21/2/14

Obama ở xa còn Nga ở gần


Obama ở xa còn Nga ở gần


BBC    Cập nhật: 16:58 GMT - thứ sáu, 21 tháng 2, 2014

Hơn một tuần qua, đợt bạo lực “tồi tệ nhất châu Âu kể từ cuộc chiến Balkans” đang diễn ra ở Kiev chiếm trọn nhiều mặt báo quốc tế.
'Xin đừng lấy tôi', người Ukraine ôm bí ngô theo phong tục trả quà đính hôn tới Sứ quán Nga
Đến ngày 21/2/2014, sau đợt quân đội dùng súng bắn tỉa giết người biểu tình và phe đấu tranh cũng bắn lại cảnh sát làm chừng 80 người chết cả hai phía, tình hình tuy tạm yên chờ bầu cử mới nhưng vẫn chưa rõ sẽ ra sao.
Bức tranh Ukraine cũng không phải chỉ có hai màu đen trắng.
Không thể nói phiến diện rằng phe biểu tình thì tốt, chính phủ thì xấu, châu Âu hay Hoa Kỳ luôn đúng và Nga thì sai bởi còn có nhiều yếu tố lịch sử, địa lý và dân tộc đan xen trong chuyện Ukraine.
Trên thực tế biểu tình ở Ukraine chỉ là sự bùng phát ra ngoài của xung khắc nội bộ ở một xã hội đang đứng ở ngã ba đường.
Giới trẻ và người dân phía Tây Ukraine hướng về EU, Hoa Kỳ nhưng láng giềng sát nách họ lại là Nga.
Di sản của quá khứ cũng đang tiếp tục tác động đến tâm tư người dân ở quốc gia 45 triệu dân, thu nhập trên 3000 USD đầu người một năm này và thể hiện ra trong các đợt biểu tình.

Địa chính trị Ukraine

Mario Platero viết trên một tờ báo ÝIl Sole-24 Ore, đã mô tả chính xác câu chuyện Ukraine như sau:
"Với ông Obama và một nước Mỹ mệt mỏi năm 2014, Ukraine chỉ là một vấn đề xa xôi "
"Với ông Putin và Nga, việc kiểm soát toàn diện Ukraine là vấn đề chiến lược sống còn, với ông Obama và một nước Mỹ mệt mỏi năm 2014, Ukraine chỉ là một vấn đề xa xôi nên để cho các đồng minh châu Âu dính vào...”
Cấm vận, một phương thức từng hữu hiệu với các nền kinh tế khép kín, có thể chỉ đẩy Ukraine nghiêng về phía Nga.
Trong khi châu Âu thông qua cấm vận, Hoa Kỳ đã kiềm chế hơn và như các tiết lộ từ điện đàm ngoại giao của Mỹ, chính quyền Obama cũng không rõ ràng về chuyện ủng hộ ai trong phe đối lập.
Thái độ của người Mỹ là hoàn toàn dễ hiểu.
Rút kinh nghiệm từ chiến tranh cựu Bosnia và Kosovo, không phải cuộc can thiệp nào của Hoa Kỳ vào châu Âu gần đây cũng để lại ấn tượng tốt với tất cả.
Mặt khác, quan hệ với Moscow vẫn luôn có tầm chiến lược hơn vùng Đông Âu và dù muốn dính líu, các quốc gia bên ngoài cũng không thể thay đổi các di sản lịch sử có từ lâu của khu vực ngoại vi nước Nga.

Lịch sử còn tác động

Dù Ukraine đã độc lập được hơn 20 năm, các dấu ấn lịch sử vẫn còn sâu đậm trong tâm trí người dân và có ảnh hưởng đến suy nghĩ của phe đối lập vốn luôn e ngại về tác động của Moscow.
Nạn đói thời Stalin năm 1934 làm chết hàng triệu nông dân Ukraine
Nhắc lại lịch sử, ngay sau Cách mạng Bolshevik năm 1917, sự hình thành Cộng hòa Xô Viết Ukraine năm 1922 đóng vai trò quan trọng cho việc lập ra Liên Xô.
Nhưng vựa lúa mì Ukraine cũng là nơi xảy ra cuộc đấu tranh gay gắt giữa phái cộng sản và phe dân tộc chủ nghĩa Ukraine, dẫn đến các đợt trấn áp đẫm máu của Stalin với phú nông, địa chủ Ukraine.
Nạn đói thời cộng sản do chính sách tịch thu lúa mì và khoai tây làm hàng triệu người dân Ukraine thiệt mạng.
30 năm đàn áp liên tục của Stalin để làm chủ Ukraine để lại dấu ấn sâu đậm tới mức nhiều người ủng hộ phe đối lập tại Kiev nay vẫn tin rằng nếu thua cuộc ở Quảng trường Maidan, họ sẽ bị công an đến nhà lôi đi vào lúc nửa đêm như chuyện xảy ra trong thập niên 1930.
Có một sự hiểu lầm rằng dân tộc người Ukraine chia làm hai khu vực ngôn ngữ tiếng Ukraine ở phía Tây và tiếng Nga ở phía Đông.
Trên thực tế, đa số người dân phía Đông chính là người Nga hoặc con cháu họ được Liên Xô đưa vào Cộng hòa Xô Viết Ukraine và tất nhiên họ không thể nào ủng hộ chủ nghĩa dân tộc Ukraine như những người dân Ukraine chính gốc ở phía Tây.
Nhiều người vẫn nghĩ chủ nghĩa cộng sản tan rã ở Nga vì chính biến tại Moscow năm 1991 và cuộc đấu đá Yeltsin-Gorbachev nhưng thực ra cuộc bỏ phiếu độc lập của Ukraine tháng 12 năm đó mới là yếu tố quyết định xóa sổ Liên Xô về mặt biên giới.
Hơn 90% người Ukraine khi đó đã bỏ phiếu chọn con đường độc lập khỏi Moscow.
Ngày nay, người dân phía Đông có nhiều cảm tình với Nga nhưng người phía Tây tiếp tục nghi ngờ chủ nghĩa Đại Nga và muốn đi về hướng khác.
Thời gian độc lập cũng quá ngắn, chưa đủ để gắn kết quốc gia và chỉ có thế hệ lãnh đạo gốc Liên Xô đầu tiên như Tổng thống Leonid Kravchuk còn khả năng dung hòa hai xu thế và nói chuyện được cả với châu Âu lẫn Moscow.
Sau Cách mạng Cam 2004, các nhân vật chính trị Ukraine đều mang khá bè phái, chỉ dựa vào một nhóm ủng hộ cụ thể mà thiếu khả năng liên kết cả nước.

Chạm vào truyền thống

Những người nói tiếng Nga ở Ukraine tiếp tục tôn thờ Stalin
Khác biệt ngôn ngữ, văn hóa hai vùng Đông Tây đã bị đẩy lên cao khi ông Viktor Yanukovych lên làm tổng thống chủ yếu nhờ ủng hộ từ vùng người gốc Nga ở phía Đông.
Ông đã phạm một sai lầm nghiêm trọng khi nhấn mạnh xung khắc vùng miền qua động tác bác bỏ một hiệp định liên kết với EU và nhận các khoản trợ giúp từ Moscow khiến phe đối lập cáo buộc ông là phản quốc.
Với Moscow, Ukraine không chỉ là vùng đất lập quốc - người Nga tin rằng tổ tiên họ đến từ vùng Kiev - mà còn đóng vai trò hàng đầu trong dự án Phục hưng không gian Liên Xô cũ của ông Putin hiện nay.
Nhưng biến động tại Ukraine đặt câu hỏi về tương lai của kế hoạch mà Nga theo đuổi.
Với chính người Ukraine, có vẻ như trước mắt bất cứ một giải pháp chính trị nào cũng khó làm hài lòng các phe phái và dù có bầu cử mới, tình hình sẽ còn bất ổn.
Châu Âu đã có kinh nghiệm đau thương về xung khắc dân tộc vì lý do lịch sử.
Sau Chiến tranh Lạnh, giải pháp xóa nhòa các mâu thuẫn truyền thống là đưa tất cả các quốc gia và dân tộc vào dưới mái nhà chung châu Âu.
Quan chức cao cấp của EU sang Ukraine nhằm thúc đẩy một thỏa thuận hòa bình
Nhưng với Ukraine, mức sống, trình độ kinh tế và khoảng cách xa khu vực trung tâm của châu Âu khiến lộ trình gia nhập EU nếu có cũng còn khá xa.
Trang web của Ủy hội châu Âu mới chỉ xác nhận Ukraine là “quốc gia đối tác ưu tiên” với mục tiêu hướng tới “liên kết kinh tế và chính trị” thân thiết hơn.
Trong khi đó, sự ủng hộ của Hoa Kỳ cũng còn rất chung chung và nước Nga thì sẽ mãi mãi ở bên cạnh, thậm chí ở cả bên trong Ukraine.
Câu hỏi làm sao thoát khỏi ràng buộc của lịch sử và địa lý khiến chuyện Ukraine tiếp tục đáng quan tâm.
Đây cũng là vấn đề chung tạo nhiều gợi mở cho không ít các quốc gia khác.

