ĐI TÌM CÁI TÔI ĐÃ MẤT
(Tuỳ bút chính trị - 2006)
Nguyễn Khải
1.
Năm 70 tuổi tôi bắt đầu chán viết, người rã ra, đọc sách cũng nằm, đọc được mười lăm phút chữ nghĩa đã loè nhoè, chả rõ mình đang đọc cái gì. Rồi ngủ. Ngủ như chim, một chớp mắt đã tỉnh, tiếp tục đọc nốt cái nửa trang đọc dở vẫn cứ lờ mờ vì chả còn nhớ họ viết cái gì trong cái nửa trang vừa đọc. Cũng năm ấy tôi được trao giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt 2. Mừng thì rất mừng nhưng tôi đã nhận ra ngay đây là tấm bia mộ sang trọng cắm lên một đời văn đã tới hồi phải kết thúc. Thế là lại buồn, ra vào ngẩn ngơ cả tháng. Rồi quyết định ra chơi ngoài Bắc, trở lại quê ngoại là nơi tôi đăng ký tòng quân năm 1946, cũng là nơi tôi tập tọng viết những bài báo kháng chiến đầu tiên in litô vào năm 1949. Nó mở đầu cho nhiều chục năm tiếp theo, vừa là anh bộ đội vừa là nhà báo nhà văn. Cái thị xã quạnh quẽ, tơi tớp, tối tăm, toàn một màu xanh và đen những năm nào, giờ đã biến hoá thành một quận của Hà Nội hay Sài Gòn hôm nay. Lại nhớ tới những dãy phố ngắn ngủi, nhà thấp, hè hẹp, rợp bóng nhãn, mặt người hiền lành, dáng đi thong thả, thị xã như cái làng lớn, đi một đoạn đường phải chào hỏi không biết bao nhiêu là người vì toàn người quen cả. Năm chục năm sau, trở lại cái thị xã của tuổi mới trưởng thành, mà là trở về lần thứ ba (hai lần trước cách đây đã hơn hai chục năm) , cái mảnh đất thân thuộc đã hoá ra xa lạ. Đạp xe cả ngày chả gặp người quen nào, hoặc có gặp nhưng đã là hai ông già ở tuổi bảy mươi làm sao nhớ lại gương mặt của nhau cái thời mới mười tám đôi mươi. Lần về thứ hai vẫn còn ba người quen cũ, một người là Thuận, đại tá về hưu, một người là Tùng, trung đội phó, một người là Mễ, tiểu đội trưởng là những cấp chỉ huy đầu tiên của tôi trong cuộc sống quân ngũ. Lần này về gặp anh Thuận, cũng là ông chủ báo đầu tiên của tôi, anh hơn tôi vài tuổi. Còn hai người kia đều mới mất ở tuổi ngoài bảy mươi cả. Đường phố không quen, mặt người không quen, còn lại một ông bạn thân tối ngày đi họp, đủ các thứ hội hè để ông đến họp, vẫn là cái khát khao của người đã già, đã nghỉ hưu có dịp gặp lại bạn cũ, trò chuyện là chính, nhắc lại chuyện ngày xưa là chính, rồi than thở, đủ thứ than thở, chuyện nhà chuyện nước. Cũng buồn nhỉ? Chuyện người già có vui bao giờ, người đã xong một việc có làm gì cũng không thể vui. Vì tôi là người có gốc địa phương nên tỉnh uỷ có gặp và mời ăn một lần cho phải phép. Nhưng nhìn những gương mặt quan chức của tỉnh hôm nay mà kinh ngạc. Mặt người nào cũng đầy những múi thịt, sần sùi, nói nhiều, cười to, lời lẽ nhạt nhẽo, dung tục, và không bao giờ nhìn thẳng vào mặt mình để nói, cứ như là đang nói với một ai khác ngồi cạnh mình hoặc ngồi sau mình. Bữa sắp về Hà Nội, bí thư tỉnh uỷ lại mời gặp, không phải là gặp chính thức mà là cùng ngồi ăn sáng với ông vì ông cũng đang bận. Buổi gặp vừa hình thức vừa khó chịu vì chỉ có người lãnh đạo của tỉnh nói, nói như người rao hàng, mắt nhìn đâu đâu, bụng nghĩ đâu đâu. Tôi chỉ còn nhớ một chuyện, có một ông tướng, là danh tướng, người địa phương, có đem một giống hoa lạ từ Hà Nội về, tự tay ông trồng ở vườn hoa của tỉnh uỷ vì phải chọn đúng ngày, đúng giờ, cả đúng hướng nữa mới đem lại thịnh vượng, hạnh phúc cho dân trong tỉnh. Thật vậy sao?
Trong mấy ngày xuống xã vừa vui vừa buồn. Ai cũng giàu có hơn trước, nấu cơm bằng nồi cơm điện, tối xem tivi mầu, giờ rảnh thì xem phim bộ. Mỗi xóm đều có cửa hàng cho thuê băng vidéo, có gái điếm cho ngủ chịu đến mùa trả bằng thóc, có cờ bạc, có hút thuốc phiện và chích heroin, thành phố có gì ở làng quê đều có, cả hay lẫn dở, dở nhiều hơn hay. Tôi về một xã, xã cho tôi ở nhà một anh bưu tá, lúc rảnh rỗi hỏi chuyện gì anh cũng bảo không biết. Ở xã ba ngày, đảng uỷ, uỷ ban không ai tiếp cả. Có một buổi tối có một anh chàng to béo đến chơi với gia đình, cả vợ lẫn chồng nhà chủ ăn nói thưa gửi, bộ điệu khúm núm. Anh ta ngồi ưỡn người trên ghế tựa, hai chân xoạc rộng, hai bàn tay đặt lên bụng, nói hỏi trống không, thỉnh thoảng đưa mắt nhìn tôi nhưng không hỏi gì, chào cũng không, mắt nhìn cứ lừ lừ, mà hắn chỉ đáng tuổi con tuổi cháu. Tôi cứ nghĩ tay này hẳn là dân buôn bán ở tỉnh có họ hàng gì với anh chủ nhà, tạt qua chốc lác rồi đi. Nhưng anh bưu tá lại bảo đó là ông chủ tịch xã. Lại một ngạc nhiên nữa! Mấy ngày sau lại về một xã thuộc phía Bắc tỉnh. Cách đây đã ba chục năm tôi đã đi đi về về xã đó khoảng một năm để viết về một anh chủ tịch xã chưa tới ba mươi tuổi trong cái thời có cao trào lập hợp tác xã nông nghiệp. Ngồi chơi ở phố huyện kề liền xã bất ngờ lại gặp người quen cũ của mấy chục năm trước. Hiện giờ ông ấy đã ngoài sáu chục tuổi, có cửa hiệu chụp ảnh ở ngay phố, to béo, rềnh ràng, chuyện gì cũng biết, lại biết cách thuật lại về mọi cái biết của mình một cách sống động, tươi rói, nghe chuyện mà tưởng như chính mình cũng được chứng kiến. Nhà văn mà gặp được một người như thế là có thể nghĩ ngay một cuốn sách sẽ viết, viết cũng nhanh thôi, vì mọi vật liệu đã sẵn sàng. Bao nhiêu chuyện sui sẻo, buồn bã của chuyến đi bất thần được đền bù quá hậu hĩ nhân một lần gặp lại người quen cũ. Đang mừng khấp khởi liền bị mấy ông xã nhảy vô phá đám, đi một bước có trưởng công an xã theo một bước, vừa là người hướng dẫn vừa là người bảo vệ. Chỉ được trò chuyện với người đã được xã giới thiệu và ăn ngủ tại nhà ông bí thư xã. Nhưng tôi đâu có chịu thua hoàn toàn. Xuống cái xã bị ghẻ lạnh thì tôi chơi với dân, viết về một ông nông dân bị giời hành, được bạn bè khen là rất khá. Về cái xã được chiều chuộng quá mức tôi viết được cái bút ký “Mất toi một cuốn sách”. Sang tuổi 70, mọi hoạt động của con người đều chậm, đều kém, riêng cái chuyện viết lách của tôi vẫn giữ được phong độ gần như xưa, vẫn viết rất nhanh, riêng cái nhìn thì trào lộng nhiều hơn, ngậm ngùi nhiều hơn. Nó là thứ hương vị thơm ngát chắt ra từ hơn bảy mươi năm được làm người.
2.
Tôi là một đứa trẻ khi bước vào đời có nhiều điều thua thiệt nhưng tôi đã biết níu chặt lấy thời thế mà leo dần lên. Tôi nói thế chả phải vì cái thói cơ hội, thời này có mấy ai thích nói mình thành tài là nhờ cách mạng. Nhưng có nhiều người được cách mạng ôm hẳn vào lòng nâng niu, vỗ về mà vẫn không nên người thì sao? Là vì họ còn thiếu một yếu tố nữa, thiếu cái đó dầu họ có được bước trên thảm đỏ, kẻ nâng người dắt một đời vẫn không ra con người tử tế. Mà tôi thì có, có dư thừa. Ấy là cái tính hài hước bẩm sinh, trước hết là biết giễu mình, theo dõi từng bước đi, từng câu nói của chính mình bằng cái nhìn của người khác vừa nghiêm khắc vừa bỡn cợt. Sau mình đến người, tôi cũng hay nhìn ra cái khía cạnh buồn cười ở người khác dầu họ xuất hiện dưới cái vỏ trang trọng đến thế nào. Cái buồn cười là cái trái nghịch trong cùng một người, kẻ vô luân nói chuyện đạo đức, tên ăn cắp dạy dỗ phải bảo vệ của công, người hống hách lại là tên nịnh bợ bậc nhất. Nếu tán rộng ra thì còn vô vàn chuyện buồn cười mà ta bắt gặp ở mọi nơi, trong mọi thời gian của cuộc sống. Anh dốt thường làm ra vẻ thông thái, thằng nhát rất thích xuất hiện như người anh hùng, một chính khách đầu óc rỗng tuếch luôn tỏ ra uyên bác bằng những lời nói vô nghĩa. Nếu những người đó có được một chút hài hước, có khả năng tự ngắm mình trong khi diễn trò thì họ sẽ biết cách tự kiềm chế trong một giới hạn nào đó.
