao còn.
-Thế thì phải làm sao?
Cô chủ nhìn thẳng vào mặt của ông, đưa hai bàn tay lên, trả lời một cách đanh thép:
-Góp đôi tay thì được tất cả.
Ông sững sờ, trố mắt ra nhìn cô chủ. Không ngờ một người con gái mà có lòng với đất nước như vậy, thì đây không phải là người tầm thường. Cô ta chỉ mang ra cho ông một chén rượu khác để trước mặt, như có lời nhắn nhủ phải để thời giờ lo chuyện khác, nên chấm dứt uống rượu giải sầu.
Cô chủ thấy vắng khách nên đến ngồi trước mặt ông:
-Mấy hôm trước có một người khách lạ đến đây uống rượu. Người đó hỏi tôi về ông. Rồi đến thăm ông.
-Cô biết gì về tôi mà trả lời với họ?
-Tôi không những biết rõ về ông mà còn biết rõ người khách kia là ai?
Rồi cô gái nhìn quanh không thấy ai, nói nhỏ vào tai ông:
-Ông là người tôi ngưỡng phục, ông làm những chuyện to tát mà không ai biết. Ai cũng nhìn ông là thằng nát rượu, không thấy được cái âm thầm theo đuổi việc vì dân vì nước của ông một cách thâm trầm. Ông qua mặt tất cả, chỉ trừ tôi.
-Thế thì cô là ai?
-Trần Thị Băng, Việt Nam Quang Phục Hội.
Thái Phiên đứng dậy hỏi dồn dập:
-Người của ai?
-Lâm Quảng Trung.
-Mấy hôm nay có gì lạ?
-Tiến sĩ Trần Quý Cáp mới bị chém ở tỉnh Khánh Hòa hôm qua.
Ông ngồi xuống thở dài, rồi bưng chén rượu uống một hơi. Nước mắt ông chảy xuống, cô Băng kéo vạt áo lên lau mặt cho ông. Ông chưa ráo nước mắt cho vợ thi bây giờ lại rơi nước mắt cho người đồng chí, chỉ có thế thôi đã hiểu được lòng ông.
-Bây giờ, tôi không còn con đường chọn lựa. Núp trong bóng tối hoạt động lâu nay không thấy kết quả, không giúp gì được nước nhà. Tôi phải ra mặt, tôi phải dấn thân. Nhưng ngặt một điều, vợ mới chết, con còn thơ dại, gia đình đơn chiếc, không ai quán xuyến gia đình, tôi không nỡ lòng ra đi. Mỗi lần nghe bạn bè tôi bị nạn, ruột tôi quặn đau như có ai cắt từng đoạn.
-Thưa ông, nếu có người tình nguyện thay cho vợ ông lo chuyện gia đình để cho ông rảnh tay rảnh chân, không còn nghĩ tới chuyện nhỏ nhoi nầy, ông có chịu không?
-Nếu vậy, tôi phải quỳ lạy cám ơn họ trước.
Cô Băng, suy nghĩ một chút rồi nói:
-Nếu như ông không chê bai tôi quê mùa, thì tôi sẽ tình nguyện làm chuyện nầy giúp ông. Trên danh chánh ngôn thuận, chúng ta phải làm một lễ cưới nhỏ thì tôi mới bước vào cửa nhà ông được. Còn chuyện vợ chồng thực tế, nếu có duyên nợ với nhau thì hà tất phải thành, không biết trước được. Nhưng trước mắt chúng ta phải lo cho đại cuộc.
-Như vậy thì Phiên nầy có chết cũng hả dạ rồi. Ơn nghĩa của cô dòng họ Thái nhà tôi trả không bao giờ hết được.
Cuộc nói chuyện với Trần thị Băng tại quán rượu sau vài tháng, Thái Phiên cho người dạm hỏi và sau đó lễ cưới được tổ chức trong vòng thân tộc. Trong đêm tân hôn, bà Băng đưa ra cho ông một lá thư của vợ ông gửi cho bà trước khi mất. Trong thư bà gửi gấm chồng bà cho bà Băng chăm sóc, như vậy hai người đã ngấm ngầm thông đồng với nhau mà ông chẳng hề hay biết. Bà Băng về nhà chồng, sống với ông được hai mặt con, bà lo cho cho gia đình và chồng con vẹn toàn. Ông tối ngày đi đây đi đó tiếp xúc với các sĩ phu lo chuyện đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi bờ cõi. Ông cùng với Trần Cao Vân sát cánh bên nhau đẩy mạnh phong trào cứu nước đến một đỉnh cao, chờ thời cơ hành động.
Năm 1914. Chiến tranh thế giới bùng nổ. Chính quyền Pháp cho bố ráp bắt những trai tráng xung vào lính mang về chính quốc để phục vụ chiến tranh. Phong trào Việt Nam Quang Phục Hội len lỏi vào hàng ngũ thanh niên chống lại việc tòng chinh sang Pháp, các truyền đơn kêu gọi anh em rời bỏ hàng ngũ do Pháp tuyển mộ, được anh em hưởng ứng nhiệt tình.
Lê Ngung thay mặt cho Quang Phục Hội, một mặt gửi thư xin ý kiến với cụ Phan Bội Châu, một mặt gửi thư cho Thái Phiên để khởi binh vì cơ hội đã đến. Chụp cơ hội chính quyền Pháp rối loạn lo chiến tranh bên chính quốc, vùng thuộc địa chểnh mảng. Nhận thấy lỗ hổng quá to, toàn dân nhân cơ hội nầy đứng dậy lật đổ. Thế nhưng mọi thứ chưa chuẩn bị chu đáo, các tổ chức chưa thống nhất, nhân dân còn hoang mang. Một cuộc họp khẩn cấp các thủ lãnh lại để quyết định. Nhận thấy còn nhiều trở ngại cho cuộc nổi dậy, tất cả đồng ý trì hoãn lại một thời gian để tăng cường lực lượng, tổ chức lại thành phần nồng cốt. Để yên lòng dân, mời vua Duy Tân, một người yêu nước gia nhập tổ chức, để tổ chức có tiếng nói chánh trực, để toàn dân tin tưởng.
Thái Phiên và Trần Cao Vân lãnh nhiệm vụ đi gặp đức vua. Dĩ nhiên chuyện gặp riêng nhà vua không phải dễ, vì chung quanh ngài bọn tay sai nhiều quá, nhứt cử nhứt động của ngài sẽ được báo cáo cho quan thầy. Hai người biết là vua Duy Tân chiều thường ra ngồi ở Phu Văn Lâu hóng mát, nhìn sông nước. Chiều nay hai người mang cần câu và một bình rượu ra ngồi đó trước.
Vừa thả cần vừa uống rượu. Khi vua tới thì lính hầu đuổi hai người đi chỗ khác, hai người không chịu đi, cãi lại với lính hầu:
-Sông nước nầy là của chung, không của riêng một mình ai. Tôi câu ở đây có mắc mớ chi tới mấy ông đâu?
Vua Duy Tân thấy hai người nầy ăn nói có chút gì khác thường, nên bảo mấy người lính hầu hãy để cho họ ngồi câu. Nhà vua trầm ngâm nhìn ra sông, mơ màng suy nghĩ.
Hai người nói chuyện lớn giọng, dù không muốn nghe cũng lọt vào tai vua. Họ mượn một câu hỏi và trả lời của người xưa để nói chuyện khơi khơi, thử xem lòng dạ vua thế nào. Nếu vua là người có lòng yêu nước thì thế nào cũng nao núng, phải gặp hai ông. Còn nếu vua là thứ “bù nhìn”, yên phận, không hiểu câu trao đổi của hai ông thì thứ nầy nên cần phải lánh xa, không cần gặp làm gì:
-Tay dơ lấy gì rửa?
-Nước.
-Chớ nước dơ lấy gì rửa?
-Máu.
Vua giật mình, đây không phải là người tầm thường. Ông lên tiếng:
-Hai anh kia quê mô? Đến đây nói chuyện chơi.
Nhà vua nói với lính hầu:
-Đem rượu ra đây mời khách, rồi tụi bay đi chỗ khác chơi.
Các lính hầu cứ nghĩ đây là hai tay nhà quê câu cá kiếm cơm, nên không thèm để ý.
Hai người tới sụp lạy, rồi nói nhỏ cho vua đủ nghe:
-Thưa bệ hạ, hạ thần ở Quảng Nam ra tìm cách gặp bệ hạ, bẩm báo đôi điều.
-Hai anh cứ nói thật lòng, không sợ chi hết.
-Việc nước đã đến hồi khẩn trương, như nhà cháy không chữa không được. Xin bệ hạ nghĩ tới dân tộc, nước nhà, tham gia với thần dân đánh đuổi quân xâm lược. Sự có mặt của Bệ hạ cốt để yên lòng dân. Hạ thần đã chuẩn bị chu đáo. Cuộc tổng khởi nghĩa toàn quốc sẽ bắt đầu vào giờ tý, ngày 2 tháng 4 năm Bính Thìn (tức 1giờ sáng ngày 3 tháng 5 năm 1916). Khởi điểm tại kinh đô Huế. Súng thần công sẽ được bắn lên mở đầu cho cuộc binh biến của toàn dân. Bệ hạ sẽ lãnh đạo toàn quốc nổi lên đánh đuổi quân xâm lược.
Nhà vua ngồi lắng nghe, lòng ông như mở hội. Từ lâu ông không biết cách nào để khuấy động lòng dân, chỉ có cơ hội nầy thôi:
-Chuyện thế nầy rất hợp lòng trẫm. Trẫm có một người thân tín liên lạc với các khanh sau nầy. Hạn chế gặp nhau để tránh tai mắt dòm ngó, hư đi đại sự.
Hai người đứng dậy uống với ông chén rượu, rồi lạy tạ ra về.
Trần Cao Vân lo chỉnh đón thực lực nghĩa quân các tinh, còn Thái Phiên lo liên lạc các nơi để đúng ngày giờ hành sư. Vào lúc 11 giờ đêm ngày 3-5-1916. Vua Duy Tân cải dạng thường dân đi xe kéo ra bến Thương Bạc rồi xuống thuyền, có Thái Phiên và Trần Cao Vân bố trí đứng đợi, Một người có chân trong nghĩa hội làm phản, báo cáo mọi sự việc cho Tòa Khâm Sứ Thừa Thiên biết vua Duy Tân buông tẩu.
Lập tức Tòa Khâm cùng với tay sai Nam triều, đuổi theo chiếc thuyền vua Duy Tân và hai ông Thái Phiên, Trần Cao Vân, bắt lại. Đưa vua trở về kinh thành, còn hai ông giam vào ngục. Một cuộc bố ráp trong đêm để tìm các tổ chức nghĩa quân. Các tỉnh Nam Ngãi, Bình Phú không nhận được tin tức, cũng bị nội gián báo cáo nên các thủ lãnh đều bị bắt. Cuộc khởi nghĩa bất thành. Tất cả những người chủ trương đều lên đoạn đầu đài.
Từ quê nhà Nghi An, Quảng Nam. Bà Trần Thị Băng hay tin chồng bị bắt, bà vội vàng đón xe tìm cách ra Huế để nhìn mặt chồng. Bà may sẵn một bộ đồ tang vì bà biết lấy một nghĩa sĩ trong thời loạn lạc, thì sớm hay muộn không tránh được cái chết. Khi còn trong gia đình thời con gái, bà được cha truyền những môn võ gia truyền để phòng thân. Nhất là các bộ tẩu mã, vi hành, bà rất xuất sắc.
Bà được tin ngày 16 tháng 4 âm lịch (tức là ngày 17-5-1916) các thủ lãnh đêm nổi loạn gồm có: Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu bị chém tại cửa An Hòa, ngoại thành Huế. Bà đến đó trước nghiên cứu đường đi nước bước, để cố làm sao đoạt được thủ cấp của chồng đem về Quảng Nam chôn cất tử tế. Bà cùng với anh em nghĩa quân còn lại, bàn luận để làm sao đoạt thủ cấp một cách an toàn, sắp đặt một chiếc thuyền sẵn vì bà biết nếu đi trên đường bộ thế nào cũng bị phát hiện. Sáng sớm ngày hành quyết một số anh em nghĩa quân và bà Trần Thị Băng có mặt tại pháp trường An Hòa. Các nghĩa quân sẵn sàng trong tư thế ngăn cản nếu có người đuổi theo bà. Mọi chuyện đều do bà định đoạt.
Người đầu tiên lên pháp trường là ông Thái Phiên, ông hiên ngang bước lên, như một tráng sĩ, mặt không chút sợ hãi. Ông nhìn xuống thấy vợ mặc đồ tang, ông gật đầu rồi cười ha hả. Quan chỉ huy pháp trường hỏi ông cần nói gì lần cuối. Ông dõng dạc hô to: “Đả đảo tụi tây và bọn tay sai”. Ông hô to ba lần như vậy, trước khi cúi đầu cho đao thủ phủ chặt đầu. Hành động ngang tàng và dũng cảm của ông đã làm cho những người đứng xem và ngay cả kẻ thù phải thán phục.
Đầu ông vừa rơi xuống, bà Băng phóng tới căng vạt áo tang hứng đầu chồng không cho rơi xuống đất. Rồi bà ôm đầu chồng phóng chạy. Tất cả lính tráng Nam Triều bất thần ngẩn ngơ không trở tay kịp, khi họ định thần chạy đuổi theo bà thì bà đã chạy quá xa, họ không đuổi kịp. Để đánh lạc hướng bà chạy vào rừng, một số nghĩa quân núp sẵn ngăn chận những người đuổi theo. Quân lính phải trở ra vì sợ nghĩa quân trong rừng phục kích. Đến khi tối trời một số nghĩa quân tại địa phương dẫn đường ra bờ sông, chiếc thuyền đang chờ sẵn nhổ neo khi bà bước xuống. Bà xỏa tóc dưới ánh đèn, lấy tóc mình lau sạch vết máu trên đầu chồng, rồi lấy khăn tang bọc đầu chồng lại. Thuyền theo cửa Thuận An ra khơi, hướng về Quảng Nam. Bà không gội đầu ba năm, để những vết máu của chồng trên tóc bà được nằm yên. Một cách thờ chồng, để tang cho chồng mà ai nghe qua cũng đều kính phục.
Thái Phiên, bút hiệu là Nam Xương, sinh năm Nhâm Ngọ (1882) tại làng Nghi An, huyện Hòa Vang, Quảng Nam, là con trai duy nhất của ông bà Thái Duy Tân và Lê Thị Tý. Ông theo phong trào Việt Nam Quang Phục Hội của cụ Phan Bội Châu, chủ trương đánh đuổi quân xâm lược Pháp ra khỏi bờ cõi. Ông là một trong những lãnh đạo tài giỏi của Phong Trào tại Quảng Nam. Ông bị giặc bắt cùng với Trần Cao Vân trong đêm chính biến 2-4 năm Bính Thìn ( tức là ngày 3-5-1916), tại Huế. Thái Phiên và Trần Cao Vân cùng với hai thủ lãnh khác lên đoạn đầu đài tại An Hòa, Huế sáng sớm ngày 16-4 năm Bính Thìn (tức là ngày 17-5- 1916), lúc ấy ông mới có 34 tuổi./
Houston, ngày 05 tháng 01 năm 2010
PXS
8/5/2010
Source : Hợp Lưu
PHAN XUAN SINH
Ngày cúng thành hoàng làng Nghi An năm đó (1890), tiên chỉ, lão làng đang dâng hương cầu xin quốc thái dân an, nghi lễ cúng bái trang trọng và thành tâm, thì có một thằng bé đứng bên ngoài nói lớn:
-“Quốc thái dân an” là do mình tranh đấu mới có. Cớ sao lại xin xỏ tầm phào như vậy?
Nói xong thằng bé đó bỏ chạy.
Các chức sắc trong làng ngẩn ngơ, không ngờ có người to gan dám nói lên điều cấm kỵ. Hỏi thằng bé đó là con nhà ai mà dám xúc phạm đến uy danh thần linh như vậy. Có một tráng đinh bước lên chấp tay thưa:
-Đó là thằng bé con ông Hương Tân đang có mặt ở đây. Tên hắn là Thái Phiên.
Các chức sắc và lão làng mời ông Hương Tân đến hỏi chuyện về sự ngỗ nghịch của thắng bé. Hương Tân tái mặt, không ngờ thằng con mình làm điều hổn láo như vậy. Mới tám tuổi mà đã đụng đến điều húy kỵ, thì thằng nầy không còn dạy được nữa rồi. Ông chấp tay xin lỗi và hứa sẽ về dạy con. Mọi người trong làng cũng vị nể ông vì dù sao ông cũng thuộc hàng hương mục của làng, một gia đình danh gia thế phiệt, có sự đóng góp đáng kể mỗi khi làng Nghi An cần có sự quyên góp. Ông nghiến răng tỏ vẻ tức giận, sau bữa tiệc cúng làng, về nhà ông sẽ cho nó một trận đòn nên thân. Ông ngồi ăn mà cảm thấy mắc cở với chức sắc và dân làng. Ông cúi đầu cố nuốt trôi miếng ăn cho xong bữa rồi vội vàng đứng lên”kiếu” tất cả mọi người ra về. Ông hầm hầm trong bụng, sẽ đánh thằng con nát thây cho nó chừa cái tội hổn láo, làm nhục gia cang.
Từ đằng xa nhìn về nhà, ông thấy thằng Phiên con ông ngồi nói chuyện với ông nội như có điều gì đắc ý, ông cháu ôm nhau cười, ông càng cảm thấy lộn ruột. Bước vào hiên nhà, ông la lên:
-Thằng kia tới đây cho tao biểu.
Ông nội của Phiên đứng lên, đưa tay như che chở cháu mình:
-Chuyện chi còn có đó, từ từ hỏi cho ra lẽ rồi hãy đánh nó, chưa muộn.
-Hắn phá đám bữa cúng làng hôm nay, cha nghĩ coi có tức không?
Ông nội từ tốn trả lời:
-À, thì ra chuyện nớ. Thằng Phiên có nói lại với tao. Tao khen nó mới chừng đó tuổi
mà có chí khí, sau nầy làm được việc lớn.
-Trời đất, cha che chở cho hắn làm bậy?
