29/9/13

5 trụ cột của xã hội dân sự - việc cần làm ngay tại Việt Nam

30/09/2013

Nguyễn Thanh Dòng
Tôi đến YangGon – Myanmar những ngày đầu tháng 9/2013 trong một chuyến thăm các thành phố lớn cổ kính và nổi tiếng với hàng ngàn ngôi chùa, cùng phong cảnh và người dân hiền lành đáng yêu. Đất nước vẫn còn nguyên vẹn dấu vết của một thời độc đoán, độc tài và khép kín, nhưng giờ đã thực sự tắm rửa từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, đã khoác vào mình tấm áo cơ chế mới đẹp và rất hoành tráng bởi những cơ sở vật chất hạ tầng đường sá, hải cảng tầm cỡ quốc tế. Myanmar cổ kính, xinh đẹp và thật hiền hậu, khi du khách và các nhà đầu tư toàn thế giới đổ vào đây, coi đây là mỏ vàng cuối cùng của Châu Á, là nàng tiên ngủ say trong rừng giờ chuẩn bị tỉnh giấc. Và Việt Nam ta, con rồng xưa của Châu Á làm được gì, khi mà cơ chế ta đang vận hành thực sự lạc hậu và lỗi hệ thống?
Thiết nghĩ văn minh nhân loại là tài sản chung của tất cả chúng ta và chắc chắn không của riêng quốc gia nào. Do đó chọn mô thức, thể chế tối ưu nhất của loài người để áp dụng vào quốc gia mình, đất nước mình, làm cho “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh” là mệnh lệnh thời đại là việc của Lãnh đạo cao cấp đất nước phải thực thi.
Không làm điều đó chính Lãnh đạo là người có tội với dân, với nước. Tôi nhắc lại: Có tội chứ không phải có lỗi. Mà hành vi có tội thì có thể bị án treo cho đến án tử hình.
Đến thời điểm này – Xã hội dân sự Việt Nam nên được xây dựng bằng những trụ cột cơ bản sau:
Trụ cột thứ nhất: Văn hóa phải dân chủ.
Dân chủ là một hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội, trong đó thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thông qua một hệ thống bầu cử tự do và có hai nguyên tắc mà bất kỳ một định nghĩa dân chủ nào cũng đưa vào. Nguyên tắc thứ nhất là tất cả mọi thành viên của xã hội (công dân) đều có quyền tiếp cận đến quyền lực một cách bình đẳng và thứ hai, tất cả mọi thành viên (công dân) đều được hưởng các quyền tự do được công nhận rộng rãi.
Dân chủ ở đây đồng nghĩa với dân chủ Đa nguyên phản biện trên nghị trường, trong diễn đàn, Quốc hội. Dân chủ là dân thực sự là chủ của đất nước. Người dân được tự do lựa chọn Lãnh đạo Đất Nước bằng chính lá phiếu của mình. Họ nghiễm nhiên (người dân) được phán quyết tất cả những vấn đề hệ trọng của Quốc gia bằng trưng cầu dân ý, Dân đồng ý thì nhà nước, quốc hội mới được làm, dân không đồng ý thì nhà nước, quốc hội không được làm, không dùng vũ lực, công an, quân đội để trấn áp dân, v.v. làm ngược lại nguyên lý trên, nhà nước không còn là của dân.
Trụ cột thứ hai: Nhà nước phải là nhà nước pháp quyền.
Chúng ta có thể hiểu nhà nước pháp quyền theo cách đơn giản, đó là một nhà nước quản lý kinh tế - xã hội… bằng pháp luật và nhà nước hoạt động tuân theo pháp luật.
Nhà nước pháp quyền là nhà nước phục tùng pháp luật mà chủ thể phục tùng pháp luật trước hết là các cơ quan nhà nước và công chức nhà nước.
Nhà nước pháp quyền là một chế độ chính trị mà ở đó nhà nước và cá nhân phải tuân thủ pháp luật, mọi quyền lợi, nghĩa vụ của mọi người và của mỗi người được pháp luật ghi nhận và bảo vệ, các quy trình và quy phạm pháp luật được bảo đảm thực hiện bằng một hệ thống toà án độc lập. Nhà nước pháp quyền có nghĩa vụ tôn trọng giá trị nhân bản là con người và đảm bảo cho công dân có khả năng, điều kiện, chống lại sự tuỳ tiện của cơ quan nhà nước bằng việc lập ra cơ chế kiểm tra tính hợp hiến và hợp pháp của pháp luật cũng như các hoạt động của bộ máy nhà nước. Nhà nước pháp quyền phải đảm bảo cho công dân không bị đòi hỏi bởi những cái ngoài Hiến pháp, và pháp luật đã quy định. Trong hệ thống pháp luật thì Hiến pháp giữ vị trí tối cao và nó phải được xây dựng trên cơ sở đảm bảo quyền tự do và quyền công dân.
Phải tam quyền phân lập, phải hoàn thiện luật mẹ, luật gốc (tức bản Hiến pháp). Từ người lãnh đạo cao nhất của đất nước cho đến người dân phải sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, ai sai người đó phải chịu tội (hoặc chịu phạt lỗi) do mình gây ra. Không có ngoại lệ, không có người sống ngoài vòng pháp luật, không chạy chọt mua quan bán chức, không có khái niệm con ông cháu cha, v.v. Đất nước thực sự có đầy đủ nền pháp quyềndân quyền.
Trụ cột thứ ba: Kinh tế được vận hành hoàn toàn theo cơ chế thị trường.
Cơ chế thị trường là hình thức tổ chức kinh tế trong đó các quan hệ kinh tế tác động lên mọi hoạt động của nhà sản xuất và người tiêu dùng trong quá trình trao đổi.
Cơ chế thị trường là cách thức tự động phân bổ tối ưu các nguồn lực của nền kinh tế. Đó là vì, khi mỗi nhà sản xuất đều căn cứ vào giá cả thị trường để có quyết định về sản xuất, sẽ không có sản xuất thừa, cũng sẽ không có sản xuất thiếu. Phúc lợi kinh tế được đảm bảo do không có tổn thất xã hội.
Kinh tế thị trường có nghĩa là mọi hoạt động sản xuất và trao đổi hàng hóa giữa người sản xuất và người tiêu dùng được vận hành do sự điều tiết của quan hệ cung cầu.
Ở đây không có đuôi Xã hội chủ nghĩa, không có kinh tế nhà nước làm chủ đạo. Tất cả các thành phần kinh tế đều được toàn quyền phát triển theo thực lực của mình... Nhà nước tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, tất cả đều có lợi, hướng tới một nền kinh tế đa sở hữu, đa thành phần mà đích đến là một xã hội khá giả, hài hòa, cơ hội được chia đều cho mọi người lao động hăng say, nhiệt tình, có bản lĩnh và trí tuệ.
Trụ cột thứ tư: Xã hội dân sự.
Xã hội dân sự cấu thành từ tổng thể của các tổ chức xã hội và dân sự tự nguyện mà các tổ chức này tạo nên cơ sở của một xã hội tự vận hành, khác với các cấu trúc quyền lực của một nhà nước (bất kể hệ thống chính trị của nhà nước này thuộc kiểu gì) và các thể chế thương mại của thị trường. Điển hình xã hội dân sự phát triển tốt đẹp hiện nay như Anh, Đức, Canada, Luxembua, Na Uy, Đan Mạch, Thụy Sỹ, Hà Lan, v.v.
Một xã hội dân sự là một xã hội không dùng bạo lực, coi phương pháp hòa bình, biện pháp bất bạo động là quyền lực nhà nước cho xã hội dân sự phát triển, vũ lực chỉ chống lại quân xâm lược và những kẻ hại dân hại nước để giữ vững an ninh trật tự xã hội mà thôi.
Trụ cột thứ năm: (Trụ cột cuối cùng) Đất nước phải có nền pháp lý hoàn toàn lý tính.
Lý tính là một thuật ngữ dùng trong triết học và các khoa học khác về con người để chỉ các năng lực nhận thức của tâm thức con người. Nó miêu tả một dạng tư duy hay khía cạnh tư duy, đặc biệt là tư duy trừu tượng, và khả năng tư duy trừu tượng - cái được cho là chỉ con người mới có – các loại vật khác không có tư duy lý tính.
Thật vậy, tệ chạy chức quyền con ông con cháu, tệ không trọng dụng được người tài, kẻ nịnh bợ bất tài có đất dụng võ không gì khác hơn là nền pháp lý nước nhà sa sút và kém chất lượng nghiệm trọng. Với nền pháp lý như hiện tại xã hội khó phát triển bình thường.
Viết những dòng này để chia sẻ và bằng tấm lòng thành gửi đến mọi người Việt máu đỏ da vàng (không kể người đó ở trong hay ngoài nước, thuộc thành phần và tầng lớp nào). Mong, mong lắm thay đất nước mình hãy mau cởi ngay cái áo cơ chế của đứa trẻ lên 3 đang mặc lên cho 1 người đàn ông U40, U50. Áo ấy, xấu lắm, nát lắm, rách lắm - Hãy vứt đi, hãy chôn đi, đừng để cả thế giới nhìn vào với cặp mắt coi thường hãy cố lắng nghe lời ông Lý Quang Diệu nói rằng: ”Người Việt là giống người năng động và tài giỏi ở Đông Nam Á. Học sinh đến Singapore theo dạng học bổng Asean rất nghiêm tục học hành và đậu thứ hạng cao nhất. Với giống người thông minh như vậy, quả thật là đáng tiếc là họ lại thiếu tiềm năng.  Hy vọng rằng sau khi hết lớp người trải qua cuộc chiến, giới trẻ sẽ kế nhiệm, họ sẽ thấy Thái Lan đã thành công ra sao và họ sẽ bị thuyết phục bởi mức độ quan trọng của thị trường tự do”, và cả cái phẩy tay của Ông khi nói tới lãnh đạo Việt Nam.
Hãy xây dựng một xã hội Dân sự bằng những trụ cột cơ bản trên, bởi cho đến bây giờ chưa có một hình mẫu nào, mô thức nào tốt và tối ưu hơn nó - 5 trụ cột cho một xã hội dân sự phát triển…
Hàng triệu người Việt Nam đang muốn chấm dứt những cảnh bất công, tham nhũng, trì trệ, họ muốn đất nước đổi mới thật sự, thay đổi từ gốc đến ngọn.
Hãy tự tắm đi, hãy kỳ cọ thật kỹ vào (từ trên xuống, từ dưới lên, kể cả những phần kín và nhạy cảm nhất). Đừng vì ý thức hệ nào hết, đừng vì lợi ích nhóm nào hết, tất cả hãy vì 90 triệu con dân Đất Việt – vì dân tộc bi hùng 4000 lịch sử và vì tổ quốc này – Mẹ Việt Nam yêu quý của chúng ta.

Yanggon - Myanmar, Ngày 20 tháng 09 năm 2013
N.T.D.

Source  : BVN

28/9/13

Nguyễn Xuân Nghĩa - Những Liều Thuốc Đổ Bệnh




Thursday, September 26, 2013

Vũ Hoàng & Nguyễn Xuân Nghĩa, RFA Ngày 130925

Diễn đàn Kinh tế

Nhân cơn khủng hoảng, giới chính trị vén tay bốc thuốc lung tung.... 