Muốn có cái mình không thể có không chỉ là chuyện buồn cười mà còn là căn bệnh không thể cứu chữa của nhân loại. Các triết gia, giáo chủ cũng không thoát khỏi cái trò cười ấy. Họ muốn cho nhân loại cái họ không thể có, muốn cứu nhân loại bằng những phương tiện nhiều lắm chỉ đem lại mê say tự huyễn hoặc mà thôi. Học thuyết xã hội hay tôn giáo khôn ngoan phải là học thuyết mở, có thể là thế này mà cũng có thể là thế khác, luôn luôn biến hoá, lấy sự biến hoá của thời thế và con người làm mục tiêu tối thượng để tự điều chỉnh. Học thuyết là do con người làm ra, một trí tuệ sáng láng nhất vẫn cứ bị ràng buộc bởi nhiều vòng tự giác và không tự giác của thời thế, của cuộc đời. Bởi vì họ không thể là Thượng Đế để biết hết vô vàn nguyên nhân những tác động qua lại, uốn éo, bất ngờ của nó đưa đẩy mọi sự vật tới những thay đổi rất nhỏ, không mấy ai chú ý, cuối cùng là những biến thiên cực lớn. Chả có học thuyết nào dự đoán đúng những gì sẽ xảy ra trong tương lai và cũng chẳng thể dự đoán được cái kết cuộc của nhiều sự việc đang xảy ra trong hiện tại. Mọi lời tiên tri đều có tính mê sảng, đồng cốt. Dành cả một thời thanh xuân để tin vào những lời tiên tri ấy, về già nhìn lại cái tài sản tinh thần thâu góp một đời chỉ là một cái kho chứa đủ tạp nham chẳng có một chút giá trị gì.
3.
Tính hài hước là cái thứ mà người cộng sản ghét nhất vì nó có thể biến mọi chuyện thiêng liêng thành trò cười. Một học thuyết không thể chứng minh sự đúng đắn của nó trong thực tiễn thì trước sau sẽ biến thành tôn giáo. Vì tôn giáo là niềm tin, là thói quen, là tập quán, là vâng phục, là ở thế giới này chỉ có một chân lý, ngờ vực nó, đặt quá nhiều câu hỏi về nó chỉ là kẻ phản đồ, phải bị trục xuất khỏi cộng đồng, phải bị cách ly, bị ngồi tù để tránh mọi sự truyền nhiễm có thể. Học thuyết xã hội đã phải đội lốt tôn giáo để tồn tại thì mọi thứ thuộc về nó đều là thiêng liêng. Lãnh tụ thành thần thánh, lời nói bài viết của họ thành kinh bổn, cuộc sống cá nhân và xã hội của họ đầy ắp những chuyện phi thường. Hình ảnh của Lenin và Stalin, của Mao Trạch Đông và Kim Nhật Thành và lời nói của các vị ấy bao trùm lên toàn bộ cuộc sống tinh thần của các quốc gia họ cầm quyền, làm gì, nói gì, nghĩ gì đều không thoát ra khỏi cái bóng che ấy. Bài hát về lãnh tụ trang nghiêm như thánh ca, người hát có dáng điệu sùng bái như tín đồ. Cái thế giới cá nhân của các công dân đã bị đốt cháy, đã thành tro bụi và tan biến trong hương khói của đền đài. Trong không khí ngùn ngụt lửa cháy cùng với tiếng sóng hoan hô khi gần khi xa không lúc nào dứt, vậy những người làm việc bằng trí tuệ sẽ tìm đâu ra một khoảng trời yên tĩnh và tự do để suy nghĩ về những công trình một đời của riêng mình. Người cộng sản sẽ không bao giờ hiểu được cách làm việc cá nhân, đơn độc, xa rời quần chúng, xa rời các phong trào cách mạng có tính địa phương của các nhà trí thức thấm đẫm “tư tưởng tư sản” ấy. Phải cải tạo họ bằng các chuyến đi thực tế, bằng các lớp học chính trị ngắn hoặc dài ngày, và bằng cả những lần được gặp gỡ thân mật với lãnh tụ để có thêm lòng tin vào những lý do phải tự phủ định, để khẳng định sự nghiệp vĩ đại của quần chúng. Phải bỏ hẳn những tư tưởng triết học và thế giới quan phù hợp với cách nghĩ, cách nhìn, cách đánh giá của riêng mình, đã được chứng minh qua những trải nghiệp của bản thân để nhập vào dòng tư tưởng chính thống, cái triết học chính thống, cách nhìn nhận và đánh giá chính thống, xét cho cùng chả liên quan bao nhiêu tới cái tâm sự đang ấp ủ, tới những điều cần phải viết, và trên hết, máu thịt hơn hết là những phát hiện độc đáo của riêng mình trong lịch sử, trong văn hoá, trong nhân sinh. Mất những cái đó thì còn sống tiếp làm gì, còn viết tiếp làm gì nên một số đã phải đổi nghề, bỏ nghề sáng tạo sang nghề cạo giấy, làm một anh công chức hiền lành, mẫu mực, vừa có quyền vừa có lợi. Cái danh cái lợi cũng có sức quyến rũ người ta lắm, qua nhiều năm tháng nó đã trở thành ý nghĩa quan trọng nhất để sống, sống với vợ con, với bạn bè, với xóm làng, với xã hội. Còn một số nhỏ vì không làm nghề gì khác ngoài cái nghề văn chương nên đã đầu quân về các nhà xuất bản, tuần báo, tạp chí tiếp tục làm nghề nhưng phải viết trong khuôn phép đã quy định, cũng có đôi lúc đã tự buông thả theo những cảm xúc tự nhiên hoặc bất chợt bị mê hoặc bởi những hình tượng nghệ thuật quá đẹp đã trở thành những nạn nhân oan uổng của nhiều vụ án văn tự, nghĩ lại mà tiếc cho nhiều người, mộng mơ nhiều thì tài năng cũng nhiều đều bị thui chột ngay từ những năm còn trẻ.
4.
Trong suốt ba chục năm chiến tranh, mỗi người Việt Nam đã quên hẳn những nhu cầu vật chất và tinh thần của riêng mình để được cùng sống như mọi người, cùng cảm nghĩ như mọi người, sống cùng sống chết cùng chết. Học thuyết Mác và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản được tôn vinh đến tuyệt đối. Vì số phận cá nhân gắn liền với tập thể với dân tộc, trùng hợp khít khao với các mục tiêu chính trị của đảng cầm quyền và những tham vọng của người lãnh đạo. Nhưng cả mấy thế hệ cùng tham gia chiến tranh, sống trong một môi trường xã hội, chính trị của một đất nước đang có chiến tranh cũng là một tai hoạ khôn lường. Trong chiến tranh tập thể gạt phắt cá thể sang một bên, có thể giẫm đạp lên nó cũng chả mất mát gì, vì chiến tranh đòi hỏi sự nhất trí, cần sự ra lệnh đúng lúc của nhiều cái đầu chứ không có thời gian bàn luận, sai đúng có sự tham gia của nhiều cái đầu. Vả lại nếu người lãnh đạo tính toán sai lập tức sẽ bị đối phương trừng phạt ngay, không sớm tỉnh ngộ thì cả sự nghiệp có thể bị đổ vỡ. Đến thời hoà bình thì chỉ còn dân chúng đối mặt với chính quyền, quyền lợi khác nhau, nguyện vọng khác nhau, có trăm ngàn thứ khác nhau trong một cộng đồng: dân tộc, tôn giáo, văn hoá, điều kiện sống… trong một thời gian dài tạm quên đi, tạm gác lại để lo việc lớn, lúc này nhất loạt trỗi dậy, đòi hỏi và mỗi cá nhân đều thấy cái mình đòi là quan trọng nhất, bức thiết nhất. Độc lập có rồi, tự do có rồi, vậy cái hạnh phúc của mỗi chúng tôi nhà nước định quên sao? Nhưng người dân phải tìm ra cơ hội nào để nói, đến chỗ nào để nói, dùng phương tiện gì để nói. Nói với tổ chức, với các đoàn thể mình là một hội viên, không ai nghe cả. Nói trên báo chí không báo nào dám đăng. Viết kế sách, thỉnh nguyện gửi lên các cấp có thẩm quyền thì chả bao giờ nhận được trả lời. Vậy phải làm gì nhỉ? Làm loạn không dám, biểu tình đúng pháp luật cũng chưa có tiền lệ. Người đứng đắn bộc lộ sự không bằng lòng của mình tại các cuộc họp lập tức bị những kẻ cơ hội trấn áp tức thì, bị cơ quan an ninh ghi vào sổ đen, thăng chức nên lương từ nay không thể, chỉ còn đợi ngày về hưu thôi. Nhưng dân chúng vẫn có cách xả nỗi bất bình của họ bằng cách sáng tạo ra nhiều chuyện tiếu lâm chính trị. Trong cả nước không đâu có nhiều chuyện tiếu lâm bằng Hà Nội vì nó là thủ đô hành chính, mọi chuyện cung đình vừa thật vừa giả tràn gập các quán cà phê mỗi ngày. Không ra được báo viết thì làm báo mồm vậy, lời nói bay đi lấy đâu làm bằng, tưởng như vô hại mà hại vô kể. Vì nó sẽ thành dư luận, không ai bắt giam được dư luận, giết được dư luận, cái dư luận hỗn tạp, vô sở cứ mở rộng mãi ra, bao trùm mọi việc mọi người trở thành mặt bằng mới để đặt ra các tiêu chuẩn sống cho một thời. Cái tiêu chuẩn mới có tên gọi là “mặc kệ nó”. Nó là người khác, là nhà nước, là bất cứ ai, bất cứ việc gì không có quan hệ trực tiếp tới các lợi ích cá nhân mình. Cái cá thể sau một thời gian dài nhập vào cái tập thể đã tự tách ra khỏi nó để tìm lại mình. Nhưng cách tìm lại ấy thường thuộc về phía tiêu cực của con người, lấy lợi ích bản thân làm mục tiêu nên không tạo ra được sự thăng hoa, sự tự do chân chính, là môi trường cho mọi sáng tạo độc đáo, vừa thấm đẫm tính cá nhân vừa thấm đẫm tính thời đại ở yếu tố tiền phong của nó. Ở đây tôi muốn nói thêm, tự do được nuôi dưỡng tự nhiên trong môi trường dân chủ là tự do của cống hiến, còn tự do vừa thoát ách chuyên chế thường có tính phá hoại, trả thù, để bù lại những năm tháng bị tước đoạt. Cứ so sánh về tự do của một xã hội dân chủ nhiều trăm năm như Hoa Kỳ và tự do vừa giành được của nước Nga Xô Viết là đủ rõ. Vì nó không được chuẩn bị, không được giáo dục, mọi bản năng của con người được xổng ra nhất loạt sẽ gây hỗn loạn cho cộng đồng, nhiều hơn là xây dựng. Dân chủ và tự do phải có thời gian để làm quen, để học cách sử dụng và bảo vệ, phân được ranh giới giữa cá nhân và cộng đồng. thành pháp luật, thành tập quán mới có thể đơm hoa kết trái được.