-Ai bảo là nó làm bậy. Chỉ có những người bậy mới không chấp nhận lời ngay thẳng của thằng bé. Giặc giã hoành hành khắp nước, không lo tìm cách chống trả. Đi lo cái chuyện cúng bái vu vơ, cầu xin những điều không thể thần thánh làm được. Chỉ có con người, chỉ có sức mạnh của con người mới làm được. Thế thì xin xỏ làm chi ở thần thánh vô ích.
Ông Hương Tân giật mình. Ai dạy cho thằng bé nầy cái ý nghĩ sâu xa như vậy? Chính ông cũng chưa nghĩ ra được thì nó đã nói ra điều nầy. Cơn giận dữ của ông tự nhiên tan mất. Mấy ngày nay, ông Tú không để ý câu nó đọc sang sảng trong nhà: “Quốc vinh ngô thân vinh, quốc nhục ngô thân nhục”*. Mới có tám tuổi đầu mà đã biết được “vinh nhục” của đất nước. Những xáo trộn bên ngoài đã nhập tâm vào đời sống trẻ thơ. Ông lẳng lặng vào nhà, trong lòng ông có chút gì như thỏa mãn. Thế nhưng ông biết con người “hiểu biết” sớm quá, biết “lo” sớm quá cuộc đời sẽ khổ. Biết làm sao hơn khi mà con người không thể nào cưỡng lại được với số mạng. Thôi thì vận nước trong thời loạn, ai cũng có trách nhiệm đóng góp dù trách nhiệm đó đi đến chỗ phân thây.
Thái Phiên học hành rất thông minh nhưng cũng rất ngỗ nghịch. Giữa thời mạt vận của chữ nghĩa thánh hiền, ông không đi thi và sau nầy chuyển qua tây học. Ông mau chấp nhận nền học thuật của tây phương và tỏ ra xuất sắc, am tường kim cổ, đông tây nên ông hành xử mọi việc một cách hợp tình hợp lý. Gia đình giàu có mà lại con một, nên ông được cha mẹ chìều chuộng. Ông phải nghe lời cha mẹ lấy bà Trịnh Thị Nhuận khi mới mười sáu tuổi để có con nối dõi tông đường. Ông nổi tiếng ăn chơi trác táng, chuyện gia đình không hề ngó ngàng tới, một tay người vợ đảm đang. Còn cha mẹ ông, sau khi ông lấy vợ vài năm thì cha mẹ qui tiên. Ông càng buồn càng uống rượu và đi đây đó nhiều nơi. Chính cái chuyện đi nhiều, hiểu biết rộng, lại có tấm lòng nên ông lại càng đau khổ cho vận mệnh đất nước. Người ta nghĩ rằng ông không chấp nhận đường lối nào hết để đi theo. Ông cao ngạo không phục ai vì thế ông lại càng đắm chìm trong chén rượu. Thế nhưng ai biết được lòng ông?
Một hôm ông đến Cẩm Lệ, ghé qua một quán rượu bên đường. Người chủ quán là một cô gái mặn mòi xinh đẹp. Vừa uống rượu vừa tán tỉnh, giễu cợt chơi. Thử xem cô gái thuộc loại nào cho biết. Cô gái không trả lời một tiếng, chỉ cười. Ông thấy thái độ của cô gái có chút gì không bình thường, trong đôi mắt của cô có vẻ khinh khi ông. Từ trước tới nay, đi đâu ông cũng được người ta cung phụng, nể nang. Đây là lần đầu tiên ông gặp một người không nể ông dưới con mắt của họ. Ông thấy cô gái nầy toát lên một cái gì đó có một chút kiêu hãnh, một chút hiểu biết thầm kín mà ông cảm thấy quý trọng. Ông không còn có thái độ khinh bạc như lúc mới bước vào, ông trầm ngâm uống rượu và giữ mình không đến độ phải say để đi nghiêng ngã. Ông thấy trong người vừa đủ, ông đứng lên trả tiền rồi ra về.
Ngày nào cũng vậy, từ Nghi An ra Cẩm Lệ đoạn đường cũng xa, thế nhưng ông thấy không có một nơi nào trong vùng có rượu ngon như quán cô gái đó. Vì vậy ông là vị khách thường xuyên của quán. Làm gì mà không có rượu ngon, hay là ông phải lòng cô gái đó cũng chẳng biết. Bao giờ bước vào quán ông cũng có cái cảm tưởng như trút bỏ cái trần tục ra bên ngoài, lòng ông thanh thoát như tiên, như Từ Thức mà gặp phải Giáng Kiều. Ông chọn một góc quán, để có cái nhìn rộng và hình như cũng để quan sát cô gái.
Vợ ông mấy lúc rày trong mình không được khỏe, bà đến nhà người thầy thuốc làng bên để hốt vài thang thuốc. Người thầy thuốc bắt mạch và cho bà biết là mạch của bà yếu và hình như có một triệu chứng khác thường, một chứng bệnh hung hãn đang bắt đầu hoành hành. Bà lo lắng không biết nếu có mệnh hệ nào, không thể sống được thì gia đình con cái ra sao. Người chồng suốt ngày rượu chè với bạn bè, không hề biết một chút xíu những công việc quán xuyến gia đình thì làm sao bà yên tâm. Chính những lo lắng nầy đã làm cho bà càng ngày càng yếu thêm, bà biết là bà đang bị cơn bệnh tấn công sắp đến giai đoạn khẩn trương, sức khỏe xuống rất thấp. Một hôm nghe người làm trong nhà báo cho bà biết, là ông thường đến Cẩm Lệ để uống rượu trong quán của một cô gái. Tự nhiên mắt bà sáng lên, bà nghĩ ngay đến chuyện phải kiếm tìm cho ông một người vợ kế để thay cho bà sau nầy, nếu không may bà mất đi. Người mà ông phải lòng lại càng tốt, sẽ giúp cho gia đình thuận lợi, suông sẻ. Bà chưa gặp cô gái nầy nhưng bà có linh cảm người nầy sẽ giúp được gia đình bà qua cơn nguy ngập.
Bà gọi người xà ích tới nhà để chở bà đi Cẩm Lệ. Bà cho người xà ích biết là bà muốn tới quán rượu mà ông Phiên nhà bà hay lại đó. Người nầy tưởng rằng bà ghen tuông muốn tìm tình địch, nên nói thẳng cho bà hay đây là quán của một cô gái đàng hoàn, ông nhà chỉ uống rượu chứ hai người không có tình ý gì với nhau. Bà gật đầu cười và có vẻ hiểu biết, trên nét mặt hiền từ tươi tắn, không tỏ một chút ghen tương. Nên người xà ích cũng yên lòng chở bà đi. Buổi trưa quán vắng khách, bà bước vào dở nón ra đến ngồi bên góc quán, vô tình bà ngồi vào chỗ nơi ông thường ngồi. Cô chủ quán từ dưới bếp bước ra thấy bà gật đầu chào, bà tươi cười chào lại. Bà xin một bát nước chè tươi và tự giới thiệu là vợ của ông Phiên, người khách thường đến uống rượu ở quán nầy. Cô chủ quán “à” lên một tiếng ngạc nhiên và hỏi bà có gì xin dạy bảo.
Bà ngần ngừ rồi xin cô ngồi xuống cho bà được hầu chuyện. Bà trình bày bệnh tình của bà, một chứng bệnh nan y mà bà nghĩ rằng không thoát được. Bà không thể yên lòng nhắm mắt khi các con còn quá nhỏ, gia đình bộn bề công việc không ai chăm sóc. Bà thực sự muốn tìm một người vợ kế cho ông để bà yên lòng nhắm mắt, người đó được bà trông thấy và biết trước thì lòng bà được bình yên hơn. Khi trông thấy cô, linh tính cho bà biết ngay đây là người đảm đan mà bà tìm kiếm, người ân nhân cho chồng con bà sau nầy, người có thể thay thế bà quán xuyến gia đình trong tư thế tề gia và nội trợ. Bà trình bày hết tất cả ý nguyện của mình và khẩn khoản nhờ cô giúp. Cô chủ quán suy nghĩ vì bất thần quá cô không chuẩn bị kịp. Thế nhưng cô thấy tôi nghiệp cho bà, một người đàn bà sắp chết vẫn còn lo lắng cho chồng con. Dưới mắt của cô, ông Phiên cũng là người có phong cách đặc biệt, người mang nhiều suy tư, chất chứa u uất mà thường thấy ở các sĩ phu khi đất nước lâm nguy. Đây là cơ hội để cô tìm hiểu thêm về con người có chút bí mật nầy.
Cô nắm lấy tay bà, rồi nói:
-Thôi được để rồi tôi định đoạt sau. Thế nhưng còn phải ý kiến của ông nhà, ông ấy có chịu cho tôi về làm vợ lẻ không?.
-Chuyện đó cô khỏi lo, tôi có cách sắp xếp cho ổn thỏa.
Rồi bà từ tạ ra về. Không quên lấy về cho ông mấy bầu rượu.
Vài tháng sau, căn bệnh của bà trầm trọng. Ông phải ở nhà chăm sóc vợ nhưng cơn bệnh ngặt nghèo bà không qua khỏi. Bà mất để lại cho ông mấy đứa con thơ dại. Lúc nầy ông mới hối hận, không giúp vợ trong cuộc sống gia đình. Từ xưa tới giờ ông không làm gì, chỉ biết đi uống rượu, mọi chuyện do vợ quán xuyến. Bây giờ vợ mất ông lúng túng và phải xoay sở để nuôi con. Ông thèm và nhớ đến cái quán rượu nho nhỏ bên vệ đường, gần một tháng nay ông không tới được. Người phu xe thổ mộ trước đây mỗi ngày chở ông ra quán, cũng buồn thiu. Thấy ông người nầy chỉ biết cúi đầu chào, chứ không dám nhắc ông ra quán uống rượu giải khuây. Vợ mới mất, cái tình, cái đạo nghĩa nó không cho phép ông tìm vui trong chén rượu. Ông không muốn để người ngoài chê cười cho cái không biết giữ lễ của mình. Mặc dù ông sống bạt mạng, bỏ ngoài tai những dị nghị, nhưng những cái đó là không tổn hại đến gia đình con cái. Còn đằng nầy nó nằm trong vòng lễ giáo mà ông là người thấm nhuần chữ nghĩa của thánh hiền, ông phải giữ nó cho phải đạo.
Mỗi ngày sau bữa cơm, ông rót ra một chén rượu ngồi nhâm nhi một mình. Hôm nay cũng vậy, ông vừa rót rượu ra chén thì người nhà vào báo cho ông biết có một người khách đến thăm. Một người khách đến thăm vào chạng vạng tối, ông chỉ đoán ra đây là người quan trọng vì những bạn bè chung quanh đây người nhà đều quen mặt. Người nầy phải ở xa. Ông cho người mời vào. Ông đứng dậy đón khách, người khách dỡ nón ra chào lại. Khách thuộc tuổi trung niên, khuôn mặt quắc thước, có một nụ cười cởi mở. Khách nhìn quanh không có ai, rồi thưa:
-Thưa ông Thái Phiên, tôi đường đột tới đây trước là thăm ông, sau có một vài chuyện thưa với ông.
-Thưa, ông chưa cho tôi biết ông tên gì và đang làm việc ở đâu? Trước khi chúng ta bàn qua chuyện khác.
Người khách cười ha hả:
-Ông thật sự muốn biết tên tôi? Thì tôi cũng không giấu giếm ông làm gì. Chắc ông không biết, nhưng tôi vẫn nói, tôi là Trần Cao Vân.
-À, thì ra tên ông không những người dân Quảng Nam thôi, mà cả nước đều biết. Tên ông vang lừng bốn bể. Tại sao ông nghĩ rằng tôi không biết.
Trần Cao Vân lại cười to hơn và cũng nói to hơn:
-Tôi nghe người ta nói ông cao ngạo, không cần biết ai thì cái tên Trần Cao Vân đâu là gì với ông.
Thái Phiên cũng cười hả hả, trả lời:
-Đó là đối với bọn sâu dân mọt nước, chứ còn như ông tôi phải cúi đầu.
-Cám ơn lời đối đáp thiệt lòng của ông. Còn ông là người tôi mến phục.
Thái Phiên gọi người nhà làm một con gà nấu cháo, gọi người khác qua nhà người xà ích chạy đi Cẩm Lệ lấy mấy bình rượu ngon đãi khách. Hai người uống rượu, nói chuyện thâu đêm. Trần Cao Vân ở lại đó ba ngày. Không biết đã nói với nhau chuyện gì, sáng sớm Trần Cao Vân lên xe ngựa ra đi, Thái Phiên đến tận xe tiễn bạn mà lòng còn bịn rịn.
Vài hôm sau ông đón xe ra Cẩm Lệ, đến quán và trở lại ngồi vào góc quán thong thả uống rượu. Ông gọi thêm một bầu rượu nữa thì cô chủ quán bảo rằng hết rượu. Ông ngạc nhiên la lớn:
-Quán thế nầy mà không đủ rượu sao?
-Nước mà cạn kiệt, thì rượu làm sao còn.
-Thế thì phải làm sao?
Cô chủ nhìn thẳng vào mặt của ông, đưa hai bàn tay lên, trả lời một cách đanh thép:
-Góp đôi tay thì được tất cả.
Ông sững sờ, trố mắt ra nhìn cô chủ. Không ngờ một người con gái mà có lòng với đất nước như vậy, thì đây không phải là người tầm thường. Cô ta chỉ mang ra cho ông một chén rượu khác để trước mặt, như có lời nhắn nhủ phải để thời giờ lo chuyện khác, nên chấm dứt uống rượu giải sầu.
Cô chủ thấy vắng khách nên đến ngồi trước mặt ông:
-Mấy hôm trước có một người khách lạ đến đây uống rượu. Người đó hỏi tôi về ông. Rồi đến thăm ông.
-Cô biết gì về tôi mà trả lời với họ?
-Tôi không những biết rõ về ông mà còn biết rõ người khách kia là ai?
Rồi cô gái nhìn quanh không thấy ai, nói nhỏ vào tai ông:
-Ông là người tôi ngưỡng phục, ông làm những chuyện to tát mà không ai biết. Ai cũng nhìn ông là thằng nát rượu, không thấy được cái âm thầm theo đuổi việc vì dân vì nước của ông một cách thâm trầm. Ông qua mặt tất cả, chỉ trừ tôi.
-Thế thì cô là ai?
-Trần Thị Băng, Việt Nam Quang Phục Hội.
Thái Phiên đứng dậy hỏi dồn dập:
-Người của ai?
-Lâm Quảng Trung.
-Mấy hôm nay có gì lạ?
-Tiến sĩ Trần Quý Cáp mới bị chém ở tỉnh Khánh Hòa hôm qua.
Ông ngồi xuống thở dài, rồi bưng chén rượu uống một hơi. Nước mắt ông chảy xuống, cô Băng kéo vạt áo lên lau mặt cho ông. Ông chưa ráo nước mắt cho vợ thi bây giờ lại rơi nước mắt cho người đồng chí, chỉ có thế thôi đã hiểu được lòng ông.
-Bây giờ, tôi không còn con đường chọn lựa. Núp trong bóng tối hoạt động lâu nay không thấy kết quả, không giúp gì được nước nhà. Tôi phải ra mặt, tôi phải dấn thân. Nhưng ngặt một điều, vợ mới chết, con còn thơ dại, gia đình đơn chiếc, không ai quán xuyến gia đình, tôi không nỡ lòng ra đi. Mỗi lần nghe bạn bè tôi bị nạn, ruột tôi quặn đau như có ai cắt từng đoạn.
-Thưa ông, nếu có người tình nguyện thay cho vợ ông lo chuyện gia đình để cho ông rảnh tay rảnh chân, không còn nghĩ tới chuyện nhỏ nhoi nầy, ông có chịu không?
-Nếu vậy, tôi phải quỳ lạy cám ơn họ trước.
Cô Băng, suy nghĩ một chút rồi nói:
-Nếu như ông không chê bai tôi quê mùa, thì tôi sẽ tình nguyện làm chuyện nầy giúp ông. Trên danh chánh ngôn thuận, chúng ta phải làm một lễ cưới nhỏ thì tôi mới bước vào cửa nhà ông được. Còn chuyện vợ chồng thực tế, nếu có duyên nợ với nhau thì hà tất phải thành, không biết trước được. Nhưng trước mắt chúng ta phải lo cho đại cuộc.
-Như vậy thì Phiên nầy có chết cũng hả dạ rồi. Ơn nghĩa của cô dòng họ Thái nhà tôi trả không bao giờ hết được.
Cuộc nói chuyện với Trần thị Băng tại quán rượu sau vài tháng, Thái Phiên cho người dạm hỏi và sau đó lễ cưới được tổ chức trong vòng thân tộc. Trong đêm tân hôn, bà Băng đưa ra cho ông một lá thư của vợ ông gửi cho bà trước khi mất. Trong thư bà gửi gấm chồng bà cho bà Băng chăm sóc, như vậy hai người đã ngấm ngầm thông đồng với nhau mà ông chẳng hề hay biết. Bà Băng về nhà chồng, sống với ông được hai mặt con, bà lo cho cho gia đình và chồng con vẹn toàn. Ông tối ngày đi đây đi đó tiếp xúc với các sĩ phu lo chuyện đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi bờ cõi. Ông cùng với Trần Cao Vân sát cánh bên nhau đẩy mạnh phong trào cứu nước đến một đỉnh cao, chờ thời cơ hành động.
Năm 1914. Chiến tranh thế giới bùng nổ. Chính quyền Pháp cho bố ráp bắt những trai tráng xung vào lính mang về chính quốc để phục vụ chiến tranh. Phong trào Việt Nam Quang Phục Hội len lỏi vào hàng ngũ thanh niên chống lại việc tòng chinh sang Pháp, các truyền đơn kêu gọi anh em rời bỏ hàng ngũ do Pháp tuyển mộ, được anh em hưởng ứng nhiệt tình.
Lê Ngung thay mặt cho Quang Phục Hội, một mặt gửi thư xin ý kiến với cụ Phan Bội Châu, một mặt gửi thư cho Thái Phiên để khởi binh vì cơ hội đã đến. Chụp cơ hội chính quyền Pháp rối loạn lo chiến tranh bên chính quốc, vùng thuộc địa chểnh mảng. Nhận thấy lỗ hổng quá to, toàn dân nhân cơ hội nầy đứng dậy lật đổ. Thế nhưng mọi thứ chưa chuẩn bị chu đáo, các tổ chức chưa thống nhất, nhân dân còn hoang mang. Một cuộc họp khẩn cấp các thủ lãnh lại để quyết định. Nhận thấy còn nhiều trở ngại cho cuộc nổi dậy, tất cả đồng ý trì hoãn lại một thời gian để tăng cường lực lượng, tổ chức lại thành phần nồng cốt. Để yên lòng dân, mời vua Duy Tân, một người yêu nước gia nhập tổ chức, để tổ chức có tiếng nói chánh trực, để toàn dân tin tưởng.