BBC

20/2/14

HỒ CHÍ MINH TRONG HỒI KÍ CỦA NGUYỄN ĐĂNG MẠNH

HỒ CHÍ MINH TRONG HỒI KÍ CỦA NGUYỄN ĐĂNG MẠNH

Tháng 5 20, 2012
Trong số các tài liệu về Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ được cả giới giáo điều lẫn giới cấp tiến tại Việt Nam đem ra làm bảo bối và triệt để khai thác, nhất là vào dịp kỉ niệm sinh nhật hư cấu của ông như những ngày này, tôi chú ý đến một chương trong cuốn hồi kí chưa xuất bản của nhà nghiên cứu và giảng dạy văn học GS Nguyễn Đăng Mạnh. Trong các chi tiết dựng nên chân dung Hồ Chí Minh ở hồi kí này, tôi chú ý đến quan sát trực tiếp của tác giả về việc ông Hồ đang vung tay hô khẩu hiệu cùng đám đông vội rụt tay xuống khi khẩu hiệu chuyển sang tung hô ông. Một chi tiết khác, miêu tả ấn tượng từ cuộc gặp của tác giả với người thư kí nổi tiếng của Hồ Chí Minh, ông Vũ Kỳ, cũng gợi cho tôi nhiều suy nghĩ hơn phần lớn những nghiên cứu tuyên truyền hay phanh phui về cuộc đời và sự nghiệp của nhân vật lịch sử huyền thoại này. Thế hệ các nhà lãnh đạo để râu dài, mặc áo cánh lụa, đi guốc, cầm quạt phe phẩy đã hoàn toàn thuộc về dĩ vãng.
Cuốn hồi kí của GS Nguyễn Đăng Mạnh lưu truyền trên mạng từ năm 2008 được coi là bản thảo chưa có sự phê duyệt của tác giả. Trong đoạn trích sau đây, tôi đã đặt thêm một số liên kết để tiện cho sự tra cứu.
Phạm Thị Hoài
_________________________
Hồi kí Nguyễn Đăng Mạnh
Phần II, Chương VII: Hồ Chí Minh
Tôi được tận mắt thấy Hồ Chí Minh hai lần.
Lần thứ nhất ngay sau Cách mạng tháng Tám. Sau cuộc khởi nghĩa tháng Tám 1945, bố tôi đưa cả gia đình từ Thái Bình về Thị xã Bắc Ninh. Tôi tiếp tục học cấp II ở trường Hàn Thuyên.
Một hôm được tin Hồ Chủ tịch về Bắc Ninh. Tôi và mấy bạn học được nhà trường cử đi đón. Mỗi đứa được phát một lá cờ nhỏ bằng giấy, hễ Hồ Chủ tịch đến thì vẫy cờ và hô khẩu hiệu chào mừng.
Chúng tôi đứng xếp hàng trước cửa phòng thông tin thị xã, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh tới.
Đợi một lúc thì có một chiếc xe ôtô con đỗ ngay mép đường, trước cửa phòng thông tin. Tôi thấy có hai anh cảnh vệ vọt ra trước, cầm lăm lăm tiểu liên, nhẩy lên đứng trên hai cái trụ của bức tường hoa thấp trước phòng thông tin. Hai anh lia mũi súng sang trái, sang phải, vẻ mặt căng thẳng. Hồ Chí Minh bước ra sau. Quần áo kaki. Giầy vải. Cầm batoong. Người gầy, đen. Râu tóc cũng đen. Ông đứng lại ngay sát chúng tôi, nhưng không để ý gì đến bọn trẻ con này cả, tuy chúng tôi ra sức phất cờ và hô “Hồ Chủ tịch muôn năm!”. Đứng lại một lát, liếc nhìn chung quanh một chút, mặt đầy cảnh giác, rồi ông đi rất nhanh vào phòng thông tin. Lưng rất thẳng, gầy nhưng cứng cáp, cử chỉ lanh lẹn – ấn tượng của tôi về Hồ Chí Minh là như thế. Hồi đó, ở Bắc Ninh, Việt Nam Quốc dân Đảng hoạt động khá mạnh. Đã có những cuộc đụng độ vũ trang giữa lính Quốc dân Đảng và Vệ quốc Đoàn ở Thị Cầu. Chắc vì thế nên ông Hồ và các vệ sĩ của ông rất cảnh giác.
Lần thứ hai tôi được thấy Hồ Chủ tịch là vào khoảng 1961, 1962 gì đó, hồi tôi công tác ở trường Đại học Sư phạm Vinh. Ông Hồ vào Vinh. Người ta tổ chức cho ông gặp đồng bào ở một cái sân vận động của thị xã.
Họ dựng một cái kỳ đài bằng tre – có vẻ thô sơ thôi. Ông Hồ đứng trên đó với một số cán bộ tỉnh. Lúc hô khẩu hiệu, ông cùng vung tay hô như mọi người: “Đảng Lao động Việt Nam muôn năm!”, “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà muôn năm!”
Ông Hồ vung tay rất cao. Nhưng đến khẩu hiệu thứ ba: “Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm!”, ông Hồ cũng vung tay lên, nhưng chợt nhận ra họ hoan hô mình, vội rụt tay xuống. Tôi theo dõi không bỏ sót một cử chỉ nào của ông cụ hôm ấy. Ông Hồ bắt đầu nói chuyện với đồng bào.
Hồ Chí Minh không hề tỏ ra là người hùng biện. Nói chậm, ngắn, không lưu loát. Có chỗ lỡ miệng nói hớ, vội lảng sang ý khác. Tôi nhớ ông đang nói dở một câu tục ngữ: “Thanh cậy thế, Nghệ cậy…” thì vội ngừng lại và lảng sang ý khác. Có lẽ ông không muốn làm mất lòng người Nghệ Tĩnh chăng, vả lại “cậy thần” là thần nào, thần Hồ Chí Minh à? Tôi chắc ông nghĩ thế nên không nói tiếp câu ấy nữa.
Năm 1969, tôi chuyển ra công tác tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Các anh Huỳnh Lý, Nguyễn Trác, Hoàng Dung thay nhau làm tổ trưởng Tổ Văn học Việt Nam Hiện đại. Các anh đều rất quan tâm đến việc nghiên cứu thơ văn Hồ Chí Minh nên thường tổ chức cho chúng tôi gặp những người hiểu biết về Hồ Chí Minh như Hoàng Văn Hoan, Lê Quảng Ba, hoạ sĩ Diệp Minh Châu, Vũ Kỳ. Nhờ gặp các vị này, tôi được biết nhiều chuyện cụ thể về ông Hồ, trước hết là chung quanh sự kiện ông Hồ bị bắt ở Quảng Tây, Trung Quốc và viết Nhật kí trong tù.
Ông Hồ về Pắc Bó ngày 28-01 đầu năm 1941, tháng 8-1942 ông trở lại Trung Quốc để vận động các cơ sở cách mạng bên ấy ủng hộ Việt Minh và mua vũ khí về cho Việt Minh.
Ông Lê Quảng Ba cùng đi với ông Hồ. Đến một địa điểm nào đó thuộc Quảng Tây thì gặp núi lở, một tảng đá văng vào chân Lê Quảng Ba. Ba bị đau, cố đi một cách khó khăn. Để động viên người đồng hành với mình, ông Hồ vừa đi vừa kể Chinh phụ ngâm. Vừa kể vừa giảng. Té ra xa nước ba muơi năm, Hồ Chí Minh vẫn thuộc lòng Chinh phụ ngâm.
Nhưng Lê Quảng Ba càng đi càng đau. Đến Tĩnh Tây thì phải nghỉ lại tại một cơ sở cách mạng. Hôm sau, ông Hồ tiếp tục lên đường. Cùng đi với ông có một thanh niên Trung Quốc tên là Dương Đào – tất nhiên cũng là một cơ sở cách mạng. Đến xã Túc Vinh, huyện Đức Bảo, tỉnh Quảng Tây thì bị bọn Hương cảnh Trung Quốc bắt (ngày 27-8-1942).
Không phải ông Hồ không có giấy tờ hợp lệ. Hồ Chí Minh không thể sơ xuất như thế được. Hồ Chí Minh bị bắt vì khám trong người, cảnh sát Tầu phát hiện có rất nhiều đôla. Nghe nói hồi ở Pắc Bó, có người đã thấy ông phơi đôla cho khỏi ẩm mốc. Bây giờ qua Trung Quốc, ông đem đôla đi để mua vũ khí cho Việt Minh.
Nhưng cảnh sát Tầu cho là Hán gian, là gián điệp của Nhật lúc bấy giờ đang đánh Trung Quốc. Chỉ có gián điệp mới có đôla thôi chứ, người dân Trung Quốc bình thường làm gì có lắm ngoại tệ thế! Điều này tác giảNhật kí trong tù cũng đã nói rõ trong thơ của mình:
Ta người ngay thẳng, lòng trong trắng
Lại bị tình nghi là Hán gian
(“Đường đời hiểm trở”)
Hôm nay xiềng sắt thay dây trói,
Mỗi bước leng keng tiếng ngọc rung;