5.
Một đất nước bị xâm lược, rồi bị nô dịch, dân chúng thành nô lệ không được pháp luật che chở, làm người cũng khó nói gì tới ý thức cá nhân trong mỗi con người. Ý thức cá nhân là ý thức về cái riêng biệt của mình, về cái có thể cống hiến của mình cho cộng đồng không giống với một ai do có một cách cảm nhận riêng, một cách suy nghĩ riêng, từ đó… Những cái giá trị cá nhân chỉ được nhìn nhận, được tôn vinh ở những xã hội tương đối tự do, các mối quan hệ giữa người với người tương đối tốt đẹp. Ở xã hội tư bản mà chúng ta vốn có thành kiến là rất xấu xa lại thường hay cho những tiếng kêu cứu, bảo vệ những giá trị truyền thống của cá nhân, vì đồng tiền đang làm mất phẩm giá của con người, phá vỡ nền tảng đạo đức, làm rối loạn các mối quan hệ xã hội. Con người được sống no đủ, trong tiện nghi mà vẫn đối địch với nó, muốn thoát ly khỏi nó vì không được thoả mãn những nhu cầu về tinh thần. Ta hay lấy những chuyện đó để làm chứng một cách hả hê cho sự tha hoá của con người sống dưới chế độ tư bản. Vậy các công dân của chế độ xã hội chủ nghĩa thì sao? Chả có ai kêu ca gì. Nhà văn là người có trách nhiệm chăm lo cuộc sống tinh thần của đồng loại cũng không kêu. Có một nhà văn Nga [Vladimir Dudinzev / Владимир Дудинцев - chú thích của Diễn Đàn] viết cuốn sách Người ta không chỉ sống bằng bánh mì [Не хлебом единым - chú thích của Diễn Đàn] bị cả giới văn nghệ Liên Xô phê phán. Ông đã viết sai vì các nước xã hội chủ nghĩa rất coi trọng cuộc sống tinh thần của các công dân. Họ đọc sách rất nhiều, trên xe điện, xe buýt, trong công viên, đứng xếp hàng từng dãy dài mua thực phẩm, mua vé xem vũ kịch, nghe âm nhạc họ đều mở sách đọc rất chăm chú, tưởng đâu như cuộc sống đích thực của họ là ở các trang sách. Chỉ có những giây phút chìm đắm trong sự đọc họ mới có cơ hội ngẫm nghĩ về thân phận của mình, của đồng loại, tìm lại cái bản gốc cá nhận đang lưu lạc ở một góc khuất nào đó của riêng mình. Rời khỏi trang sách là rơi ngay vào vòng quay của trăm ngàn công việc chả có nghĩa lý gì ngoài sự mưu sinh để tồn tại. Những ngày nghỉ, những giờ tạm gọi là rảnh rỗi họ cũng không được ngồi một mình, ngẫm nghĩ một mình, có bao nhiêu buổi lễ kỷ niệm lớn nhỏ, những phong trao cam kết thi đua và vô vàn cuộc họp của ngành của giới đã choán hết phần thời gian còn sót lại… Cuộc sống tập thể đã nhấn chìm cuộc sống cá nhân, cuộc sống trong chiến tranh đã xoá nhoà mọi thói quen của cuộc sống thời bình. Lúc nào cũng có kẻ thù rình rập đâu đó để tìm cớ lật đổ chế dộ bằng vũ trang, hay bằng diễn biến hoà bình. Lúc nào cũng được đồng chí trong chi bộ, bàn bè cơ quan giám sát mọi tư tưởng và hành vi để ngăn chặn mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân của mỗi thành viên. Lúc nào cũng phải đề phòng, phải đề cao cảnh giác cách mạng, không tin cậy bất cứ ai, kể cả bạn bè. Chỉ có một điều lạ, là trong hoàn cảnh sống không có một tí tự do nào cho cá nhân mà chúng tôi vẫn sống được, lại còn viết văn làm thơ được!
6.
Suốt 80 năm sống dưới ách đô hộ của Pháp, chúng ta vẫn đặt được những viên gạch đầu tiên cho nền văn xuôi Việt Nam. Những truyện ngắn, tiểu thuyết, phóng sự, tuỳ bút của thời ấy được in trên các tuần báo hoặc xuất bản thành sách nay đọc lại vẫn thích thú, vẫn làm ta cảm động. Nhiều truyện được đọc từ tuổi niên thiếu vẫn ám ảnh ta tới tận lúc tuổi già, và một loạt các nhà thơ, nhà phê bình văn học của cái thời gọi là thuộc địa đã trở thành những tên tuổi lớn tồn tại mãi mãi trong lòng nhiều thế hệ bạn đọc. Làm thân nô lệ mà vẫn trỗi lên thành những tài năng lớn là sao? Không chỉ trong văn chương mà còn cả trong mỹ thuật, trong kịch nghệ. Không chỉ trong văn nghệ mà trong cả khoa học, giáo dục, trong kinh doanh theo kiểu tư bản và trong nhiều nghề truyền thống. Tất cả đều được bắt đầu từ những năm đầu thế kỷ, được phát sáng, được bộc lộ mạnh mẽ các tài năng cá nhân và họ đã trở thành người khai sáng, người mở đường, thành tổ nghề, không chỉ có tài lớn mà còn có đức lớn, là những nhân cách kiểu mẫu cho con cháu, cho giống nòi, đều là chuyện có thật cả, không thể bóp méo hoặc bác bỏ. Mà giải thích về nó cũng rất đơn giản. Chế độ tư bản của Pháp và Châu Âu tiến bộ hơn, văn minh hơn chế độ phong kiến tập quyền của Châu Á tới vài thế kỷ, là khoảng cách giữa hai thời đại, nói như cụ Phan Chu Trinh. Thời Pháp thuộc bọn thực dân chỉ cấm, bỏ tù, xử bắn những người dám chống đối nó, trước hết là những người cộng sản. Cuộc sống của dân chúng vẫn lầm than như thời xưa, như thời phong kiến, khổ nhất vẫn là nông dân, nhưng xã hội có thêm nhiều nghề mới do công cuộc khai thác tài nguyên ở thuộc địa, hình thành dần nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, có đô thị và các trung tâm buôn bán, có các đường lớn xuyên quốc gia và liên tỉnh, có cầu cống và đường sắt, có báo hàng ngày, có tuần báo và tạp chí. Tiếng nói của công chúng sau nhiều thế kỷ câm bặt đã được cất lên bày tỏ thân phận và nguyện vọng của mình, dẫu còn yếu ớt nhưng đã gây được tiếng vang trong cả nước. Dầu xã hội phát triển một cách nhem nhuốc, đau đớn nhưng vẫn hơn cái thời tù mù, tối tăm của thời phong kiến. Thời thế là vị tư lệnh tối cao, không có học thuyết nào, một thiên tài chính trị nào dám chống lại những mệnh lệnh của nó. Dám chống lại nó học thuyết sẽ tiêu tan, các chính khách thì thân bại danh liệt. Chế độ thực dân tuy tàn bạo nhưng nó là sản phẩm của thời đại này nên nó vẫn có khả năng ươm cấy nhiều nhân tố tích cực, có giá trị bền vững cho những xứ sở nó đô hộ. Còn những vương triều phong kiến dẫu được cai trị bởi các bậc minh quân thánh trí vẫn là những xã hội hủ lậu và thuộc về quá khứ. Tài giỏi như Khang Hy, Càn Long nếu còn trị vì Trung Quốc tới cuối thế kỷ 19 mà không chịu thay đổi thể chế đã quá cũ kỹ thì vẫn cứ thua, có khi còn thảm bại hơn vì lòng kiêu hãnh bệnh tật của họ. Cách tổ chức xã hội của giai cấp tư sản dẫu có xấu xa tới tận đâu cũng vẫn tạo được những môi trường tự do và dân chủ hơn, mở ra những cơ hội mới cho sự phát triển tài năng của mọi cá nhân và của cả cộng động. Lại lấy thêm một ví dụ về nước Nga trong non một thế kỷ qua. Dưới chế độ Xô Viết, người dân Nga được nhà nước chăm lo hoàn toàn từ khi sinh đến khi chết, nhưng họ vẫn không thích, vẫn thấy ngột ngạt vì đó là cuộc sống không phải lo nghĩ của một trại tập trung, con người bị đánh số, bị xếp theo khuôn, theo hàng, chỉ nhìn thấy đám đông chứ không thể nhìn ra từng con người riêng biệt, kể cả trong triết học và văn chương. Còn thời bây giờ là một xã hội mạnh ai nấy lo, người người lấn chen nhau, tranh cướp nhau vì những tham vọng không được kìm nén, kỷ cương cũ bị xoá bỏ, kỷ cương mới chưa kịp hình thành, mọi sự đều phải làm lại từ đầu từ quốc kỳ, quốc ca, quân kỳ… Nhưng xem ra chả có mấy ai than thở về hiện trang hỗn loại, họ cảm thấy thoải mái, bằng lòng với cuộc sống đầy bất trắc của hiện tại vì lần đầu tiên họ được lựa chọn cách sống của mình, thắng thua tự mình gánh chịu, cũng là lần đầu họ biết nhận ra cái “bản lai diện mục” của chính họ.