044_B36528728-305.jpg
* Ảnh minh họa một hôp đựng thuốc với tiền đô la Mỹ bên trong. - AFP photo*
Năm năm sau vụ khủng hoảng tài chính tại Hoa Kỳ mà cao điểm là sự sụp đổ của tập đoàn đầu tư tài chính Lehman Brothers vào ngày 15 Tháng Chín năm 2008, tình hình kinh tế Mỹ đã có vẻ khả quan hơn. Nhưng tại sao hai năm sau vụ khủng hoảng về ngân sách khiến giá trị trái phiếu của Hoa Kỳ bị tụt hạng vào đầu Tháng Tám năm 2011, nước Mỹ lại có thể gặp khủng hoảng nữa khi ngân sách liên bang bị phong tỏa vì không được nâng định mức đi vay? Diễn đàn Kinh tế tìm hiểu chuyện này và thấy ra hiện tượng gọi là "hậu quả bất lường" của chính sách kinh tế.
Từ chuyện nước Mỹ...
Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nghĩa. Vụ khủng hoảng tại Hoa Kỳ năm 2008 khiến hàng loạt tập đoàn tài chính Mỹ bị rúng động và chính phủ phải ban hành đạo luật cấp cứu với 700 tỷ đô la đắp vốn cho các cơ sở lâm nạn. Sau đó tình hình có dấu hiệu khả quan hơn và các ngân hàng lớn nhất của Mỹ nay thu lời rất cao.
Trận khủng hoảng cũng khiến thế giới bị Tổng suy trầm và Hoa Kỳ có nhiều biện pháp kích thích khiến bội chi ngân sách tăng vọt cùng gánh nặng công trái lên tới mức kỷ lục. Nạn bội chi và đi vay mới dẫn tới vụ khủng hoảng chính trị vào Tháng Tám năm 2011 khi Quốc hội Mỹ không thể nhất trí về việc giảm chi và tái quân bình ngân sách.
Tuần qua, nguy cơ ách tắc chính trị này lại tái diễn với một dự luật được biểu quyết tại Hạ viện. Khi tổng kết về chuyện khủng hoảng tài chính, suy trầm kinh tế và ách tắc chính trị, ta cần nhìn ra cả hai mặt tích cực và tiêu cực về chính sách ứng phó vì có thể rút tỉa bài học hữu ích cho xứ khác, vào thời khác. Theo dõi câu chuyện này từ nhiều năm nay, ông nghĩ rằng thính giả của chúng ta nên quan tâm nhất đến bài học nào?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Vì chúng ta làm việc tại Hoa Kỳ và nhìn nước Mỹ từ nhiều giác độ khác nhau nên có thể gây ấn tượng sai lầm rằng mình luôn luôn coi Hoa Kỳ là nhất. Sự thật nó không đơn giản như vậy và câu hỏi của ông là có ích vì giúp ta nghĩ đến các "hậu quả bất lường" của chính sách ứng phó. Tôi xin được gọi đó là bài học về "những liều thuốc đổ bệnh".
Vũ Hoàng: Chúng ta sẽ khởi đi từ những liều thuốc này. Thưa ông, trước hết vì khủng hoảng và cần phải bốc thuốc chữa bệnh?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi xin lùi về thật xa để nói đến đặc tính văn hóa, hoặc loại quy luật bất thành văn của xã hội Hoa Kỳ. Quốc gia này quá mới quá trẻ và có tiềm năng quá lớn nên nói chung người dân lạc quan cho rằng việc gì họ cũng làm hơn được xứ khác. Nhưng vì quá trẻ nên từ tình trạng lạc quan hồ hởi họ lại dễ hốt hoảng khi hữu sự và có phản ứng thái quá.
- Bây giờ, về nguyên nhân khủng hoảng, tổng kết lại các công trình nghiên cứu ta có thể thấy ra sự lạc quan sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc năm 1991 và thế giới được "nhất thể hóa", toàn cầu hóa với trao đổi hàng hóa, dịch vụ và tư bản được giải tỏa tự do hơn. Thứ hai, nhờ tiến bộ khoa học, thị trường phát minh ra nhiều phương thức đầu tư tài chính tân kỳ mà chính trường không kịp nhìn ra rủi ro để ban hành luật lệ giám sát. Và chính trường cũng lạc quan từ hơn 20 năm trước khi nhà nước khuyến khích thị trường phát triển đầu tư về gia cư để giàu nghèo gì cũng dễ mua nhà và khi giải toả chế độ kiểm soát ngân hàng từ năm 1999.

Quốc gia này quá mới quá trẻ và có tiềm năng quá lớn nên nói chung người dân lạc quan cho rằng việc gì họ cũng làm hơn được xứ khác. Nguyễn-Xuân Nghĩa
- Trong thế giới rộng mở đó, tiết kiệm dư dôi từ Á Châu chảy vào Mỹ kiếm lời có làm hạ lãi suất và càng gây ra tinh thần hồ hởi khiến người ta đi vay dễ dàng và vay quá sức trả, để đầu tư vào những ngành có quá nhiều rủi ro mà cả giới đầu tư, ngân hàng và nhà nước đều đánh giá sai. Tức là trong nhiều thập niên liên tục, người ta gây ra những thất quân bình nghiêm trọng mà lạc quan tin rằng mọi sự vẫn an toàn. Nếu nhớ lại lời phát biểu của các giới chức hữu trách từ những năm 2006 đến đầu năm 2008 thì mình thấy ra tinh thần lạc quan phổ biến ấy.
Vũ Hoàng: Chúng ta bước qua giai đoạn tâm lý đảo ngược, từ lạc quan biến ra hốt hoảng như ông vừa nói, hoặc đã trình bày trên diễn đàn này từ hơn năm năm trước.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi nghĩ là nếu không chấn chỉnh thì từ đầu cái gì nghiêng quá sẽ đổ. Khi trái bóng gia cư, một hậu quả của sự lạc quan, bắt đầu xì từ năm 2006 thì những bất toàn của cả hệ thống phức tạp này được phơi bày. Nó dẫn tới sự khủng hoảng của nhiều ngân hàng Âu Châu từ năm 2007 đã lỡ tài trợ quá nhiều cho loại nghiệp vụ quá rủi ro được gói kín trong những kén nợ bị ung thối. Từ đó mới có nạn ách tắc tín dụng và dội ngược về Mỹ thành vụ sụp đổ của tập đoàn Lehman Brothers và hàng loạt doanh nghiệp tài chính hàng đầu của nước Mỹ.
- Vì đây là loại cơ sở quá lớn nên nếu sụp đổ thì sẽ gieo họa cho các thân chủ và nhiều ngành khác nên chính quyền mới lúng túng về cái lẽ nên cứu hay không, cứu ai mà bỏ ai và làm sao cứu khi các doanh nghiệp tài chính đều mất nợ, kẹt vốn và thiếu thanh khoản mua lại tài sản của các cơ sở lâm nạn? Chính là sự lúng túng đó của chính trường sau khi đã chểnh mảng trong nhiệm vụ giám sát mới gây hốt hoảng cho thị trường. Và vụ khủng hoảng tín dụng gia cư trị giá mấy trăm tỷ và tập trung ở bốn năm tiểu bang biến thành khủng hoảng rộng lớn trên cả nước và lan ra toàn cầu thành Tổng suy trầm. Từ nạn hồ hởi sảng, người ta hốt hoảng bậy và lãnh hậu quả là tài sản người dân bị mất 11 ngàn tỷ đô la, kinh tế sa sút, thất nghiệp vượt 10%.
Vũ Hoàng: Theo như cách ông trình bày thì chính là phản ứng thái quá này mới dẫn tới những chính sách ứng phó mà ông gọi là "liều thuốc đổ bệnh". Có phải như vậy không?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa rằng đúng như vậy vì năm 2008, Hoa Kỳ có tổng tuyển cử để bầu lại cả Hành pháp lẫn Lập pháp. Trong tình trạng hoang mang chung, ta rất dễ quên phần trách nhiệm của mình mà cứ chỉ ra những sai lầm khiếm khuyết của người khác. Sai lầm nặng nhất, bị quy trách cho mọi chuyện chính là thị trường hay lòng tham của ai khác. Và đấy là lúc người ta có phản ứng thái quá là tin rằng nhà nước sẽ giải quyết được mọi chuyện.
- Kết quả là nhà nước tăng chi, gây khiếm hụt ngân sách và đi vay tới mức kỷ lục nên mới gây ách tắc chính trị về ngân sách năm 2011. Vậy mà kinh tế chưa hồi phục khiến ngân hàng trung ương hạ lãi suất tới sàn và sau đó còn thi hành ba đợt bơm tiền rất hãn hữu gọi là QE để nâng thanh khoản và giảm lãi suất. Tháng Năm vừa qua, khi ngân hàng trung ương Mỹ thông báo có thể giảm dần chính sách bơm tiền kể từ Tháng Chín thì người ta lại hốt hoảng là giai đoạn tiền rẻ sẽ chấm dứt và cổ phiếu sụt giá làm cả thế giới rúng động trong mấy tháng liền.
- Tuần qua, ngân hàng trung ương lại quyết định ngược, rằng tình hình kinh tế chưa khả quan nên sẽ duy trì chính sách bơm tiền khoảng 85 tỷ đô la một tháng thì mọi người lại hoang mang. Giữa khung cảnh đó, cuộc tranh luận về ngân sách tái bùng nổ với dự luật của Hạ viện bên đảng Cộng Hoà là không cho nâng định mức đi vay nếu ngân sách liên bang lại mất tiền thi hành đạo luật cải tổ chế độ bảo dưỡng y tế ban hành từ Tháng Ba năm 2010. Vì đòn phép chính trị này, người ta lại sợ rằng từ đầu Tháng 10, ngân sách Hoa Kỳ bị chặn và hết tiền trả lương công chức!
Bài học cho các nước
033_RIA13-2289768_5184-250.jpg
Từ trái sang: Thủ tướng Dmitry Medvedev, Phó Bộ trưởng Công nghiệp và Thương mại Yury Slyusar tại một cuộc họp của Hội đồng kinh tế tối cao Á-Âu tại Kazakhstan hôm 25/9/2013. Ảnh minh họa. AFP  



Vũ Hoàng: Trong cả một chuỗi vấn đề quá phức tạp đó, chúng ta có thể thấy ra hai chuyện. Thứ nhất là kế hoạch cấp cứu nhằm đẩy lui và không để tái diễn một vụ khủng hoảng tài chính. Thứ hai là kế hoạch kích thích kinh tế để ra khỏi tình trạng suy trầm. Trong hai chuyện có vẻ biệt lập mà thật ra lại có quan hệ hữu cơ gắn bó với nhau thì đâu là những liều thuốc đổ bệnh?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Trước hết về lĩnh vực tài chính ngân hàng, Hoa Kỳ đã bơm tiền chuộc nợ cho các cơ sở lâm nạn và kết quả thành công, các ngân hàng đã có lời và trả lại tiền nợ cho nhà nước. Song song, các cơ chế hữu trách của Mỹ và quốc tế đều bắt hệ thống ngân hàng cải thiện quân bình tài chính qua việc tăng vốn và hạn chế tỷ lệ đi vay để tránh rủi ro.
- Nhưng phần tiêu cực của kế hoạch cấp cứu và ngăn ngừa khủng hoảng tái diễn là chế độ kiểm soát quá chi ly rắc rối, cho đến nay mới chỉ khai triển được chừng 40% nội dung thành điều lệ áp dụng. Nó lại không giải quyết được một vấn đề cực kỳ nghiêm trọng là hiện tượng tập trung tư bản vào loại ngân hàng gọi là "quá lớn nên không thể đổ", dân Mỹ gọi là "too big to fail". Đây là hậu quả bất lường đáng kể nhất, là liều thuốc đổ bệnh khiến cho khủng hoảng sẽ còn có thể tái diễn.
Vũ Hoàng: Xin ông giải thích cho, hiện tượng ngân hàng "quá lớn nên không thể đổ" là gì?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Khi tư bản tài chính tập trung vào một số ngân hàng thì các cơ sở này là trung tâm thu hút và phân phối tiền bạc cho nhiều khu vực kinh tế nên chi phối cả hệ thống. Vì vị trí đó, chúng trở thành loại cơ sở mà nhà nước không thể để cho sụp đổ nên dễ lấy quyết định rủi ro vì hiện tượng "ỷ thế làm liều" trong kinh tế học. Khi vụ khủng hoảng bùng nổ, chính trường Mỹ có đạo luật kiểm soát để không tái diễn nạn tập trung tư bản như xưa.

Nhờ có chế độ dân chủ và tự do báo chí, người dân có quyền phê phán những chuyện đó để rút tỉa bài học cho các cuộc bầu cử về sau. Nguyễn-Xuân Nghĩa
- Nhưng kết quả lại ngược với thực tế là ngày nay các ngân hàng lớn nhất của Mỹ đã quản lý một lượng tài sản còn lớn hơn năm 2009. Giải pháp lý tưởng là có nhiều ngân hàng loại trung bình đi sát thị trường và doanh nghiệp và phải thẩm định rủi ro khi cho vay vì sẽ không được cứu nếu bị lỗ, giải pháp ấy vẫn là lý tưởng. Và việc cấp cứu năm 2010 là liều thuốc đổ bệnh vì vẫn duy trì nạn ỷ thế làm liều. Chuyện này rất dễ xảy ra cho mọi quốc gia, không chỉ riêng tại Hoa Kỳ.
Vũ Hoàng: Sau liều thuốc đổ bệnh trong kế hoạch ngăn ngừa khủng hoảng, thưa ông, đâu là hậu quả bất lường của những kế hoạch kích thích kinh tế đã được áp dụng?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi chỉ có thể tóm lược khái quát về một tình hình quá phức tạp.
- Đó là kinh tế Mỹ đã hồi phục trên nền móng còn bấp bênh. Sau khủng hoảng thì giới đầu tư đã thịnh vượng hơn mà đa số ở dưới thì chưa nên nạn chênh lệch lợi tức hay bất công xã hội vẫn tiếp tục và số người phải lãnh trợ cấp đã lên tới mức kỷ lục nên trở thành gánh nặng ngân sách và gây tranh luận về chính trị. Nói cách khác, người ta kích thích không đúng nơi và tạo cơ hội cho một thiểu số làm giàu rất nhanh trong khi đa số và thành phần trung lưu vẫn bị khó khăn. Hiện tượng tập trung tư bản không chỉ có trong lĩnh vực ngân hàng và là vấn đề nghiêm trọng.
- Thứ hai, sau khi hốt hoảng và trông cậy vào chính quyền, đa số tới 60% dân Mỹ ngày nay lại thấy nhà nước có quá nhiều quyền lực và tỷ lệ tín nhiệm của dân chúng dành cho giới lãnh đạo, nhất là trong Quốc hội, đã sụt tới mức thấp nhất. Liều thuốc đổ bệnh là nhân khi người dân hốt hoảng thì nhà nước mở tầm can thiệp, nâng cao bội chi ngân sách và lại gây nhiều vấn đề khác. Nhờ có chế độ dân chủ và tự do báo chí, người dân có quyền phê phán những chuyện đó để rút tỉa bài học cho các cuộc bầu cử về sau. Kết luận của tôi là Hoa Kỳ là nơi mà mọi người đều có quyền lên tiếng và cảnh báo về những liều thuốc đổ bệnh sau một cơn hốt hoảng!