Tuy bị tình nghi là gián điệp,
Mà như khanh tướng vẻ ung dung.
(“Đi Nam Ninh”)
Các vị lãnh đạo Đảng lúc bấy giờ ở Cao Bằng như Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Quốc Việt… nghe tin cụ Hồ bị bắt, hoảng quá, cho người sang Tầu dò hỏi xem nó giam ở đâu, nhưng không tìm được. Qua mấy tháng bặt tin tức, các vị bèn quyết định lật bài ngửa: điện cho Mạc Tư Khoa và cho Tưởng Giới Thạch nói rõ đó là Nguyễn Ái Quốc, thủ lĩnh Việt Minh, đề nghị thả ra. Biết không phải là Hán gian, các nhà chức trách Trung Hoa bèn chuyển Hồ Chí Minh sáng chế độ nhà tù khác. Trong Nhật kí trong tù, bài ”Bốn tháng rồi” có thể coi là bản tổng kết giai đoạn đầu của thời gian 14 tháng ở tù vô cũng cực khổ của ông Hồ – “Sống khác loài người vừa bốn tháng, Tiều tuỵ còn hơn mười năm trời”
Chuyển sang chế độ nhà tù mới, ông Hồ được tắm rửa, ăn uống khá hơn, thỉnh thoảng được đi dạo quanh nhà lao, đặc biệt được cung cấp rất nhiều sách báo. Tưởng Giới Thạch còn tặng ông một cuốn sách của mình. Điều này ông Trần Dân Tiên đã có nói nhưng không giải thích lý do vì sao. Điều đáng chú ý là, Nhật kí trong tù có tất cả 133 bài tuyệt cú thì bài “Bốn tháng rồi” là bài thứ 103. Nghĩa là 10 tháng sau, tác giả chỉ làm thêm ba chục bài nữa thôi. Vì sao vậy? Vì Hồ Chí Minh chỉ làm văn chương khi tuyệt đối không có điều kiện làm chính trị, làm cách mạng. Mười tháng sau này, có điều kiện chuẩn bị cho cách mạng, lập tức ông dồn sức vào đấy: đọc sách báo, dịch tác phẩm Tam dân chủ nghĩa của Tôn Trung Sơn, đọc sách của Tưởng Giới Thạch tặng (Cuốn Trung Quốc đích mệnh vận)…
Nguyên bản Nhật kí trong tù đâu chỉ có thơ. Ở cuối tập Nhật kí còn có tới 20 trang ghi kín tin tức thời sự lấy từ các báo chí được cung cấp gọi là Độc báo lan, và những thu hoạch từ các sách đã đọc gọi là Độc thư lan Mới biết, viết bài “Mở đầu” (Khai quyển) Nhật kí trong tù, Hồ Chí Minh đã nói thật lòng mình:
Ngâm thơ ta vốn không ham,
Nhưng vì trong ngục biết làm chi đây;
Ngày dài ngâm ngợi cho khuây,
Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do.
Hồ Chí Minh được bọn Tầu Tưởng thả về nước không phải ngẫu nhiên, chắc ông phải khôn khéo thương lượng với chúng và với cánh Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam như thế nào đó, nó mới thả cho về nước. Hôm tiễn cụ Hồ về nước, Hầu Chí Minh (Trong Nhật kí trong tù ông Hồ gọi là Hầu chủ nhiệm (Chủ nhiệm Cục Chính trị Đệ tứ Chiến khu) cùng với Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam có tổ chức một cuộc liên hoan hẳn hoi (tháng 12-1943). Trong liên hoan, họ có thử tài nhau bằng thách đối. Nguyễn Hải Thần đưa ra một vế đối khá hóc hiểm:
“Hầu Chí Minh, Hồ Chí Minh, lưỡng vị đồng chí, chí giai minh.”
Ông Hồ xin đối:
“Nhĩ cách mệnh, ngã cách mệnh, đại gia cách mệnh, mệnh tất cách.”
Mọi người tán thưởng. Hầu Chí Minh ca ngợi: “Đối hay lắm!”. Còn Nguyễn Hải Thần thì cung kính nói: “Hồ tiên sinh tài trí mẫn tiệp, bội phục, bội phục!”
Trong cuộc liên hoan, ông Hồ còn góp vui một tiết mục rất đặc biệt: nhảy điệu Nga-la-tư. Một điệu vũ dân gian rất khoẻ của Nga.
Trong Nhật kí trong tù và hồi kí Vừa đi đường vừa kể chuyện, ông Hồ có nói, khi mới ra tù “chân mềm như bún”, đi không được, phải tập leo núi rất khó nhọc, phải bò, phải lết mãi mới đi được. Vậy sao lại có thể nhẩy điệu Nga-la-tư?
Suy ra ta có thể hiểu như thế này: từ khi biết ông Hồ là ông Hồ, không phải Hán gian, nhà chức trách Trung Quốc cho ông được hưởng chế độ quản thúc. Nghĩa là chỉ không được ra khỏi vùng quản thúc thôi, còn thì có thể ra ngoài nhà tù để leo núi, tập đi, tập luyện mắt (Cho nên mới có chuyện, ở Liễu Châu, ông Hồ đi tắm sông, gặp tướng Tàu Trương Phát Khuê). Khoảng giữa tháng 9-1943, sau một thời gian tập luyện, cuối cùng ông Hồ chẳng những đi vững mà còn trèo được núi. Lần đầu tiên lên đỉnh núi, Ông cao hứng làm một bài thơ chữ Hán:
Vân ủng trùng sơn sơn ủng vân
Giang tâm như kính tịnh vô trần
Bồi hồi độc bộ Tây phong lĩnh,
Nam vọng trùng dương ức cố nhân
(Vừa đi đường vừa kể chuyện)
Bài thơ này cụ Hồ đã bí mật gửi về cho các đồng chí của mình ở Cao Bằng (Viết lên mép trắng của một tờ Quảng Tây nhật báo). Võ Nguyên Giáp, trong tập hồi kí Những chặng đường lịch sử cho biết: “Bữa ấy, tôi về cơ quan hội báo tình hình thì thấy anh Đông, anh Vũ Anh và anh Lã đang xem xét quanh một tờ báo. Các anh chuyển tờ báo và hỏi tíu tít:
“Anh xem có đúng là chữ của Bác không?”
Đó là một tờ báo ở Trung Quốc mới gửi về, trên mép trắng có mấy hàng chữ Hán viết tay. Tôi nhận ra ngay đúng là chữ Bác, Bác viết: “Chúc chư huynh ở nhà mạnh khoẻ và cố gắng công tác. Ở bên này bình yên”. Phía dưới lại có một bài thơ.
Như thế bài thơ này đã được làm từ khá lâu (9-1943) trước cuộc liên hoan tiễn chân nói trên 3 tháng (12-1943)
Sau này, Tô Hoài còn cho biết, trong buổi liên hoan tiễn cụ Hồ về nước hôm ấy còn có mặt nhà thơ Quang Dũng nữa. Lúc này Quang Dũng đang đi theo Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Hải Thần.
Về tập Nhật kí trong tù, có người nói, ông Hồ đánh mất ngay sau khi ra khỏi tù. Thực ra không phải.
Ngày 16-9-1943, ông Hồ được trả lại tự do, cuốn Nhật kí trong tù vẫn được ông giữ cẩn thận.
Ngày 14-9-1955, ông đưa tác phẩm này cho ông Nguyễn Việt, Trưởng ban Tổ chức Triển lãm Cải cách Ruộng đất tại phố Bích Câu: “Tôi có quyển sổ tay cách đây mười mấy năm còn giữ được đến bây giờ, các cô, các chú xem có triển lãm được thì dùng”. Nguyễn Việt đưa vào triển lãm, bầy ở phòng “Ngọn đuốc soi đường của Đảng Cộng sản Đông Dương” .
Nhật kí trong tù hiện được lưu giữ ở Bảo tàng cách mạng Việt Nam.
Vào năm 1970, 1971 gì đó, anh Huỳnh Lý được biết hoạ sĩ Diệp Minh Châu từng sống với Hồ Chủ Tịch sáu tháng ở Việt Bắc thời kháng chiến chống Pháp, nên tổ chức cho chúng tôi gặp hoạ sĩ ở nhà riêng.
Hai vợ chồng cùng là hoạ sĩ và điêu khắc. Nhà cửa hết sức bề bộn, có thể nói là tanh bành. Đất sét, thạch cao vung vãi. Nước đổ lênh láng trên nền nhà. Khắp nơi lăn lóc những đầu người: đầu Nguyên Hồng, đầu Nguyễn Tuân… bằng đất sét.
Cách trò chuyện của Diệp Minh Châu cũng vậy. Chuyện nọ sọ chuyện kia, có lúc lại tạt ngang giới thiệu tranh của vợ.
Ở đây tôi chỉ lọc  ra những gì anh nói về Hồ Chí Minh.