7.
Bất cứ nhà nước nào lấy học thuyết xã hội hoặc tôn giáo thay cho hiến pháp thì trước sau sẽ chuyển đổi thành nhà nước chuyên chế. Vì trong hàng triệu công dân sẽ có nhiều nhóm người không cùng lòng tin, không cùng tín ngưỡng với nhà cầm quyền. Họ trở thành những cộng đồng đáng ngờ, sẽ bị phân biệt đối xử, trước hết là mất quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do xuất bản. Đó là nói về tầng lớp trí thức. Còn những người làm các nghề khác, chả dính dáng gì đến sách vở cũng sẽ cảm thấy bị tước đoạt nhiều quyền tự do, như quyền tự do lựa chọn cách sống của riêng mình chẳng hạn. Đã độc quyền về tư tưởng tất nhiên sẽ độc quyền cả về cách sống, vì mỗi học thuyết đều có phần đạo lý của nó, nó cần tiêu chuẩn làm người đã được lý tưởng hoá của nó để làm khuôn mẫu cho tu sĩ và tín đồ. Tôi có một bà cô sống ở Hà Nội suốt thời Pháp tạm chiếm, là dân cũ của Hà Nội, sau này giải phóng được một năm, bà than thở với tôi, nghĩ rằng sống với cách mạng thì dễ mà hoá ra rất khó. Bà bảo chính phủ gì việc lớn không lo toàn lo việc vặt, từ cách ăn mặc, cách yêu đương, cách nuôi dạy con cái là những việc người dân tự biết cách lo, tự biết cách học, lo không nổi thì đã có dư luận xã hội lo giùm, từ cổ tới nay vẫn thế mà. Lại nói về những tín đồ trung thành của chủ nghĩa Mác, những chiến sỹ theo cách mạng từ thuở mới lập nước là đám văn nghệ sỹ chúng tôi cũng “sống không dễ” trong sự viết lách. Viết đúng luật lệ thì chỉ có hai chủ đề: căm thù và hy sinh. Cũng chỉ có ba loại người được tôn vinh: công, nông, binh. Cái thế giới mênh mông, nhiều màu sắc ngày một thu hẹp và chỉ có hai màu: đỏ là quân ta, đen là quân địch. Văn chương cách mạng thoạt đầu cũng lạ so với văn chương thời trước nên được bạn đọc trẻ hoan nghênh. Nhưng cứ phải đọc mãi một vài đề tài quen thuộc, một vài loại người quen thuộc và những tâm trạng rất quen thuộc ngay những bạn đọc trung thành cũng phải chán. Chính chúng tôi cũng tự chán mình. Tài đã kém lại bị bó chặt từ đầu tới chân, xoay tới xoay lui cũng chỉ có một vòng quay, ú ớ một cách nói, càng viết càng nhảm cũng là phải. Một nền văn nghệ phải phục vụ chính trị (mà chính trị thì sớm nắng chiều mưa) là đã mất một nửa tự do rồi, lại phải phục chính trị theo nghĩa các chủ trương, chính sách của từng thời kỳ thì còn gì là tự do nữa. Ấy là chưa nói mỗi cấp cầm quyền lại có những yêu cầu riêng, những cách đối xử riêng, lúc nhu lúc cương, cái thằng nghệ sĩ chả còn biết lối nào mà lần. Văn chương đã đến nông nỗi ấy mà vẫn có giải thưởng quốc gia, nhưng những tác phẩm được giải thưởng Lenin, Stalin liệu có còn cuốn nào được người Nga hôm nay muốn đọc lại. Tôi cũng được giải thưởng văn chương cao nhất cấp quốc gia, nhưng tôi biết chỉ mươi năm nữa, thời thế đổi thay chắc chả còn ai nhớ tới mình nữa. Tôi là nhà văn của một thời, thời hết thì văn phải chết, tuyển tập, toàn tập thành giấy lộn cho con cháu bán cân. Buồn nhỉ? Nghĩ lại cũng chả có gì phải buồn, con người vốn sống trong những chiều kích hữu hạn lại mơ tưởng những gì do con người làm ra sẽ thuộc về vĩnh viễn, có hoạ rồ! Tất nhiên vẫn có nhiều công trình của trí tuệ thuộc về cõi bất tử nhưng là của các thiên tài. Với bộ não con sâu cái kiến, ngước nhìn những cái đầu khổng lồ ấy làm gì cho thêm buồn ra. Hãy viết những gì trong cái tầm nhìn tầm nghĩ của con sâu cái kiến vậy. Một cách nghĩ thiếu “tự hào dân tộc” nhưng chắc chắn là một cách nghĩ đúng. Đã từng có những quốc gia từng nghĩ từng viết rất tự hào, rất kiêu hãnh rằng dân tộc họ đã sải bước trước nhân loại cả trăm năm, sắp chạm tay vào cánh cửa thiên đàng rồi! Mà rồi sao nhỉ? Là như mỗi chúng ta đều đã được chứng kiến trong suốt mấy chục năm nay đấy!
8.
Nhà văn Dư Hoa [Yu Hua, 余华, chú thích của DĐ], một cây bút đang nổi của văn đàn Trung Quốc, trong lời cuối sách của tiểu thuyết Huynh đệ (Nhà xuất bản Công an Nhân dân, 2006), ông có viết đại ý, trong lịch sử thế giới từ thời Trung Cổ đến thời hiện đại phải trải qua 400 năm. Còn ở Trung Quốc từ thời cách mạng văn hoá, cả đất nước chìm sâu trong bóng đêm trung cổ với thời bấy giờ với bao nhiên thay đổi đến chóng mặt để đất nước Trung Hoa nhanh chóng bước vào đội ngũ các đại gia của G8. Cái khoảng cách vời vợi giữa hai thời đại ấy đã được rút gọn trong có 40 năm. Rằng hay thì thật là hay nếu chỉ nhìn vào toàn cục, vào cả dân tộc. Nhưng nếu nhìn vào từng cá nhân, những cá nhân không được chuẩn bị từ căn cơ trong lịch sử, trong văn hoá, trong truyền thống và nhất là trong nhân cách làm người thì cái rút gọn trong mỗi cá nhân sẽ dẫn tới đâu? Theo ý tôi (N. K.) là các cá nhân ấy sẽ rất dễ bị GÃY khi gặp phải sóng to gió lớn. Vì cái lõi của nó chưa đủ cứng, chưa đủ bền, chưa đủ những tố chất về di truyền, về giáo dục (rất cần có thời gian) để ứng phó hữu hiệu với những thay đổi quá nhanh của môi trường sống. Các nhà cách mạng thường chỉ nghĩ tới mục tiêu và những con đường ngắn nhất nhanh nhất để đạt được mục tiêu, bất chấp các công dân của họ bằng lòng hay không bằng lòng. Và họ lại tin một cách ngây thơ, một cách tệ hại rằng cứ ép là được, cứ đẩy tới bằng các phong trào cách mạng của quần chúng là được, trước lạ sau sẽ quen dần. Nhưng các cá nhân cũng là lòng người không thuận thì mọi chủ trương dẫu hay đến mấy sớm muộn cũng bị đào thải, chả để lại một dấu vết tích cực nào. Và càng lạ hơn là những tổ chức kinh tế được xem là lạc hậu, là phản động của một thời vẫn có muôn vàn cơ hội để tái sinh và xem ra còn tồn tại rất lâu dài.