Vũ Hoàng: Xin cảm ơn ông Nghĩa về cuộc phỏng vấn này.
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Source : RFA /  Dainamax Tribune

Trần Huy Bích - Tự Lực Văn Đoàn và phong trào Thơ Mới

25 September 2013


Đóng góp của Tự Lực Văn Đoàn cho nền văn xuôi Việt Nam tương đối dễ nhận thấy và đã được nhiều người đề cập tới. Nhưng các tác giả trong Tự Lực Văn Đoàn còn góp sức một cách rất đáng kể trong việc đưa phong trào Thơ Mới tới chỗ thành công. Qua hai tiếng “Thơ Mới,” chúng tôi muốn nói đến phong trào thơ do Phan Khôi khởi xướng với bài “Tình già,” đăng trên Phụ Nữ Tân Văn số 122 (tháng 3 năm 1932), được một vài nhà thơ như Lưu Trọng Lư hưởng ứng. Tuy nhiên, chỉ sau khi   các nhà thơ trong Tự Lực Văn Đoàn đã “nhập cuộc,” cộng thêm sự tham dự của một số thành viên khác (nhiều lúc nhân danh toàn nhóm), qua nhiều phương tiện khác nhau, nhất là trên hai tờ tuần báo Phong HóaNgày Nay, phong trào này mới bộc phát mạnh mẽ, đưa “Thơ Mới” tới vị trí ưu thắng. Xin được trình bày sự kiện ấy qua những trang sau.

I. Đóng góp của các nhà thơ trong Tự Lực Văn Đoàn:
Trong Tự Lực Văn Đoàn có ba nhà thơ, nhưng Tú Mỡ sáng tác theo các thể cũ, chỉ có Thế Lữ và Xuân Diệu là những nhà thơ hoàn toàn “mới.” Xin được đề cập tới hai nhà thơ này trước.
Thế Lữ:
Theo Vũ Ngọc Phan trong Nhà Văn Hiện Đại, Thế Lữ là “một thi sĩ có công đầu trong việc xây dựng nền thơ mới.” Cũng theo Vũ Ngọc Phan, “Phan Khôi, Lưu Trọng Lư chỉ là những người làm cho người ta chú ý đến thơ mới mà thôi, … Thế Lữ mới chính là người làm cho người ta tin cậy ở tương lai của thơ mới.”
Thơ của Thế Lữ không chỉ mới về lời mà còn về ý tưởng. Những ý ấy được ông diễn đạt một cách tha thiết, nồng nàn:
Tôi chỉ là một khách tình si Ham vẻ Đẹp có muôn hình, muôn thể Mượn lấy bút nàng Ly Tao, tôi vẽ Và mượn cây đàn ngàn phiếm, tôi ca Vẻ Đẹp u trầm, đắm đuối, hay ngây thơ Cũng như vẻ Đẹp cao siêu hùng tráng Của non nước, của thi văn, tư tưởng… (Cây đàn muôn điệu)
Theo Hoài Thanh trong Thi Nhân Việt Nam, khi “thơ mới vừa ra đời, Thế Lữ như vừng sao đột hiện, ánh sáng chói khắp cả trời thơ Việt Nam.” Hoài Thanh cũng nhận xét, “Thế Lữ không bàn về thơ mới, không bênh vực thơ mới, không bút chiến, không diễn thuyết,” nhưng “… chỉ lặng lẽ, điềm nhiên bước những bước vững vàng, mà trong khoảnh khắc cả hàng ngũ thơ xưa phải tan vỡ.”
Hoài Thanh rất có lý khi viết, “Không có gì khiến người ta tin ở thơ mới hơn là đọc những bài thơ mới hay.” Trong Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên, giáo sư Phạm Thế Ngũ cũng ghi nhận: “Thế Lữ đã gây cho thơ mới một nền tảng vững vàng với những tác phẩm giá trị của ông.” Một trong những thành công đáng kể của Thế Lữ là bài “Nhớ rừng.” Bài này đã rất được chú ý ngay khi vừa xuất hiện trên Phong Hóa số 95 (ra ngày 27/4/1934), nhất là qua những câu như:
Nhớ cảnh sơn lâm bóng cả, cây già Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi, Với khi thét khúc trường ca dữ dội Ta bước chân lên dõng dạc, đường hoàng…
Theo Đoàn Phú Tứ (tác giả bài thơ “Màu thời gian”), “Chỉ cần hai câu:
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối Ta say mồi, đứng uống ánh trăng tan
cũng đủ thấy thơ mới hơn thơ cũ.”
Vũ Đình Liên (tác giả bài thơ “Ông đồ”) còn nói mạnh hơn: Hai câu trên “có sức mạnh như một tuyên ngôn để bênh vực thơ mới.”
Thế Lữ còn là tác giả những bài thơ đầy mơ mộng với cảnh tượng diễm tuyệt như “Tiếng trúc tuyệt vời,” “Tiếng sáo Thiên thai”:
Mây bay … gió quyến mây bay … Tiếng vi vút như khuyên van, như dìu dặt Như hắt hiu cùng hơi gió heo may …
Hay:
Tiếng đưa hiu hắt bên lòng Buồn ơi! Xa vắng, mênh mông là buồn … Tiên nga tóc xõa bên nguồn Hàng tùng rủ rỉ trên cồn đìu hiu Mây hồng ngừng lại sau đèo Mình cây nắng nhuộm, bóng chiều không đi…
Về sau, khi nhiều nhà thơ mới có tài xuất hiện thêm trên thi đàn, hào quang rực rỡ của Thế Lữ có giảm đi phần nào, nhưng công của ông trong việc “dựng nền” cho phong trào Thơ Mới quả không thể phủ nhận.
Xuân Diệu:
Theo Vũ Ngọc Phan trong Nhà Văn Hiện Đại, Xuân Diệu là “người đã đem đến cho thi ca Việt Nam nhiều cái mới nhất.” Khi thơ Xuân Diệu vừa xuất hiện, ông bị chê, bị chỉ trích là “ngô nghê” và “quá Tây,” nhất là qua những từ “mặt trời đi ngủ,” “vài miếng đêm” … (chịu ảnh hưởng của Pháp ngữ: “le soleil se couche,” quelques morceaux de nuit”…). Về sau Xuân Diệu cũng sửa lại, giảm bớt phần nào những chỗ “quá Tây” ấy:
Đêm bâng khuâng đôi miếng lẩn trong cành.
Theo nhận xét của Vũ Ngọc Phan, thơ Xuân Diệu “đằm thắm, nồng nàn …, cả ý lẫn lời đều thiết tha, làm cho nhiều thanh niên ngây ngất”:
Không gì buồn bằng những buổi chiều êm.
Mà ánh sáng mờ dần cùng bóng tối.
Gió lướt thướt kéo mình qua cỏ rối
Đêm bâng khuâng đôi miếng lẩn trong cành
Mây theo chim về dãy núi xa xanh
Từng đoàn lớp nhịp nhàng và lặng lẽ
Không gian xám tưởng sắp tan thành lệ.
Thôi hết rồi! Còn chi nữa đâu em! …

(Tương tư chiều)
Những bài “Nhị hồ,” Nguyệt cầm” với âm điệu du dương, cho thấy tác giả là một nhà thơ có tài với khiếu quan sát tinh tế và nghệ thuật thật điêu luyện:
Nhị hồ để bốc niềm cô tịch Không khóc nhưng mà buồn hiu hiu … Sương nương theo trăng ngừng lưng trời,
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi …
Thu lạnh, càng thêm nguyệt tỏ ngời, Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi. Long lanh tiếng sỏi, vang vang hận: Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người …
Xuân Diệu còn nhiều câu đặc sắc khác:
. Những luồng run rẩy rung rinh lá
. Cành biếc run run chân ý nhi
Cùng những câu đầy hình ảnh và cảm xúc:
. Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ Non xa khởi sự nhạt sương mờ Đã nghe rét mướt luồn trong gió Đã vắng người sang những chuyến đò. (Đây mùa thu tới)
. Em sợ lắm, giá băng tràn mọi nẻo Trời đầy trăng, lạnh lẽo suốt xương da … (Lời kỹ nữ)
Theo Hoài Thanh trong Thi Nhân Việt Nam, “Xuân Diệu mới nhất trong các nhà thơ mới,” và “rất được giới trẻ yêu thích.” Trước hết, thơ ông gần với giới trẻ:
Hãy biết rằng anh lúc ở trường Rất tồi toán pháp, khá văn chương. Chàng trai đi học nghe chim giảng …, (Giới thiệu)
Ông cũng nói lên những cảm xúc, tâm tư của họ:
Thư thì mỏng như suốt đời mộng ảo Tình thì buồn như tất cả chia ly Xếp khuôn giấy để hoài trong túi áo Mãi trăm lần viết lại mới đưa đi. Lòng e thẹn cũng theo tờ vụng dại Tới bên em chờ đợi mãi không về Em xé nhỏ lòng non cùng giấy mới –Mây đầy trời hôm ấy phủ sơn khê … (Tình thứ nhất)
Hay:
Chúng tôi ngồi, vây phủ bởi trăng thâu Tay trong tay, đầu dựa sát bên đầu … (Biệt ly êm ái)
Trong Thi Nhân Việt Nam, Hoài Thanh trích dẫn thơ Xuân Diệu nhiều hơn tất cả các tác giả khác. Xuân Diệu được chọn in 15 bài, trong khi Thế Lữ và Hàn Mặc Tử mỗi người chỉ có 7 bài. Nguyễn Bính được chọn in 8 bài. Chỉ có Lưu Trọng Lư và Huy Cận gần đạt tới số lượng của Xuân Diệu, mỗi người được trích dẫn 11 bài.
Trong Việt Nam Văn Học Sử Yếu, ở chương về các nhà thơ của thế kỷ 20 (Chương thứ Sáu, Năm thứ Ba, tiêu đề “Mấy thi sĩ hiện đại”), giáo sư Dương Quảng Hàm chỉ viết về ba nhà thơ cũ và ba nhà thơ mới. Ba nhà thơ cũ là Tản Đà, Á Nam Trần Tuấn Khải, và Đông Hồ. Ba nhà thơ mới được ông viết để phân tích là Hàn Mặc Tử, Thế Lữ, và Xuân Diệu. Hai trong ba nhà thơ mới được học giả họ Dương “đưa vào văn học sử” là thành viên của Tự Lực Văn Đoàn. Ở trường hợp Xuân Diệu (sinh năm 1916), khi Việt Nam Văn Học Sử Yếu được xuất bản lần đầu năm 1941, ông mới 25 tuổi.
Tú Mỡ:
Ông chuyên viết trào phúng, châm biếm bằng những thể thơ cũ: lục bát, song thất lục bát, hát nói, ngũ ngôn, thất ngôn (cả tứ tuyệt lẫn bát cú, trường thiên). Ông cũng sáng tác bằng một thể thơ dân gian là hát xẩm, cùng những thể biền ngẫu như phú và văn tế. Nhưng ông viết với một tinh thần mới. Trong nhiều bài trên Phong Hóa, Ngày Nay, ông vạch ra để giễu cợt những chỗ sáo, chỗ rỗng trong một số bài thơ cũ (sẽ nói rõ hơn trong phần sau). Những bài châm biếm, trào phúng của ông khiến Phong HóaNgày Nay được nhiều người thích đọc, giúp báo bán rất chạy. Tuy không công khai phát biểu thành lời, ông đã giúp chủ trương “xây dựng cái mới” (trong đó có “Thơ Mới”) của Tự Lực Văn Đoàn một cách rất hiệu quả.