Diệp Minh Châu ở với Hồ Chủ tịch sáu tháng ở chiến khu Việt Bắc trước khi ra nước ngoài học tiếp về hội hoạ, điêu khắc. Hằng ngày, anh cùng ăn với Hồ Chủ tịch.
Có một bữa, đến giờ ăn rồi mà mãi không thấy ông Hồ ra. Diệp Minh Châu ngồi đợi. Cuối cùng ông cũng ra, nhưng lại châm điếu thuốc hút, nghĩa là chưa ăn ngay. Thấy Châu ngồi đợi, ông bảo: “Chú cứ ăn trước đi”.Tất nhiên Châu không dám, vẫn đợi. Một lát, ông Hồ nói thủng thẳng với hoạ sĩ: “Về sau chú làm nghề gì thì làm nhé, đừng làm Chủ tịch nước, khổ lắm!”
Diệp Minh Châu không bình luận gì. Tôi cho rằng, Hồ Chí Minh vừa qua một cuộc họp trung ương, chắc có điều gì không thuyết phục nổi các đồng chí của mình: Người ta đang sùng bái Staline, Mao Trạch Đông, không chịu nghe Hồ Chí Minh, chắc thế. (Staline vốn không coi Hồ Chí Minh là cộng sản chân chính. Ông Phạm Văn Đồng có lần nói với anh Hoàng Tuệ, khi hai người cùng công tác ở Liên Xô: Năm 1950, Staline triệu Hồ Chí Minh sang gặp. Ông ta không gọi Hồ Chí Minh là đồng chí (tavarich).
Ở rừng Việt Bắc vào những đêm trăng đẹp, ông Hồ thường rủ Diệp Minh Châu ra suối câu cá. Vừa câu vừa trò chuyện. Có lần ông nói về Nhật kí trong tù: “Hồi ấy bị giam trong tù buồn quá, phải nghĩ ra cách gì để giải trí. Có ba cách: một là nằm ngửa đếm ngói trên mái nhà, đếm hết lại phân loại ngói lành, ngói vỡ. Hai là săn rệp ở những khe ván sàn xà lim. Ba là làm thơ”. Thì ra đối với ông Hồ, làm thơ cũng chỉ là một trò giải trí như đếm ngói và săn rệp vậy thôi. Thảo nào có ai hỏi ông về Nhật kí trong tù như một tập thơ, ông đều từ chối không trả lời, vì coi đó chẳng phải thơ phú gì và bản thân ông cũng không phải nhà thơ. Chẳng qua ở tù buồn quá, không biết làm gì, thì ghép vần chơi, thế thôi. (Trong Vừa đi đường vừa kể chuyện, ông đã nói như thế).
Năm 1965, Mỹ cho không quân ra đánh phá miền Bắc. Cầu Hàm Rồng, Thanh Hoá, là một trọng điểm oanh tạc của chúng. Anh chị em dân quân Nam Ngạn, Hàm Rồng phối hợp cùng với pháo binh tải đạn và bắn máy bay giặc. Nổi lên có hai nữ dân quân được tuyên dương công trạng xuất sắc: Ngô Thị Tuyển và Nguyễn Thị Hằng. Năm ấy, tôi phụ trách một đoàn sinh viên Đại học Sư phạm Vinh ra thực tập ở trường Lam Sơn, Thanh Hoá, sơ tán ở ngoại ô thị xã. Tôi đưa mấy sinh viên văn ra gặp Nguyễn Thị Hằng ở nhà riêng. Hằng là một cô gái quê mà rất trắng trẻo, cao ráo. Cô cho xem bức hình chụp mặc quân phục trông rất đẹp đẽ, oai phong. Cô khoe vừa được ra Hà Nội gặp Bác Hồ. Lần đầu tiên ra Hà Nội, đi đâu cũng có một anh cảnh vệ hay công an đưa đi. Hành trình qua rất nhiều chặng. Đến mỗi chặng, anh dẫn đường lại bảo, cô chờ ở đây, người khác sẽ đưa đi tiếp. Chặng cuối cùng, anh dẫn đường nói, cô ngồi đây, Bác xuống bây giờ. Một lát ông Hồ tới. Ông không vội hỏi han gì về thành tích chiến đấu của Hằng. Câu hỏi đầu tiên của vị Chủ tịch nước là: “Cháu có buồn đi tiểu, Bác chỉ chỗ cho mà đi”.
Câu chuyện của Nguyễn Thị Hằng về Chủ tịch Hồ Chí Minh hôm đó, tôi nhớ nhất chi tiết này. Chi tiết rất nhỏ nhưng nói rất nhiều về con người Hồ Chí Minh.
Tôi nghĩ đến câu nói của một nhân vật của Dostoyevsky trong Anh em nhà Karamazov: “Tôi càng yêu nhân loại nói chung thì lại càng ít yêu con người nói riêng, tức tách bạch ra từng người riêng rẽ. Những lúc mơ ước, nhiều khi tôi đã có dự định say mê phụng sự nhân loại (…) thế nhưng tôi lại không thể sống chung với bất kì ai trong một căn phòng”. Đó là loại người mà Dostoyevsky gọi là chỉ có “tình yêu mơ mộng” chứ không có tình yêu thực sự. Ông Hồ một mặt yêu nhân loại rộng lớn, mặt khác, quan tâm rất cụ thể thiết thực đến những con người cụ thể quanh mình.
Anh Trần Việt Phương có kể một câu chuyện khác cũng tương tự về ông Hồ. Trước căn nhà sàn của Chủ tịch luôn có một anh bộ đội đứng gác. Thương anh lính trẻ đứng gác lâu chắc đói bụng, ông cụ đem một quả chuối xuống cho anh ta ăn. Anh lính không dám ăn vì như thế là vi phạm luật nhà binh. Ông Hồ nói: Vậy để bác gác cho cháu ăn, không sợ.
Hồ Chí Minh có điều này cũng rất quý: trong cách ứng xử với mọi người, tỏ ra rất lịch sự, nghĩa là rất tôn trọng con người: Hồi kháng chiến chống Pháp, hoạ sĩ Dương Bích Liên được cử đến ở với ông Hồ để vẽ. Sau một thời gian, Tố Hữu đến xem tranh, cho là không đạt (Chắc là Dương Bích Liên thích vẽ Hồ Chí Minh trong sinh hoạt đời thường, không thể hiện được tư thế lãnh tụ chăng?). Tố Hữu quyết định cho Dương Bích Liên thôi việc và mời đi luôn. Khi ông Hồ biết chuyện này thì Dương Bích Liên đã đi rồi. Hồ Chí Minh không bằng lòng với cách đối xử như thế. Ông cho người đuổi theo mời hoạ sĩ trở lại để có lời với anh và đưa tiễn đàng hoàng.
Tôi nghĩ Hồ Chí Minh thực bụng, không hề coi mình là ông thánh, nghĩa là chỉ muốn được là người với những nhu cầu như của mọi người bình thường.Cũng có thể trong tư cách nhà chính trị lại khác. Vì nhu cầu chính trị, có khi Hồ Chí Minh cũng phải “diễn” những điều trái với bản chất của mình. Vì thế tôi nói, thực bụng ông Hồ không thích làm thánh nhân chút nào. Thí dụ, mệt cũng muốn nghỉ. Tố Hữu có lần đi với ông, thấy một khẩu hiệu trên tường: “Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm!”, ông nói: “Hồ Chí Minh chỉ muốn nằm!” Ông Hồ cũng thích hút thuốc lá. Và chỉ quen hút thuốc lá ngoại, thuốc lá Mỹ. Ông đã bị chi bộ phê bình và bắt hút thuốc nội. Sau thấy ông ho quá, lại cho hút thuốc ngoại như cũ. Anh Hoàng Tuệ kể với tôi chuyện này: hồi kháng chiến chống Pháp, đi công tác ban đêm, tình cờ anh đi cùng với một đoàn người chở thuốc lá ngoại từ vùng tề ra cho cụ Hồ, có bộ đội đi kèm để bảo vệ. Hoạ sĩ Dương Bích Liên, hồi cùng ở với ông Hồ ở Việt Bắc, thấy ông thường hút thuốc lá ngoại, uống rượu Tây và uống sữa tươi (người ta nuôi một con bò để lấy sữa cho ông).
Theo Trần Đăng Ninh (Tô Hoài kể lại), ông Hồ ở Phủ Chủ tịch, thỉnh thoảng lại đóng bộ complet, cravate, chống batoong đi dạo một lúc trong khuôn viên cho đỡ nhớ – hẳn là nhớ sinh hoạt hồi ở Paris.