Thái Phiên và Trần Cao Vân lãnh nhiệm vụ đi gặp đức vua. Dĩ nhiên chuyện gặp riêng nhà vua không phải dễ, vì chung quanh ngài bọn tay sai nhiều quá, nhứt cử nhứt động của ngài sẽ được báo cáo cho quan thầy. Hai người biết là vua Duy Tân chiều thường ra ngồi ở Phu Văn Lâu hóng mát, nhìn sông nước. Chiều nay hai người mang cần câu và một bình rượu ra ngồi đó trước.
Vừa thả cần vừa uống rượu. Khi vua tới thì lính hầu đuổi hai người đi chỗ khác, hai người không chịu đi, cãi lại với lính hầu:
-Sông nước nầy là của chung, không của riêng một mình ai. Tôi câu ở đây có mắc mớ chi tới mấy ông đâu?
Vua Duy Tân thấy hai người nầy ăn nói có chút gì khác thường, nên bảo mấy người lính hầu hãy để cho họ ngồi câu. Nhà vua trầm ngâm nhìn ra sông, mơ màng suy nghĩ.
Hai người nói chuyện lớn giọng, dù không muốn nghe cũng lọt vào tai vua. Họ mượn một câu hỏi và trả lời của người xưa để nói chuyện khơi khơi, thử xem lòng dạ vua thế nào. Nếu vua là người có lòng yêu nước thì thế nào cũng nao núng, phải gặp hai ông. Còn nếu vua là thứ “bù nhìn”, yên phận, không hiểu câu trao đổi của hai ông thì thứ nầy nên cần phải lánh xa, không cần gặp làm gì:
-Tay dơ lấy gì rửa?
-Nước.
-Chớ nước dơ lấy gì rửa?
-Máu.
Vua giật mình, đây không phải là người tầm thường. Ông lên tiếng:
-Hai anh kia quê mô? Đến đây nói chuyện chơi.
Nhà vua nói với lính hầu:
-Đem rượu ra đây mời khách, rồi tụi bay đi chỗ khác chơi.
Các lính hầu cứ nghĩ đây là hai tay nhà quê câu cá kiếm cơm, nên không thèm để ý.
Hai người tới sụp lạy, rồi nói nhỏ cho vua đủ nghe:
-Thưa bệ hạ, hạ thần ở Quảng Nam ra tìm cách gặp bệ hạ, bẩm báo đôi điều.
-Hai anh cứ nói thật lòng, không sợ chi hết.
-Việc nước đã đến hồi khẩn trương, như nhà cháy không chữa không được. Xin bệ hạ nghĩ tới dân tộc, nước nhà, tham gia với thần dân đánh đuổi quân xâm lược. Sự có mặt của Bệ hạ cốt để yên lòng dân. Hạ thần đã chuẩn bị chu đáo. Cuộc tổng khởi nghĩa toàn quốc sẽ bắt đầu vào giờ tý, ngày 2 tháng 4 năm Bính Thìn (tức 1giờ sáng ngày 3 tháng 5 năm 1916). Khởi điểm tại kinh đô Huế. Súng thần công sẽ được bắn lên mở đầu cho cuộc binh biến của toàn dân. Bệ hạ sẽ lãnh đạo toàn quốc nổi lên đánh đuổi quân xâm lược.
Nhà vua ngồi lắng nghe, lòng ông như mở hội. Từ lâu ông không biết cách nào để khuấy động lòng dân, chỉ có cơ hội nầy thôi:
-Chuyện thế nầy rất hợp lòng trẫm. Trẫm có một người thân tín liên lạc với các khanh sau nầy. Hạn chế gặp nhau để tránh tai mắt dòm ngó, hư đi đại sự.
Hai người đứng dậy uống với ông chén rượu, rồi lạy tạ ra về.
Trần Cao Vân lo chỉnh đón thực lực nghĩa quân các tinh, còn Thái Phiên lo liên lạc các nơi để đúng ngày giờ hành sư. Vào lúc 11 giờ đêm ngày 3-5-1916. Vua Duy Tân cải dạng thường dân đi xe kéo ra bến Thương Bạc rồi xuống thuyền, có Thái Phiên và Trần Cao Vân bố trí đứng đợi, Một người có chân trong nghĩa hội làm phản, báo cáo mọi sự việc cho Tòa Khâm Sứ Thừa Thiên biết vua Duy Tân buông tẩu.
Lập tức Tòa Khâm cùng với tay sai Nam triều, đuổi theo chiếc thuyền vua Duy Tân và hai ông Thái Phiên, Trần Cao Vân, bắt lại. Đưa vua trở về kinh thành, còn hai ông giam vào ngục. Một cuộc bố ráp trong đêm để tìm các tổ chức nghĩa quân. Các tỉnh Nam Ngãi, Bình Phú không nhận được tin tức, cũng bị nội gián báo cáo nên các thủ lãnh đều bị bắt. Cuộc khởi nghĩa bất thành. Tất cả những người chủ trương đều lên đoạn đầu đài.
Từ quê nhà Nghi An, Quảng Nam. Bà Trần Thị Băng hay tin chồng bị bắt, bà vội vàng đón xe tìm cách ra Huế để nhìn mặt chồng. Bà may sẵn một bộ đồ tang vì bà biết lấy một nghĩa sĩ trong thời loạn lạc, thì sớm hay muộn không tránh được cái chết. Khi còn trong gia đình thời con gái, bà được cha truyền những môn võ gia truyền để phòng thân. Nhất là các bộ tẩu mã, vi hành, bà rất xuất sắc.
Bà được tin ngày 16 tháng 4 âm lịch (tức là ngày 17-5-1916) các thủ lãnh đêm nổi loạn gồm có: Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu bị chém tại cửa An Hòa, ngoại thành Huế. Bà đến đó trước nghiên cứu đường đi nước bước, để cố làm sao đoạt được thủ cấp của chồng đem về Quảng Nam chôn cất tử tế. Bà cùng với anh em nghĩa quân còn lại, bàn luận để làm sao đoạt thủ cấp một cách an toàn, sắp đặt một chiếc thuyền sẵn vì bà biết nếu đi trên đường bộ thế nào cũng bị phát hiện. Sáng sớm ngày hành quyết một số anh em nghĩa quân và bà Trần Thị Băng có mặt tại pháp trường An Hòa. Các nghĩa quân sẵn sàng trong tư thế ngăn cản nếu có người đuổi theo bà. Mọi chuyện đều do bà định đoạt.
Người đầu tiên lên pháp trường là ông Thái Phiên, ông hiên ngang bước lên, như một tráng sĩ, mặt không chút sợ hãi. Ông nhìn xuống thấy vợ mặc đồ tang, ông gật đầu rồi cười ha hả. Quan chỉ huy pháp trường hỏi ông cần nói gì lần cuối. Ông dõng dạc hô to: “Đả đảo tụi tây và bọn tay sai”. Ông hô to ba lần như vậy, trước khi cúi đầu cho đao thủ phủ chặt đầu. Hành động ngang tàng và dũng cảm của ông đã làm cho những người đứng xem và ngay cả kẻ thù phải thán phục.
Đầu ông vừa rơi xuống, bà Băng phóng tới căng vạt áo tang hứng đầu chồng không cho rơi xuống đất. Rồi bà ôm đầu chồng phóng chạy. Tất cả lính tráng Nam Triều bất thần ngẩn ngơ không trở tay kịp, khi họ định thần chạy đuổi theo bà thì bà đã chạy quá xa, họ không đuổi kịp. Để đánh lạc hướng bà chạy vào rừng, một số nghĩa quân núp sẵn ngăn chận những người đuổi theo. Quân lính phải trở ra vì sợ nghĩa quân trong rừng phục kích. Đến khi tối trời một số nghĩa quân tại địa phương dẫn đường ra bờ sông, chiếc thuyền đang chờ sẵn nhổ neo khi bà bước xuống. Bà xỏa tóc dưới ánh đèn, lấy tóc mình lau sạch vết máu trên đầu chồng, rồi lấy khăn tang bọc đầu chồng lại. Thuyền theo cửa Thuận An ra khơi, hướng về Quảng Nam. Bà không gội đầu ba năm, để những vết máu của chồng trên tóc bà được nằm yên. Một cách thờ chồng, để tang cho chồng mà ai nghe qua cũng đều kính phục.
Thái Phiên, bút hiệu là Nam Xương, sinh năm Nhâm Ngọ (1882) tại làng Nghi An, huyện Hòa Vang, Quảng Nam, là con trai duy nhất của ông bà Thái Duy Tân và Lê Thị Tý. Ông theo phong trào Việt Nam Quang Phục Hội của cụ Phan Bội Châu, chủ trương đánh đuổi quân xâm lược Pháp ra khỏi bờ cõi. Ông là một trong những lãnh đạo tài giỏi của Phong Trào tại Quảng Nam. Ông bị giặc bắt cùng với Trần Cao Vân trong đêm chính biến 2-4 năm Bính Thìn ( tức là ngày 3-5-1916), tại Huế. Thái Phiên và Trần Cao Vân cùng với hai thủ lãnh khác lên đoạn đầu đài tại An Hòa, Huế sáng sớm ngày 16-4 năm Bính Thìn (tức là ngày 17-5- 1916), lúc ấy ông mới có 34 tuổi./
Houston, ngày 05 tháng 01 năm 2010
PXS
8/5/2010
Source : Hợp Lưu
Trần Thiện Đạo - Một vì sao rụng
TRẦN THIỆN ĐẠO
Một vì sao rụng
ALEXANDRE SOLJENITSYNE (1918-2008)
UY VŨ BẤT NĂNG KHUẤT
Sanh ngày 18/12/1918 ở miền núi Cápca ranh giới châu Âu châu Á, Alexandre ( Issaïevitch) Soljenitsyne lớn lên ở thành phố Rostov bên bờ sông Đông. Học văn, sử, triết và toán. Tòng quân khi Thế chiền thứ Hai bùng nổ. Năm 1945, bị bắt nhốt trại lao cải suốt tám năm ròng vì đã lớn tiếng chỉ tríchvà chế nhạo Thống chế Xtalin (1879-1953) cho tới khi nhà độc tài này qua đời mới được thả. Năm 1962, cuốn truyện Một ngày trong cuộc đời của Ivan Denissovitch tự sự hư cấu thời gian lao cải được xuất bản. Rồi tác giả bị gác bút - khiến chúng ta không khỏi nghĩ tới trường hợp các nhà văn nhà thơ họa sĩ trong nhóm Nhân văn Giai phẩm và những Bùi Ngọc Tấn, Dương Thu Hương sau đó ở bên ta. Dầu vậy, nhờ được xuất bản ở ngoại quốc, tác phẩm của ông liên hồi gây tiếng vang rộng lớn trên toàn thế giới. Giải Nobel văn chương 1970, nhưng chỉ nhận được năm 1974, khi bị chánh quyền Liên xô tước quốc tịch và trục xuất. Tạm cư ở Thụy sĩ, rồi định cư ở Hoa kì cho đền năm 1994 mới hồi hương. Từ trần trong đêm 3-4/12/2008, hưởng thọ 89 tuổi rưỡi.
Vai trò lịch sử
Phải nói ngay rằng ít có nhà văn nào trên thế giới đóng một vai trò lịch sử lớn lao ngần ấy, một vai trò tương xứng với tầm cỡ Alexandre Soljenitsyne. Trong những điều kiện cực cùng khó khăn (kiểm duyệt, tù tội, gác bút, trục xuất, văn nô hùa nhau phỉ báng), ông đã, bằng tác phẩm văn chương và văn học, vạch ra ánh sáng cho toàn thể thế giới nhìn thấy cái vũ trụ vô nhơn đạo trong các trại lao cải ở Liên xô. Mà chính mình đã trải qua tám năm ròng và căn cứ trên chứng từ của 227 zeks (lao động khổ sai), 227 con người nối khố, đồng cam cộng khổ với mình. Vũ trụ các trại mà ông gọi là Quần đảo Ngục tù – nhân đó tác phẩm trực tiếp tố cáo hệ thống tập trung tù nhơn chánh trị và thường phạm ở Liên xô và các nước vệ tinh. (1)
Tập biên khảo dày cộm này, ngót 1.000 trang in khổ lớn, được tác giả soạn thảo từ năm 1956 tới năm 1967 (ông ra tù năm 1953) trên nhũng trang giấy nhỏ. Để tránh kiểm duyệt và khỏi mang thêm hiểm họa, ông chôn giấu ngoài vườn của bạn bè, một bản thứ hai gởi ra ngoại quốc. Đầu năm 1974, khi một cô bạn của ông treo cổ tự tử, vì đã tiết lộ cho sở tình báo KGB biết các chỗ chôn giấu bản thảo, ông mới quyết định cho xuất bản ở Paris vừa bản tiếng Nga vừa bản tiếng Pháp, và, liền ngay sau đó, các bản tiếng ngoại quốc khác, Anh, Mĩ, Ý, Đức, Nhựt, Bồ… Cuốn Quần đảo Ngục tù, tất nhiên, gây sóng gió không những ở ngoại quốc mà cả ở trong nước. Thế là ông bị tước quốc tịch và trục xuất như một kẻ nhập cư trái phép. Và thừa dịp lãnh giải Nobel trao tặng bốn năm trước.
Hệt như truyện Một ngày trong cuộc đời của Ivan Denissovitch đăng trên tạp chí văn học Novy Mir (Thế giới Mới) 12 năm trước. Một tự sự hư cấu rất ngắn, 67 trang, dựa trên trải nghiệm của tác giả trong trại lao cải trước đó. Nó được đăng công khai trên một tạp chí chánh thức là bởi bi thư đảng Cộng sản Liên xô bấy giờ là ông Nikita Khrouchtchev (1894-1971), người đã đọc báo cáo nẩy lửa về những cái gọi là sai lầm của Xtalin. Có thể bảo văn tài của Alexandre Soljenitsyne được tóm gọn trong tác phẩm đọng đặc này. Ivan Denissovitch Choukhov là nhơn vật tiêu biểu. Hắn tin rằng tháng nào Thượng đế cũng bẻ nhỏ mặt trăng thành nhiều mảnh để thay các vì sao đã mỏi mòn, kiệt sức. Bị bọn Đức bắt làm tù binh, trốn thoát. Nhưng mới vừa về nước, hắn bị cơ quan tình báo tóm cổ ngay liền vỉ tội làm gián điệp cho địch. Tuyện tường thuật một trong ba ngàn sáu trăm năm mươi ba ngày lai cải, ‘’ một ngày kể như sung sưóng ra phết’’. Một tác phẩm vừa ảo vừa thực, nhưng thực hơn là ảo, tác giả và nhơn vật khi thì là hai khi thì là là một – kì ảo như Chùa Đàn (1946) của Nguyễn Tuân (1910-1987), kì thực như Chuyện kể năm 2000 (2000), hay Mộng du, của Bùi Ngọc Tấn. (2)
Trong văn nghiệp đồ sộ của ông, dài có (đa số, rất dài), ngắn có, ngoài hai tác phẩm kể trên, cũng cần nhắc thêm mấy tập sách khác liên quan tới chế độ xô viết. Như các cuốn Khu ung thư, Tầng đầu địa ngục, Bánh xe màu hồng… đều là những tác phẩm dày cộm không những về mặt trang sách mà về cả tư duy.
Trí thức dấn thân
Với bổn tánh không nhân nhượng, lại có năng khiếu nhìn xa thấy rộng và cốt cách khí khái chẳng thua gì tiền bối của mình là Fiodor Mikhaïlovitch Dostoïevski (1821-1881) hay, gần chúng ta hơn, Phan Khôi (1887-1959) chẳng hạn, và với bộ râu rậm vòng quanh khuôn mặt, Alexandre Soljenitsyne là hình ảnh các nhà trí thức cương trực thế kỉ XIX tái hiện.Và trên thực tế, là một nhà trí thức dấn thân, ít ai bì kịp, biểu tượng cho tinh thần phản kháng chế độ độc tôn nghiệt ngã ngự trị một thời gian dài ở nước ông.
Ông nghiễm nhiên trở thành đối tượng cho một bọn văn nô, do chánh quyền giựt dây, chĩa hằng bao mũi dùi nhọn hoắc, thẳng thừng đạp ông xuống bùn.(3) Không ngừng nghỉ, từ khi ông còn ở trong nước cho đến thời ông lưu vong ở Hoa kì ; và một cách hổ lốn xà ngầu, chẳng ngại bịa đặt những chuyện trái ngược hẳn nhau. Không chừa một loại cáo buộc nặng nhẹ nào : chống cộng, bảo hoàng, cực tả, cực hữu, thủ cựu, quá khích, phản động, kì thị, ghét do thái, đồng lõa với mật thám Đức, với tình báo Mĩ CIA, với mật vụ Pháp, cả với Hội Tam điểm… Một tên zek, nguyên lao động khổ sai, tố cáo ông làm chỉ điểm cho nhà chức trách đương nhiệm trong một tờ khai xảo trá. Cơ quan tình báo và mật vụ KGB thì đặt hàng, mua chuộc hậu hĩnh vài ba thân hữu và cả người vợ cũ của ông, bày họ viết sách phỉ báng và vu khống. Trước những cáo buộc đó, Alexandre Soljenitsyne giữ kẽ, lặng thinh.
Cho đến khi Liên bang xô viết sụp đổ vào cuối thập niên 80 đầu thập niên 90 thế kỉ trước, kéo theo các vệ tinh của mình ở Đông Âu, ông được hoàn lại quốc tịch. Rồi trở về nước năm 1994. Bấy giờ, trong tập tự thuật Hột gạo rớt khỏi cối xay xuất bản năm 1998 và gần đây trong bài Bọn vẽ viết tầm phào đâu cốt đi tìm ánh sáng đăng trên tờ Literatournaïa Gazeta (Văn nghệ báo), ông mới lên tiếng mỉa mai, ngay cả trên nhan đề tập sách và bài báo, đáp trả các lời cáo buộc vô căn cứ nói trên của bọn văn nô. Bằng cách sắp xếp lại, đặt chúng kề sát bên nhau để chúng tự mình phản biện lẫn nhau, khỏi cần chêm thêm bình luận. Một thủ thuật hiệu nghiệm.