II. Dùng Phong Hóa, Ngày Nay để vạch ra, chế giễu những chỗ dở, chỗ sáo rỗng của nhiều bài thơ cũ:
Trong các nhà thơ cũ giữa giai đoạn tranh chấp “thơ cũ, thơ mới,” Tản Đà có địa vị rất cao. Có lẽ chính vì thế, nhóm chủ trương Tự Lực Văn Đoàn đã lựa chính Tản Đà để giễu cợt đầu tiên.
Trong bài “Cảm thu, tiễn thu,” Tản Đà có những câu:
Từ vào thu đến nay
Gió thu hiu hắt
Sương thu lạnh
Giăng thu bạch
Khói thu xây thành
Lá thu rơi rụng đầu ghềnh
Sông thu đưa lá bao ngành biệt ly
Nhạn về én lại bay đi
Đêm thì vượn hót, ngày thì ve ngâm…

Và:
Sắc đâu nhuộm ố quan hà
Cỏ vàng, cây đỏ, bóng tà tà dương …

Hình ảnh tuy đẹp nhưng không giống cảnh sắc Việt Nam. Ngay trên Phong Hoá số 16 (tức số thứ ba của nhóm chủ biên mới, ra ngày 6/10/1932) đã xuất hiện một bài thơ với tên tác giả là Bán Than (một trong những bút hiệu khác của Khái Hưng), lấy nhan đề “Cảm thu” với những câu như sau:
Nào đâu mặt đất ngô đồng rụng Chỉ thấy bên đường đám cỏ tươi. Trai gái quanh hồ cười khúc khích Sầu riêng thi sĩ lệ đầy vơi.
Hai tháng sau, trên Phong Hóa số 24 (ra ngày 2/12/1932), lại có một bức tranh “Cảm thu,” ký tên tác giả Đông Sơn (bút hiệu khác của Nhất Linh). Bức tranh gồm hai phần, mang tiêu đề “Tưởng tượng” và “Sự thật.” Trong phần “Tưởng tượng,” tác giả vẽ một thi nhân mơ màng nhìn lá rụng, tuyết rơi …, cùng bầy nhạn đang bay trên trời mà ngâm nga. Trong phần “Sự thật” ngay bên cạnh, ta thấy cảnh trời nắng chói chang, cây lá vẫn tươi tốt (đúng cảnh “thu” của Hà Nội). Một người rất giống Tản Đà, một tay cầm dù che nắng, tay kia cầm quạt vừa đi vừa quạt, khăn trên đầu lột ra khoác ở cánh tay (vì nóng). Trên trời không thấy chim nhạn nhưng có hai phi cơ đang bay, tiếng máy ồn ào. Ngay dưới bức tranh là mục “Giòng nước ngược” với một bài hát nói của Tú Mỡ, nhan đề “Tả bức tranh cảm thu” với những câu như sau:
Cây tươi tốt, lá còn xanh ngắt Bói đâu ra lác đác lá ngô vàng? Trên đường đi nóng rẫy như rang Cảnh tuyết phủ mơ màng thêm quái lạ …
Công bình mà nói, nhóm chủ trương Tự Lực Văn Đoàn không có ý chỉ trích cá nhân Tản Đà. Họ chỉ muốn châm biếm những chỗ sáo, quá xa sự thực của các nhà thơ cũ.
Trên Phong Hóa số 148 (ra ngày 10/5/1935), trong một bài điểm sách lấy nhan đề “Những bông hoa trái mùa,” dưới bút hiệu Lê Ta, Thế Lữ giễu cợt những sáo ngữ của một số nhà thơ đã chỉ biết mượn ý, mượn lời của người trước. Trong mục “Điểm sách” trên nhiều số Phong HóaNgày Nay về sau, Thế Lữ tiếp tục chế giễu một số thơ cũ dở; song song với việc chỉ trích một số thơ mới bị ông cho là dở.

III. Dùng Phong Hóa, Ngày Nay để bày tỏ ý kiến về thơ, cổ võ cho thơ mới, và giới thiệu những bài thơ mới đặc sắc:
Trên Phong Hóa số 15, tức số thứ hai của nhóm chủ biên mới (ra ngày 29/9/1932), trong bài “Sầu thảm nhiều rồi” của Việt Sinh (bút hiệu khác của Thạch Lam), tác giả chê thơ cũ là “nhiều sầu thảm quá.”
Trên Phong Hóa số 36 (ra ngày 3/3/1933), Nhất Linh viết một bài bàn luận về thơ mới.
Trên Phong Hóa số 54 (ra ngày 7/7/1933), trong một bài giới thiệu Thế Lữ, Nhất Linh viết, “Ta không nên sợ cái mới,” vì “Sợ cái mới tức là sợ tương lai, chỉ muốn theo con đường đã vạch sẵn.”
Trên Phong Hóa số 97 (ra ngày 11/5/1934), trong một bài nhan đề là “Thơ Mới,” Nguyễn Tường Bách chê một số thơ mới về sự lố lăng, nhưng bày tỏ niềm tin vào tương lai của thơ mới. Theo ông, thơ mới “đã vượt qua những thử thách,” và “đã có những cơ cấu vững chắc.”
Trên Phong Hóa số 134, tức số Xuân Ất Hợi (ra ngày 30/1/1935), Tứ Ly (bút hiệu trước của Hoàng Đạo) vừa nhận xét vừa cổ võ: “Đến nay thơ mới đã nghiễm nhiên chiếm địa vị quan trọng trong làng văn, số thi sĩ làm thơ mới càng ngày càng nhiều,” và “Tương lai thơ mới rất rực rỡ.”
Trong các mục “Tin thơ” xuất hiện trên nhiều số Phong HóaNgày Nay về sau, Thế Lữ viết lời giới thiệu, nhằm mục đích khuyến khích, khen ngợi … những đoạn thơ, bài thơ hay của các tác giả thơ mới vừa xuất hiện.
Nhưng điều quan trọng nhất là Tự Lực Văn Đoàn đã dùng hai tờ Phong HóaNgày Nay để phổ biến, giới thiệu những áng thơ mới có giá trị. Phong Hóa số 31, tức số Xuân Quý Dậu (ra ngày 24/1/1933), in lại bài “Tình già” của Phan Khôi và đăng bốn bài thơ mới của Lưu Trọng Lư. Từ đó, Phong Hóa, tiếp theo là Ngày Nay, đăng thơ của Thế Lữ, Vũ Đình Liên, Huy Thông, Lan Sơn, Thái Can … cùng một số tác giả khác. Năm 1935, bắt đầu đăng thơ Xuân Diệu. Năm 1937, thêm thơ của Chế Lan Viên, Nguyễn Bính. Từ 1939, xuất hiện thơ Huy Cận. Từ 1940, thêm thơ của Tế Hanh, Anh Thơ, Thanh Tịnh, Huyền Kiêu… Rất nhiều nhà thơ mới quan trọng được biết tới lần đầu qua hai tờ tuần báo của Tự Lực Văn Đoàn.

IV. Giải thưởng văn chương Tự Lực Văn Đoàn:
Qua các giải thưởng văn chương hai năm phát một lần, Tự Lực Văn Đoàn muốn phát hiện, nâng đỡ, khuyến khích những tài năng mới cả về văn lẫn về thơ. Qua ba lần trao giải, số người được thưởng về văn xuôi nhiều hơn; nhưng từ 1937, đã có người được “khuyến khích đặc biệt” về thơ.
Năm 1935: Theo bản công bố kết quả đăng trên Phong Hoá số 174 (14/2/1936), không tác phẩm nào được các giải nhất và nhì. Cả bốn giải thưởng đều là giải khuyến khích, và được trao cho bốn tác phẩm bằng văn xuôi:
1. Ba, truyện ngắn của Đỗ Đức Thu.
2. Bóng Mây Chiều, tiểu thuyết của Hán Văn Lãng.
3. Bóng Ba Người, truyện của Trịnh Huy Tiến.
4. Cô Thủy, truyện của Nguyễn Khắc Mẫn.
(Số tiền thưởng 100 đồng được chia đều cho bốn tác phẩm).
Năm 1937: Theo bản báo cáo của Hội đồng Giám khảo do Thạch Lam viết, đăng trên Ngày Nay số 81 (17/10/1937), có hai tác phẩm được giải thưởng chính:
1. Về kịch: Kim Tiền của Vi Huyền Đắc.
2. Về phóng sự tiểu thuyết: Bỉ Vỏ của Nguyên Hồng.
(Mỗi tác phẩm được 100 đồng).
Ngoài ra, còn có thêm:
3. Giải khuyến khích: Nỗi Lòng, tiểu thuyết của Nguyễn Khắc Mẫn.
(30 đồng tiền thưởng từ một nữ độc giả vô danh).
4. Bằng khen “Tự Lực Văn Đoàn khuyến khích đặc biệt”: Tâm Hồn Tôi, thơ của Nguyễn Bính.
Năm 1939: Theo bản thông báo kết quả đăng trên Ngày Nay số 208 (18/5/1940), có hai giải thưởng về văn:
1. Làm Lẽ, tiểu thuyết của Mạnh Phú Tư.
2. Cái Nhà Gạch, tiểu thuyết của Kim Hà (khi xuất bản thành sách, tác phẩm này đổi tên là Tiếng Còi Nhà Máy).
(Mỗi tác phẩm được 100 đồng).
Về thơ, hai tập Bức Tranh Quê của Anh Thơ và Nghẹn Ngào của Tế Hanh được tuyên bố: “Ban Giám khảo đặc biệt chú ý.” Tác giả Bức Tranh Quê được tặng 30 đồng để “khuyến khích phái nữ lưu.” Với tập thơ Nghẹn Ngào, bản thông báo cho biết: “Nếu tác giả bằng lòng, sẽ lựa các bài đăng trên báo Ngày Nay để độc giả thưởng thức.” Thơ của Tế Hanh bắt đầu xuất hiện trên Ngày Nay từ số 209 (25/5/1940) với lời giới thiệu của Nhất Linh. Mấy năm sau, thi tập Hoa Niên của Tế Hanh được nhà Đời Nay của Tự Lực Văn Đoàn xuất bản.
Bản thông báo cũng cho biết thêm: “Ngoài các tác phẩm kể trên, còn một số tác phẩm được ban giám khảo chú ý và khen tặng trên giấy,” nhưng “Giấy đó sẽ gửi riêng cho các tác giả.” Tuy chúng ta không biết bao nhiêu người đã được “khen tặng” riêng như thế, nữ sĩ Mộng Tuyết ở Hà Tiên cho biết bà nhận được (và đã trưng ra) một bản “Lời khen tặng” in trên giấy rất đẹp, với chữ ký của sáu thành viên quan trọng trong Tự Lực Văn Đoàn (Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Tú Mỡ, Thế Lữ) cùng dấu son của văn đoàn, cho tập thơ Phấn Hương Rừng của bà.
Tóm lại, trong bộ môn thơ, ít nhất bốn nhà thơ đã được Tự Lực Văn Đoàn đặc biệt khuyến khích: Nguyễn Bính, Anh Thơ, Tế Hanh, và Mộng Tuyết. Đa số những người được khích lệ như thế còn rất trẻ. Năm 1937, khi được bằng khen của Tự Lực Văn Đoàn, Nguyễn Bính mới 19 tuổi (ông sinh năm 1918). Năm 1939, khi nhận được lời tuyên bố “Tự Lực Văn Đoàn đặc biệt chú ý,” Anh Thơ và Tế Hanh cùng ở tuổi 18 (hai người sinh năm 1921). Khi được Tự Lực Văn Đoàn gửi “Lời khen tặng” đến tận nhà, Mộng Tuyết ở tuổi 25 (bà sinh năm 1914).

clip_image002

Giải thưởng văn chương Tự Lực Văn Đoàn chỉ trao cho những tác giả không phải là thành viên của văn đoàn nên tính cách khách quan được dư luận trong văn giới đánh giá rất cao.
Trên Sài Gòn Tiếp Thị (xuất bản ở trong nước), số ra ngày 16/08/2012, có bài “Đôi chút về giải thưởng Tự Lực Văn Đoàn” của nhà văn Nguyên Ngọc. Dựa theo những điều được nhà văn Thanh Tịnh kể lại khi hai ông làm việc với nhau ở Hà Nội trong giai đoạn 1955-1962, nhà văn Nguyên Ngọc cho biết: Năm 1935, những tác phẩm được giải thưởng là “truyện ngắn Ba của Đỗ Đức Thu, tiểu thuyết Diễm dương trang của Phan Văn Dật, và tiểu thuyết Bóng mây chiều của Hàn Thế Du.” Có lẽ do không được Thanh Tịnh kể lại (có thể vì không nhớ), Nguyên Ngọc không đề cập tới các tập truyện Bóng Ba Người của Trịnh Huy Tiến và Cô Thủy của Nguyễn Khắc Mẫn. Về tiểu thuyết Bóng Mây Chiều, ông cho biết tác giả là Hàn Thế Du. Vậy có lẽ “Hán Văn Lãng” (theo bản công bố kết quả trên Phong Hóa số 174) chỉ là một bút hiệu của Hàn Thế Du. Tại sao Thanh Tịnh (qua lời Nguyên Ngọc) nhắc tới Diễm dương trang của Phan Văn Dật trong khi bản công bố kết quả trên Phong Hóa số 174 không có tên tác phẩm này là một điều chúng ta cần tìm hiểu thêm.