Hà Huy Giáp cho biết: Một hôm linh mục Phạm Bá Trực gặp ông Hồ, bảo ông là surnature, ông Hồ nói: “Chúng mình là contrenature”. Hà Huy Giáp có một thời gian ở gần Hồ Chủ tịch. Ông kể chuyện hồi năm 1950, ông mới lấy vợ được một năm thì bị điều ra công tác tại Việt Bắc và ở với cụ Hồ. Ông hỏi ông Hồ: “Sao Bác không lấy vợ mà chịu được?”. Ông Hồ nói: “Mình cũng như các chú thôi, từ rốn trở xuống là 18 tuổi. Từ rốn đến cổ là 40 tuổi. Từ cổ đến đầu là 60 tuổi. Kinh nghiệm của dân ta là lao động suốt ngày, mệt thì ngủ luôn. Không có việc gì thì đổ trấu ra xay. Buồn ngủ hãy ngủ. Tỉnh ngủ, dậy liền, đừng có nằm mãi trong chăn. Đừng mặc đồ láng, mềm, mỏng. Nên mặc quần áo vải.” Có cán bộ lên công tác ở Việt Bắc, rỗi việc, ngồi tán gẫu. Bác bảo cởi lạt sàn nhà ra, sau đó lại bảo buộc lại. Để khỏi “nhàn cư vi bất thiện”.
Các anh Huỳnh Lý, Nguyễn Trác và Hoàng Dung còn tổ chức cho chúng tôi gặp ông Vũ Kỳ, thư kí riêng của cụ Hồ.
Cuộc gặp Vũ Kỳ không giúp tôi biết thêm gì về Hồ Chí Minh. Ấn tượng để lại chỉ là hình ảnh của chính Vũ Kỳ. Ông bắt chước tác phong của cụ Hồ từ cách ăn mặc, cách nói năng. Có cái áo Tôn Trung Sơn khoác ngoài không mặc lại vắt lên vai. Đi guốc. Câu đầu tiên ông hỏi chúng tôi: “Các đồng chí có bao nhiêu nữ?”
Anh Nguyễn Khải có lần gặp Vũ Kỳ cũng có nhận xét y như thế: Để râu dài. Áo cánh lụa. Đi guốc. Cầm quạt phe phẩy…
Tôi nghĩ bụng, đã là gia nhân thì bao giờ cũng là gia nhân. Gia nhân của người thường hay gia nhân của vua chúa thì cũng thế.
Về chuyện làm thơ của Hồ Chí Minh, tôi vẫn cho rằng, ông Hồ có ý thức sáng tác hai loại: một là loại thơ tuyên truyền thường dùng lối ca vè, cốt minh hoạ đường lối chính trị. Những bài thơ chúc Tết, mừng xuân cũng thuộc loại này. Thơ này không sáng tác theo quy luật nghệ thuật. Hai là loại thơ nghệ thuật diễn đạt tình cảm, cảm xúc thẩm mĩ. Loại này ông cốt làm để giải trí sau những giờ làm việc căng thẳng, hoặc ở trong nhà tù, khi hoàn toàn không có cách gì để làm việc cho cách mạng.
Nhiều thằng ngu hoặc cố tình không hiểu đã phê phán tôi về sự phân biệt này: Thơ Bác Hồ, thơ nào chả là thơ nghệ thuật và thơ Bác là thơ cách mạng sao lại bảo là để giải trí.
Tôi cho rằng chính cụ Hồ có ý thức phân biệt như vậy. Người ta thường kể chuyện này để ca ngợi đức tính giản dị, khiêm tốn của cụ Hồ: khi làm những bài thơ tuyên truyền, cụ Hồ thường chuyển cho nhiều người xem, kể cả chú liên lạc, để nhờ góp ý sửa chữa cho thật dễ hiểu, dễ nhớ đối với mọi người. Thế là thơ tuyên truyền chứ còn gì nữa. Tuyên truyền thì cốt nhất là mọi người đều dễ hiểu, dễ nhớ, thế thôi. Nghệ thuật gì mà lại góp ý tập thể như thế!
Trước kia, hàng năm, vào dịp 19/5, tôi thường được nhiều nơi mời đi nói chuyện về thơ Hồ Chủ tịch. Thường có chị Trần Thị Tuyết cùng đi để ngâm thơ minh hoạ. Chị Tuyết cho biết, khi Hồ Chủ tịch còn sống, vào dịp cuối năm, chị thường được gọi đến để ngâm thơ chúc Tết của Chủ tịch và phát luôn trên đài. Tới dự có cụ Hồ và mấy ông trong Bộ Chính trị. Khi ngâm thơ chúc Tết, chị để ý thấy ông Hồ có vẻ không quan tâm lắm. Ngâm xong ông thường bảo chị chuyển ngay sang ngâm Kiều. Tôi hỏi, thường chị ngâm đoạn Kiều nào. Chị nói, thường Bác bảo ngâm đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích. Đây là đoạn Kiều nhớ nhà, nhớ người yêu, nhớ quê. Một đoạn thơ buồn.
Chung quanh Hồ Chí Minh, đến nay vẫn còn rất nhiều điều bí ẩn không biết đến bao giờ mới được làm sáng tỏ.
Chẳng hạn, chuyện vợ con thế nào? Trung Quốc đã công bố Hồ Chí Minh kết hôn với Tăng Tuyết Minh. Rồi chuyện cô Hà Thị Xuân người dân tộc Tày và các con (Trung và Trinh gì đó). Ông Trần Độ cho biết, vì cô Xuân cứ đòi chính thức hoá, người ta bèn giao cho Trần Quốc Hoàn (Bộ trưởng Bộ Công an) thủ tiêu cả ba chị em.
Chuyện này nhiều người biết. Có người đã viết ra như Vũ Thư Hiên trong cuốn Đêm giữa ban ngày. Riêng tôi được biết do giáo sư Ngô Thúc Lanh được ông Văn Tân kể cho nghe và truyền đạt lại, hai là do một giáo sư dạy sử ở Đại học Sư phạm Hà Nội, ba là Dương Thu Hương, bốn là ông Trần Độ. Nhưng gần đây có người điều tra ra vụ việc này rất tỉ mỉ, rõ ràng, và công bố cụ thể trên internet: cô Xuân bị thủ tiêu vì hai lý do: một là cô đòi chính thức hoá: điều này phải do Đảng quyết định, mà Đảng thì không thể chấp nhận. Hai là cô bị Trần Quốc Hoàn hãm hiếp nhiều lần. Hoàn tuy đã đe doạ cô, nhưng vẫn sợ bị cô tố cáo. Hắn sai Tạ Quang Chiến đập chết, rồi ban đêm, đặt xác cô ở quãng đường từ Nhật Tân đi Chèm, bố trí một xe ô tô cán lên, tạo ra một vụ tai nạn giao thông giả. Còn ba chị em cô Xuân là ba chị em họ. Một cô tên Nguyệt, một cô tên Vàng. Hai cô này cũng bị thủ tiêu vì đều biết chuyện. Nguyệt mất tích, không rõ bị thủ tiêu ở đâu. Còn cô Vàng thì bị đập chết và quăng xác xuống sông Bằng Giang, Cao Bằng.
Theo Tô Hoài, có một hồi người ta định lấy vợ cho cụ Hồ. Một số cô gái đến cho ông chọn. Ông không chọn ai vì thấy đàn bà mà chẳng ý tứ gì, cứ phơi quần, slip… rất vô ý. Có một cô người Huế, ông Hồ thích. Nhưng cô này hói đầu, ông cũng không lấy. Ông nói, nếu có một cô công chúa nước nào thì lấy – lấy vì mục đích chính trị – chắc ông nói cho vui.
Tô Hoài cũng cho biết, đạo diễn điện ảnh Phạm Văn Khoa thạo cả tiếng Pháp lẫn tiếng Tầu, có lần cùng đi với Hồ Chí Minh sang Trung Quốc (đi xe lửa). Một buổi sáng, Khoa thấy ông Hồ ở toilet ra, cầm slip vừa giặt, nói: “Không có vợ, khổ thế!”
Còn chuyện xuất dương của Hồ Chí Minh? Có phải lần đầu tiên ra nước ngoài là đi Pháp từ cảng Nhà Rồng?
Anh Nguyễn Nguyên (tức Nguyễn Ngọc Lương), một cán bộ tình báo cao cấp của ta, cho tôi biết, Nguyễn Tất Thành lần đầu ra nước ngoài là sang Trung Quốc theo đường dây của Phan Bội Châu. Tất Thành đóng vai một người bán nước mắm, từ Nghệ An ra – giao liên là cô Chu Bích Viêm, tức bà Cả Chính (Nguyễn Nguyên đã gặp bà Cả Chính). Cơ sở cách mạng của Phan Bội Châu ở Hải Phòng lúc bấy giờ là hai cô Nhung và Sâm. Còn cơ sở ở Móng Cái là hai cô con gái ông Ký nhà đoan tên là Yến và Nhạn.
Bà Cả Chính đã từng đưa Nguyễn Tất Thành qua Hải Phòng, Móng Cái, sang Trung Quốc gặp Lý Đông A ở Liễu Châu.
Hồi ấy, ở Việt Nam chưa có phong trào cộng sản.
Sau này, cụ Nguyễn Sinh Sắc mới nhờ cụ Phan Chu Trinh bảo lãnh cho Nguyễn Tất Thành đi Pháp.
Còn chuyện đường lối cách mạng của Hồ Chí Minh?