Nói nào ngay, thì tư tưởng chánh trị và xã hội của ông chẳng phải thảy đều thuộc loại dễ chấp nhận. Vì nó không đơn giản chút nào và hết sức phức tạp để có thể gói gọn trong từ ngữ bao giờ cũng thẳng tuột, đóng khung. Vì nó được đúc kết ngày lại ngày suốt trọn một cuộc đời đầy đặc thử thách (tù đày, bạn bè phản bội, tác phẩm cấm phát hành), nung nấu trong một số phận lao đao, gót rỗ ki khu (4) (tước quốc tịch, trục xuất, lưu vong). Ông đã lần lượt sống trong một chế độ thiếu tự do, rồi trong một chánh thể quá ư lãng phí không chỉ về mặt vật chất mà cả về mặt tinh thần. Khiến cho ông ngộ rằng người ta không thể bỗng chốc nhảy phốc từ một thể chế độc tài qua thể chế dân chủ mà thành công ngay liền. Phần khác, ông lại quan niệm rằng một nền dân chủ thật thụ chỉ có thể dấy lên từ dưới lên trên, nghĩa là từ tâm ý của đại chúng, chớ không thể do chánh quyền trung ương đặt định. Một ý tưởng xem chừng trái khoáy, dầu gì cũng của một nhà trí thức trung thực, cần được tôn trọng.
Thế kỉ Soljenitsyne
Năm ngoái, trong diễn văn nhận Giải Quốc gia từ tay Tổng thống Nga Vladimir Poutine đọc ngày 17 tháng 06/2007, Alexandre Soljenitsyne tin tưởng như sau : « Vào cuối đời mình, tôi có hi vọng rằng (…) vật liệu lịch sử tôi đã thâu thập sẽ khắc sâu trong lương tâm và trong trí nhớ đồng bào của mình.» Quả không sai. Qua hai tác phẩm để đời Một ngày trong cuộc đời của Ivan Denissovitch và Quần đảo Ngục tù, với phong cách sử thi, với chứng từ đậm nét, với cảm xúc tràn đầy và nhứt là với ngọn lửa rọi sáng hệ thống vô nhơn đạo của thể chế chánh trị nọ, nhà văn Alexandre Soljenitsyne đã để lại không chỉ cho đồng bào của ông mà cho hậu thế trên thế giới nói chung một dấu ấn khôn phai.
Cho nên chúng tôi muốn gọi thế kỉ XX vừa qua là thế kỉ Soljenitsyne ; hệt như thế kỉ XVIII, thế kỉ Voltaire (1694-1778) và thế kỉ XIX, thế kỉ Victor Hugo (1802-1885). (5)
-----------------------------
(1)Nguyên tác : Goulag, rút ngắn tên gọi tiếng Nga Glavnoïe Oupravlenie Laguereï, Tổng cục lao cải. Loại gọi là trại (học tập) cải tạo thiết lập ở bên ta sau tháng 04/1975. Lao cải, cải tạo là anh em sanh đôi và đều là trại tù khổ sai như nhau, đói khát, bịnh tật, chết chóc.
(2)Trong cuốn ‘’ tiểu thuyết’’ Mộng du, hay Chuyện kể năm 2000, Bùi Ngọc Tấn dùng rất nhiều tiếng lóng, hệt như Alexandre Soljenitsyne trong cuốn ‘’ truyện ‘’ Một ngày trong cuộc đời của Ivan Denossovitch.
(3)Tương tợ mấy văn nô nổi tiếng thời Nhân văn Giai phẩm ở bên ta, từ những Hoài Thanh (1909-1982), Xuân Diệu (1916-1985)... tới những Nguyễn Công Hoan (1903-1977), Nguyễn Đình Thi (1924-2003)... - có cần nhắc tên ông Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương Tố Hữu (1920-2002) ở đây hay không ?
(4)Chữ của Ôn như Nguyễn Gia Thiều (1741-1798), Cung oán ngâm khúc, câu 70. (5) Những nhận định kể trên đều căn cứ trên các bản Pháp dịch.
Paris văn học
ANNA GAVALDA
HIỆN TƯỢNG VĂN CHƯƠNG KHÔNG TRỐNG KHÔNG KÈN
Nếu như vài ba năm trước đã xảy ra trên văn đàn Pháp một hiện tượng văn chương nổi bọt (nổi bọt, chớ chưa phải nổi bật) nhờ ở loại chiến dịch tiếp thị và quảng cáo ồn ào (1), thì trong thời gian đó có hai hiện tượng khác không trống không kèn mà hiệu quả vẫn cứ dai dẳng. Tiêu biểu cho hiện tượng ấy là hai nhà văn nữ :
* Muriel Barbery, tác giả một thứ hài kịch nhan đề L’Elégance du hérisson (Con nhím lịch lãm – Nxb Gallimard, 08/2006) mà chúng tôi đã có dịp thưa cùng bạn đọc độ nào (2). Cuốn truyện không ngừng được xếp vào hàng top ten (10 đầu sách bán chạy nhứt) liên tục suốt 80 tuần ròng, từ bấy đến nay đà bán hết 1.000.000 ấn bản và vẫn còn bán chạy.
* Anna Gavalda, tác giả cuốn truyện La Consolante (Khuây khỏa nỗi lòng – Nxb Le Dilettante) mới vừa phát hành giữa tháng 03/2008 này. Đây là quyển tiểu thuyết thứ ba của bà mà mọi người nôn nao ngóng đợi : Nxb không ngại ấn hành ngay lần đầu những 300.000 cuốn và chắc nay mai sẽ in thêm nối bản. Qua mầy dòng dưới đây, chúng tôi xin giải trình hiện tượng đặc biệt này.
Tác phầm đầu tay
Cuối tháng 08/1999, Nxb Le Dilettante cho phát hành tập truyện ngắn Je voudrais que quelqu‘un m’attende quelque part (Tôi mong được ai đó đợi mình) của một nhà giáo trẻ dạy văn ở vùng phụ cận Paris. Đây quả là một thao tác có chút gì phiêu lưu trong ngành in ấn: một là vì truyện ngắn thuộc loại hình ít được độc giả Pháp ưa chuộng, hai là vì Anna Gavalda là tác giả (bấy giờ) chưa mấy ai biết tiếng, ba là vì tập truyện là tác phẩm đầu tay. Vậy mà, chỉ trong vòng hai tháng, 20 ngàn ấn bản đầu tiên đà bán sạch trơn. Ông Dominique Gauthier, giám đốc Nxb, nhớ lại : « Quả thật là bất ngờ. Cảm thấy có cái gì rục rịch khởi động, nên ngay đầu tháng 11, chúng tôi liền cho in thêm 20 ngàn nối bản. Thế rồi vào Hội chợ sách tháng 03 năm sau, tập truyện trúng giải RTL-Lire (giải đài RTL/tạp chí Văn) (3), thế là lại in thêm 100 ngàn nối bản nữa, và độc giả khôn thôi tìm đọc. (…) Không dè truớc được. Giá hồi ấy có ai tiên đoán là truyện ngắn có thể bán được nhiều như vậy, tới những 250 ngàn cuốn, chắc gì chúng tôi dám tin ngay. »
Le Dilettante vốn là một Nxb nhỏ không đủ phương tiện tiếp thị và quảng cáo để ‘’đánh trống rao hàng’’ như các Nxb đầu ngành, theo kiểu, nói thí dụ, Nxb Fayard đã gióng tiếng cho cuốn La Possibilité d’une île (Với tới hòn đảo) của Michel Houellebecq. (1) Vậy thì thành tựu nói trên do đâu mà ra ? Cũng hệt như tác phẩm Con nhím lịch lãm của Muriel Barbery (2), tập truyện đầu tay của Anna Gavalda được độc giả tranh nhau mua là nhờ ở chất lượng tự tại của nó : hữu xạ tự nhiên hương. Độc giả lấy làm thích thú nên cứ tự dưng truyền tay nhau đọc hoặc kháo nhau mua, các tiệm sách thì nhiệt tình trưng bày tập truyện như một tác phẩm nên đọc và cần đọc, rồi giới phê bình lần lượt viết bài bàn luận một cách thân tình. Một qui trình trái ngược thông lệ : hễ có chất lượng thì tác phẩm tất được biết đến không cần phải phô trương.
Chẳng những vậy, mà nó còn là cơ hội vực dậy một nhà xuất bản nhỏ chưa đủ vây cánh để chen lấn, cạnh tranh với đồng nghiệp đã có bề dầy thương mãi, thúc đẩy nó vững bước trên con đường sự nghiệp của mình. Ông Dominique Gauthier thừa nhận : « Anna Gavalda là nhà văn mang đến cho chúng tôi thành quả đầu tiên qua một tác phẩm đầu tay. Hồi đó chúng tôi nhận được nhiểu cú điện thoại của các chủ tiệm sách, đại khái bảo rằng họ hết sức lấy làm mừng thấy tập truyện do chúng tôi ấn hành bán chạy như tôm tươi, thật hiếm. Bởi chúng tôi vốn là một Nxb nhỏ, không có phương tiện tiếp thị. Chúng tôi nghe trong lời nói của họ biết bao cảm tình, khuyến khích. Từ đó đến nay, vì là Nxb duy nhứt chịu in truyện ngắn của Anna Gavalda cho nên chúng tôi vẫn tiếp tục ấn hành tác phẩm của bà. » (4)
Hiện tượng Anna Gavalda khởi sự từ đây.
Độc giả đa dạng
Giới phê bình bấy giờ mới chợt nhận thấy Anna Gavalđa có một năng khiếu đậm đặc : gần gũi với độc giả. Không cao siêu, không làm dáng. Biết quan sát, biết thuật chuyện thường nhựt. Kết quả nhiều ngày tháng thám sát điều tra, thâu thập tư liệu, cho phép tác giả tạo nên những nhơn vật thật tình số động, gấn gũi, không thuộc loại bịa đặt, nhạt phèo. Nhơn vật truyện của bà là cuộc sống vây quanh. Cho nên độc giả đương nhiên rất ư đa dạng. Và họ thảy đều ca ngợi tánh chất đó.
Chẳng hạn như cô Émilie A, 22 tuổi : « Sách của Anna Gavalda ai cũng đọc được, cũng hiểu, rất gần với đời sống. Nhơn vật trong truyện hết sức hấp dẫn, độc giả như bị thôi miên, không ngớt hòa lẫn cảm xúc với họ. » Hay ông Maurice G., 31 tuổi : « Anna Gavalda viết văn như thể viết giùm tôi vậy. Có dịp trò chuyện với bà, tôi thấy bà cũng hết sức gần gũi với độc giả giống hệt các nhơn vật trong truyện. » Còn bà Michèle P., 44 tuổi : « Sách nào của Anna Gavalda cũng dễ đọc và lôi cuốn. Tác giả luôn dùng loại từ ngữ giản dị kể những điều sâu lắng trong đời sống thường ngày. Má tôi nay đà 75, vậy mà vẫn thích và đòi đọc Anna Gavalda. » và bà Virginie T., 56 tuổi : « Hiếm có nhà văn nào thân mật với độc giả bằng Anna Gavalda. Bản thân bà giống hệt nhơn vật của mình. Truyện của bà bao giờ cũng lạc quan, đem lại cho người đọc một luồng gió trong lành giữa bầu khí ô trọc và ngột ngạt hiện thời. »
Ông giám đốc Nxb Le Dilettante phụ họa : « Phải nhìn nhận rằng độc giả của Anna Gavalda thuộc đủ mọi thành phần, phụ nữ có, đàn ông có, trẻ có, già có - ở bất luận từng lớp nào, độ tuổi nào. Vượt qua giới tánh và tuổi tác, không thôi thì làm sao sách của bà bán tới được ngần ấy.» Những con số vượt bực. Năm 2004, chỉ với cái tên tác giả không thôi mà cuốn tiểu thuyết thứ hai Ensemble, c’est tout (Chung sống với nhau) của Anna Gavalda đã nghiễm nhiên chiếm hàng đầu loạt sách bán chạy nhứt. Câu chuyện kể hết sức kì lạ mà cũng hết sức hiện thực, xoay quanh ba nhơn vật chung sống với nhau dẫu họ từng lớp xã hội khác nhau : một công nhơn quét dọn đầu tắt mặt tối, một anh chàng quí phái ngờ nghệch, một chú đầu bếp du côn nhưng có trái tim yếu đuối nhạy cảm… Một triệu ấn bản và nối bản hết trọn ngay liền. Rồi một triệu ấn bản khác trong loại bỏ túi tiếp theo cũng sạch trơn - thống kê hãng Nghiên cứu thị trường Edistat-Titelive cho thấy có lúc bán tới những 2.500 cuốn mỗi ngày. Rồi truyện được dựng thành phim nhựa, cũng rất ư ăn khách chẳng thua gì tập sách.
Anna Gavalda thật sự nổi tiếng từ đây.
Ngôi sao trong hội chợ
Sau bốn năm trời vắng bóng trên văn đàn, cuốn truyện thứ ba La Consolante của bà chẳng nói chẳng rằng cứ vọt lên đứng đầu loại sách bán chạy trong Hội chợ sách ở Paris tổ chức vào trung tuần tháng Ba này. Còn độc giả thì nối đuôi nhau xếp hàng để trò chuyện vài giây, nhận vài dòng đề tặng và đọc lướt câu chuyện gia đình khởi đầu vào mùa đông ở phi trường : « Mặt trời màu sữa, mùi xăng đậm đặc, thân xác mệt nhoài. »
Anna Gavalda mặc nhiên trở thành ngôi sao sáng chói trong Hội chợ. Và ngoài Hội chợ.
------------------------------
(1)Xem : Hiện tượng Michel Houellebecq – Văn chương hay ‘’ đánh trống rao hàng’’ ? và Đầu voi đuôi chuột (Hợp lưu, số 86, tháng 12-2005 & 01-2006).
(2)Xem : Một hiện tượng của văn học Pháp 2007 – Con nhím lịch lãm (Hợp lưu, số 99, tháng 3 và 4 năm 2008).
(3)Xem : Giải thưởng văn học ở Pháp (Văn nghệ, số 6, ngày 12/2/2005) và Giải thưởng văn chương ở Pháp (Hợp Lưu, số 98, tháng 1&2/2008).
(4)Xem Hợp lưu số này, lời dẫn nhập của André Spire chủ trì buổi tọa đàm La nouvelle d’aujourd’hui (Truyện ngắn ngày nay) tổ chức ở Paris ngày 16 tháng 03/2001 do chúng tôi ghi chép ngay hôm đó : « Các Nxb thường chỉ nhận in truyện ngắn của tác giả nào đã có tiểu thuyết bán chạy. Họ làm việc này như một đặc ân (…) ‘’ Tôi ban ơn cho ngài đó. (…) Vin theo số tiểu thuyết hay mà ngài đã cho xuất bản, tôi mới dám nhận in truyện ngắn của ngài.’’»
VÀI HỘT SẠN LƯỢM TRONG TẬP
L`HEXAGONE DE SÔNG HỒNG
Tập thơ tiếng Pháp L`hexagone de Sông Hồng, chuyển ngữ từ tập Lục giác sông Hồng, qui tụ sáu nhà thơ đương đại Việt nam: Dạ Thảo Phương, Dương Tường, Hoàng Hưng, Ngô Tự Lập, Phan Huyền Thư và Vi Thùy Linh. Sáu nhà thơ nổi tiếng này, tuy mỗi nhà một thi cách riêng và thuộc nhiều thế hệ kế tiếp từ thập niên 30 tới 80 thế kỉ trước, đều cùng một tâm huyết chung là cách tân, đổi mới hình thức lẫn thi hứng trong tác phẩm của mình. Hai bản tiếng Pháp và tiếng Việt in chung thành một quyển duy nhứt, nhưng tách biệt, đầu sách tập này là cuối sách tập kia - do "Ngô Tự Lập (…) trực tiếp thực hiện" (sđd, tr. 4) và Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành "với sự giúp đỡ của Trung tâm Văn hóa và Hợp tác Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam" (tr. 2).
Dưới đây, chúng tôi xin mạn phép khoanh vùng, không bàn tới phẩm chất thi ca của nguyên tác và bản dịch. Mà chỉ trình bày một số sơ hở, đơn thuần về mặt ngữ pháp, ngôn từ và phong cách diễn đạt, nhận thấy trong bản tiếng Pháp - loại sai sót có thể khiến cho bản dịch mất đi phần lớn chất lượng của nó.
Sai sót tiêu biểu
Từ số thẻ đã ghi làm tư liệu riêng, chúng tôi trích dẫn, lần lượt theo thứ tự in trong sách, vài ba thí dụ điển hình cho loại bất cập nói trên.
Nhan đề Nguyên tác Nhan đề Bản dịch
(1) Kinh cầu Ước – Một ngày thức dậy… Prière Puissais-je – Un jour en me réveillant…
Tiếng Pháp không có động từ puisser để chuyển thành Puissais(-je) theo thì imparfait (thì quá khứ). Đọc chữ đầu tiên này của bài thơ đầu tiên in trong bản dịch (tr. 10), chúng tôi lấy làm ngỡ ngàng, không hiểu. Do lỗi in chăng? Nhưng không, cụm từ Puissais-je được lặp đi lặp lại sáu lần liên tiếp. Vậy phải tìm hiểu qua nguyên tác. Thì ra đó là Ước, có nghĩa là nguyện cầu, và trong ngữ cảnh, nó được dịch bằng động từ pouvoir để chuyển thành Puisse-je theo thì présent du subjonctif (thì hiện tại diễn đạt ước vọng). Có điều là, trong những trường hợp tương tự, đọc lên nguyên văn như vậy nghe thấy nó líu lưỡi ngọng nghịu thế nào, nên người Pháp đương nhiên chèn vô một suffixe (hậu tố) cho được thuận lưỡi thuận tai. Chỉ chêm thêm mỗi một dấu sắc, biến lời thỉnh cầu Puisse-je thành Puissé-je, dễ nói dễ nghe hơn.