V. Nhà xuất bản Đời Nay của Tự Lực Văn Đoàn in các tác phẩm thơ mới có giá trị:
Hiện nay, chúng ta chưa tìm được đầy đủ nhan đề các tác phẩm thơ mới được nhà Đời Nay xuất bản. Căn cứ vào những cuốn đã phát hiện, ta có thể tạm kể như sau:
1935 và 1941: Mấy Vần Thơ của Thế Lữ
1938 : Thơ Thơ của Xuân Diệu
1940 : Lửa Thiêng của Huy Cận
1941 : Bức Tranh Quê của Anh Thơ
1943 : Mây của Vũ Hoàng Chương
1945 : Hoa Niên của Tế Hanh
Điều đáng cho ta chú ý là nhà xuất bản Đời Nay in thơ như một giai phẩm. Thơ thường được in trên những loại giấy đặc biệt, với một số ấn bản trên giấy quý. Tập thơ được một hoạ sĩ tên tuổi, thường là họa sĩ Tô Ngọc Vân, trình bày. Sự kiện này khuyến khích tinh thần yêu mến, quý trọng thơ. Qua những lời Anh Thơ và Vũ Hoàng Chương kể lại, ta có thể thấy các vị rất thích thú, hãnh diện có thi tập được Đời Nay xuất bản.
Tóm lại, qua thi tài của những nhà thơ có chân trong văn đoàn (Thế Lữ, Xuân Diệu) cùng những nhà thơ có liên hệ gần gũi (Huy Cận, Nguyễn Bính, Anh Thơ, Tế Hanh …), qua nhiều loại bài viết trên Phong Hóa, Ngày Nay, qua việc giới thiệu thơ trên báo cùng việc giúp tác giả xuất bản thơ, cũng như qua một số giải thưởng và những tấm bằng tưởng lệ, Tự Lực Văn Đoàn đã đóng góp một cách rất đáng kể vào phong trào Thơ Mới, 1932-1945. Nếu không có Tự Lực Văn Đoàn, phong trào Thơ Mới chắc cũng sẽ thành công, nhưng không thể nhanh và rực rỡ như chúng ta đã thấy.

Trần Huy Bích
Source :  Tạp chí Da Màu – Văn Chương Không Biên Giới: http://damau.org

URL to article: http://damau.org/archives/29325

27/9/13

Nguyễn Trung : Từ Diễn văn của Tổng thống CHLB Đức – Bàn về Chính trị Việt Nam

Bàn về quyền dân sự và chính trị của công dân trong xã hội dân sự ở nước ta, xin kính mời bạn đọc tham khảo diễn văn kỷ niệm 150 Đảng Dân chủ Xã hội Đức.
Nguyễn Trung. Hà Nội, Tây Hồ, Võng Thị, ngày 28-09-2013
(Tựa bài viết tổng hợp này do Diễn đàn XHDS đặt)
Diễn văn của Tổng thống CHLB Đức, Joachim Gauck, tại lễ kỷ niệm 150 năm ngày thành lập Đảng Dân chủ Xã hội Đức (SPD)[1]
 Leipzig, 23 tháng 5 năm 2013
Một dịp hiếm có và đầy tự hào đoàn tụ chúng ta tại đây hôm nay: Đảng Dân Chủ Xã Hội Đức kỷ niệm lần thứ 150 ngày sinh của mình. Không một đảng nào khác tồn tại lâu như vậy, bởi lẽ những mục tiêu phấn đấu cơ bản của đảng này đã  và luôn luôn có tính thời sự với nội dung mới, đó là: Các quyền tự do, công bằng xã hội, quyền tham dự vào chính trị.

Đây là ngày kỷ niệm của đảng lâu đời nhất nước Đức. Đây cũng là ngày lễ của châu Âu đấu tranh cho tự do và dân chủ. 150 năm này là cả một thiên lịch sử đầy những thắng lợi và thất bại, những cuộc chiến tranh khủng khiếp và tàn bạo, các cuộc nổi dậy và sự đàn áp; có thể nói đấy là các cuộc nổi dậy luôn luôn với nhận thức cho rằng các xã hội có thể thay đổi, dân chủ là có thể thực thi, nếu như chúng ta hiểu rõ được chúng ta phấn đấu, bảo vệ hay phải giành lấy những giá trị gì, và nếu như chúng ta đủ dũng cảm vượt qua được mọi đàn áp.
Mọi chuyện tùy thuộc vào việc chúng ta đã và luôn luôn dám đối mặt với tâm trạng cảm thấy mình bất lực, dám như thế vì chính mình và vì những người khác, dám tiến tới những bước phát triển mới. Với ý chí không gì lay chuyển nổi, nhiều nam nữ đảng viên Đảng Dân Chủ Xã hội Đức đã phấn đấu như vậy trong suốt quá khứ đầy biến động của đảng mình, dám xả thân cho niềm tin của mình, để đẩy mạnh phong trào, để giành được sự công nhận của xã hội, giành lấy sự tồn tại của chính mình, và nhiều người đã hy sinh.
Những con người dũng cảm này gửi lại chúng ta di chúc: Không nên coi lễ kỷ niệm hôm nay chỉ là “nơi để tưởng nhớ”. Nhìn vào nhiệm vụ của mình trong tương lai, chúng ta phải tự hỏi: Khẩu hiệu “Tiến lên!” (“Vorwaerts!”) [2]  của hôm qua sẽ có ý nghĩa gì đối với triển vọng sắp tới nhìn từ hôm nay?
Xin các quý vị hãy cho tôi bắt đầu từ năm 1863, xin hãy nhớ đến sự nghèo khốn, sự bóc lột, nhớ đến những điều kiện lao động mà ngày nay chúng ta chỉ thấy ở một số nước đang phát triển mà chúng ta từng phê phán; xin thưa đấy cũng chính là đời sống ngột ngạt thường ngày của hàng triệu người Đức thời đó. Thử hỏi những người thời ấy dám nổi dậy đấu tranh sẽ có thể lựa chọn như thế nào: Nên chăng đấy sẽ là sự nổi dậy để dẫn đến cách mạng, để rồi lại thiết lập nên một nền thống trị mới của những người trước đó đã từng bị áp bức? Tình hình đã đến mức gần xảy ra một kịch bản như thế. Nhưng Ferdinand Lassalle – người đã từng trải qua cuộc cách mạng 1848 ở tỉnh Rhein – đã tìm thấy đáp án khác cho nghèo khốn và áp bức. Ngày nay trong tai chúng ta chúng ta vẫn còn vang lên cương lĩnh của ông: Thay đổi xã hội bằng chính sách giải phóng con người, nhằm tạo ra sự tham gia của quảng đại quần chúng nhân dân vào chính sự. Mục tiêu này trước hết bao gồm giáo dục, cưỡng bách giáo dục đối với mọi người, đương nhiên bao gồm cả những nghiệp đoàn giáo dục tự lập của công nhân nhằm giúp mỗi cá nhân có thể thăng tiến nhờ có hiểu biết qua học hỏi. Giải phóng con người  bằng cách thực hiện tham gia vào các quyền đã ghi thành luật, nhất là bằng cách mỗi người tự nâng cao quyền năng của mình. Cách đây 150 năm những đòi hỏi này là cách mạng, và hôm nay vẫn còn rất hiện đại.
Trong thời kỳ Đảng Dân chủ Xã hội Đức mới được thành lập, đương nhiên phải đặt cuộc đấu tranh vì những quyền bình đẳng của cộng đồng công nhân bị áp bức lên trước. Cương lĩnh Eisenach năm 1869 ghi rõ, đấy là bầu cử tự do, bình đẳng trong cả nước, bất chấp sự khác biệt về đẳng cấp xã hội của những người tham gia bầu cử, là cấm lao động trẻ em, là các tòa án phải độc lập.
Trong cuộc đấu tranh triền miên trong nội bộ đảng DCXHĐ, cuối cùng quan điểm đã thắng thế là: không thiết lập một đặc quyền giai cấp mới nào. Vì không thể đáp trả sự bất bình đẳng bằng cách thiết lập nên một sự bất bình đẳng mới. Hơn ba  thập kỷ sau khi Lassalle thành lập ĐDCXHĐ, Eduard Bernstein, nhà lý luận nổi tiếng và cũng là người bị đả kích rất nhiều của ĐDCXHĐ, đã mô tả: “dân chủ phải vừa là phương tiện, vừa là mục tiêu”. Đối với tôi, trong nhãn quan chính trị mới này hàm chứa một trong những cống hiến lịch sử vĩ đại nhất của đảng DCXHĐ.  Hồi ấy, ĐDCXHĐ đã rất sớm làm cho dân chủ có ảnh hưởng mạnh mẽ và sâu rộng trong một bộ phận đáng kể của tầng lớp công nhân và phong trào xã hội chủ nghĩa ở nước Đức. Chính là ĐDCXHĐ đã đấu tranh cho cải cách, chứ không phải cho việc làm cách mạng. Và cũng chính là ĐDCXHĐ đã kiên trì  con đường của mình và cuối cùng đã vận động được đa số tham gia, với cái đích là cải thiện từng bước cụ thể đời sống con người, thay vì công bố những mục tiêu không tưởng xa vời.
Nhưng phong trào cộng sản thế giới đã quyết định cho mình con đường khác – hiển nhiên với những hệ quả vô cùng khủng khiếp. Phong trào này đã thiết lập nên một giai cấp nắm quyền mới, và thay thế sự thống trị cũ bằng một sự thống trị mới. Còn tự do, công bằng xã hội, sự ấm no… người công nhân phải mong ngóng một cách vô vọng.
Chính vì thế, ngày nay chúng ta càng đánh giá cao những nỗ lực cải cách của phong trào xã hội dân chủ. Nhờ những nỗ lực này, chúng ta lần đầu tiên có được Luật Bảo hộ lao động, Luật về Quyền tham gia bầu cử của phụ nữ, và nhiều điều khác nữa. Thể chế dân chủ đầu tiên của nước Đức – cụ thể ở đây là Nền Cộng hòa Weimar – sẽ không thể thiết lập được, nếu như các đảng viên xã hội dân chủ – đứng đầu là Friedrich Ebert và Philipp Sheidemann – không có can đảm phấn đấu cho sự hợp tác chính trị với những lực lượng to lớn khác của các đảng phái tư sản. Đặc biệt là, các đảng viên xã hội dân chủ đã đấu tranh kiên cường hơn, bền bỉ hơn nhiều nhà dân chủ khác trong việc bảo vệ nền cộng hòa này. Các đảng viên xã hội dân chủ đã nêu cao lý tưởng của mình về tự do, bình đẳng và đoàn kết, quyết đấu tranh chống lại mọi kẻ chỉ muốn áp bức và chiến tranh.
Không thể nào quên bài nói của Otto Wels ngày 23-03-1933 tại Quốc hội Đức, giữa lúc quốc xã đã bắt giam nhiều người chống đối, đồng thời khiến nhiều người chống đối khác phải sống lưu vong. “Người ta có thể tước đoạt mạng sống và tự do của chúng tôi, nhưng danh dự của chúng tôi thì không bao giờ!..”  Bài nói ấy của Otto Wels quả là “can đảm nhất chưa từng có tại Quốc hội Đức” – đúng như Peter Struck đã nhận xét.
Chúng ta nên ghi nhớ, bằng cách nói “Không!” với cái  gọi là Đạo luât Ủy quyền[3], hồi đó 94 nghị sỹ của ĐDCXHĐ chẳng những đã cứu danh dự của chính mình, mà còn cứu cả danh dự của thể chế dân chủ đầu tiên của nước Đức (nền Cộng hòa Weimar – ND chú giải). Những con người ấy đã hiến tặng mọi người Đức chúng ta một trang sử chính nghĩa của dân chủ – đấy cũng là sự đối nghịch hoàn toàn đối với tội lỗi và sự hổ thẹn (của sử nước Đức – ND chú giải), đấy cũng là một kinh nghiệm quý báu cho thấy con người ta có thể kiên định với những giá trị của mình – cho dù bị bêu giếu, bị làm nhục, bị đầy đọa. Ngày nay chúng ta trân trọng với tinh thần biết ơn sự can đảm của họ.
Trong hàng ngũ những người này có Kurt Schumacher, một trong những nghị sỹ đã bác bỏ cái gọi là Đạo luật Ủy quyền. Sau hàng chục năm bị giam trong trại tập trung, khi chiến tranh kết thúc, ông đã chống lại sự quyến rũ muốn thành lập một đảng công nhân bao gồm những người xã hội dân chủ và những người cộng sản. Bởi vì ông nhận ra rằng – xin trích lời ông – Đảng Cộng sản Đức “không phải là một giai cấp Đức, mà là một quốc đảng xa lạ”. Tại miền Đông nước Đức, Đảng Dân Chủ Xã hội Đức chính thống xưa kia mãi đến sau năm 1989 (khi CHDC Đức sụp đổ – ND chú giải) mới được tái lập. Tôi vô cùng biết ơn vì điều này.
Ngược lại, ở miền Tây nước Đức, ĐDCXHĐ đã tham gia một cách có ý nghĩa quyết định cùng với những người thuộc đảng bảo thủ và đảng tự do, làm cho Cộng Hòa Liên Bang Đức có thể hoạt động có hiệu quả, với thẩm quyền rộng rãi, trở thành một “liên bang dân chủ và xã hội” như đã quy định trong Đạo Luật Cơ Bản, và chúng ta đều biết Đạo luật này được ban hành cũng ngày 23 tháng 5[4].
Ngày nay chúng ta đều biết thể chế dân chủ của chúng ta thật vững chãi, cho dù đôi lúc suy yếu tùy theo tình trạng của các đảng phái. ĐDCXHĐ chẳng những có thể nhìn nhận lại truyền thống lâu đời nhất của mình. ĐDCXHĐ còn phải thực  hiện sự thay đổi rất sâu sắc từ bên trong. Đơn giản vì ĐDCXHĐ ngày nay không còn là đảng của giai cấp nữa. Trong quá trình học hỏi lâu dài và gian khổ,  ĐDCXHĐ đã phải tự phát triển mình để trở thành đảng của nhân dân. Cương lĩnh Godesberg năm 1959 đã xác định, củng cố và thúc đẩy sự cải tổ này.
Đối với hầu hết chúng ta, những cống hiến của ĐDCXHĐ cho CHLBĐ thật rõ ràng. Tôi xin kể ở đây những cải cách xã hội được tiến hành trong những năm thập niên 70 dưới thời Willi Brandt, giai đoạn đầu tiên đổi mới của Chính sách phương Đông mở cửa hướng sang Cộng Hòa Dân Chủ Đức và các nước láng giềng Đông Âu, chính sách này đã giúp vén lên bức màn sắt.
Cuốn phim (chiếu trong lễ kỷ niệm này – ND chú giải) cũng cho chúng ta thấy những cống hiến của Thủ tướng Liên bang Helmut Schmidt và Gerhard Schroeder, cả hai vị này hôm nay cũng có mặt tại đây cùng với chúng ta. Các nhiệm kỳ thủ tướng của hai vị gắn liền với những cống hiến lâu bền của ĐDCXHĐ đối với CHLBĐ.
Trong suốt 150 năm qua vấn đề cốt lõi của dân chủ xã hội là: xã hội đoàn kết, thể chế dân chủ thường xuyên được cải thiện. Nhưng trong thế giới thay đổi  ngày nay, nhiều thách thức mới đang đặt ra cho ĐDCXHĐ cũng như cho các đảng khác. Trong đó vấn đề trung tâm là các đảng phải luôn luôn là một bộ phận của một xã hội công dân tự lớn mạnh, và nhờ đó luôn luôn tạo ra được những mối ràng buộc vững chắc cho một chương trình chính trị tổng quát (được hiểu là  chiến lược phát triển – ND chú giải).
Nhiệm vụ này không hề dễ, bởi vì trong những năm qua chúng ta đã chứng kiến nhiều phong trào phản đối; những phong trào này nhiều khi cực đoan hơn các chính đảng, thường tập trung chỉ vào một vấn đề, và những phong trào này tư coi mình là đối thủ của các đảng. Những phong trào này cho thấy nhiều công dân muốn phải có tiếng nói của mình. Tôi hoan nghênh và ủng hộ điều này. Các đảng không nên lo sợ về hình thức tham gia này của công dân, mà ngược lại nên coi đấy là một hệ thống cảnh báo sớm, để nhờ đó có thể luôn luôn đi cùng với thời cuộc. Về phần mình, các đảng cũng cần phải có những phương thức tham chính mới, để từ đó làm cho sự năng động của mình tìm thấy hướng đi trong cuộc sống hàng ngày của nền dân chủ đại nghị của chúng ta. Tóm lại: Hình thức tham chính mới có một vai trò bổ sung quan trọng, nhưng dứt khoát không thay thế cho dân chủ đại diện.
Một lần nữa chúng ta hãy nghĩ xem, điều tôi vừa trình bầy có thể thấy rõ trong vấn đề: Các sáng kiến của công dân thường đại diện  những mối lợi ích riêng biệt – nhìn chung là chính đáng; trong khi đó ngược lại các đảng phải hướng về cái chung nhiều hơn, phải để mắt vào cái tổng thể. Thậm chí đôi khi các đảng có thể thành công trong việc tác động vào những cử tri của mình để lựa chọn những quyết định mâu thuẫn với đường lối hiện hành đến nay hoặc những lợi ích ngắn hạn của đảng. Tôi hiểu, trong phạm vi nội bộ một đảng điều này không được ưa chuộng lắm. Nhưng mà chúng ta đã chứng kiến: Chính những quyết định như thế thường là những quyết định có ý thức trách nhiệm đối với cả nước.
Hôm nay tôi chúc mừng ĐDCXHĐ 150 tuổi. Cho tôi nói lời cảm ơn và đánh giá cao đối với những người suốt 150 năm qua đã đấu tranh cho tự do, công bằng  và đoàn kết và qua đó đã cải thiện đời sống của hàng triệu người.
Cùng với lời cảm ơn ĐDCXHĐ, tôi đánh giá cao tất cả những ai đang hoạt động trong các đảng dân chủ vì hạnh phúc của tất cả chúng ta – dù đấy là các hiệp hội tại các địa phương hay là trong khung khổ Chính sách Châu Âu, dù họ là làm việc nghiệp dư hay chuyên nghiệp. Cống hiến của họ đã góp phần vào những thành tựu trong nền dân chủ của chúng ta. Vì vậy tôi cũng xin chúc mừng tất cả chúng ta việc chúng ta có các đảng dân chủ. Các đảng này do con người tạo ra, vì thế chúng không hoàn hảo và không tránh khỏi thiếu sót, cho nên cần luôn luôn thực hiện phê bình, tự phê bình và phải chịu học. Các đảng dân chủ ở nước ta là cần thiết cho sự sống của nền dân chủ ở nước ta, và trong tương lai cũng không thể nào thiếu chúng. Với ý nghĩa ấy, xin nhiệt liệt chúc mừng sinh nhật (của ĐDCXHĐ – ND chú giải)!
Hết