Theo Hà Huy Giáp, người đầu tiên phê phán Nguyễn Ái Quốc có khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa là Trần Phú. Ông Đào Phan cung cấp cho tôi một tài liệu: khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ở Hồng Kông, Nguyễn Ái Quốc có đưa ra một văn bản gọi là Chính cương vắn tắt, phân tích tình hình giai cấp sát với thực tế Việt Nam, nhất là về giai cấp địa chủ (chế độ công điền khiến địa chủ không phát triển được, vì thế địa chủ ở Việt Nam có thể phân hoá được). Staline bèn phái Trần Phú về nước, vất chính cương của Nguyễn Ái Quốc đi, thay bằng Luận cương Trần Phú đã được đóng dấu ở Mạc Tư Khoa và đặt tên đảng là Đảng Cộng sản Đông Dương. Staline còn chủ trương vô hiệu hoá Nguyễn Ái Quốc đối với cách mạng Việt Nam.
Xem chừng Hồ Chí Minh thích Tam dân chủ nghĩa của Tôn Dật Tiên hơn. Ông từng dịch cuốn Tam dân chủ nghĩa hồi bị giam ở nhà tù Quảng Tây, Trung Quốc. Và “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” chính là khẩu hiệu cách mạng của Tôn Trung Sơn.
Lại có chuyện này: Nguyễn Hữu Đang có lần nói với Hoàng Ngọc Hiến: Sau Cách mạng tháng Tám, Hồ Chí Minh có nói với Đang: Bảo Đại nó thoái vị sớm quá! Ý ông muốn Bảo Đại cứ tiếp tục làm vua để có thể thành lập ở Việt Nam chính thể quân chủ lập hiến mà ông cho là thích hợp hơn với nước mình. Sau khởi nghĩa tháng Tám, ông ở chiến khu về muộn, lúc đó phái đoàn Trần Huy Liệu, Huy Cận đã lên đường vào Huế nhận ấn kiếm của Bảo Đại. Ông muốn cho người đuổi theo để gọi trở lại, nhưng không kịp. Nhạc sĩ Phạm Tuyên cho biết, ông cũng rất tiếc Phạm Quỳnh đã bị Việt Minh ở Huế thủ tiêu. Chuyện lỡ rồi, ông chỉ còn biết mời mấy người con của Phạm Quỳnh ra gặp để an ủi (ông gặp hai bà con gái của Phạm Quỳnh). Hồi mới sang Pháp, Nguyễn Tất Thành đã từng gặp Phạm Quỳnh (cùng với Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường).
Chắc ông đã hiểu Phạm Quỳnh không phải người bán nước.
Ngoài ra, từ hồi dự Hội nghị Fontainebleau ở Paris (1946), Hồ Chí Minh đã muốn liên hệ với Mỹ và sau này muốn thương lượng hoà bình với chính quyền Sài Gòn.
Một bí ẩn nữa là vì sao Hồ Chí Minh đoán rất chính xác mấy thời điểm lịch sử quan trọng: năm 1945, chấm dứt Đại chiến Thế giới thứ hai và Cách mạng tháng Tám thành công; năm 1954 chiến thắng giặc Pháp (đoán từ năm 1950); năm 1975 chiến thắng giặc Mỹ (đoán năm 1960).
Theo Trần Quốc Vượng, vì ông có tử vi.
Năm 1943, khi Hồ Chí Minh viết câu kết bài “Diễn ca lịch sử nước ta”: “Bốn nhăm sự nghiệp hoàn thành”, thì ở Hội nghị Téhéran, thủ lĩnh ba siêu cường trong phe Đồng Minh là Stalin, Churchill, Roosevelt đoán, chiến tranh chấm dứt năm1946.
Không lẽ gì Hồ Chí Minh ở Việt Bắc, với một cái đài bán dẫn rất thô sơ, lại đoán thời cuộc thế giới chính xác hơn ba tay trực tiếp chỉ đạo cuộc chiến tranh chống phát-xít với những thông tin phong phú, cập nhật và những dữ kiện đầy đủ. Mà ba tay này đâu có dốt nát gì!
Trần Quốc Vượng kết luận: cụ Hồ có tử vi.
Vượng cũng là tay rất sành sỏi tử vi. Anh nói, ở Thư viện Quốc gia có cuốn Tử vi phú đoán của Lê Quý Đôn đã dịch. Vượng đến mượn. Cô thủ thư nói sách không còn. Bố Trần Quốc Vượng có quen cụ Xước là giám đốc thư viện, Vượng đến hỏi, cụ Xước nói: Ông Hoàng Minh Giám đến lấy cho cụ Hồ đọc rồi. Sách đang ở chỗ cụ Hồ.
Anh Từ Sơn có tặng tôi tập Di bút của Hoài Thanh (bản đánh máy lúc chưa xuất bản thành sách). Trong đó có đoạn viết: “Năm 1945, khi quân Tưởng đã kéo vào dày đặc ở miền Bắc và quân Pháp đã bắt đầu đánh phá ở miền Nam, anh Tố Hữu có dịp được gặp Bác. Anh thưa với Bác:
‘Thưa cụ, một bên thì Tây, một bên thì Tàu, bên nào đáng sợ hơn?’
‘Tây cũng không đáng sợ. Tàu cũng không đáng sợ. Đáng sợ nhất là các chú.’ Ông Hồ trả lời như vậy”.
Ngẫm ra đây cũng là một tiên đoán thiên tài của Hồ Chí Minh. Ngày nay Pháp, Mỹ đều rút hết rồi. Đất nước nếu còn khốn khổ thì đúng là do “các chú”.
Một câu hỏi khác đặt ra: cụ Hồ có ý thức tự thần thánh hoá mình không? Đã nói ông Hồ không thích làm ông thánh, nay lại nói ông có ý thức thần thánh hoá ? Tôi cho hai chuyện có chỗ khác nhau. Vì yêu cầu chính trị, có khi phải dùng mưu mẹo, có khi phải diễn kịch nữa – Về mặt này, ông Hồ cũng khá “siêu” đấy. Dân tộc Việt Nam là dân tộc nông dân nên có tâm lý trọng người già và sùng bái thần thánh, chứ không tin ở người trẻ, người thường. Cho nên ông Hồ, năm mươi tuổi đã để râu dài và xưng là Già Hồ. Và cũng không phản ứng gì khi người ta gọi là cha già dân tộc. Theo Trần Quốc Vượng, hồi kháng chiến chống Pháp, Trung ương có giao cho ông Trần Huy Liệu bình tán những câu sấm Trạng Trình ứng vào cụ Hồ rồi cho truyền đi để tạo thành dư luận quần chúng. Đó là chủ trương của Hồ Chí Minh hay chỉ là “sáng kiến” của Đảng ngoài ý kiến của ông Hồ? Nhưng ông Trần Dân Tiên viết Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, có chỗ ví cụ Hồ như con rồng ẩn hiện trong mây. Mà Trần Dân Tiên chính là ông Hồ chứ ai!
Như đã nói, vì lí do chính trị, Hồ Chí Minh nhiều khi phải diễn kịch, sống cứ phải “diễn” như thế, kể cũng khổ. “Không có gì quý hơn độc lập tự do.” “Diễn” tức là bị tước đi của mình quyền sống tự do chứ còn gì nữa! Liệu đã ai hiểu cho ông cụ nỗi khổ này?
Những trò diễn của Hồ Chí Minh nói chung có tác dụng chính trị rất tốt đối với tầng lớp bình dân. Nhưng đối với trí thức, có khi lại phản tác dụng. Năm 1946, Hồ Chí Minh ở Hội nghị Fontainebleau về nước có Trần Hữu Tước và một kỹ sư tên là Quang theo về. Trên tàu, cụ Hồ diễn trò nhẩy son lá son với các thuỷ thủ. Quang thấy thế lấy làm khó chịu, mất tin tưởng. Ông ta bỏ không theo Hồ Chí Minh nữa. Theo Tô Hoài, ông ta sau này về sống ở Nha Trang. Nhưng Hoàng Ngọc Hiến lại đưa ra một thông tin khác: Trần Hữu Tước sau này có gặp Quang rửa xe máy ở Sài Gòn.
Cuối cùng là ngày sinh và ngày mất của Hồ Chí Minh. Ngày sinh cũng do ông tự đặt ra, ai cũng biết rồi. Còn ngày mất? Đúng cái ngày ông đọc Tuyên ngôn Độc lập (2/9).
Theo Hoàng Ngọc Hiến, ông Hồ chủ động chết vào cái ngày lịch sử ấy. Ông ấy đáo để lắm đấy! Một người quyết lấy lại họ Hồ là dòng máu thật của mình (Hồ Sĩ Tạo) thì cũng có thể quyết chết vào đúng ngày sinh của cả nước, ngày mà ông đọc Tuyên ngôn Độc lập.
“Nhưng chủ động chết làm sao được khi người ta luôn chầu chực quanh mình” – Tôi cãi lại Hiến.
“Thì cũng có lúc người ta ra ngoài chứ. Lúc ấy chỉ cần dứt hết những dây dợ của cái ống thở ôxy là chết luôn chứ sao!” – Hiến khẳng định thế.
Một phán đoán không phải là không có lý!
Hà Nội, ngày 6.7.2006
(Toàn văn chương VII trong phần III hồi kí chưa xuất bản của Nguyễn Đăng Mạnh)