(2) Đại lộ … được đổi bằng nhiều mạng Grand chemin … acquises au prix de nombreuses morts
Trong mạch văn, chữ mạng hàm nghĩa hết sức cụ thể là xác chết, là tử thi - … đá quý đổi bằng nhiều mạng (tr. 15) đúng theo nguyên tác, đối lập với Cái Chết trừu tượng giãi bày cách đó năm dòng. Danh từ số nhiều morts (tr. 15) trên đây vì vậy thuộc loại nom masculin (giống đực), nên tính từ kèm theo phải là nombreux, đối lập với danh từ la Mort thuộc loại nom féminin (giống cái). Không thôi thì mọi sự hóa ra vô nghĩa bởi vừa thiếu mạch lạc vừa thiếu chuẩn xác.
(3) Quả táo Thành đạt – Yếm thế La pomme Accomplis ou Cyniques
Tiếng Pháp cyniques (tr. 18) có nghĩa là trâng tráo, trơ trẽn, chống đối mọi tiêu chuẩn đạo đức, mọi ý nghĩ thường tình. Không hàm đúng nghĩa Yếm thế = có tư tưởng chán đời (theo Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê chủ biên) của nguyên tác. Chúng tôi cố công tìm hiểu xem có lí do đặc biệt chánh đáng nào khiến cho dịch giả chuyển ngữ một cách sai lệch như vậy, nhưng vô hiệu – xin được chỉ giáo.
(4) như trên (Lũ trẻ…) Khiêng nàng đi tìm một chỗ vấp như trên (Des enfants…) La portent et s`en vont en quête d`un endroit où ils pourraient trébucher
Nguyên tác chỉ gồm có bảy chữ, bản dịch gấp đôi (tr. 19). Đây không phải là chuyện dài ngắn. Mà là ở chỗ trong khi nguyên tác rất ư kiệm lời thì bản dịch lại lòng thòng, kèm theo mấy cụm từ et s`en vont và ils pourraient vừa suy diễn vừa giải thích một cách quả tình vô tích sự. Bản dịch có thể tóm gọn hệt như nguyên tác: … La portent en quête d`un lieu où trébucher chẳng hạn.
(5) Sen muộn Trút bỏ xiêm y – Trút bỏ thịt da Tardive fleur de lotus Elle se dévêtit et se débarrasse enfin de sa peau
Động từ se dévêtir chia vào ngôi thứ ba trong thì présent de l`indicatif (thì đương kim hiện tại) là se dévêt, đồng thì với động từ se débarrasser là se débarrasse. Chớ không phải là se dévêtit (tr. 26) thuộc thì passé simple (thì quá khứ đơn), khiến cho câu Pháp dịch trệch nghĩa với nguyên tác. Chúng tôi không rõ vì sao dịch giả chia động từ nhầm lẫn như vậy.
(6) Hãy phủ thơ khắp thế giới của em Je couvre de poésie ce monde qui est mienne
Câu dịch thượng dẫn (tr.102), năm trang sau, hóa thành Je couvre de poésie ce monde qui est mien (tr. 107). Ngoài chỗ chữa sửa, hay thay chữ, khí lạ lẫm (mienne, mien) này và chủ thể Je (Tôi) không có trong nguyên tác (Hãy phủ…), cả hai câu dịch đều hiện dưới mắt người đọc và chui vào tai người nghe một cách nặng trịch (ce monde qui est mienne, …qui est mien) và cầu kì (Je couvre de poésie) - để khỏi bảo là ngô nghê thế nào. Bởi, trong ngữ cảnh, một người Pháp ít nhiều có học chắc sẽ diễn đạt một cách suôn sẻ và giản dị hơn nhiều. Chẳng hạn như: Que mon univers à moi soit inondé de poésie (ghi chú: mon univers à moi: sự trùng lặp ở đây nhấn mạnh ý của em trong nguyên tác), hoặc Que le monde entier soit parsemé de mes vers và nhiều cách diễn đạt khác nữa.
(7) Nơi ánh sáng Thành phố lên đèn… Le code secret de la lumière La ville allume la lumière
(8) như trên Hoảng hốt lên đèn như trên Effrayée elle allume la lumière
Trong lời nói cũng như trong câu chữ, người Pháp tối kị sự trùng lặp, thứ lỗi mà họ gọi là pléonasme, không thể tha thứ trong một bài văn. Hai lần trùng lặp allume la lumière liên tiếp (tr. 110), trong khi nguyên tác chỉ lên đèn một cách nhè nhẹ gọn gàng, không nhấn mạnh ý tưởng phát biểu (xem ghi chú trong thí dụ 6 trên đây – một ngoại lệ xác minh qui tắc đặt định).
(9) Đồng tử Vì mặt trời thiêu đốt – Tất cả loài chim… Prunelle Abattus par la chaleur – Tout oiseau
Động từ abattre chia dưới dạng participe passé (phân từ quá khứ) là abattu. Thêm ở đằng sau, chữ e trong trường hợp chủ thể thuộc giống cái: abattue; chữ s nếu là số nhiều: abattus; vừa giống cái vừa số nhiều, thì là abattues. Chủ thể của bản dịch là Tout oiseau (tr. 115) thuộc giống đực và số ít, phân từ quá khứ phải là abattu. Chúng tôi không rõ dịch giả viết phân từ abattus với chữ s vì nguyên do nào: vì số nhiều tiềm ẩn nguyên tác tất cả (tr. 106) chăng? vì tin rằng phân từ thông dụng là abattus chăng?
(10) Yêu cùng George Sand … bí mật bay giữa lồng sáng nhiệm mầu Aimer à l`instar de George Sand … s`envoler discrètement au milieu des millions de nimbes miraculeuses
Danh từ nimbe(s) thuộc giống đực, tính từ kèm theo phải là miraculeux. Dịch giả lầm tưởng nó thuộc giống cái chăng, nên mới biến tính từ giống đực thành giống cái miraculeuses (tr. 116)? Một lỗi văn phạm, hay nhầm lẫn, khó hiểu. Chúng tôi không rõ là do bất cẩn, hay do thiếu hiểu biết, mà dịch giả lẫn người hiệu đính mắc phải thứ lỗi văn phạm hay ngữ pháp sơ đẳng khó bề chấp nhận này.
(…)
Và hiệu đính
Mấy sơ hở trình bày trên đây đều trích ra từ các bài dịch đã được hiệu đính, hay để dùng chữ của nguyên tác tiếng Pháp in trong sách là traductions revisées par… (tr. 3 – ghi chú: từ ngữ chỉ định công trình chuyển dịch loại này thường là adaptation(s) hoặc translation(s), chuẩn xác hơn) cho phép chúng tôi đặt nhiều câu hỏi – không xét tới trình độ và khả năng Pháp văn của các dịch giả, mà chỉ bàn về tác phong của người hiệu đính:
* khái quát, như: Có thể hiệu đính thơ dịch không, nhứt là trong trường hợp người hiệu đính không phải là nhà thơ? Hiệu đính thơ dịch trên căn bản nào, theo tiêu chuẩn nào, đơn thuần về mặt ngữ pháp và ngôn từ hay cả về mặt thi ca? Dịch thơ và dịch văn xuôi khác nhau và/hay giống nhau ở chỗ nào? Khó hơn hay dễ hơn ở chỗ nào?...
* cụ thể, như: Các nhà hiệu đính tập L`hexagone de Sông Hồng có (tài) làm thơ - trong số người nước ngoài này, chúng tôi chỉ biết có một nhà thơ là Stéphane Wattier - không? Họ có thông thạo tiếng Việt, và cả tiếng Pháp (đâu phải hễ là người Pháp là đương nhiên sành sõi tiếng… Pháp), tới mức đủ khả năng hiệu đính không?...
Một điều nữa cũng đáng được chú ý, là có những bản dịch được tới hai nhà hiệu đính, đồng lượt hay thay phiên nhau, cáng đáng (trang 110-113 và tr. 114-115). Thiếu tự tin? Quá thận trọng?
Trước khi dừng bút…
… xin được phép thưa rõ. Chúng tôi nghe thấy từ đây - nhưng trên thực tế, đã nghe thấy rồi trong nhiều dịp khác - các lời trách móc kiểu bới lông tìm vết, bới bèo ra bọ và không ưa thì dưa có dòi… Đặc biệt qua hai loại phản ứng, hay đúng hơn, qua hai loại phản xạ có điều kiện hoặc không điều kiện. Loại thứ nhứt: sao ông dám đụng tới Mỗ? Loại thứ nhì: ông định hạ bệ Mỗ để chiếm chỗ trên văn đàn ư? Mỗ là (những) dịch giả có tiếng thành thạo ngoại ngữ và (những) cây đa cây đề trong ngành dịch thuật.
Chúng tôi cho đó là loại phản ứng cạn suy, bốc đồng. Chẳng dính líu gì tới sự việc trình bày. Bởi trách nhiệm của chúng tôi, trách nhiệm mà chúng tôi tự mình nhận lãnh trong công việc này (Anh không làm thì ai làm?) là phải lên tiếng cảnh giới bạn đọc trước những bất cập nhận thấy trong các bản dịch Việt/Pháp và Pháp/Việt thiếu chuẩn xác về mặt ngữ pháp, ngôn từ và phong cách diễn đạt - mặc cả tiếng tăm của các đương sự - mặc cả các phản xạ bè phái.
Như đã thực thi hơn bốn mươi năm trước - ở một nơi khác và trong một hoàn cảnh khác.
----------------------------------
(1) Dạ Thảo Phương, Prière. Traduit par Dương Tường – Revisé par Muriel Gilardone.
(2) Dạ Thảo Phương, Grand chemin. Traduit par Dương Tường – Revisé par Muriel Gilardone.
(3) (4) Dạ Thảo Phương, La pomme. Traduit par Dương Tường – Revisé par Muriel Gilardone.
(5) Dạ Thảo Phương, Tardive fleur de lotus. Traduit par Dương Tường – Revisé par Muriel Gilardone.
(6) Vi Thùy Linh, Je couvre de poésie ce monde qui est mien(ne). Traduit par Châu Diên – Revisé par Muriel Gilardone.
(7) (8) Vi Thùy Linh, Le code secret de la lumière. Traduit par Cao Việt Dũng – Revisé par Lương Nguyễn Liêm Bình et Muriel Gilardone.
(9) Vi Thùy Linh, Prunelle. Traduit par Cao Việt Dũng – Revisé par Lương Nguyễn Liêm Bình et Muriel Gilardone.
(10) Vi Thùy Linh, Aimer à l`instar de George Sand. Traduit par Dương Tường – Revisé par Muriel Gilardone.
TRẦN THIỆN-ĐẠO
(Paris, 04/08/2008)
Một vì sao rụng
ALEXANDRE SOLJENITSYNE (1918-2008)
UY VŨ BẤT NĂNG KHUẤT
Sanh ngày 18/12/1918 ở miền núi Cápca ranh giới châu Âu châu Á, Alexandre ( Issaïevitch) Soljenitsyne lớn lên ở thành phố Rostov bên bờ sông Đông. Học văn, sử, triết và toán. Tòng quân khi Thế chiền thứ Hai bùng nổ. Năm 1945, bị bắt nhốt trại lao cải suốt tám năm ròng vì đã lớn tiếng chỉ tríchvà chế nhạo Thống chế Xtalin (1879-1953) cho tới khi nhà độc tài này qua đời mới được thả. Năm 1962, cuốn truyện Một ngày trong cuộc đời của Ivan Denissovitch tự sự hư cấu thời gian lao cải được xuất bản. Rồi tác giả bị gác bút - khiến chúng ta không khỏi nghĩ tới trường hợp các nhà văn nhà thơ họa sĩ trong nhóm Nhân văn Giai phẩm và những Bùi Ngọc Tấn, Dương Thu Hương sau đó ở bên ta. Dầu vậy, nhờ được xuất bản ở ngoại quốc, tác phẩm của ông liên hồi gây tiếng vang rộng lớn trên toàn thế giới. Giải Nobel văn chương 1970, nhưng chỉ nhận được năm 1974, khi bị chánh quyền Liên xô tước quốc tịch và trục xuất. Tạm cư ở Thụy sĩ, rồi định cư ở Hoa kì cho đền năm 1994 mới hồi hương. Từ trần trong đêm 3-4/12/2008, hưởng thọ 89 tuổi rưỡi.
Vai trò lịch sử
Phải nói ngay rằng ít có nhà văn nào trên thế giới đóng một vai trò lịch sử lớn lao ngần ấy, một vai trò tương xứng với tầm cỡ Alexandre Soljenitsyne. Trong những điều kiện cực cùng khó khăn (kiểm duyệt, tù tội, gác bút, trục xuất, văn nô hùa nhau phỉ báng), ông đã, bằng tác phẩm văn chương và văn học, vạch ra ánh sáng cho toàn thể thế giới nhìn thấy cái vũ trụ vô nhơn đạo trong các trại lao cải ở Liên xô. Mà chính mình đã trải qua tám năm ròng và căn cứ trên chứng từ của 227 zeks (lao động khổ sai), 227 con người nối khố, đồng cam cộng khổ với mình. Vũ trụ các trại mà ông gọi là Quần đảo Ngục tù – nhân đó tác phẩm trực tiếp tố cáo hệ thống tập trung tù nhơn chánh trị và thường phạm ở Liên xô và các nước vệ tinh. (1)
Tập biên khảo dày cộm này, ngót 1.000 trang in khổ lớn, được tác giả soạn thảo từ năm 1956 tới năm 1967 (ông ra tù năm 1953) trên nhũng trang giấy nhỏ. Để tránh kiểm duyệt và khỏi mang thêm hiểm họa, ông chôn giấu ngoài vườn của bạn bè, một bản thứ hai gởi ra ngoại quốc. Đầu năm 1974, khi một cô bạn của ông treo cổ tự tử, vì đã tiết lộ cho sở tình báo KGB biết các chỗ chôn giấu bản thảo, ông mới quyết định cho xuất bản ở Paris vừa bản tiếng Nga vừa bản tiếng Pháp, và, liền ngay sau đó, các bản tiếng ngoại quốc khác, Anh, Mĩ, Ý, Đức, Nhựt, Bồ… Cuốn Quần đảo Ngục tù, tất nhiên, gây sóng gió không những ở ngoại quốc mà cả ở trong nước. Thế là ông bị tước quốc tịch và trục xuất như một kẻ nhập cư trái phép. Và thừa dịp lãnh giải Nobel trao tặng bốn năm trước.
Hệt như truyện Một ngày trong cuộc đời của Ivan Denissovitch đăng trên tạp chí văn học Novy Mir (Thế giới Mới) 12 năm trước. Một tự sự hư cấu rất ngắn, 67 trang, dựa trên trải nghiệm của tác giả trong trại lao cải trước đó. Nó được đăng công khai trên một tạp chí chánh thức là bởi bi thư đảng Cộng sản Liên xô bấy giờ là ông Nikita Khrouchtchev (1894-1971), người đã đọc báo cáo nẩy lửa về những cái gọi là sai lầm của Xtalin. Có thể bảo văn tài của Alexandre Soljenitsyne được tóm gọn trong tác phẩm đọng đặc này. Ivan Denissovitch Choukhov là nhơn vật tiêu biểu. Hắn tin rằng tháng nào Thượng đế cũng bẻ nhỏ mặt trăng thành nhiều mảnh để thay các vì sao đã mỏi mòn, kiệt sức. Bị bọn Đức bắt làm tù binh, trốn thoát. Nhưng mới vừa về nước, hắn bị cơ quan tình báo tóm cổ ngay liền vỉ tội làm gián điệp cho địch. Tuyện tường thuật một trong ba ngàn sáu trăm năm mươi ba ngày lai cải, ‘’ một ngày kể như sung sưóng ra phết’’. Một tác phẩm vừa ảo vừa thực, nhưng thực hơn là ảo, tác giả và nhơn vật khi thì là hai khi thì là là một – kì ảo như Chùa Đàn (1946) của Nguyễn Tuân (1910-1987), kì thực như Chuyện kể năm 2000 (2000), hay Mộng du, của Bùi Ngọc Tấn. (2)
Trong văn nghiệp đồ sộ của ông, dài có (đa số, rất dài), ngắn có, ngoài hai tác phẩm kể trên, cũng cần nhắc thêm mấy tập sách khác liên quan tới chế độ xô viết. Như các cuốn Khu ung thư, Tầng đầu địa ngục, Bánh xe màu hồng… đều là những tác phẩm dày cộm không những về mặt trang sách mà về cả tư duy.
Trí thức dấn thân
Với bổn tánh không nhân nhượng, lại có năng khiếu nhìn xa thấy rộng và cốt cách khí khái chẳng thua gì tiền bối của mình là Fiodor Mikhaïlovitch Dostoïevski (1821-1881) hay, gần chúng ta hơn, Phan Khôi (1887-1959) chẳng hạn, và với bộ râu rậm vòng quanh khuôn mặt, Alexandre Soljenitsyne là hình ảnh các nhà trí thức cương trực thế kỉ XIX tái hiện.Và trên thực tế, là một nhà trí thức dấn thân, ít ai bì kịp, biểu tượng cho tinh thần phản kháng chế độ độc tôn nghiệt ngã ngự trị một thời gian dài ở nước ông.
Ông nghiễm nhiên trở thành đối tượng cho một bọn văn nô, do chánh quyền giựt dây, chĩa hằng bao mũi dùi nhọn hoắc, thẳng thừng đạp ông xuống bùn.(3) Không ngừng nghỉ, từ khi ông còn ở trong nước cho đến thời ông lưu vong ở Hoa kì ; và một cách hổ lốn xà ngầu, chẳng ngại bịa đặt những chuyện trái ngược hẳn nhau. Không chừa một loại cáo buộc nặng nhẹ nào : chống cộng, bảo hoàng, cực tả, cực hữu, thủ cựu, quá khích, phản động, kì thị, ghét do thái, đồng lõa với mật thám Đức, với tình báo Mĩ CIA, với mật vụ Pháp, cả với Hội Tam điểm… Một tên zek, nguyên lao động khổ sai, tố cáo ông làm chỉ điểm cho nhà chức trách đương nhiệm trong một tờ khai xảo trá. Cơ quan tình báo và mật vụ KGB thì đặt hàng, mua chuộc hậu hĩnh vài ba thân hữu và cả người vợ cũ của ông, bày họ viết sách phỉ báng và vu khống. Trước những cáo buộc đó, Alexandre Soljenitsyne giữ kẽ, lặng thinh.