Một vài cảm nghĩ của người dịch

Như một phản sạ tự nhiên, đọc xong bài diễn văn này, tôi liên hệ ngay đến nước ta, mặc dù toàn bộ câu chuyện của diễn văn xẩy ra ở nước Đức xa xôi, nghĩa là  – nhìn theo góc cạnh nào đó – chẳng dính dáng tí teo nào đến nước ta.
Suy nghĩ của tôi đơn giản: Lịch sử 150 năm của ĐDCXHĐ (SPD), về mặt nào đó mà nói cũng phản chiếu lịch sử thất bại của Đảng Cộng Sản Đức và sau này là Đảng Xã hội Thống Nhất Đức – đảng cầm quyền ở Cộng Hòa Dân Chủ Đức kể từ khi nhà nước này được thiết lập năm 1949, cho đến khi nó bị chính nhân dân của mình lật đổ năm 1989. Thực tế này gợi lên nhiều điều phải suy nghĩ.
Hai trào lưu: Cải cách và cách mạng vô sản
Trước hết xin thưa, cách dây 150 năm, hoặc thậm chí ít nhiều sớm hơn nữa, lịch sử phong trào cộng sản và công nhân trên thế giới nói chung và ở nước Đức nói riêng, ngay từ đầu – trước cả khi Marx bước lên vũ đài chính trị với Tuyên Ngôn Cộng Sản – cũng là lịch sử của hai trào lưu đấu tranh khác biệt nhau và đối lập nhau khủng khiếp, gần như giữa nước và lửa. Một bên là trào lưu dân chủ xã hội – được những người mác-xít đặt cho cái tên là “cải lương”, còn một bên là trào  lưu của cách mạng chuyên chính vô sản. Cuộc đấu tranh giữa hai trào lưu này – mặc dù cả hai đều thuộc về phong trào cộng sản và công nhân quốc tế – càng về sau càng đối kháng nhau quyết liệt, chẳng kém gì đấu tranh với kẻ thù giai cấp. Chỉ xin điểm lại, các nhà lý luận mác-xít – kể từ Marx, Lénin trở xuống – đã giành cho trào lưu cải lương và toàn bộ cánh xã hội dân chủ sự bác bỏ tuyệt đối, với những lời lẽ và việc làm nặng nề nhất, không hiếm khi rất đẫm máu trong các chính quyền xô-viết và cộng sản sau này – dù ở châu Âu hay châu Á.
Nhân dịp này, nhìn lại phong trào cộng sản và công nhân thế giới 150 năm qua, có thể khẳng định: Tư tưởng của trào lưu cách mạng vô sản là thực hiện khát vọng xây dựng một xã hội mới không người bóc lột người – mang tên là chủ nghĩa xã hội, với 2 đặc trưng xuyên suốt: Thực hiện chuyên chính vô sản và công hữu hóa tư liệu sản xuất. Sau những bước phát triển ban đầu, phong trào này đạt tới đỉnh cao là thiết lập nên hệ thống thế giới xã hội chủ nghĩa gồm 12 quốc gia, bao gồm toàn Đông Âu và một phần lớn châu Á,  sau này có thêm Cuba.
Hệ thống các quốc gia XHCN này có ảnh hưởng quan trọng tới phong trào độc lập dân tộc trong 2 thập kỷ đầu tiên sau chiến tranh thế giới II, qua đó chi phối 1/3 quả địa cầu. Hệ thống thế giới XHCN phân rã rất sớm, đạt tới hồi kết là sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô Đông Âu trong các năm 1989 – 1991.
Sau chặng đường 150 năm kể trên, cuối cùng thế giới ngày nay đã chứng kiến sự phá sản và thất bại hoàn của trào lưu cách mạng vô sản dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Mác – Lênin. Đồng thời thế giới cũng chứng kiến: Trào lưu dân chủ xã hội là một trong những yếu tố quyết định đem lại những thành quả quan trọng cho công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động ở hầu hết các nước phát triển – đặc biệt là các nước Bắc Âu. Trong những thành quả ấy, trước hết phải nói tới các quyền tự do, dân chủ của cá nhân con người, các điều kiện để mỗi con người ngày một tự nâng cao quyền năng của mình trong một chính thể dân chủ, cuộc sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân lao động ngày một cải thiện và nâng cao cùng với sự phát triển của đất nước.
Có thể nói một cách tổng quát: Sự phát triển của các nước công nghiệp, kể cả những tiến bộ đạt được trong thể chế chính trị và đời sống văn hóa – xã hội, có sự đóng góp không thể thiếu của trào lưu dân chủ xã hội. Nếu muốn, có lẽ cũng có thể nói: Do sự vận động  bên trong như vậy – trước hết được hiểu là những thắng lợi của trào lưu dân chủ xã hội – và  và do những thay đổi trên thế giới,  chủ nghĩa tư bản tại các nước công nghiệp này đã ngày một bớt đi “mùi đế quốc chủ nghĩa”. Ở phạm vi toàn cầu, chính sự vận động này đã góp phần từng bước đẩy lùi chủ nghĩa đế quốc trên thực tế. Đấy chính là xu thế vận động của thế giới đã diễn ra từ nửa sau thế kỷ 20 và đang tiếp diễn.
 Bản kết toán của trào lưu cách mạng vô sản tại các nước LXĐÂ nói ngắn gọn là: (1)chỉ thành công trong bạo lực đập tan (ở Nga) hay xóa bỏ (ở các nước Đông Âu) sự thống trị của giới cầm quyền áp bức đương thời, (2)nhưng thất bại hoàn toàn trong xây dựng một chế độ xã hội mới; nội dung cốt lõi được đề xướng thành lý tưởng của trào lưu này là giải phóng con người cuối cùng chỉ còn là một khẩu hiệu không tưởng, (3)trên thực tế giai cấp công nhân và nhân dân lao động cuối cùng lại trở thành kẻ bị chính những đồng chí của mình áp bức thống trị trong chế độ toàn trị mới. Chính 3 kết quả cụ thể này trong bản kết toán là những nguyên nhân quyết định, trực tiếp dẫn tới sự sụp đổ của các nước XHCN Liên Xô – Đông Âu 1989-1991.
Trong khi đó, tại các nước công nghiệp có trào lưu dân chủ xã hội phát triển mạnh  – dù là ở Tây Âu hay Bắc Âu – những thành quả tự do, dân chủ và cuộc sống phồn thịnh dành cho con người ngày càng cao và bền vững hơn. Dù chẳng  bao giờ hết những vấn đề xấu tồn đọng, song cho đến nay chưa có một nước phát triển nào sụp đổ. Hơn nữa, những quốc gia này luôn luôn tìm được lối thoát ra khỏi mọi cuộc khủng hoảng để đi tiếp. Nhìn chung, thực tế cuộc sống thừa nhận các nước phát triển hiện nay đang là đầu tầu của đoàn tầu thế giới.
Thực tế trình bầy trên khẳng định: Trào lưu dân chủ xã hội tiếp tục có sức sống và là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy tiến bộ xã hội. Nguyên nhân thật dễ hiểu: Trong bất kể nấc thang phát triển nào của mỗi quốc gia, tự do và các quyền dân chủ cụ thể của công dân luôn luôn là khát vọng thường trực thôi thúc và làm nên con người; cộng đồng ngày càng đông những con người tự do và có quyền năng như vậy trong mỗi quốc gia chính là động lực phát triển quyết định của quốc gia ấy. Hơn thế nữa, tự do và dân chủ là tiền đề cho đòi hỏi tất yếu của đa nguyên chính trị làm nên sức sống quốc gia trong thời đại ngày nay.
Trong khi đó, chủ nghĩa bao giờ và ở bất kỳ đâu cũng chỉ là một giáo điều, trong quá trình vận động luôn luôn bị biến dạng thành tín điều, và cuối cùng bị lợi dụng thành công cụ chuyên chính bóp chết tự do – dân chủ và quyền con người.
Không có chủ nghĩa Mác – Lênin bách chiến bách thắng
Cần lưu ý một sự thật lịch sử: Cách mạng vô sản xóa bỏ chế độ thống trị đương thời thật ra cho đến nay mới chỉ thành công duy nhất ở nước Nga mà thôi. Thực tế này trái hẳn với dự báo nêu trong Tuyên Ngôn Cộng Sản. Từ những gì quan sát được trên thế giới 150 năm qua cho đến hộm nay, còn có thể nói: Cách mạng Tháng Mười Nga có lẽ cũng là cuộc cách mạng vô sản cuối cùng.
Tại các nước Đông Âu không hề có một cuộc cách mạng vô sản nào cả để vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin, dù rằng phong trào cộng sản và công nhân tại những nước này phát triển rất sớm. Hoàn toàn không sai nếu nói rằng: Sự giải phóng của Hồng quân Liên Xô, vai trò tác động của Liên Xô sau chiến tranh thế giới II, và phong trào cộng sản tại các nước Đông Âu là các nhân tố trực tiếp dựng nên chế độ xã hội chủ nghĩa tại các quốc gia này.
Nhưng đúng là chủ nghĩa Mác – Lênin đã được các nước LXĐÂ vận dụng để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sau khoảng 4 thập kỷ tồn tại, các chế độ xã hội chủ nghĩa này phá sản hoàn toàn. Năm 1989 các nước XHCN Đông Âu sụp độ. Liên Xô, thành trì của chủ nghĩa xã hội và cũng là dinh lũy của chủ nghĩa Mác – Lênin, sụp  đổ cuối cùng năm 1991.
Chủ nghĩa Mác – Lênin (CNMLN) – phần liên quan đến đấu tranh giai cấp, đến đấu tranh giữa 2 còn đường ai thắng ai?[5] chống chủ nghĩa đế quốc – là một trong những yếu tố quan trọng (không phải yếu tố quan trọng duy nhất) đối với các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc tại Trung Quốc, Triều Tiên, Việt Nam, và sau này có thêm Cuba. Chính thực tế này đã xác định con đường đốt cháy giai đoạn để tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội sau khi các quốc gia này giành được độc lập. Nói một cách khác, thảm bại nghiêm trọng của những quốc gia này khi bắt tay vào xây dựng CNXH trong thời bình là tất yếu (ở Việt Nam đã có lúc khẩu phần lương thực phải có cả hạt bo-bo!), vì sự thất bại này đã được lập trình và cài đặt sẵn ngay từ lúc còn kháng chiến.
Bản kết toán của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở các nước Liên Xô – Đông Âu cũ cũng giữ nguyên vẹn tại 4 quốc gia này. Nguyên nhân cơ bản vẫn là sau khi giành được độc lập, con đường chuyên chính vô sản và công hữu tư liệu sản xuất không cho phép 4 quốc gia xã hội chủ nghĩa đi sau này  thành công trong những nhiệm vụ của phát triển và giải phóng con người. Cả 4 nước này buộc phải xé rào ý thức hệ mác xít – lê-nin-nít, để cải cách – (1)với nhãn hiệu là “chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, (2)hoặc để đổi mới như ở Việt Nam – với cái tên gọi mới là “định hướng xã hội chủ nghĩa”, (3)hoặc là đã phải vứt bỏ tuốt luột chủ nghĩa Mác – Lênin để thế vào đó bằng “thuyết chủ thể” như ở Bắc Triều Tiên, (4)hoặc hiện nay đang phải quay về tìm kinh tế thị trường nhưng chưa muốn dân chủ cải cách chính trị như ở Cuba. Kết quả đạt được của quá trình cải cách ở cả 4 quốc gia này nhìn chung còn khá mờ nhạt tính xã hội và nhân văn, nhưng vẫn mang đặm ở các mức độ khác nhau mầu sắc của chủ nghĩa tư bản hoang dã (có người muốn gọi là chủ nghĩa tư bản dã man – nhất là ở Trung Quốc, Bắc Triều Tiên), nội dung thật của chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa vẫn là chế độ độc quyền toàn trị, cái nhân dân lao động được quá nhỏ bé so với cái họ mất.
Riêng ở chỗ đứng hôm nay của nước ta sau 38 năm độc lập thống nhất, còn phải nói thêm: Sự tha hóa của đảng cầm quyền đang phạm phải làm cho cái giá phải trả cho độc lập thống nhất đất nước đắt quá. Ngoài sự ngột ngạt của chế độ độc quyền toàn trị, đất nước đang bị uy hiếp nghiêm trọng, lòng tin của nhân dân vào chế độ chính trị và vào vai trò của ĐCSVN chưa bao giờ khủng hoảng như hiện nay.
 Bản kết toán hôm nay của chủ nghĩa Mác – Lênin trên thế giới phải chăng là:
Chủ nghĩa (hay học thuyết) Mác, được Lênin tổng hợp và bổ sung thêm (phần vai trò của chuyên chính vô sản và đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc) thành chủ nghĩa Mác – Lênin (CNMLN) để dẫn đường cho sự nghiệp giải phóng con người và xây dựng chủ nghĩa xã hội, đã không thành công ở bất kỳ quốc gia nào. CNMLN với tinh thần và nội dung như vậy đã cáo chung, kể cả Glasnos hay Perestroika thời cuối trào Liên Xô cũng không cứu vãn nổi. Chưa nói đến việc chính Lênin trong những năm cuối đời đã muốn sửa đổi lại nó (đang viết lại trong NEP[6]), nhưng Lênin không còn đủ thời gian làm việc này. Chưa nói đến (1)học thuyết Marx và những ý tưởng giải phóng con người của Marx – như những gì Marx (phần nào cùng với Engels) đã  xây dựng lên, và (2)chủ nghĩa Mác – Lênin về “chủ nghĩa xã hội khoa học” là hai câu chuyện khác nhau, không ít điều mâu thuẫn nhau, không ít học giả trên thế giới đã chứng minh điều này.
Trên thế giới ngày nay không còn tồn tại phong trào cộng sản và công nhân quốc tế nữa. Trào lưu dân chủ xã hội trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế ngày càng lớn mạnh cho đến khi các nước XHCN LXĐÂ sụp đổ; nhưng kể từ đó trào lưu DCXH cũng đang ngày càng mờ nhạt đi rất nhanh, và bây giờ đang ngày càng hòa nhập vào các trào lưu khác trong một thế giới đã hoàn toàn thay đổi. Đơn giản: Một thế giới thay đổi đang đặt ra những vấn đề thời sự hoàn toàn khác, tạo ra những người tham gia cuộc chơi khác.