Trong những năm 90 của thế kỷ 20 nhiều vị lão thành cách mạng Việt Nam lấy làm kinh ngạc và đau đớn trước sự tiêu vong quá nhanh của một siêu cường mà chân móng của nó đã ăn sâu trong mảnh đất Nga non một thế kỷ. Thật ra toà lâu đài kiểu mẫu của tương lai ấy không hề có chân móng. Nó được xây trên cát. Mọi thay đổi lớn đều dựa vào phong trào quần chúng được hình thành, được vận động chỉ bằng có tuyên truyền chứ không từ nguồn lực tự thân. Tất cả đều phải ép buộc, đều phải dàn dựng, và phải có các diễn viên chuyên nghiệp trình diễn theo một kịch bản độc nhất. Có hai nhà văn lớn của Châu Âu đều được mời xem màn diễn về một xã hội lý tưởng do người cộng sản lãnh đạo. Ông Romain Rolland thì khen không hết lời, còn ông André Gide thì chê từ đầu đến cuối. Vì một ông chỉ nhìn có cái mặt tiền, cái tổng thể, đến đâu cũng thấy dân chúng ca hát, nhảy múa và vẫy cờ, vẫy hoa. Còn một ông lại chỉ quan sát cái sân sau của chế độ và thân phận của nhiều cá nhân ông có dịp tiếp xúc. Đám đông thường cho ta cái cảm giác sai vì họ không thể giữ được tính độc lập trong tình cảm và phán xét. Còn cá nhân thì cái thân phận riêng tư của họ bao giờ cũng thuộc về nhân loại hôm nay và mai sau.
Một xã hội mà công dân không được quyền sống thật, nói thật, nhà văn cũng không được quyền bộc bạch tâm sự riêng tư của mình trên trang giấy là một xã hội không có chân móng. Các quốc gia cùng sống với nhau trong một liên bang, gọi nhau là anh em là đồng chí, nhìn ngoài thấy họ sống cũng yên ấm vui vẻ. Vậy mà khi họ chia tay nhau cũng dửng dưng. Và ngay lập tức họ nhận ra nhiều mối lợi trên đất nước mình đã bị người anh em ruột thịt chia sẻ trong một cuộc đổi chác không công bằng. Thế là bắt đầu những cuộc tranh chấp các đường biên giới, đã có lúc phải dùng đến xe tăng, đại bác để nói chuyện. Rồi tranh chấp đường ống dẫn dầu và các mỏ dầu, các căn cứ quân sự và các vùng biển có hạm đội. Khi Mỹ và NATO muốn đặt căn cứ quân sự trên đất nước họ, nhân danh chống khủng bố họ gật đầu liền đâu biết Mỹ là đối thủ của nước Nga anh em. Yêu Mỹ là tất nhiên vì Mỹ sẽ rót tiền vào những cái két rỗng của họ. Ghét Nga cũng là lẽ đương nhiên vì xưa kia anh bắt nạt tôi, lấn át tôi, xem tôi như chư hầu, như thuộc địa, bây giờ chính là lúc tôi có quyền trả thù. Lúc giận nhau thì nghĩ nông cạn thế, còn bình tĩnh lại thì giữa các nước cộng hoà trong liên bang Xô Viết (cũ) vẫn có sự ràng buộc tự nhiên và máu thịt trong lịch sử vì họ đã là người một nhà non một thế kỷ, đã cùng nhau sống chết chống hiểm hoạ phát xít để bảo vệ sự tồn tại của Liên bang cũng như của các nước cộng hoà. Lại đã cùng nhau sinh con đẻ cái, đã pha trộn ngôn ngữ, văn hoá và kỷ niệm. Bây giờ mỗi quốc gia vừa được trở lại là chính mình, vừa có phần đóng góp thêm của các nền văn hoá lân cận, bạn bè, giàu có hơn trước, văn minh hơn trước. Rồi họ cũng sẽ sống với nhau như một cồng đồng của khu vực, nhưng lần này là tự nguyện, là do họ tự chọn một hình thức liên minh bình đẳng, dân chủ và hoàn toàn tự do. Bất cứ một thiết chế xã hội nào nhắm tới dân chủ và tự do, xây một xã hội mở, một liên minh mở sẽ có may mắn tồn tại được lâu dài với sự đồng thuận của mọi người và sự hài lòng của mỗi cá nhân.
9.
Gần đây tôi có được đọc hai cuốn sách hay. Một cuốn là Bàn về tự do của Stuart Mill, một triết gia người Anh viết từ năm 1859, cách ta một thế kỷ rưỡi. Một cuốn là Tư duy tự do của Phan Huy Đường, một nhà nghiên cứu học thuyết Mác có tên tuổi ở Pháp viết vừa mới đây. Khoảng mươi năm nay tôi đọc tiểu thuyết không vào, cả của ta, của Tàu lẫn Tây, cả sách mới dịch, mới xuất bản, cả sách của các đại gia của những thế kỷ trước. Năm còn trẻ đọc thấy hay, bây giờ già rồi nhìn trang sách cứ dửng dưng vì nó không chịu ăn nhập vào những trải nghiệm cá nhân của tôi, không mở ra trong tôi một cách tiếp cận mới với hiện thực, không làm bùng cháy một điều gì đang còn ẩn sâu trong đáy tiềm thức khiến tôi phải choàng thức chợt nhận ra một vỉa sáng tạo mới vừa thoáng xuất hiện. Hai cuốn sách trên, một cuốn do bạn cho mượn, một cuốn tình cờ mua được ở nhà sách vì cái tên của một tác giả tôi vốn quan tâm. Tôi đọc say mê cả hai cuốn như thời trẻ được đọc một cuốn tiểu thuyết hay, tất nhiên là khó đọc hơn tiểu thuyết nhưng đã thích lại có trải nghiệm bản thân hướng dẫn, không hiểu được đầy đủ thì cũng hiểu được cái đại thể. Nhiều ý của bài viết này là được cảm hứng từ hai tác giả đó.
Năm tôi 60 tuổi, khi viết về một bà cô đã ngoài tám chục mà còn rất minh mẫn trong cách đối nhân xử thế, bà vẫn giữ được tính cách riêng mà không làm mất lòng một ai, từ con cháu trong nhà đến các mối quan hệ ngoài xã hội. Tôi đã viết nếu bà cụ được trời cho chứng sống đến trăm tuổi mà vẫn còn sáng suốt ắt hẳn bà sẽ biết mọi bí mật của then máy tạo hoá. Thật ra là tôi nói về tôi đấy, có hơi bốc đồng nhưng tôi tin là tôi sẽ biết được con người nhiều hơn nếu tôi được sống lâu hơn, không cần trăm tuổi, chỉ cần 90 là đủ, miễn là vẫn giữ được một cái đầu bén nhạy như bây giờ, sẵn sàng tiếp nhận mọi sự khác lạ như bây giờ, kể cả sự phủ định chính mình. Năm ấy tôi đã hiểu ra mọi sự rút gọn ở đời đều trái tự nhiên, đều dẫn đến thất bại. Các cuộc cách mạng xã hội ở nước ta trong suốt ba chục năm đều hỏng cả, đều phải làm lại từ đầu, tất nhiên là theo hướng khác, mà kết quả vẫn vừa chậm vừa dây dưa. Nguyên do là các nhà lãnh đạo muốn rút gọn những công việc của trăm năm thành chuyện chỉ làm trong mấy năm. Vì họ chưa hiểu đầy đủ con người Việt Nam trong cuộc sống đời thường, cái cuộc sống không có chiến tranh, không có cách mạng xen vô, cái cuộc sống trôi đi lặng lẽ của muôn đời. Nghĩ rằng người Việt Nam của hôm nay đã khác nhiều với người Việt Nam trước năm 1945 là một cách nghĩ rất thiển cận, tự gây cho mình nhiều ảo tưởng trong việc trù liệu những việc phải làm để kiến tạo một xã hội dân chủ và văn minh. Mọi phong trào thi đua chả có ích lợi gì trong những việc cần nhiều chăm sóc nhẫn nại, bền bỉ, bắt đầu từ các cá nhân chứ không phải từ các đám đông với những khẩu hiệu, cờ quạt, kèn trống, diễn văn và đáp từ, vỗ tay và tặng hoa. Đám đông không thể đứng mãi dưới nắng để nghe lãnh tụ diễn thuyết. Họ luôn mong đợi được giải tán để về nhà. Con người ở nhà vẫn cũ kỹ nhưng là người thật chứ không phải là sự nhập đồng chốc lát khi đứng trong đám đông. Tôi thật lòng yêu mến, ngưỡng mộ Fidel, một nhà yêu nước kiên cường, một nhân vật đã thuộc về lịch sử của Cuba. Ông là một trí thức lớn, bạn tâm giao của Marquez, nghe nói trong túi lúc nào cũng có một cuốn tiểu thuyết đang đọc dở. Bởi vậy tôi mới lấy làm lạ khi ông buộc dân chúng phải đứng hàng nửa ngày dưới nắng để nghe ông cao đàm khoát luận về đủ mọi vấn đề. Lúc cách mạng mới thành công nói dài thế vì người dân còn đang háo hức với cuộc sống mới và các ngôn từ cách mạng cũng rất mới. Như một cặp tình nhân đang yêu nhau, đang cần nhau, nói với nhau đủ thứ chuyện vớ vẩn nhưng chả ai thấy thời gian là dài. Còn đã thành vợ thành chồng thì chỉ cần nói ít thôi, chỉ nói những việc cần làm thôi, chứ cần gì những thuyết lý dông dài. Mao Trạch Đông cũng thế, ông là một nhà chính trị thông kim bác cổ, quanh nơi ông làm việc và cả nơi ông nghỉ ngơi sách đang đọc xếp từng chồng, nhưng xem ra cũng chả hiểu đồng bào ông bao nhiêu. Người dân ở đâu cũng thế, đều muốn có một cuộc sống bình yên, được tính việc cá nhân và gia đình trong một khoảng thời gian dài, một trăm năm chẳng hạn, không có những thay đổi lớn trong lối sống, trong công ăn việc làm, trong các giá trị, đặt biệt là giá trị của đồng tiền. Chứ cứ phải sống mãi từ năm này qua năm khác trong các phong trào cách mạng, lúc chống tả lúc chống hữu, những hội nghị toàn quốc và địa phương nối nhau không dứt, những hô hào la hét từ trong nhà ra ngoài đường như một lũ hoá rồ, các quan hệ xã hội và các giá trị thay đổi soành soạch thì còn biết đằng nào mà sống. Vả lại các cuộc cách mạng ấy chả đem lại bất cứ lợi lộc nào, cho bất cứ giai cấp nào. Chỉ có những mất mát thôi, người giàu thì mất cơ nghiệp được kiến tạo từ nhiều đời, người nghèo thì mất những chỗ dựa cạy, có thể mất cả công việc kiếm sống mỗi ngày để được làm chủ một cái rỗng không. Có thực mới vực được đạo, đã đói ăn thì ngay đến cái tư cách làm người cũng không thế có nói gì đến đạo. Thành thử cái chủ trương rất quyến rũ, rất “văn nghệ”, nhất là với giới tri thức, của chủ nghĩa Mác “cải tạo thế giới, cải tạo con người” hoá ra chuyện không đâu, nói cho vui, bây giờ người ta cũng hay nhắc đến để chế giễu một học thuyết xã hội chứa đầy những hoang tưởng.