Source : pro&contra

Putin và Ukraine - Những Chuyển Động Đáng Sợ


Friday, February 21, 2014

Putin và Ukraine - Những Chuyển Động Đáng Sợ


Nguyễn-Xuân Nghĩa - Việt Báo Ngày 140221 
Vì Sao Khủng Hoảng Tại Ukraine Lại Làm Putin Bủn Rủn? 

 * Phũ tay tồi tàn - rồi nghe những tàn phai * 


Tình hình tại Cộng hòa Ukraine đã bước qua một khúc quanh mới, có thể là điểm lật vì dẫn tới nhiều thay đổi lớn, với hậu quả lan rộng vào tận Liên bang Nga...


Có ba yếu tố mới rất đáng chú ý ở đây, nếu ta để ý tới địa dư và lịch sử. 


Sau nhiều tuần lễ biến động tập trung tại thủ đô Kiev, phong trào đấu tranh chống việc Chính quyền của Tổng thống Viktor Yanukovich ngả theo Liên bang Nga đã lan tới nhiều nơi khác, ở miền Tây. Dân chúng đã biểu tình bạo động tại năm thành phố và khu vực hành chánh ở phía Tây là (từ Tây qua Đông) Uzhhorod - thành phố giáp giới với nước Hung và Slovakia - rồi Liviv, Ivano-Frankivsk, Ternopil và Khmetnytskyi. 

Từ Kiev đến các trung tâm này, từ hôm Thứ Tư 19, dân biểu tình chiếm nhiều công thự, thậm chí bắt giữ cảnh sát và trưng thu được nhiều võ khí cá nhân. Mấy chục người đã thiệt mạng trong các cuộc đụng độ tại quảng trường Độc Lập (Maidan, có tên thật là "Quảng trường Âu châu") của thủ đô và ở cả Khmetnytskyi. Tình hình tại chỗ thay đổi hàng giờ bất chấp thỏa thuận hưu chiến giữa Tổng thống Yanukovich với các lãnh tụ đối lập. 


Bài này được viết trong khung cảnh đột biến nóng hổi ấy.


***



Yếu tố đáng chú ý trước nhất là việc dân biểu tình tại Lviv đã ra tuyên ngôn độc lập. Họ muốn Lviv khỏi ra xứ Ukraine.


Đáng chú ý vì Lviv là thành phố Âu Châu nhất của Cộng hoà Ukraine mà cũng là nơi xuất phát tinh thần quốc gia của dân Ukraine. Chuyện hơi lạ mà ít được truyền thông Mỹ nhìn ra vì mắc tật dốt nát kinh niên về lịch sử thế giới.

Từ thế kỷ 16 đến 18, khu vực Lviv này có tên là Lwow, thuộc Cộng đồng Thịnh vượng Ba Lan và Lithuania (Polish-Lithuanian Commonwealth) cho tới khi bị Đế quốc Habsburg của Áo cai trị và cải danh ra Lemberg khi Cộng đồng Thịnh vượng kia bị xẻ ra nhiều mảnh. Sau Thế chiến I (1914-1918), Lemberg trở về với Ba Lan nhưng rồi bị Liên bang Xô viết thôn tính và được đổi tên là Lvov trong lãnh thổ Ukraine. Khi Liên Xô tan rã năm 1991, Cộng hòa Ukraine tuyên bố độc lập cũng từ những vận động phát sinh từ Lvov, khi ấy được đổi tên thành Liviv.

Trải bốn thế kỷ, qua các thời kỳ có tên là Lwow, Lemberg, Lvov rồi Liviv, khu vực này có một định mệnh riêng.