Chủ nghĩa Mác – Lênin và  cái gọi là ý thức hệ cách mạng của Việt Nam
Mặc dù CNMLN và phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã cáo chung như vừa trình bầy trên, nhưng hiện nay, trong nhiều văn kiện chính thống của ĐCSVN, nhất là trong các phát ngôn của nhiều người lãnh đạo, trong các bài viết của một số chính khách, học giả của ĐCSVN đang tham gia hàng ngũ dư luận viên, trong những giải trình của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 tại Quốc hội (giải trình bản Dự thảo 5, ngày 17-05-2013), trong toàn bộ hoạt động của hệ thống báo chí “lề phải”.., chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đang được tìm mọi cách để áp đặt vào dân, để được đưa vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 như là nền tảng tư tưởng và chính trị của quốc gia.
Làm như thế nhằm mục đích gì?
Trước hết cần xem xét CNMLN được nói tới trên diễn đàn lề phải là chủ nghĩa nào? Đó là CNMLN gốc, do Lênin tổng hợp lại? Hay là thứ đã được Stalin xô-viết hóa, rồi tiếp đến là thứ đã được “mao-ít” hóa, rồi vào đến nước ta lại được “Việt Nam hóa” tiếp cho hợp khẩu vị chuyên chính và trình độ phát triển ở nước ta? Tiếp đến nữa còn phải hỏi: CNMLN đang được nói đến trên mọi diễn đàn của dư luận viên hiện nay còn đọng lại hay được thêm thắt mới đến mức nào so với chính những giáo trình của các trường và các cơ quan nghiên cứu lý luận của ĐCSVN?
Nếu đọc lại các bài nói, bài viết rất khiên cưỡng một chiều đả kích, không cần lý lẽ giải thích, của các dư luận viên trên các diễn đàn “lề phải”, thậm chí còn phải nghi ngờ: Không biết các tác giả dư luận viên của những bài viết hay bài nói này đã đọc hay đã được học với đúng nghĩa chủ nghĩa Mác – Lênin hay chưa? Hay là chỉ học, chỉ biết lơ mơ về nó, được dậy tốt dậy xấu như thế nào, hay là được yêu cầu phải nói như thế nào, thì phát thanh lại như thế?! Một trong những cao điểm trí tuệ của các bải này làm nên sự nghi ngờ ở đây chính là sự hù dọa về nguy cơ “mất sổ hưu”!
Trong khi đó, như đã trình bầy ở các phần trên, sự thất bại của  CNMLN trong việc xây dựng CNXH trên toàn thế giới – kể cả ở Việt Nam – không còn là chuyện phải bàn cãi.
Hơn thế nữa, cứ lấy những điều cao đẹp hiện đang được nói về CNMLN nhân dịp sửa đổi Hiến pháp, đối chiếu với những gì đang xảy ra trong cuộc sống hàng ngày – như một chiều đả kích những ý kiến xây dựng trong việc sửa đổi Hiến pháp, nhất quyết bóp chết hay không cho phép mở ra các diễn đàn để nhân dân trao đổi ý kiến của mình về sửa đổi Hiến pháp, liên tiếp các bản án rất nặng trấn áp những người yêu nước bất đồng chính kiến với chế độ và những người chống Trung Quốc xâm phạm bờ cõi đất nước, sự đàn áp thô bạo những người đi biểu tình bầy tỏ thái độ bảo vệ biển đảo của Tổ quốc, nhìn vào tệ nạn tham nhũng và biết bao nhiêu bất công xã hội đang xảy ra hàng ngày trên đất nước, nhìn vào sự sa đọa của hệ thống chính trị cai quản đất nước, nhìn vào sự xuống cấp và tha hóa ngày càng trầm trọng của đời sống văn hóa – xã hội của đất nước..,  không thể không đặt ra câu hỏi: CNMLN đang được áp đặt ở đây thực chất có nội dung gì và nhằm mục đích gì?
Cũng phải đặt ra câu hỏi tư tưởng Hồ Chí Minh được nói đến trên các diễn đàn của dư luận viên là tư tưởng nào?
Tinh hoa trong tư tưởng Hồ Chí Minh là Tuyên ngôn Độc lập 02-09-1945, là Hiến pháp 1946, là tư tưởng Không có gì quý hơn độc lập tự do!, là đạo đức Cần kiệm liêm chính – chí công vô tư.., là Dân chủ có nghĩa là để cho nhân dân mở mồm ra nói!...
Xin hỏi có bất kỳ điều gì trong tinh hoa này của tư tưởng Hồ Chí Minh được tôn trọng, được vận dụng vào việc sửa đổi Hiến pháp lần này không?
Thậm chí hệ thống nhà nước cần được phân công nhiệm vụ, phân quyền kiểm soát lẫn nhau (tạm gọi là vấn đề “tam quyền phân lập” – như được thiết kế trong Hiến pháp 1946), nhưng được chính Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đích thân bác bỏ, với lập luận dứt khoát: Quyền lực nhà nước là thống nhất dưới sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của ĐCSVN…
Bác bỏ cách làm phô trương hình thức theo kiểu “26 triệu lượt ý kiến & 28 nghìn hội thảo…” để áp đặt, nhiều người đã hỏi thẳng lãnh đạo ĐCSVN: Sửa đổi Hiến pháp theo như cách đang làm thì sửa đổi làm gì? Chỉ thêm tốn tiền thuế của dân, công sức và thời gian của cả nước! Bản tuyên bố của nhóm 72 bác bỏ bản dự thảo 5 (ngày 17-05-2013) Dự thảo sửa đổi Hiến pháp nhận định: bản Dự thảo 5 thụt lùi so với Hiến pháp 1992 đang hiện hành.
Theo hay không theo ý thức hệ nào, tư tưởng nào, là quyền tự do của mỗi người. Nhưng áp đặt một ý thức hệ đã phá sản trên toàn thế giới, kể cả ở Việt Nam – cụ thể ở đây là CNMLN – vào Hiến pháp nước ta nhân dịp sửa đổi lần này nhằm mục đích gì?
Câu trả lời chỉ có thể là: Đây là sự áp đặt một công cụ chuyên chính tư tưởng và tinh thần, với mục đích phục vụ cho chuyên chính bạo lực, nhằm (a)bảo vệ chế độ độc quyền toàn trị nhân danh sự lãnh đạo của ĐCSVN, và (b)biện minh cho vị thế tối thượng bất khả xâm phạm của ĐCSVN để ghi vào Điều 4 của dự thảo Hiến pháp sửa đổi (bản dự thảo ngày 17-05-2013). Có lẽ vì hai lý do chủ yếu này, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã giải trình trước Quốc hội: Trước mắt không đặt ra vấn đề Luật về đảng trong sửa đổi Hiến pháp lần này. Giải trình như thế, khác gì tự xác nhận ĐCSVN đứng ngoài và đứng trên pháp luật, giữa lúc ĐCSVN kêu gọi cả nước sống và làm theo pháp luật!
Tuyên bố của nhóm 72 về bản dự thảo 17-05-2013 phân tích rõ:
-       Sự áp đặt này nhằm tiếp tục hiến định vai trò lãnh đạo của ĐCSVN, cho thấy ĐCSVN quyết đứng trên và đứng ngoài Hiến pháp;
-       sự áp đặt này hàng chục năm nay đã và đang trực tiếp hủy hoại vai trò lãnh đạo của ĐCSVN, là nguy cơ xóa bỏ toàn bộ sự nghiệp lịch sử của ĐCSVN từ bên trong, triển vọng với nhiều hệ quả đẫm máu cho đất nước  – không một thế lực thù địch nào có thể làm nổi việc này;
-       chế độ độc quyền toàn trị dưới hình thức “đảng hóa” mọi mặt đời sống đất nước ta là nguyên nhân gốc đẩy đất nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng toàn diện hiện nay, với nhiều nguy cơ và thách thức mới rất nguy hiểm.
Tóm lại: Dùng một chủ nghĩa đã phá sản như một công cụ chuyên chính làm ngọn cờ khua trương cho một sứ mệnh chính trị không được phép tồn tại trong một nhà nước của dân – do dân – vì dân, mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân có nghĩa trong thực tế là sự phủ nhận trực tiếp nhà nước này, là để tiếp tục duy trì chế độ độc quyền toàn trị nhân danh kiên trì con đường định hướng xã hội chủ nghĩa,  nhân danh sự lãnh đạo của ĐCSVN. Kịch bản đen tối này không thể là sự lựa chọn của nhân dân ta, cũng không mở ra cho ĐCSVN con đường tồn tại. Cưỡng bức nhân dân đi theo kịch bản đen tối này, hệ quả cuối cùng sớm muộn sẽ chẳng khác mấy là sự tự sát của chính người cưỡng bức.
Sửa đổi Hiến pháp lần này đang tạo ra một cơ hội khó mà có lại, để ĐCSVN tự tay trực tiếp xóa bỏ kịch bản đen tối này cho chính mình mà những tha hóa tự thân đang cuốn hút mình vào. Không ai có thể làm thay ĐCSVN việc này.
Với gần 4 triệu đảng viên, lại trực tiếp nắm mọi quyền lực trong tay, ĐCSVN là lực lượng chính trị mạnh nhất trong xã hội Việt Nam, chiếm tới khoảng gần 4 triệu gia đình, có ảnh hưởng trực tiếp / gián tiếp tới 1/3 hay hơn nữa dân số cả nước, chưa nói đến nhiều ảnh hưởng to lớn khác nữa. Vì thế, tối ưu cho ĐCSVN và cũng là cho đất nước, là xóa bỏ kịch bản đen tối nêu trên. Con đường Myanmar đang gợi ý ra cho ĐCSVN một hướng đi hiện thực: Tất cả cùng sống, tất cả cùng nhau khép lại quá khứ, không ngoái lại quá khứ (bao hàm cả nghĩa không hồi tố), để cùng nhau theo tinh thần đoàn kết – hòa giải dân tộc mở ra một chương sử mới cho chính mình và cho đất nước, để từ nay mỗi người và cả đất nước trở thành chính mình: Xây dựng một đất nước tự do của những con người tự do. Đấy cũng là nguyện vọng cháy bỏng của toàn thể dân tộc Việt Nam ngày nay: Xây dựng một Việt Nam độc lập – tự do – hạnh phúc, để có được một Việt Nam đáng sống, không ai có thể ức hiếp, và cùng đi được với cả thế giới! Tìm đường cho nhân dân thực hiện khát vọng này, đấy mới chính là vai trò lãnh đạo mà ĐCSVN bây giờ phải lột xác phấn đấu để đạt tới. Đấy chính là con đường cứu đảng cứu nước mỗi đảng viên ĐCSVN bây giờ nhất thiết phải giác ngộ, chứ không phải cam tâm làm nô lệ của CNMLN đã bị cuộc sống loại bỏ – chỉ để phục vụ cho mục đích duy tri chế độ độc quyền toàn trị của một số người trong đảng đang giam hãm đất nước.
Trung thành với lịch sử chiến đấu vì nước vì dân của ĐCSVN, trung thành với tư tưởng Hồ Chí Minh, đảng viên ĐCSVN bây giờ nhất thiết và trước hết phải chiến thắng chính mình, để chiến thắng sự sa đọa đang dìm đảng của mình vào tội lỗi, để đặt lại đảng của mình vào con đường đấu tranh vì nước vì dân đã từng làm nên sự nghiệp của đảng, nhất là để không phản bội lại những hy sinh, những mất mát của dân tộc, của đồng chí và đồng đội trên chặng đường gần một thế kỷ qua!
Các đảng viên ĐCSVN hãy bắt đầu từ việc thảo luận thẳng thắn trong đảng về thực trạng của ĐCSVN và của đất nước, về những vấn đề đang đặt ra cho việc sửa đổi Hiến pháp. Hãy bắt đầu từ việc đòi trả tự do cho tất cả những người yêu nức bất đồng chính kiến với chế độ đang bị cầm tù. Hãy phản đối đàn áp biểu tình bảo vệ tổ quốc. Hãy xóa bỏ phân biệt đối xử lề trái hay lề phải trong báo chí, để cho trong báo chí chỉ có lẽ phải, lòng yêu nước, ý chí bảo vệ tổ quốc!
Các đảng viên của ĐCSVN dù ở cương vị nào, nếu còn giữ đất nước trong tim mình, nhất thiết phải đứng lên như thế để cứu đảng của mình, và như thế cũng là cứu nước. Các đảng viên ĐCSVN đừng để cho đảng của mình rơi vào tình trạng mà một chính khách ở Liên Xô[7] hồi đó đã phải thốt lên: ĐCS Liên Xô không thể cải tạo được nữa! Chỉ còn cách đập tan nó!
Đối nghịch lại, nếu các đảng viên ĐCSVN không phấn đấu lựa chọn con đường cứu đảng cứu nước, sẽ chỉ còn lại con đường của kịch bản đen tối, của tha hóa và tội lỗi. Đó là con đường cố tính đối kháng lại nhân dân, sớm muộn sẽ dẫn tới thảm họa nồi da xáo thịt cho đất nước, kết cục chắc chắn với sự phủ nhận dứt khoát của nhân dân cả nước dành cho ĐCSVN, với một màn chót không phải là không hình dung được.
Người dịch tạm kết luận
Thành, bại và cuối cùng là sự cáo chung của trào lưu cách mạng của chuyên chính vô sản trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế sau 150 năm tồn tại; gắn liền với chặng đường lịch sử này là sự cáo chung của chủ nghĩa Mác – Lênin với tính cách là cẩm nang cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; thành, bại và những thành tựu lâu bền của trào lưu xã hội dân chủ trên chặng đường 150 năm đồng hành này; thành và bại của chính thực tiễn 38 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta – bây giờ lùi xuống là định hướng xã hội chủ nghĩa, tất cả những thứ này có lẽ là đủ để cho chúng ta thấy: Thường xuyên mở rộng các quyền tự do, dân chủ rất cụ thể của mỗi công dân trong mỗi bước đi của đất nước, thường xuyên làm tất cả mọi việc để mỗi công dân luôn luôn tự nâng cao được quyền năng của mình từ hiểu biết và học hỏi, đấy mới là động lực sáng tạo, năng động và lâu bền cho sự phát triển của đất nước ta.
Tận dụng cơ hội việc sửa đổi Hiến pháp đang mang lại, sẽ mở ra cho đất nước ta một con đường đi lên của tự do và dân chủ.
Đọc kỹ diễn văn 150 năm ĐXHDCĐ (SPD) của Tổng thống Joachim Gauck, tôi thấy thêm một bằng chứng sống động của nước Đức cho những điều trình bầy trên. Tôi tin như vậy, tôi cũng mong nhân dân nước ta vận dụng được lợi thế của nước đi sau./.
Võng Thị – Hà Nội, ngày 10-06-2013
Nguyễn Trung