10.
Do không hiểu con người cá nhân, hoặc chỉ hiểu theo những phân tích máy móc, nông cạn của chủ nghĩa duy vật cơ giới của thế kỷ 19, nên các nước xã hội chủ nghĩa mới dám đặt ra những mục tiêu huênh hoang nhằm cải tạo con người trong vài thập kỷ nếu môi trường xã hội thay đổi. Nên mới gọi nhà văn là “kỹ sư tâm hồn”! Văn chương do con người làm ra để trao tặng cho con người một cách tự do nhất, ít bị ép buộc nhất. Chỉ có văn chương mới tôn trọng mọi giá trị của cá nhân, tôn trọng mọi lựa chọn của cá nhân kể cả những thành kiến phi lý của họ. Họ có quyền yêu mình hoặc ghét mình , tôn vinh mình hoặc nguyền rủa mình, chả sao cả. Người viết cứ viết người ghét cứ ghét kể cả cái quyền ném sách vào lửa. Cái mục đích “tải đạo”, “giáo dục” của văn chương không bao giờ lộ liễu, lộ liễu là văn chương tồi. Vả lại chính người viết cũng không có ý định ấy, họ viết bằng tâm sự thành thật của mình, những trải nghiệm đau đớn của mình, họ viết cho họ trước rồi cho độc giả sau, có khi họ cũng chả nghĩ đến những người sẽ đọc họ, viết mà chơi thôi, viết để giải sầu rồi tự mình ngậm ngùi với mình, ứa lệ với riêng mình. Chả trách ai cả, chả giận ai cả, cũng chả lên án một ai. Vì không có vật cản nào nảy sinh trong ta khi đọc nên chữ nghĩa của tác phẩm cứ mặc nhiên trôi vào tận những kẽ ngách trong cái tâm sự u uẩn, những khát vọng thầm kín của riêng ta, đọng lại trong ấy, rồi cứ thẩm thấu dần dần vào cái thế giới tinh thần của ta một cách vô thức, giúp ta nhận ra một vùng sáng mới lạ nào đó, gột rửa một vài thành kiến, thay đổi một vài quan niệm, và ta vẫn nghĩ một cách khoan khoái là chính tự ta đã chủ động thay đổi, tuyệt nhiên không theo lời chỉ bảo của một ai cả, của một học thuyết nào cả, hoặc nhập vào một cách bất chợt một phong trào thời thượng nào cả. Bất cứ cái gì xa lạ với bản tính của mình, với thói quen của mình, nói một câu, với những gì làm nên lai lịch của mình, chả sớm thì muộn đều bị đào thải để mình lại được trở về với cái nguyên gốc. Tôi được biết có một cụ linh mục yêu nước và cấp tiến được cách mạng tín nhiệm mời lên khu làm việc cho kháng chiến thời đánh Pháp. Những khi ngồi một mình cụ vẫn rất buồn vì ở trong rừng không có nhà thờ để cụ đi lễ và làm lễ. Cụ nhớ Chúa, nhớ bày chiên và nhớ cả những lời nói của đấng chăn chiên với bày chiên trong công việc của mỗi ngày. Khi cụ sắp mất cụ thiết tha yêu cầu được một linh mục đang coi sóc một xứ đạo nào đó tới rửa tội và xức dầu Thánh cho cụ. Lại một chuyện khác, khi tôi được tiếp xúc với một vị lãnh đạo cấp cao của Đảng khi ông đang còn làm việc, quả thật tôi đã từng nghĩ ông là con người kiểu mẫu của một xã hội tương lai, chả nói gì, nghĩ gì về mình, tất cả cho tổ quốc, cho sự nghiệp, cho nhân dân. Nhưng rồi ông bị mất chức vì không được bầu lại vào uỷ ban trung ương của Đảng, một chuyện rất bất ngờ với nhiều người. Khi đại hội công bố kết quả bầu cử, nghe nói ông đã oà khóc, rồi khóc thầm lén tới mấy năm, không đi đâu cả, không gặp ai cả vì tự cho mình đã bị sỉ nhục, đã mất hết danh dự. Lại là một con người khác, tầm thường hơn cái lúc còn đeo tấm bài ngà rất nhiều. Con người mặc nhiều lớp áo là con người giả, con người đã bị lột truồng mới là con người thật. Con người đã bong một lớp sơn phủ kín chỉ còn trần lại cái lõi của nó mới là thật. Cái vỏ có thể luôn luôn thay đổi nhưng cái lõi muốn thay đổi phải mất có khi gần một đời người. Ấy là chỉ dám nói là có thể thay đổi chứ không dám nói chắc là sẽ thay đổi. Chỉ vì con người ta không chịu thay đổi theo những tiêu chuẩn đã được quy định hoặc theo mức tăng trưởng thu nhập tính theo đầu người. Sự phát triển của con người theo chiều hướng tích cực phụ thuộc rất nhiều vào môi trường sống tự do và dân chủ để tự nó khẳng định chính nó, tự nó đánh thức mọi tiềm năng sáng tạo đang nhen nhóm ở trong nó. Về cái thế giới tinh thần của mỗi cá nhân hãy để cho mỗi cá nhân tự lo liệu lấy, nó không thích người khác can thiệp bằng bất cứ cách nào. Nó sẽ biết cách tự điều chỉnh để thích ứng dần với mối quan hệ mới một cách có lợi nhất.
11.
Trong nửa thế kỷ sống dưới sự lãnh đạo của một Đảng theo học thuyết Mác Lê, tôi luôn luôn được nhắc nhở phải tôn trọng quần chúng, sức mạnh của quần chúng có thể thay đổi dòng chảy của lịch sử và số phận của nhiều cá nhân. Nhưng cũng thật trớ trêu, không có một chế độ cộng hoà nào ở thế kỷ 20 lại dám coi thường quần chúng như tại các nước xã hội chủ nghĩa. Sống trong thể chế này suốt mấy mươi năm không có một cuộc biểu tình nào được tổ chức để phản đối một chính sách nào đó của nhà nước. Như thời làm cải cách ruộng đất hay thời huy động nông dân vào các hợp tác xã nông nghiệp. Giám đốc xí nghiệp nhà nước tham ô, mức sống của công nhân giảm sút cũng không có đình công. Nông dân bị kẻ cường quyền đàn áp, làm nhiều việc trái pháp luật, vừa mới nhen nhóm bày tỏ sự bất bình liền bị giập tắt ngay. Vì người lãnh đạo đã nhận định rất đúng rằng, nhân dân ta rất tốt, rất dễ bảo, bỗng dưng họ dám nói xược, dám đòi hỏi này nọ là do có mấy thằng cán bộ về hưu bất mãn cầm đầu. Cứ nhắm mấy thằng đó mà đe, nếu cần thì bắt là đâu vào đấy ngay. Quả nhiên thế thật. Tức là người cầm quyền chả coi dân chúng vào đâu. Họ chỉ sợ các cá nhân hiểu nhiều biết rộng, rất khó bắt nạt, là hay bày trò xúi giục thôi. Giống hệt cái thời còn vua còn Tây, kẻ cai trị rất sợ người cộng sản vì họ là kẻ hay gây rối. Đã là người cầm quyền với nước ta thì xưa là thế nay vẫn là thế, người dân vẫn sống dưới chế độ chuyên chế chứ chưa bao giờ được biết chế độ dân chủ là gì, đâu là dân chủ tư sản. Đã chuyên chế là chuyên chế làm gì có sự phân biệt chuyên chế tư bản với chuyên chế vô sản.