Cho đến khi Liên bang xô viết sụp đổ vào cuối thập niên 80 đầu thập niên 90 thế kỉ trước, kéo theo các vệ tinh của mình ở Đông Âu, ông được hoàn lại quốc tịch. Rồi trở về nước năm 1994. Bấy giờ, trong tập tự thuật Hột gạo rớt khỏi cối xay xuất bản năm 1998 và gần đây trong bài Bọn vẽ viết tầm phào đâu cốt đi tìm ánh sáng đăng trên tờ Literatournaïa Gazeta (Văn nghệ báo), ông mới lên tiếng mỉa mai, ngay cả trên nhan đề tập sách và bài báo, đáp trả các lời cáo buộc vô căn cứ nói trên của bọn văn nô. Bằng cách sắp xếp lại, đặt chúng kề sát bên nhau để chúng tự mình phản biện lẫn nhau, khỏi cần chêm thêm bình luận. Một thủ thuật hiệu nghiệm.
Nói nào ngay, thì tư tưởng chánh trị và xã hội của ông chẳng phải thảy đều thuộc loại dễ chấp nhận. Vì nó không đơn giản chút nào và hết sức phức tạp để có thể gói gọn trong từ ngữ bao giờ cũng thẳng tuột, đóng khung. Vì nó được đúc kết ngày lại ngày suốt trọn một cuộc đời đầy đặc thử thách (tù đày, bạn bè phản bội, tác phẩm cấm phát hành), nung nấu trong một số phận lao đao, gót rỗ ki khu (4) (tước quốc tịch, trục xuất, lưu vong). Ông đã lần lượt sống trong một chế độ thiếu tự do, rồi trong một chánh thể quá ư lãng phí không chỉ về mặt vật chất mà cả về mặt tinh thần. Khiến cho ông ngộ rằng người ta không thể bỗng chốc nhảy phốc từ một thể chế độc tài qua thể chế dân chủ mà thành công ngay liền. Phần khác, ông lại quan niệm rằng một nền dân chủ thật thụ chỉ có thể dấy lên từ dưới lên trên, nghĩa là từ tâm ý của đại chúng, chớ không thể do chánh quyền trung ương đặt định. Một ý tưởng xem chừng trái khoáy, dầu gì cũng của một nhà trí thức trung thực, cần được tôn trọng.
Thế kỉ Soljenitsyne
Năm ngoái, trong diễn văn nhận Giải Quốc gia từ tay Tổng thống Nga Vladimir Poutine đọc ngày 17 tháng 06/2007, Alexandre Soljenitsyne tin tưởng như sau : « Vào cuối đời mình, tôi có hi vọng rằng (…) vật liệu lịch sử tôi đã thâu thập sẽ khắc sâu trong lương tâm và trong trí nhớ đồng bào của mình.» Quả không sai. Qua hai tác phẩm để đời Một ngày trong cuộc đời của Ivan Denissovitch và Quần đảo Ngục tù, với phong cách sử thi, với chứng từ đậm nét, với cảm xúc tràn đầy và nhứt là với ngọn lửa rọi sáng hệ thống vô nhơn đạo của thể chế chánh trị nọ, nhà văn Alexandre Soljenitsyne đã để lại không chỉ cho đồng bào của ông mà cho hậu thế trên thế giới nói chung một dấu ấn khôn phai.
Cho nên chúng tôi muốn gọi thế kỉ XX vừa qua là thế kỉ Soljenitsyne ; hệt như thế kỉ XVIII, thế kỉ Voltaire (1694-1778) và thế kỉ XIX, thế kỉ Victor Hugo (1802-1885). (5)
TRẦN THIỆN-ĐẠO
(Paris, 04/08/2008)
-----------------------------
(1)Nguyên tác : Goulag, rút ngắn tên gọi tiếng Nga Glavnoïe Oupravlenie Laguereï, Tổng cục lao cải. Loại gọi là trại (học tập) cải tạo thiết lập ở bên ta sau tháng 04/1975. Lao cải, cải tạo là anh em sanh đôi và đều là trại tù khổ sai như nhau, đói khát, bịnh tật, chết chóc.
(2)Trong cuốn ‘’ tiểu thuyết’’ Mộng du, hay Chuyện kể năm 2000, Bùi Ngọc Tấn dùng rất nhiều tiếng lóng, hệt như Alexandre Soljenitsyne trong cuốn ‘’ truyện ‘’ Một ngày trong cuộc đời của Ivan Denossovitch.
(3)Tương tợ mấy văn nô nổi tiếng thời Nhân văn Giai phẩm ở bên ta, từ những Hoài Thanh (1909-1982), Xuân Diệu (1916-1985)... tới những Nguyễn Công Hoan (1903-1977), Nguyễn Đình Thi (1924-2003)... - có cần nhắc tên ông Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương Tố Hữu (1920-2002) ở đây hay không ?
(4)Chữ của Ôn như Nguyễn Gia Thiều (1741-1798), Cung oán ngâm khúc, câu 70. (5) Những nhận định kể trên đều căn cứ trên các bản Pháp dịch.
Copyright © 2008 www.hopluu.net.
Một vì sao rụng
ALEXANDRE SOLJENITSYNE (1918-2008)
UY VŨ BẤT NĂNG KHUẤT
Sanh ngày 18/12/1918 ở miền núi Cápca ranh giới châu Âu châu Á, Alexandre ( Issaïevitch) Soljenitsyne lớn lên ở thành phố Rostov bên bờ sông Đông. Học văn, sử, triết và toán. Tòng quân khi Thế chiền thứ Hai bùng nổ. Năm 1945, bị bắt nhốt trại lao cải suốt tám năm ròng vì đã lớn tiếng chỉ tríchvà chế nhạo Thống chế Xtalin (1879-1953) cho tới khi nhà độc tài này qua đời mới được thả. Năm 1962, cuốn truyện Một ngày trong cuộc đời của Ivan Denissovitch tự sự hư cấu thời gian lao cải được xuất bản. Rồi tác giả bị gác bút - khiến chúng ta không khỏi nghĩ tới trường hợp các nhà văn nhà thơ họa sĩ trong nhóm Nhân văn Giai phẩm và những Bùi Ngọc Tấn, Dương Thu Hương sau đó ở bên ta. Dầu vậy, nhờ được xuất bản ở ngoại quốc, tác phẩm của ông liên hồi gây tiếng vang rộng lớn trên toàn thế giới. Giải Nobel văn chương 1970, nhưng chỉ nhận được năm 1974, khi bị chánh quyền Liên xô tước quốc tịch và trục xuất. Tạm cư ở Thụy sĩ, rồi định cư ở Hoa kì cho đền năm 1994 mới hồi hương. Từ trần trong đêm 3-4/12/2008, hưởng thọ 89 tuổi rưỡi.
Vai trò lịch sử
Phải nói ngay rằng ít có nhà văn nào trên thế giới đóng một vai trò lịch sử lớn lao ngần ấy, một vai trò tương xứng với tầm cỡ Alexandre Soljenitsyne. Trong những điều kiện cực cùng khó khăn (kiểm duyệt, tù tội, gác bút, trục xuất, văn nô hùa nhau phỉ báng), ông đã, bằng tác phẩm văn chương và văn học, vạch ra ánh sáng cho toàn thể thế giới nhìn thấy cái vũ trụ vô nhơn đạo trong các trại lao cải ở Liên xô. Mà chính mình đã trải qua tám năm ròng và căn cứ trên chứng từ của 227 zeks (lao động khổ sai), 227 con người nối khố, đồng cam cộng khổ với mình. Vũ trụ các trại mà ông gọi là Quần đảo Ngục tù – nhân đó tác phẩm trực tiếp tố cáo hệ thống tập trung tù nhơn chánh trị và thường phạm ở Liên xô và các nước vệ tinh. (1)
Tập biên khảo dày cộm này, ngót 1.000 trang in khổ lớn, được tác giả soạn thảo từ năm 1956 tới năm 1967 (ông ra tù năm 1953) trên nhũng trang giấy nhỏ. Để tránh kiểm duyệt và khỏi mang thêm hiểm họa, ông chôn giấu ngoài vườn của bạn bè, một bản thứ hai gởi ra ngoại quốc. Đầu năm 1974, khi một cô bạn của ông treo cổ tự tử, vì đã tiết lộ cho sở tình báo KGB biết các chỗ chôn giấu bản thảo, ông mới quyết định cho xuất bản ở Paris vừa bản tiếng Nga vừa bản tiếng Pháp, và, liền ngay sau đó, các bản tiếng ngoại quốc khác, Anh, Mĩ, Ý, Đức, Nhựt, Bồ… Cuốn Quần đảo Ngục tù, tất nhiên, gây sóng gió không những ở ngoại quốc mà cả ở trong nước. Thế là ông bị tước quốc tịch và trục xuất như một kẻ nhập cư trái phép. Và thừa dịp lãnh giải Nobel trao tặng bốn năm trước.
Hệt như truyện Một ngày trong cuộc đời của Ivan Denissovitch đăng trên tạp chí văn học Novy Mir (Thế giới Mới) 12 năm trước. Một tự sự hư cấu rất ngắn, 67 trang, dựa trên trải nghiệm của tác giả trong trại lao cải trước đó. Nó được đăng công khai trên một tạp chí chánh thức là bởi bi thư đảng Cộng sản Liên xô bấy giờ là ông Nikita Khrouchtchev (1894-1971), người đã đọc báo cáo nẩy lửa về những cái gọi là sai lầm của Xtalin. Có thể bảo văn tài của Alexandre Soljenitsyne được tóm gọn trong tác phẩm đọng đặc này. Ivan Denissovitch Choukhov là nhơn vật tiêu biểu. Hắn tin rằng tháng nào Thượng đế cũng bẻ nhỏ mặt trăng thành nhiều mảnh để thay các vì sao đã mỏi mòn, kiệt sức. Bị bọn Đức bắt làm tù binh, trốn thoát. Nhưng mới vừa về nước, hắn bị cơ quan tình báo tóm cổ ngay liền vỉ tội làm gián điệp cho địch. Tuyện tường thuật một trong ba ngàn sáu trăm năm mươi ba ngày lai cải, ‘’ một ngày kể như sung sưóng ra phết’’. Một tác phẩm vừa ảo vừa thực, nhưng thực hơn là ảo, tác giả và nhơn vật khi thì là hai khi thì là là một – kì ảo như Chùa Đàn (1946) của Nguyễn Tuân (1910-1987), kì thực như Chuyện kể năm 2000 (2000), hay Mộng du, của Bùi Ngọc Tấn. (2)
Trong văn nghiệp đồ sộ của ông, dài có (đa số, rất dài), ngắn có, ngoài hai tác phẩm kể trên, cũng cần nhắc thêm mấy tập sách khác liên quan tới chế độ xô viết. Như các cuốn Khu ung thư, Tầng đầu địa ngục, Bánh xe màu hồng… đều là những tác phẩm dày cộm không những về mặt trang sách mà về cả tư duy.
Trí thức dấn thân
Với bổn tánh không nhân nhượng, lại có năng khiếu nhìn xa thấy rộng và cốt cách khí khái chẳng thua gì tiền bối của mình là Fiodor Mikhaïlovitch Dostoïevski (1821-1881) hay, gần chúng ta hơn, Phan Khôi (1887-1959) chẳng hạn, và với bộ râu rậm vòng quanh khuôn mặt, Alexandre Soljenitsyne là hình ảnh các nhà trí thức cương trực thế kỉ XIX tái hiện.Và trên thực tế, là một nhà trí thức dấn thân, ít ai bì kịp, biểu tượng cho tinh thần phản kháng chế độ độc tôn nghiệt ngã ngự trị một thời gian dài ở nước ông.
Ông nghiễm nhiên trở thành đối tượng cho một bọn văn nô, do chánh quyền giựt dây, chĩa hằng bao mũi dùi nhọn hoắc, thẳng thừng đạp ông xuống bùn.(3) Không ngừng nghỉ, từ khi ông còn ở trong nước cho đến thời ông lưu vong ở Hoa kì ; và một cách hổ lốn xà ngầu, chẳng ngại bịa đặt những chuyện trái ngược hẳn nhau. Không chừa một loại cáo buộc nặng nhẹ nào : chống cộng, bảo hoàng, cực tả, cực hữu, thủ cựu, quá khích, phản động, kì thị, ghét do thái, đồng lõa với mật thám Đức, với tình báo Mĩ CIA, với mật vụ Pháp, cả với Hội Tam điểm… Một tên zek, nguyên lao động khổ sai, tố cáo ông làm chỉ điểm cho nhà chức trách đương nhiệm trong một tờ khai xảo trá. Cơ quan tình báo và mật vụ KGB thì đặt hàng, mua chuộc hậu hĩnh vài ba thân hữu và cả người vợ cũ của ông, bày họ viết sách phỉ báng và vu khống. Trước những cáo buộc đó, Alexandre Soljenitsyne giữ kẽ, lặng thinh.
Cho đến khi Liên bang xô viết sụp đổ vào cuối thập niên 80 đầu thập niên 90 thế kỉ trước, kéo theo các vệ tinh của mình ở Đông Âu, ông được hoàn lại quốc tịch. Rồi trở về nước năm 1994. Bấy giờ, trong tập tự thuật Hột gạo rớt khỏi cối xay xuất bản năm 1998 và gần đây trong bài Bọn vẽ viết tầm phào đâu cốt đi tìm ánh sáng đăng trên tờ Literatournaïa Gazeta (Văn nghệ báo), ông mới lên tiếng mỉa mai, ngay cả trên nhan đề tập sách và bài báo, đáp trả các lời cáo buộc vô căn cứ nói trên của bọn văn nô. Bằng cách sắp xếp lại, đặt chúng kề sát bên nhau để chúng tự mình phản biện lẫn nhau, khỏi cần chêm thêm bình luận. Một thủ thuật hiệu nghiệm.
Nói nào ngay, thì tư tưởng chánh trị và xã hội của ông chẳng phải thảy đều thuộc loại dễ chấp nhận. Vì nó không đơn giản chút nào và hết sức phức tạp để có thể gói gọn trong từ ngữ bao giờ cũng thẳng tuột, đóng khung. Vì nó được đúc kết ngày lại ngày suốt trọn một cuộc đời đầy đặc thử thách (tù đày, bạn bè phản bội, tác phẩm cấm phát hành), nung nấu trong một số phận lao đao, gót rỗ ki khu (4) (tước quốc tịch, trục xuất, lưu vong). Ông đã lần lượt sống trong một chế độ thiếu tự do, rồi trong một chánh thể quá ư lãng phí không chỉ về mặt vật chất mà cả về mặt tinh thần. Khiến cho ông ngộ rằng người ta không thể bỗng chốc nhảy phốc từ một thể chế độc tài qua thể chế dân chủ mà thành công ngay liền. Phần khác, ông lại quan niệm rằng một nền dân chủ thật thụ chỉ có thể dấy lên từ dưới lên trên, nghĩa là từ tâm ý của đại chúng, chớ không thể do chánh quyền trung ương đặt định. Một ý tưởng xem chừng trái khoáy, dầu gì cũng của một nhà trí thức trung thực, cần được tôn trọng.
Thế kỉ Soljenitsyne
Năm ngoái, trong diễn văn nhận Giải Quốc gia từ tay Tổng thống Nga Vladimir Poutine đọc ngày 17 tháng 06/2007, Alexandre Soljenitsyne tin tưởng như sau : « Vào cuối đời mình, tôi có hi vọng rằng (…) vật liệu lịch sử tôi đã thâu thập sẽ khắc sâu trong lương tâm và trong trí nhớ đồng bào của mình.» Quả không sai. Qua hai tác phẩm để đời Một ngày trong cuộc đời của Ivan Denissovitch và Quần đảo Ngục tù, với phong cách sử thi, với chứng từ đậm nét, với cảm xúc tràn đầy và nhứt là với ngọn lửa rọi sáng hệ thống vô nhơn đạo của thể chế chánh trị nọ, nhà văn Alexandre Soljenitsyne đã để lại không chỉ cho đồng bào của ông mà cho hậu thế trên thế giới nói chung một dấu ấn khôn phai.
Cho nên chúng tôi muốn gọi thế kỉ XX vừa qua là thế kỉ Soljenitsyne ; hệt như thế kỉ XVIII, thế kỉ Voltaire (1694-1778) và thế kỉ XIX, thế kỉ Victor Hugo (1802-1885). (5)
-----------------------------
(1)Nguyên tác : Goulag, rút ngắn tên gọi tiếng Nga Glavnoïe Oupravlenie Laguereï, Tổng cục lao cải. Loại gọi là trại (học tập) cải tạo thiết lập ở bên ta sau tháng 04/1975. Lao cải, cải tạo là anh em sanh đôi và đều là trại tù khổ sai như nhau, đói khát, bịnh tật, chết chóc.
(2)Trong cuốn ‘’ tiểu thuyết’’ Mộng du, hay Chuyện kể năm 2000, Bùi Ngọc Tấn dùng rất nhiều tiếng lóng, hệt như Alexandre Soljenitsyne trong cuốn ‘’ truyện ‘’ Một ngày trong cuộc đời của Ivan Denossovitch.
(3)Tương tợ mấy văn nô nổi tiếng thời Nhân văn Giai phẩm ở bên ta, từ những Hoài Thanh (1909-1982), Xuân Diệu (1916-1985)... tới những Nguyễn Công Hoan (1903-1977), Nguyễn Đình Thi (1924-2003)... - có cần nhắc tên ông Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương Tố Hữu (1920-2002) ở đây hay không ?
(4)Chữ của Ôn như Nguyễn Gia Thiều (1741-1798), Cung oán ngâm khúc, câu 70. (5) Những nhận định kể trên đều căn cứ trên các bản Pháp dịch.
Paris văn học
ANNA GAVALDA
HIỆN TƯỢNG VĂN CHƯƠNG KHÔNG TRỐNG KHÔNG KÈN
Nếu như vài ba năm trước đã xảy ra trên văn đàn Pháp một hiện tượng văn chương nổi bọt (nổi bọt, chớ chưa phải nổi bật) nhờ ở loại chiến dịch tiếp thị và quảng cáo ồn ào (1), thì trong thời gian đó có hai hiện tượng khác không trống không kèn mà hiệu quả vẫn cứ dai dẳng. Tiêu biểu cho hiện tượng ấy là hai nhà văn nữ :
* Muriel Barbery, tác giả một thứ hài kịch nhan đề L’Elégance du hérisson (Con nhím lịch lãm – Nxb Gallimard, 08/2006) mà chúng tôi đã có dịp thưa cùng bạn đọc độ nào (2). Cuốn truyện không ngừng được xếp vào hàng top ten (10 đầu sách bán chạy nhứt) liên tục suốt 80 tuần ròng, từ bấy đến nay đà bán hết 1.000.000 ấn bản và vẫn còn bán chạy.