[1] Bài này đã được đăng trên Viet – Studies ngày 11-06-2013
[2] “Vorwaerts!” (“Tiến lên!”) là khẩu hiệu đấu tranh của Đảng Xã hội Dân Chủ Đức, lấy từ cuộc đấu tranh của phong trào công nhân Đức cuối thế kỷ XIX. ND.
[3] Đạo luật trao những quyền hành đặc biệt cho chính qyền Hitler, qua đó phát xít hóa nước Đức, mở đường cho chiến tranh thế giới II. – ND chú giải.
[4] Đạo Luật Cơ Bản năm 1949 là Hiến pháp của Cộng Hòa Liên Bang Đức.  Chú ý, vì là nước phát xít bại trận trong chiến tranh thế giới II, nên cả 2 miền Tây và Đông nước Đức tuy đã có 2 nhà nước có chủ quyền, nhưng cả 2 nhà nước này vẫn chịu những ràng buộc nhất định trong khuôn khổ Hiệp ước Postdam và một số quyền kiểm soát của 4 bên đồng minh là Liên Xô, Mỹ, Anh và Pháp.  ND chú thích.
[5] “Ai thắng ai?” – giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa đế quốc.
[6] NEP – Neww Economic Policy.
[7] Boris Eltsin.

Source :diendanxahoidansu.wordpress.com