Người cộng sản rất kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, nhưng lại chính từ các nước xã hội chủ nghĩa mà cái tệ sùng bái cá nhân đã nảy sinh. Vì lãnh tụ của học thuyết cũng là lãnh tụ của quốc gia. Họ lên cầm quyền không do phiếu bầu mà do tín nhiệm sẵn có của các tín đồ với giáo chủ. Giáo chủ là nhân vật tối linh, thuộc về thiêng liêng nên những gì của thế gian không thể ràng buộc ông ta được. Ông ta cầm quyền không có niên hạn vì ông phải phục vụ nhân dân cho tới lúc chết. Ông không phải tự phê bình và cũng không ai dám phê bình ông vì ông là biểu tượng của quốc gia, của Đảng cầm quyền, đứng trên hiến pháp và mọi luật pháp. Ông là người tự do hoàn toàn so với nguyên thủ các quốc gia dân chủ khác. Các cấp dưới từ trung ương tới địa phương cũng là những người có nhiều tự do nhất ở các ngành, các bộ và các địa phương họ cầm quyền. Là các lãnh chúa trong các lãnh địa của họ. Chả ai dám xâm phạm nếu còn muốn giữ cho mình một chút tự do cỏn con. Một xã hội có hàng triệu cá nhân không được đếm xỉa, không được tôn trọng nhưng một nhúm cá nhân lại được tôn vinh hết mức và được được hoàn toàn thoả mãn trong mọi nhu cầu là cái xã hội gì đây, là xã hội kiểu mẫu cho nhân loài tương lai ư?! Nói miệng mấy chuyện kỳ cục này đã khó nghe, lại còn viết thành văn mà các nhà văn không thấy ngượng sao? Ngượng thì vẫn ngượng nhưng chả lẻ lại gác bút, gác bút thì nuôi vợ con bằng gì? Nghĩ tới miếng ăn lại phải quên hết để sự bán mình cho quyền lực được hoàn toàn. Năm đất nước mới thống nhất vào Sài Gòn được gặp gỡ các nhà văn nhà báo, các nghệ sỹ của chế độ cũ mà thèm. Họ sống thoải mái quá, nói năng hoạt bát, cử chỉ khoáng đạt, như chưa từng biết sợ ai. Còn mình thì đủ thứ sợ, sợ gặp người thân vì chưa rõ họ có liên quan gì với Mỹ nguỵ? Nói cũng sợ vì nói thế là đúng hay sai? Đến vẻ mặt của mình cũng phải canh chừng, vui quá sợ mất cảnh giác, khen quá có thể đã ăn phải bả của nền kinh tế tư bản. Người lúc nào cũng căng cứng, nói năng gióng một nên bị bà con trong này chê là quê, nhà văn nhà báo gì mà “quê một cục”. Giải thích chuyện này cũng chả khó, họ là sản phẩm của nền kinh tế công nghiệp tư bản, dẫu là thuộc địa cũng vẫn thuộc hệ thống tư bản, vẫn là những người đã được giải phóng khỏi nhiều ràng buộc từ quá khứ trong cách nghĩ, trong cách làm. Còn mình là sản phẩm của nền kinh tế nông nghiệp phong kiến, đâu đã được làm chủ nhân ông nhưng cũng chưa từng được hưởng cái mùi vị tự do và dân chủ là thế nào! Cái khoảng cách ấy có tính thời đại không thể bỏ qua mà cũng không thể rẽ tắt. Mình cũng đã đi tắt suốt mấy chục năm, rất tiếc là lịch sử không công nhận cái lối đi ấy. Tôi còn sợ rồi sẽ có ngày lịch sử sẽ trừng phạt mình vì cái tội muốn khôn hơn lịch sử, muốn đánh lừa lịch sử!
12.
Các đảng cộng sản đều coi phê bình và tự phê bình là cách giải quyết mâu thuẫn nội bộ hữu hiệu nhất. Sự vật vận động sẽ sinh mâu thuẫn, giải quyết được mâu thuẫn sự vật mới có cơ hội phát triển, tiến lên. Phủ định và phủ định của phủ định, nghe vừa khoa học vừa huyền bí, như câu thần chú: “Vừng ơi, mở cửa ra!”, cứ đọc to lên là cánh cửa vào tương lai sẽ mở toang. Các nước xã hội chủ nghĩa vẫn đọc to câu thần chú ấy trong nửa thế kỷ mà cánh cửa vào tương lai vẫn đóng chặt. Mất thiêng rồi chăng? Quả là đã mất thiêng vì người hô không hề tin một chút nào vào cái khả năng kỳ diệu của nó. Nếu tin vào phê bình và tự phê bình thì Stalin đã không chế ra các vụ án chính trị man rợ để tiêu diệt các đối thủ vốn là tay trái tay phải của mình trong những năm đó. Nếu tin vào câu thần chú ấy thì Mao Trạch Đông đã không bày ra tấn tuồng “cách mạng văn hoá” để tiêu diệt mọi kẻ dám can ngăn những chủ trương đầy tính phiêu lưu của ông. Ấy là nói về những người nắm quyền lực cao nhất, còn những người nắm những cơ quan quyền lực thấp hơn cũng chả bao giờ họ tin vào cái phương pháp lãng mạn đó cả. Trong các cấp uỷ họ vẫn tự phê bình và phê bình nhau một cách sốt sắng giả dối. Và ai nấy đều tự bằng lòng hơn sau những lễ xưng tội giải tội hết sức vui vẻ này. Và mọi thói xấu, kể cả tội ác nữa, vẫn nghiễm nhiên tồn tại như trước đây, vẫn là những vùng cấm chỉ những kẻ quá chán đời mới dám đơn độc xông vào. Bởi vậy khi ông tổng bí thư của Đảng mới được bầu, trong cơn phấn khích đổi mới sinh hoạt đảng, đã phát động một phong trào tự phê bình và phê bình rộng khắp toàn đảng, các đảng bộ trong cả nước đều nhiệt liệt hưởng ứng, đều nhắc lại với lòng nhiệt thành hiếm có trong các bài diễn văn có đảng tính cao của họ. Đó là một màn diễn khổng lồ, rất tốn kém, chả đem lại bất cứ kết quả nào. Vì chỉ là diễn thôi, người cũ kẻ mới đều vào vai rất thành thạo. Rút cuộc kẻ có tội vẫn ngày càng hung hãn, càng tự tin, còn người tố tội càng lúc càng dè dặt, hãi sợ. Kỳ quái nhỉ?
Các tín đồ của học thuyết Mác đều rất tin môi trường xã hội và hoàn cảnh cá nhân có ý nghĩa quyết định tới sự hình thành tính cách con người. Một địa phương có nhiều phong trào cách mạng tích cực ắt phải sản sinh ra nhiều tập thể tốt, một tập thể tốt sẽ sinh ra nhiều cá nhân tốt. Con người là một thực thể vật chất nên không thể thoát ly những điều kiện vật chất đã cho phép nó tồn tại. Nhưng nó còn là một thực thể sinh học, một thực thể tinh thần, tâm linh, văn hoá bao gồm lịch sử cá nhân và dòng họ ở trong nó. Nó cũng không thể biết hết nó, không thể biết hết những phản ứng bất thần trong chính nó khi vấp phải những đối nghịch trong cuộc sống. Nên cái thế giới tinh thần, tâm lý của con người là rất đa dạng, phức tạp, có muôn vàn lối đi ngoắt ngoéo. Từ thời con người có ngôn ngữ để giao tiếp, có chữ viết để lưu lại, có văn chương để bày tỏ những bí mật của riêng rình, nó vẫn không ngớt than thở là chả biết được bao nhiêu về mình và đồng loại. Con người vẫn nguyên vẹn là một bí mật mênh mông, sâu thẳm như từ thủa nguyên sơ vậy. Người cộng sản phải kiêu ngạo lắm mới dám bày cái trò chỉnh huấn phê bình để lãnh đạo một cách chuẩn xác cái phần khó nắm bắt nhất trong con người. Vì nó biến hoá, nó phù du như mây như gió vậy.
13.
Con người có 2 mắt đều hướng ra cái thế giới vật chất bên ngoài, không có con mắt nào hướng vào trong để ngắm nghía, kiểm soát cái thế giới tinh thần của nó nên nó bị mù một nửa, cũng như nó không có cái tai bên trong nên không thể nghe được những tiếng thì thầm rất nhỏ mỗi đêm trong chính mình. Hai cái khuyết tật bẩm sinh ấy đã làm con người thiếu hoàn chỉnh, là nguyên do mọi đổ vỡ của nhiều danh nhân dũng tướng vào những năm cuối đời. Nhưng cũng có một số ít người có khả năng nhìn được sự vận động cả trong lẫn ngoài, nghe được những tiếng động rất nhỏ cả ngoài lẫn trong. Họ không có cấu tạo vật chất đặc biệt nào mà chỉ bằng cái năng lực tinh thần rất mạnh đã bù đắp được những khiếm khuyết bẩm sinh. Nhiều tập hồi ký của các danh nhân cả chính trị lẫn văn hoá đều thiếu cái phần còn nhày nhụa của họ, cái phần thú vật của con người nơi sản sinh ra những tội ác chưa hình thành, cái què quặt, cái buồn cười đã được kiềm chế đúng lúc, đã được giấu nhẹm, cái phần họ muốn quên đi và rất dễ trở thành lang sói với đồng loại nếu trong đồng chí, đồng nghiệp còn có người biết đến và nhớ tới. Cuộc chiến đấu lớn, có tính bi kịch giữa mình với mình bao giờ cũng hoành tráng, cũng đẹp, rực rỡ những màu sắc đối nghịch vì nó đã bộc lộ đầy đủ nhất cái phẩm chất LÀM NGƯỜI trong mỗi CON NGƯỜI. Không phải bất cứ ai cũng tạo ra được trận chiến thần thánh ấy, vì chiến trường ở ngay trong lòng mình, mình vừa là kẻ thách đấu vừa là kẻ dám nhận đấu, dẫu thua cũng là cái thua của thần thánh. Một công việc trang trọng đến thế, hùng tráng đến thế mà lại dám nghĩ là công việc của số đông, của những người chưa hề chuẩn bị một cái nhìn bên trong, một cái nghe bên trong cho riêng mình, cả đời họ sống trong tự mãn, trong u mê, bất thần mời gọi hãy nhìn lại mình, hãy nhìn lại người để có được những phán xét và điều chỉnh chuẩn xác! Ông tổng bí thư đã mở một cuộc chiến ảo nên ông cũng chỉ nhận được những kết quả ảo.