Lviv là trung tâm văn hóa, nghệ thuật, kiến trúc, ngôn ngữ, thi ca và nhất là ý thức quốc gia của dân Ukraine. Phong trào đấu tranh của dân Ukraine để biệt lập với Đế quốc Nga và Xô viết xuất phát từ đây, không phải từ miền Đông và khu vực Donbass, hậu cứ của Viktor Yanukovich thân Nga.

Người dân nơi đây nói tiếng Ukraine và từ chối tiếng Nga. Họ hãnh diện với xuất xứ Âu Châu và dân Âu Châu gọi thành phố này là "Tiểu Paris của Ukraine" (Little Paris!). Danh nhân và anh hùnbg của họ là văn hào và nhà thơ Taras Shevchenko, người đã phát huy ngôn ngữ và tinh thần dân tộc của Ukraine. Hoàng Diệu và Phan Khôi hay Nguyễn Du và Phan Bội Châu dồn làm một!

Vì những yếu tố sâu xa đó, Lviv ít bị ảnh hưởng của Nga, thậm chí rất kỵ dân Nga La Tư Slav, và thiên về Âu Châu cùng lý tưởng dân chủ sau khi Liên Xô tan rã.

Bây giờ, phong trào chống đối tại Lviv đòi ly khai để trở thành một nước độc lập và không còn lệ thuộc gì vào chế độ Yanukovich thân Nga. Khi đó, người dân Ukraine ở nơi khác sẽ tính sao? Ngả về Tây hay về Đông?

Và lãnh tụ Vladimir Putin của Nga sẽ tính sao khi các nước Âu Châu như Ba Lan, Áo, và cả Liên hiệp Âu châu cùng Hoa Kỳ đều ngỏ ý can gián Yanukovich - để can thiệp?


***

Yếu tố mới thứ hai cũng đáng chú ý là trong Chính quyền Yanukovich đã có nhiều dấu hiệu rạn nứt.

Hôm Thứ Tư 19, Tổng thống Yanukovich cách chức Tổng Tư lệnh và Tham mưu trưởng của Tướng Volodymyr Zaman và chỉ định người thay thế là Tư lệnh Hải quân, Đế đốc Yuriy Ilyin. Quyết định ấy cho thấy Yanikovich đang tính tới một giải pháp khác: cho quân đội đi dẹp loạn.

Cho tới nay, chế độ mới chỉ sử dụng công an và cảnh sát với kết quả tạm gọi là "bất phân thắng bại".

Cảnh sát kiểm soát được trung tâm Maidan tại thủ đô mà chưa dẹp nổi các khu vực biến động. Yanukovich có thể trông cậy vào phản ứng bạo động của những thành phần quá khích nhất để tranh thủ hậu thuẫn của quần chúng và cô lập đám biểu tình. Nhưng bạo động lại lan khỏi thủ đô qua các tỉnh miền Tây. Mà trong số này, Lviv thì không đòi lật đổ hoặc thay thế chế độ thân Nga ở Kiev. Họ muốn ly khai và lập ra một nước mới, một nước khác!

Giải pháp của Yanukovich có thể là đưa quân đội ra khỏi trại lính để vãn hồi trật tự.

Nhưng việc ông ta thay thế người cầm đầu quân đội cho thấy là lực lượng này thiếu thống nhất. Nhiều tướng lãnh không muốn ủng hộ quyết định ấy. Sau những do dự, thậm chí hòa giải của nhiều đơn vị an ninh và cảnh sát tới độ giao nộp vũ khí cho dân biểu tình, Yanukovich đã nói tới nhu cầu "chống nổi dậy" và đề cao sức mạnh của quân đội Ukraine.

Chưa chắc là quân đội đã muốn vậy. Ba chân kiềng bảo vệ chế độ là cảnh sát, an ninh và quân đội, đều có vẻ lung lay. Và không cùng nằm trên một mặt phẳng.

Đấy là mối lo của kẻ xa lửa mà vẫn rát mặt là Vladimir Putin.


***


Tuần qua, Tổng thống Nga đã nêu một sáng kiến có tính chất hòa giải cho Ukraine, đó là thiết lập thế chế liên bang. Sáng kiến đó không gây tiếng vang mà bị chìm trong tiếng súng.

Là người có trí nhớ, Putin không quên được những gì đã xảy ra tại Ukraine 10 năm về trước và nghĩ tới.... Moscow.

Năm 2004, dân Ukraine cũng đã biểu tình tại quảng trường Maidan của Kiev để phản đối cuộc bầu cử mà họ cho là có gian lận. Kết quả là Viktor Yanukovich bị lật đổ, cuộc Cách mạng Da cam đưa lên một Chính quyền thân Tây phương tại Kiev, với hai lãnh tụ phong trào chống đối là Viktor Yushchenko lên làm Tổng thống và bà Yulia Timoshenko làm Thủ tướng.

Vào thời đó, các cuộc cách mạng muôn màu dân chủ tại Georgia, Kyrgyzstan và Serbia đã gây khó chịu cho Putin. Nhưng Cách mạng Da cam tại Kiev mới gây lo sợ! Lại xin một bài học chớp nhoáng khác về lịch sử.

Đã nói về Lviv với sức hút của Âu châu thì phải nói về Kiev. Ukraine là vùng đất sinh sống của dân Nga La Tư Slav, với đa số vẫn nói tiếng Nga hơn là tiếng Ukraine (vì vậy chuyện Lviv mới đáng chú ý). Tại Ukraine, Kiev là một trung tâm văn hóa và chính trị của Nga, một bậc thềm cho tiến trình Tây phương hóa và hiện đại hóa nước Nga từ Thế kỷ 19.

Với một lãnh tụ có tinh thần đề cao Đế quốc Nga muôn thuở như Putin thì Ukraine chỉ là một thành phần, một tỉnh, một địa phận của nước Nga bát ngát. Và Kiev là nơi tỏa sáng tinh hoa Nga La Tư về hướng Tây.

Thời ấy, 10 năm về trước, Putin đang củng cố lại chế độ chính trị Nga, với khái niệm quái lạ là nền "dân chủ có chủ quyền", để dưới nhãn dân chủ tập trung lại quyền lực vào khu vực trung ương, vào Moscow và điện Kremlin. Tức là vào trong bàn tay sắt của mình, dù có bọc nhung thì vẫn là bàn tay sắt.

Vậy mà, thời ấy Kiev lại có loạn và phong trào dân chủ dẫn tới phong trào Âu châu hóa, Tây phương hóa. Dưới con mắt của Putin, những gì xảy ra tại Kiev đều có thể xảy ra tại Moscow!

Tại Moscow, Putin đã xây dựng được chế độ tập quyền rất kiên cố và dẹp tan mọi mầm chống đối của trí thức hay nghệ sĩ. Dưới tuyết lạnh căm căm thì mọi tay chống đối đều phải co vòi. Hay vào tù. Những kẻ khác thì có thể mua chuộc bằng quyền lợi kinh tế.

Nhưng dưới tuyết lạnh căm căm, dân chúng Kiev vẫn biểu tình mà Yanukovich lại dẹp không nổi! Gói quà mua chuộc trị giá 15 tỷ đô la được Putin hứa tặng chế độ chư hầu tại Kiev cũng chẳng có vẻ gì là công hiệu!

Ngày nay, dân chúng Moscow theo dõi sự biến tại Ukraie với nhiều cảm nghĩ linh tinh! Vừa khâm phục dân chúng ở thủ đô Kiev vừa hãi sợ kịch bản độc lập của Liviv.

***

Ngẫm lại thì phong trào cách mạng dân quyền và dân chủ tại Âu Châu vào thế kỷ 19 đã khiến Vladimir Illich Lenin hãi sợ mà dựng lên lý luận về Đế quốc. Chủ yếu là để gây phân hóa tại Âu Châu và củng cố chế độ cộng sản của mình ở tại Nga.

Lần này, hình như lịch sử tại tái diễn ngược, và ở ngay Ukraine.

Đã từng chứng kiến sự sụp đổ của chế độ Cộng sản tại Nga vào một mùa Đông 1991, Putin thấy rét căm căm mà không vì tuyết lạnh tại Thế vận Sochi....

Đúng là lời nguyền rủa của Thế vận hội!