* Anna Gavalda, tác giả cuốn truyện La Consolante (Khuây khỏa nỗi lòng – Nxb Le Dilettante) mới vừa phát hành giữa tháng 03/2008 này. Đây là quyển tiểu thuyết thứ ba của bà mà mọi người nôn nao ngóng đợi : Nxb không ngại ấn hành ngay lần đầu những 300.000 cuốn và chắc nay mai sẽ in thêm nối bản. Qua mầy dòng dưới đây, chúng tôi xin giải trình hiện tượng đặc biệt này.
Tác phầm đầu tay
Cuối tháng 08/1999, Nxb Le Dilettante cho phát hành tập truyện ngắn Je voudrais que quelqu‘un m’attende quelque part (Tôi mong được ai đó đợi mình) của một nhà giáo trẻ dạy văn ở vùng phụ cận Paris. Đây quả là một thao tác có chút gì phiêu lưu trong ngành in ấn: một là vì truyện ngắn thuộc loại hình ít được độc giả Pháp ưa chuộng, hai là vì Anna Gavalda là tác giả (bấy giờ) chưa mấy ai biết tiếng, ba là vì tập truyện là tác phẩm đầu tay. Vậy mà, chỉ trong vòng hai tháng, 20 ngàn ấn bản đầu tiên đà bán sạch trơn. Ông Dominique Gauthier, giám đốc Nxb, nhớ lại : « Quả thật là bất ngờ. Cảm thấy có cái gì rục rịch khởi động, nên ngay đầu tháng 11, chúng tôi liền cho in thêm 20 ngàn nối bản. Thế rồi vào Hội chợ sách tháng 03 năm sau, tập truyện trúng giải RTL-Lire (giải đài RTL/tạp chí Văn) (3), thế là lại in thêm 100 ngàn nối bản nữa, và độc giả khôn thôi tìm đọc. (…) Không dè truớc được. Giá hồi ấy có ai tiên đoán là truyện ngắn có thể bán được nhiều như vậy, tới những 250 ngàn cuốn, chắc gì chúng tôi dám tin ngay. »
Le Dilettante vốn là một Nxb nhỏ không đủ phương tiện tiếp thị và quảng cáo để ‘’đánh trống rao hàng’’ như các Nxb đầu ngành, theo kiểu, nói thí dụ, Nxb Fayard đã gióng tiếng cho cuốn La Possibilité d’une île (Với tới hòn đảo) của Michel Houellebecq. (1) Vậy thì thành tựu nói trên do đâu mà ra ? Cũng hệt như tác phẩm Con nhím lịch lãm của Muriel Barbery (2), tập truyện đầu tay của Anna Gavalda được độc giả tranh nhau mua là nhờ ở chất lượng tự tại của nó : hữu xạ tự nhiên hương. Độc giả lấy làm thích thú nên cứ tự dưng truyền tay nhau đọc hoặc kháo nhau mua, các tiệm sách thì nhiệt tình trưng bày tập truyện như một tác phẩm nên đọc và cần đọc, rồi giới phê bình lần lượt viết bài bàn luận một cách thân tình. Một qui trình trái ngược thông lệ : hễ có chất lượng thì tác phẩm tất được biết đến không cần phải phô trương.
Chẳng những vậy, mà nó còn là cơ hội vực dậy một nhà xuất bản nhỏ chưa đủ vây cánh để chen lấn, cạnh tranh với đồng nghiệp đã có bề dầy thương mãi, thúc đẩy nó vững bước trên con đường sự nghiệp của mình. Ông Dominique Gauthier thừa nhận : « Anna Gavalda là nhà văn mang đến cho chúng tôi thành quả đầu tiên qua một tác phẩm đầu tay. Hồi đó chúng tôi nhận được nhiểu cú điện thoại của các chủ tiệm sách, đại khái bảo rằng họ hết sức lấy làm mừng thấy tập truyện do chúng tôi ấn hành bán chạy như tôm tươi, thật hiếm. Bởi chúng tôi vốn là một Nxb nhỏ, không có phương tiện tiếp thị. Chúng tôi nghe trong lời nói của họ biết bao cảm tình, khuyến khích. Từ đó đến nay, vì là Nxb duy nhứt chịu in truyện ngắn của Anna Gavalda cho nên chúng tôi vẫn tiếp tục ấn hành tác phẩm của bà. » (4)
Hiện tượng Anna Gavalda khởi sự từ đây.
Độc giả đa dạng
Giới phê bình bấy giờ mới chợt nhận thấy Anna Gavalđa có một năng khiếu đậm đặc : gần gũi với độc giả. Không cao siêu, không làm dáng. Biết quan sát, biết thuật chuyện thường nhựt. Kết quả nhiều ngày tháng thám sát điều tra, thâu thập tư liệu, cho phép tác giả tạo nên những nhơn vật thật tình số động, gấn gũi, không thuộc loại bịa đặt, nhạt phèo. Nhơn vật truyện của bà là cuộc sống vây quanh. Cho nên độc giả đương nhiên rất ư đa dạng. Và họ thảy đều ca ngợi tánh chất đó.
Chẳng hạn như cô Émilie A, 22 tuổi : « Sách của Anna Gavalda ai cũng đọc được, cũng hiểu, rất gần với đời sống. Nhơn vật trong truyện hết sức hấp dẫn, độc giả như bị thôi miên, không ngớt hòa lẫn cảm xúc với họ. » Hay ông Maurice G., 31 tuổi : « Anna Gavalda viết văn như thể viết giùm tôi vậy. Có dịp trò chuyện với bà, tôi thấy bà cũng hết sức gần gũi với độc giả giống hệt các nhơn vật trong truyện. » Còn bà Michèle P., 44 tuổi : « Sách nào của Anna Gavalda cũng dễ đọc và lôi cuốn. Tác giả luôn dùng loại từ ngữ giản dị kể những điều sâu lắng trong đời sống thường ngày. Má tôi nay đà 75, vậy mà vẫn thích và đòi đọc Anna Gavalda. » và bà Virginie T., 56 tuổi : « Hiếm có nhà văn nào thân mật với độc giả bằng Anna Gavalda. Bản thân bà giống hệt nhơn vật của mình. Truyện của bà bao giờ cũng lạc quan, đem lại cho người đọc một luồng gió trong lành giữa bầu khí ô trọc và ngột ngạt hiện thời. »
Ông giám đốc Nxb Le Dilettante phụ họa : « Phải nhìn nhận rằng độc giả của Anna Gavalda thuộc đủ mọi thành phần, phụ nữ có, đàn ông có, trẻ có, già có - ở bất luận từng lớp nào, độ tuổi nào. Vượt qua giới tánh và tuổi tác, không thôi thì làm sao sách của bà bán tới được ngần ấy.» Những con số vượt bực. Năm 2004, chỉ với cái tên tác giả không thôi mà cuốn tiểu thuyết thứ hai Ensemble, c’est tout (Chung sống với nhau) của Anna Gavalda đã nghiễm nhiên chiếm hàng đầu loạt sách bán chạy nhứt. Câu chuyện kể hết sức kì lạ mà cũng hết sức hiện thực, xoay quanh ba nhơn vật chung sống với nhau dẫu họ từng lớp xã hội khác nhau : một công nhơn quét dọn đầu tắt mặt tối, một anh chàng quí phái ngờ nghệch, một chú đầu bếp du côn nhưng có trái tim yếu đuối nhạy cảm… Một triệu ấn bản và nối bản hết trọn ngay liền. Rồi một triệu ấn bản khác trong loại bỏ túi tiếp theo cũng sạch trơn - thống kê hãng Nghiên cứu thị trường Edistat-Titelive cho thấy có lúc bán tới những 2.500 cuốn mỗi ngày. Rồi truyện được dựng thành phim nhựa, cũng rất ư ăn khách chẳng thua gì tập sách.
Anna Gavalda thật sự nổi tiếng từ đây.
Ngôi sao trong hội chợ
Sau bốn năm trời vắng bóng trên văn đàn, cuốn truyện thứ ba La Consolante của bà chẳng nói chẳng rằng cứ vọt lên đứng đầu loại sách bán chạy trong Hội chợ sách ở Paris tổ chức vào trung tuần tháng Ba này. Còn độc giả thì nối đuôi nhau xếp hàng để trò chuyện vài giây, nhận vài dòng đề tặng và đọc lướt câu chuyện gia đình khởi đầu vào mùa đông ở phi trường : « Mặt trời màu sữa, mùi xăng đậm đặc, thân xác mệt nhoài. »
Anna Gavalda mặc nhiên trở thành ngôi sao sáng chói trong Hội chợ. Và ngoài Hội chợ.
------------------------------
(1)Xem : Hiện tượng Michel Houellebecq – Văn chương hay ‘’ đánh trống rao hàng’’ ? và Đầu voi đuôi chuột (Hợp lưu, số 86, tháng 12-2005 & 01-2006).
(2)Xem : Một hiện tượng của văn học Pháp 2007 – Con nhím lịch lãm (Hợp lưu, số 99, tháng 3 và 4 năm 2008).
(3)Xem : Giải thưởng văn học ở Pháp (Văn nghệ, số 6, ngày 12/2/2005) và Giải thưởng văn chương ở Pháp (Hợp Lưu, số 98, tháng 1&2/2008).
(4)Xem Hợp lưu số này, lời dẫn nhập của André Spire chủ trì buổi tọa đàm La nouvelle d’aujourd’hui (Truyện ngắn ngày nay) tổ chức ở Paris ngày 16 tháng 03/2001 do chúng tôi ghi chép ngay hôm đó : « Các Nxb thường chỉ nhận in truyện ngắn của tác giả nào đã có tiểu thuyết bán chạy. Họ làm việc này như một đặc ân (…) ‘’ Tôi ban ơn cho ngài đó. (…) Vin theo số tiểu thuyết hay mà ngài đã cho xuất bản, tôi mới dám nhận in truyện ngắn của ngài.’’»
VÀI HỘT SẠN LƯỢM TRONG TẬP
L`HEXAGONE DE SÔNG HỒNG
Tập thơ tiếng Pháp L`hexagone de Sông Hồng, chuyển ngữ từ tập Lục giác sông Hồng, qui tụ sáu nhà thơ đương đại Việt nam: Dạ Thảo Phương, Dương Tường, Hoàng Hưng, Ngô Tự Lập, Phan Huyền Thư và Vi Thùy Linh. Sáu nhà thơ nổi tiếng này, tuy mỗi nhà một thi cách riêng và thuộc nhiều thế hệ kế tiếp từ thập niên 30 tới 80 thế kỉ trước, đều cùng một tâm huyết chung là cách tân, đổi mới hình thức lẫn thi hứng trong tác phẩm của mình. Hai bản tiếng Pháp và tiếng Việt in chung thành một quyển duy nhứt, nhưng tách biệt, đầu sách tập này là cuối sách tập kia - do "Ngô Tự Lập (…) trực tiếp thực hiện" (sđd, tr. 4) và Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành "với sự giúp đỡ của Trung tâm Văn hóa và Hợp tác Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam" (tr. 2).
Dưới đây, chúng tôi xin mạn phép khoanh vùng, không bàn tới phẩm chất thi ca của nguyên tác và bản dịch. Mà chỉ trình bày một số sơ hở, đơn thuần về mặt ngữ pháp, ngôn từ và phong cách diễn đạt, nhận thấy trong bản tiếng Pháp - loại sai sót có thể khiến cho bản dịch mất đi phần lớn chất lượng của nó.
Sai sót tiêu biểu
Từ số thẻ đã ghi làm tư liệu riêng, chúng tôi trích dẫn, lần lượt theo thứ tự in trong sách, vài ba thí dụ điển hình cho loại bất cập nói trên.
Nhan đề Nguyên tác Nhan đề Bản dịch
(1) Kinh cầu Ước – Một ngày thức dậy… Prière Puissais-je – Un jour en me réveillant…
Tiếng Pháp không có động từ puisser để chuyển thành Puissais(-je) theo thì imparfait (thì quá khứ). Đọc chữ đầu tiên này của bài thơ đầu tiên in trong bản dịch (tr. 10), chúng tôi lấy làm ngỡ ngàng, không hiểu. Do lỗi in chăng? Nhưng không, cụm từ Puissais-je được lặp đi lặp lại sáu lần liên tiếp. Vậy phải tìm hiểu qua nguyên tác. Thì ra đó là Ước, có nghĩa là nguyện cầu, và trong ngữ cảnh, nó được dịch bằng động từ pouvoir để chuyển thành Puisse-je theo thì présent du subjonctif (thì hiện tại diễn đạt ước vọng). Có điều là, trong những trường hợp tương tự, đọc lên nguyên văn như vậy nghe thấy nó líu lưỡi ngọng nghịu thế nào, nên người Pháp đương nhiên chèn vô một suffixe (hậu tố) cho được thuận lưỡi thuận tai. Chỉ chêm thêm mỗi một dấu sắc, biến lời thỉnh cầu Puisse-je thành Puissé-je, dễ nói dễ nghe hơn.
(2) Đại lộ … được đổi bằng nhiều mạng Grand chemin … acquises au prix de nombreuses morts
Trong mạch văn, chữ mạng hàm nghĩa hết sức cụ thể là xác chết, là tử thi - … đá quý đổi bằng nhiều mạng (tr. 15) đúng theo nguyên tác, đối lập với Cái Chết trừu tượng giãi bày cách đó năm dòng. Danh từ số nhiều morts (tr. 15) trên đây vì vậy thuộc loại nom masculin (giống đực), nên tính từ kèm theo phải là nombreux, đối lập với danh từ la Mort thuộc loại nom féminin (giống cái). Không thôi thì mọi sự hóa ra vô nghĩa bởi vừa thiếu mạch lạc vừa thiếu chuẩn xác.
(3) Quả táo Thành đạt – Yếm thế La pomme Accomplis ou Cyniques
Tiếng Pháp cyniques (tr. 18) có nghĩa là trâng tráo, trơ trẽn, chống đối mọi tiêu chuẩn đạo đức, mọi ý nghĩ thường tình. Không hàm đúng nghĩa Yếm thế = có tư tưởng chán đời (theo Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê chủ biên) của nguyên tác. Chúng tôi cố công tìm hiểu xem có lí do đặc biệt chánh đáng nào khiến cho dịch giả chuyển ngữ một cách sai lệch như vậy, nhưng vô hiệu – xin được chỉ giáo.
(4) như trên (Lũ trẻ…) Khiêng nàng đi tìm một chỗ vấp như trên (Des enfants…) La portent et s`en vont en quête d`un endroit où ils pourraient trébucher
Nguyên tác chỉ gồm có bảy chữ, bản dịch gấp đôi (tr. 19). Đây không phải là chuyện dài ngắn. Mà là ở chỗ trong khi nguyên tác rất ư kiệm lời thì bản dịch lại lòng thòng, kèm theo mấy cụm từ et s`en vont và ils pourraient vừa suy diễn vừa giải thích một cách quả tình vô tích sự. Bản dịch có thể tóm gọn hệt như nguyên tác: … La portent en quête d`un lieu où trébucher chẳng hạn.
(5) Sen muộn Trút bỏ xiêm y – Trút bỏ thịt da Tardive fleur de lotus Elle se dévêtit et se débarrasse enfin de sa peau
Động từ se dévêtir chia vào ngôi thứ ba trong thì présent de l`indicatif (thì đương kim hiện tại) là se dévêt, đồng thì với động từ se débarrasser là se débarrasse. Chớ không phải là se dévêtit (tr. 26) thuộc thì passé simple (thì quá khứ đơn), khiến cho câu Pháp dịch trệch nghĩa với nguyên tác. Chúng tôi không rõ vì sao dịch giả chia động từ nhầm lẫn như vậy.
(6) Hãy phủ thơ khắp thế giới của em Je couvre de poésie ce monde qui est mienne
Câu dịch thượng dẫn (tr.102), năm trang sau, hóa thành Je couvre de poésie ce monde qui est mien (tr. 107). Ngoài chỗ chữa sửa, hay thay chữ, khí lạ lẫm (mienne, mien) này và chủ thể Je (Tôi) không có trong nguyên tác (Hãy phủ…), cả hai câu dịch đều hiện dưới mắt người đọc và chui vào tai người nghe một cách nặng trịch (ce monde qui est mienne, …qui est mien) và cầu kì (Je couvre de poésie) - để khỏi bảo là ngô nghê thế nào. Bởi, trong ngữ cảnh, một người Pháp ít nhiều có học chắc sẽ diễn đạt một cách suôn sẻ và giản dị hơn nhiều. Chẳng hạn như: Que mon univers à moi soit inondé de poésie (ghi chú: mon univers à moi: sự trùng lặp ở đây nhấn mạnh ý của em trong nguyên tác), hoặc Que le monde entier soit parsemé de mes vers và nhiều cách diễn đạt khác nữa.
(7) Nơi ánh sáng Thành phố lên đèn… Le code secret de la lumière La ville allume la lumière
(8) như trên Hoảng hốt lên đèn như trên Effrayée elle allume la lumière
Trong lời nói cũng như trong câu chữ, người Pháp tối kị sự trùng lặp, thứ lỗi mà họ gọi là pléonasme, không thể tha thứ trong một bài văn. Hai lần trùng lặp allume la lumière liên tiếp (tr. 110), trong khi nguyên tác chỉ lên đèn một cách nhè nhẹ gọn gàng, không nhấn mạnh ý tưởng phát biểu (xem ghi chú trong thí dụ 6 trên đây – một ngoại lệ xác minh qui tắc đặt định).
(9) Đồng tử Vì mặt trời thiêu đốt – Tất cả loài chim… Prunelle Abattus par la chaleur – Tout oiseau
Động từ abattre chia dưới dạng participe passé (phân từ quá khứ) là abattu. Thêm ở đằng sau, chữ e trong trường hợp chủ thể thuộc giống cái: abattue; chữ s nếu là số nhiều: abattus; vừa giống cái vừa số nhiều, thì là abattues. Chủ thể của bản dịch là Tout oiseau (tr. 115) thuộc giống đực và số ít, phân từ quá khứ phải là abattu. Chúng tôi không rõ dịch giả viết phân từ abattus với chữ s vì nguyên do nào: vì số nhiều tiềm ẩn nguyên tác tất cả (tr. 106) chăng? vì tin rằng phân từ thông dụng là abattus chăng?
(10) Yêu cùng George Sand … bí mật bay giữa lồng sáng nhiệm mầu Aimer à l`instar de George Sand … s`envoler discrètement au milieu des millions de nimbes miraculeuses
Danh từ nimbe(s) thuộc giống đực, tính từ kèm theo phải là miraculeux. Dịch giả lầm tưởng nó thuộc giống cái chăng, nên mới biến tính từ giống đực thành giống cái miraculeuses (tr. 116)? Một lỗi văn phạm, hay nhầm lẫn, khó hiểu. Chúng tôi không rõ là do bất cẩn, hay do thiếu hiểu biết, mà dịch giả lẫn người hiệu đính mắc phải thứ lỗi văn phạm hay ngữ pháp sơ đẳng khó bề chấp nhận này.
(…)
Và hiệu đính
Mấy sơ hở trình bày trên đây đều trích ra từ các bài dịch đã được hiệu đính, hay để dùng chữ của nguyên tác tiếng Pháp in trong sách là traductions revisées par… (tr. 3 – ghi chú: từ ngữ chỉ định công trình chuyển dịch loại này thường là adaptation(s) hoặc translation(s), chuẩn xác hơn) cho phép chúng tôi đặt nhiều câu hỏi – không xét tới trình độ và khả năng Pháp văn của các dịch giả, mà chỉ bàn về tác phong của người hiệu đính:
* khái quát, như: Có thể hiệu đính thơ dịch không, nhứt là trong trường hợp người hiệu đính không phải là nhà thơ? Hiệu đính thơ dịch trên căn bản nào, theo tiêu chuẩn nào, đơn thuần về mặt ngữ pháp và ngôn từ hay cả về mặt thi ca? Dịch thơ và dịch văn xuôi khác nhau và/hay giống nhau ở chỗ nào? Khó hơn hay dễ hơn ở chỗ nào?...
* cụ thể, như: Các nhà hiệu đính tập L`hexagone de Sông Hồng có (tài) làm thơ - trong số người nước ngoài này, chúng tôi chỉ biết có một nhà thơ là Stéphane Wattier - không? Họ có thông thạo tiếng Việt, và cả tiếng Pháp (đâu phải hễ là người Pháp là đương nhiên sành sõi tiếng… Pháp), tới mức đủ khả năng hiệu đính không?...
Một điều nữa cũng đáng được chú ý, là có những bản dịch được tới hai nhà hiệu đính, đồng lượt hay thay phiên nhau, cáng đáng (trang 110-113 và tr. 114-115). Thiếu tự tin? Quá thận trọng?
Trước khi dừng bút…
… xin được phép thưa rõ. Chúng tôi nghe thấy từ đây - nhưng trên thực tế, đã nghe thấy rồi trong nhiều dịp khác - các lời trách móc kiểu bới lông tìm vết, bới bèo ra bọ và không ưa thì dưa có dòi… Đặc biệt qua hai loại phản ứng, hay đúng hơn, qua hai loại phản xạ có điều kiện hoặc không điều kiện. Loại thứ nhứt: sao ông dám đụng tới Mỗ? Loại thứ nhì: ông định hạ bệ Mỗ để chiếm chỗ trên văn đàn ư? Mỗ là (những) dịch giả có tiếng thành thạo ngoại ngữ và (những) cây đa cây đề trong ngành dịch thuật.
Chúng tôi cho đó là loại phản ứng cạn suy, bốc đồng. Chẳng dính líu gì tới sự việc trình bày. Bởi trách nhiệm của chúng tôi, trách nhiệm mà chúng tôi tự mình nhận lãnh trong công việc này (Anh không làm thì ai làm?) là phải lên tiếng cảnh giới bạn đọc trước những bất cập nhận thấy trong các bản dịch Việt/Pháp và Pháp/Việt thiếu chuẩn xác về mặt ngữ pháp, ngôn từ và phong cách diễn đạt - mặc cả tiếng tăm của các đương sự - mặc cả các phản xạ bè phái.
Như đã thực thi hơn bốn mươi năm trước - ở một nơi khác và trong một hoàn cảnh khác.
----------------------------------
(1) Dạ Thảo Phương, Prière. Traduit par Dương Tường – Revisé par Muriel Gilardone.
(2) Dạ Thảo Phương, Grand chemin. Traduit par Dương Tường – Revisé par Muriel Gilardone.
(3) (4) Dạ Thảo Phương, La pomme. Traduit par Dương Tường – Revisé par Muriel Gilardone.
(5) Dạ Thảo Phương, Tardive fleur de lotus. Traduit par Dương Tường – Revisé par Muriel Gilardone.
(6) Vi Thùy Linh, Je couvre de poésie ce monde qui est mien(ne). Traduit par Châu Diên – Revisé par Muriel Gilardone.
(7) (8) Vi Thùy Linh, Le code secret de la lumière. Traduit par Cao Việt Dũng – Revisé par Lương Nguyễn Liêm Bình et Muriel Gilardone.
(9) Vi Thùy Linh, Prunelle. Traduit par Cao Việt Dũng – Revisé par Lương Nguyễn Liêm Bình et Muriel Gilardone.
(10) Vi Thùy Linh, Aimer à l`instar de George Sand. Traduit par Dương Tường – Revisé par Muriel Gilardone.
TRẦN THIỆN-ĐẠO
(Paris, 04/08/2008)
Một vì sao rụng
ALEXANDRE SOLJENITSYNE (1918-2008)
UY VŨ BẤT NĂNG KHUẤT
Sanh ngày 18/12/1918 ở miền núi Cápca ranh giới châu Âu châu Á, Alexandre ( Issaïevitch) Soljenitsyne lớn lên ở thành phố Rostov bên bờ sông Đông. Học văn, sử, triết và toán. Tòng quân khi Thế chiền thứ Hai bùng nổ. Năm 1945, bị bắt nhốt trại lao cải suốt tám năm ròng vì đã lớn tiếng chỉ tríchvà chế nhạo Thống chế Xtalin (1879-1953) cho tới khi nhà độc tài này qua đời mới được thả. Năm 1962, cuốn truyện Một ngày trong cuộc đời của Ivan Denissovitch tự sự hư cấu thời gian lao cải được xuất bản. Rồi tác giả bị gác bút - khiến chúng ta không khỏi nghĩ tới trường hợp các nhà văn nhà thơ họa sĩ trong nhóm Nhân văn Giai phẩm và những Bùi Ngọc Tấn, Dương Thu Hương sau đó ở bên ta. Dầu vậy, nhờ được xuất bản ở ngoại quốc, tác phẩm của ông liên hồi gây tiếng vang rộng lớn trên toàn thế giới. Giải Nobel văn chương 1970, nhưng chỉ nhận được năm 1974, khi bị chánh quyền Liên xô tước quốc tịch và trục xuất. Tạm cư ở Thụy sĩ, rồi định cư ở Hoa kì cho đền năm 1994 mới hồi hương. Từ trần trong đêm 3-4/12/2008, hưởng thọ 89 tuổi rưỡi.
Vai trò lịch sử
Phải nói ngay rằng ít có nhà văn nào trên thế giới đóng một vai trò lịch sử lớn lao ngần ấy, một vai trò tương xứng với tầm cỡ Alexandre Soljenitsyne. Trong những điều kiện cực cùng khó khăn (kiểm duyệt, tù tội, gác bút, trục xuất, văn nô hùa nhau phỉ báng), ông đã, bằng tác phẩm văn chương và văn học, vạch ra ánh sáng cho toàn thể thế giới nhìn thấy cái vũ trụ vô nhơn đạo trong các trại lao cải ở Liên xô. Mà chính mình đã trải qua tám năm ròng và căn cứ trên chứng từ của 227 zeks (lao động khổ sai), 227 con người nối khố, đồng cam cộng khổ với mình. Vũ trụ các trại mà ông gọi là Quần đảo Ngục tù – nhân đó tác phẩm trực tiếp tố cáo hệ thống tập trung tù nhơn chánh trị và thường phạm ở Liên xô và các nước vệ tinh. (1)
Tập biên khảo dày cộm này, ngót 1.000 trang in khổ lớn, được tác giả soạn thảo từ năm 1956 tới năm 1967 (ông ra tù năm 1953) trên nhũng trang giấy nhỏ. Để tránh kiểm duyệt và khỏi mang thêm hiểm họa, ông chôn giấu ngoài vườn của bạn bè, một bản thứ hai gởi ra ngoại quốc. Đầu năm 1974, khi một cô bạn của ông treo cổ tự tử, vì đã tiết lộ cho sở tình báo KGB biết các chỗ chôn giấu bản thảo, ông mới quyết định cho xuất bản ở Paris vừa bản tiếng Nga vừa bản tiếng Pháp, và, liền ngay sau đó, các bản tiếng ngoại quốc khác, Anh, Mĩ, Ý, Đức, Nhựt, Bồ… Cuốn Quần đảo Ngục tù, tất nhiên, gây sóng gió không những ở ngoại quốc mà cả ở trong nước. Thế là ông bị tước quốc tịch và trục xuất như một kẻ nhập cư trái phép. Và thừa dịp lãnh giải Nobel trao tặng bốn năm trước.
Hệt như truyện Một ngày trong cuộc đời của Ivan Denissovitch đăng trên tạp chí văn học Novy Mir (Thế giới Mới) 12 năm trước. Một tự sự hư cấu rất ngắn, 67 trang, dựa trên trải nghiệm của tác giả trong trại lao cải trước đó. Nó được đăng công khai trên một tạp chí chánh thức là bởi bi thư đảng Cộng sản Liên xô bấy giờ là ông Nikita Khrouchtchev (1894-1971), người đã đọc báo cáo nẩy lửa về những cái gọi là sai lầm của Xtalin. Có thể bảo văn tài của Alexandre Soljenitsyne được tóm gọn trong tác phẩm đọng đặc này. Ivan Denissovitch Choukhov là nhơn vật tiêu biểu. Hắn tin rằng tháng nào Thượng đế cũng bẻ nhỏ mặt trăng thành nhiều mảnh để thay các vì sao đã mỏi mòn, kiệt sức. Bị bọn Đức bắt làm tù binh, trốn thoát. Nhưng mới vừa về nước, hắn bị cơ quan tình báo tóm cổ ngay liền vỉ tội làm gián điệp cho địch. Tuyện tường thuật một trong ba ngàn sáu trăm năm mươi ba ngày lai cải, ‘’ một ngày kể như sung sưóng ra phết’’. Một tác phẩm vừa ảo vừa thực, nhưng thực hơn là ảo, tác giả và nhơn vật khi thì là hai khi thì là là một – kì ảo như Chùa Đàn (1946) của Nguyễn Tuân (1910-1987), kì thực như Chuyện kể năm 2000 (2000), hay Mộng du, của Bùi Ngọc Tấn. (2)
Trong văn nghiệp đồ sộ của ông, dài có (đa số, rất dài), ngắn có, ngoài hai tác phẩm kể trên, cũng cần nhắc thêm mấy tập sách khác liên quan tới chế độ xô viết. Như các cuốn Khu ung thư, Tầng đầu địa ngục, Bánh xe màu hồng… đều là những tác phẩm dày cộm không những về mặt trang sách mà về cả tư duy.
Trí thức dấn thân
Với bổn tánh không nhân nhượng, lại có năng khiếu nhìn xa thấy rộng và cốt cách khí khái chẳng thua gì tiền bối của mình là Fiodor Mikhaïlovitch Dostoïevski (1821-1881) hay, gần chúng ta hơn, Phan Khôi (1887-1959) chẳng hạn, và với bộ râu rậm vòng quanh khuôn mặt, Alexandre Soljenitsyne là hình ảnh các nhà trí thức cương trực thế kỉ XIX tái hiện.Và trên thực tế, là một nhà trí thức dấn thân, ít ai bì kịp, biểu tượng cho tinh thần phản kháng chế độ độc tôn nghiệt ngã ngự trị một thời gian dài ở nước ông.
Ông nghiễm nhiên trở thành đối tượng cho một bọn văn nô, do chánh quyền giựt dây, chĩa hằng bao mũi dùi nhọn hoắc, thẳng thừng đạp ông xuống bùn.(3) Không ngừng nghỉ, từ khi ông còn ở trong nước cho đến thời ông lưu vong ở Hoa kì ; và một cách hổ lốn xà ngầu, chẳng ngại bịa đặt những chuyện trái ngược hẳn nhau. Không chừa một loại cáo buộc nặng nhẹ nào : chống cộng, bảo hoàng, cực tả, cực hữu, thủ cựu, quá khích, phản động, kì thị, ghét do thái, đồng lõa với mật thám Đức, với tình báo Mĩ CIA, với mật vụ Pháp, cả với Hội Tam điểm… Một tên zek, nguyên lao động khổ sai, tố cáo ông làm chỉ điểm cho nhà chức trách đương nhiệm trong một tờ khai xảo trá. Cơ quan tình báo và mật vụ KGB thì đặt hàng, mua chuộc hậu hĩnh vài ba thân hữu và cả người vợ cũ của ông, bày họ viết sách phỉ báng và vu khống. Trước những cáo buộc đó, Alexandre Soljenitsyne giữ kẽ, lặng thinh.
Cho đến khi Liên bang xô viết sụp đổ vào cuối thập niên 80 đầu thập niên 90 thế kỉ trước, kéo theo các vệ tinh của mình ở Đông Âu, ông được hoàn lại quốc tịch. Rồi trở về nước năm 1994. Bấy giờ, trong tập tự thuật Hột gạo rớt khỏi cối xay xuất bản năm 1998 và gần đây trong bài Bọn vẽ viết tầm phào đâu cốt đi tìm ánh sáng đăng trên tờ Literatournaïa Gazeta (Văn nghệ báo), ông mới lên tiếng mỉa mai, ngay cả trên nhan đề tập sách và bài báo, đáp trả các lời cáo buộc vô căn cứ nói trên của bọn văn nô. Bằng cách sắp xếp lại, đặt chúng kề sát bên nhau để chúng tự mình phản biện lẫn nhau, khỏi cần chêm thêm bình luận. Một thủ thuật hiệu nghiệm.
Nói nào ngay, thì tư tưởng chánh trị và xã hội của ông chẳng phải thảy đều thuộc loại dễ chấp nhận. Vì nó không đơn giản chút nào và hết sức phức tạp để có thể gói gọn trong từ ngữ bao giờ cũng thẳng tuột, đóng khung. Vì nó được đúc kết ngày lại ngày suốt trọn một cuộc đời đầy đặc thử thách (tù đày, bạn bè phản bội, tác phẩm cấm phát hành), nung nấu trong một số phận lao đao, gót rỗ ki khu (4) (tước quốc tịch, trục xuất, lưu vong). Ông đã lần lượt sống trong một chế độ thiếu tự do, rồi trong một chánh thể quá ư lãng phí không chỉ về mặt vật chất mà cả về mặt tinh thần. Khiến cho ông ngộ rằng người ta không thể bỗng chốc nhảy phốc từ một thể chế độc tài qua thể chế dân chủ mà thành công ngay liền. Phần khác, ông lại quan niệm rằng một nền dân chủ thật thụ chỉ có thể dấy lên từ dưới lên trên, nghĩa là từ tâm ý của đại chúng, chớ không thể do chánh quyền trung ương đặt định. Một ý tưởng xem chừng trái khoáy, dầu gì cũng của một nhà trí thức trung thực, cần được tôn trọng.
Thế kỉ Soljenitsyne
Năm ngoái, trong diễn văn nhận Giải Quốc gia từ tay Tổng thống Nga Vladimir Poutine đọc ngày 17 tháng 06/2007, Alexandre Soljenitsyne tin tưởng như sau : « Vào cuối đời mình, tôi có hi vọng rằng (…) vật liệu lịch sử tôi đã thâu thập sẽ khắc sâu trong lương tâm và trong trí nhớ đồng bào của mình.» Quả không sai. Qua hai tác phẩm để đời Một ngày trong cuộc đời của Ivan Denissovitch và Quần đảo Ngục tù, với phong cách sử thi, với chứng từ đậm nét, với cảm xúc tràn đầy và nhứt là với ngọn lửa rọi sáng hệ thống vô nhơn đạo của thể chế chánh trị nọ, nhà văn Alexandre Soljenitsyne đã để lại không chỉ cho đồng bào của ông mà cho hậu thế trên thế giới nói chung một dấu ấn khôn phai.
Cho nên chúng tôi muốn gọi thế kỉ XX vừa qua là thế kỉ Soljenitsyne ; hệt như thế kỉ XVIII, thế kỉ Voltaire (1694-1778) và thế kỉ XIX, thế kỉ Victor Hugo (1802-1885). (5)
TRẦN THIỆN-ĐẠO
(Paris, 04/08/2008)
-----------------------------
(1)Nguyên tác : Goulag, rút ngắn tên gọi tiếng Nga Glavnoïe Oupravlenie Laguereï, Tổng cục lao cải. Loại gọi là trại (học tập) cải tạo thiết lập ở bên ta sau tháng 04/1975. Lao cải, cải tạo là anh em sanh đôi và đều là trại tù khổ sai như nhau, đói khát, bịnh tật, chết chóc.
(2)Trong cuốn ‘’ tiểu thuyết’’ Mộng du, hay Chuyện kể năm 2000, Bùi Ngọc Tấn dùng rất nhiều tiếng lóng, hệt như Alexandre Soljenitsyne trong cuốn ‘’ truyện ‘’ Một ngày trong cuộc đời của Ivan Denossovitch.
(3)Tương tợ mấy văn nô nổi tiếng thời Nhân văn Giai phẩm ở bên ta, từ những Hoài Thanh (1909-1982), Xuân Diệu (1916-1985)... tới những Nguyễn Công Hoan (1903-1977), Nguyễn Đình Thi (1924-2003)... - có cần nhắc tên ông Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương Tố Hữu (1920-2002) ở đây hay không ?
(4)Chữ của Ôn như Nguyễn Gia Thiều (1741-1798), Cung oán ngâm khúc, câu 70. (5) Những nhận định kể trên đều căn cứ trên các bản Pháp dịch.
Copyright © 2008 www.hopluu.net.
Đăng ký:
Nhận xét (Atom)