Một Đảng, một thể chế chính trị lấy phê bình và tự phê bình làm vũ khí sắc bén để giải quyết mọi mâu thuẫn nội bộ, giả thử nó lại không còn dùng được nữa thì các mâu thUẫn sẽ được hoá giải bằng cách nào? Đảng đối lập không có, dư luận đối lập qua báo chí và các cuộc biểu tình quần chúng cũng không có, vậy làm cách nào để biết và điều chỉnh mọi sự rắc rối, thậm chí cả bạo loạn nữa nếu nó xảy ra? Vẫn có cách, là phải tạo ra một tình hình chính trị luôn căng thẳng (một cuộc chiến tranh có thể xảy ra, một cuộc bạo loạn có thể xảy ra) để buộc các công dân phải sống trong những quy chế nghiêm ngặt của thời chiến, ở các chế độ toàn trị chỉ có hai cơ quan mà quyền uy bao trùm cả xã hội. Đó là cơ quan tư tưởng, tuyên truyền và cơ quan công an. Một để chặn, một để chống. Còn khi đã có chuyện bất thường xảy ra thì chỉ có một biện pháp: đàn áp, bắt giữ, lập toà án xét xử những kẻ cầm đầu. Cách giải quyết vừa nhanh gọn lại mau ổn định, không dây dưa, phiền toái vì có quá nhiều luật lệ, qua nhiều lý lẽ như ở các nước tư bản. Những rối loạn vặt vãnh thật ra là nước là không khí của các nhà cầm quyền độc tài. Họ đâu có sợ loạn. Họ còn bày ra những cuộc chiến cung đình như ở Liên Xô và các nước Đông Âu, hay một cuộc chiến giữa nhân dân với nhau như đã làm ở Trung Quốc. Không có mùi vị của thuốc súng, của máu người và những tiếng la hét cuồng nộ của đám đông thì người cầm quyền biết thở bằng gì!
14.
Tập thể không làm ra văn chương vì nó không có cảm nghĩ riêng, tâm sự riêng, tính cách riêng. Nó là vô danh. Một tâm sự mãn nguyện, những tiếng cười hoan lạc, một kiếp người quá đầy đủ cũng không thể có chỗ đứng trong văn chương. Vì văn chương bao giờ cũng thuộc về những tiêng kêu của con người để đòi lại những gì còn thiếu: thiếu tự do, thiếu công bằng, thiếu hạnh phúc… Đời người là bể khổ, những khao khát về tinh thần của con người là vô cùng nên mới cần có văn chương và nghệ thuật để bù lại. Còn mọi thứ đều được biết, đều đầy đủ, đều mãn nguyện thì tôn giáo không còn, triết học không còn, và tất nhiên văn chương cũng không thể còn. Nó sẽ chết vì bị ngạt, vì không còn những khoảng trống huyền bí để suy nghĩ, để mơ mộng và để thở. Những gì mà chủ nghĩa cộng sản hứa sẽ thành hiện thực trong tương lai thì cái hiện thực ấy sẽ giết chết cả loài người. Vì thượng đế đâu cần những con dòi béo quay lúc nhúc dưới chân Ngài. Cũng may đó chỉ là những lời nói dối, tự dối mình và dối người của những con người đã phải sống nhiều trăm năm trong cùng khổ, trong tuyệt vọng. Còn hướng tới thiên đàng ư? Là thiên đàng trần gian hay thiên đàng thượng giới cũng không một ai có thể sống nổi. Sống không lo nghĩ, không mong muốn, không đấu tranh là kiếp sống con dòi rồi. Chả lẽ những con dòi cũng có thể cất cao những cái đầu múp míp của chúng để làm ra triết học và thơ ca!
Những điều viết trên đây không do tôi tưởng tượng ra mà do những trải nghiệm bản thân mà có. Những năm còn trẻ cả vợ lẫn chồng đều ăn lương quân đội, lại phải nuôi dưỡng những bốn đứa con, nhà ở ven bãi sông năm nào cũng phải chạy lụt, lại quá chật có 15 mét vuông. Ăn thì mì hai phần gạo một phần, gạo phải nhặt sạn cả buổi mới dám nấu thành cơm. Còn thức ăn ư? Chả nói nữa ai cũng ăn như thế, ăn dưa ăn mắm suốt mấy chục năm đã hoá quen. Cả nhà chỉ có hai cái giường, một cái bàn, hai cái ghế, tiếp khách ở đấy, mời cơm khách ở đấy, con học bài cũng ở đấy, và ông bố viết văn cũng chỉ có cái bàn ấy. Đêm đêm nằm cạnh hai thằng con trai lớn đạp ngang, quẫy dọc, rắm đánh thối um, vừa quạt cho hai thằng con ngủ tôi vừa mơ mộng đến một ngày nào đó, các con đã trưởng thành, tôi có được một phòng riêng để viết và tiếp bạn, mỗi bữa cơm đều có cá hoặc thịt, có cả chút rượu nữa càng hay. Tôi không phải lo nuôi con, không phải lo cả trăm thứ vặt vãnh để tồn tại, chỉ có đọc sách, ngẫm nghĩ, đi chơi đây đó với bạn bè và viết, ắt hẳn tôi sẽ viết được một hai cuốn sách để đời. Bây giờ tôi đã ngoài bảy chục tuổi, đã có đầy đủ những gì tôi khao khát, có thể nói còn hơn cả khao khát. Tôi đã sống đầy đủ, sang trọng nữa, hơn nhiều nhà văn tôi được biết ở các nước Đông Âu. Và tôi đã nghĩ nếu chủ nghĩa cộng sản thành công ở Việt Nam thì cũng chỉ cho được tôi đến thế. Khốn nỗi, lúc này tôi đâu còn năng lực làm việc bằng trí tuệ nữa mà cũng chả có nhu cầu nào phải đòi hỏi. Cuộc sống được vỗ béo của một kẻ ăn không ngồi rồi đã giết chết mọi tư tưởng ở trong tôi, rồi giết luôn đến đội quân chữ nghĩa, chúng đã hoá ra rỗng tuếch, vô hồn. Nhà văn mà hết chữ thì chỉ là cái xác chết. Xác chết con người với xác chết con dòi có gì là khác mà phải phân biệt!
15.
Tôi có một tuổi thơ rất buồn, lại sống với những người có số phận buồn nên mới 14, 15 tuổi đã nhìn đời như một ông già. Tức là một cái nhìn không mấy lạc quan. Cái xã hội tôi đang sống không mấy hoàn hảo, những người tôi gặp cũng không được hoàn hảo. Tôi quen thuộc với những gì không hoàn hảo tới mức gặp những gì quá đẹp, quá chu toàn tôi đều ngờ, đều sợ. Người truyền cho tôi cái nỗi sợ bẩm sinh ấy là mẹ tôi. Bà đã qua một đời chồng rồi mới gặp được bố tôi. Đời chồng trước mọi sự đều tốt đẹp, ông ấy còn trẻ, có địa vị trong xã hội, nhà giàu, lấy nhau được một năm lại sinh con trai. Mà rồi chỉ ở với nhau được ba năm phải bỏ. Đời chồng sau thì dở, dở cả mọi đằng. Bố tôi cũng còn trẻ, làm tham biện ở phủ thống sứ, nhưng ông đã có vợ và hai con nên phải làm lẽ và lấy giấu. Mẹ tôi bảo thế là đúng số, là đã an phận, nhưng lại lo bố tôi sẽ bỏ khi cuộc ăn chơi này gây thêm phiền phức cho cái gia đình chính thức của ông. Hai anh em tôi là bản sao nguyên mẫu của bà. Những gì nhận được từ tuổi thơ mãi mãi hằn dấu lên cho đến hết cuộc đời chúng tôi. Nhìn bên ngoài tôi có tướng con nhà phong lưu nhưng cái ruột của tôi lại thuộc về con cái của những gia đình nghèo, lại chả có thế thân gì nên rất biết phận, cho thì nhận, không cho cũng không đòi, chỉ cầu không có ai quấy nhiễu là mừng. Em trai kém tôi năm tuổi, lấy vợ muộn, về hưu sớm, lúc trẻ thì thay anh hầu hạ mẹ, về già thì đi chợ nấu cơm, giặt quần áo thay vợ chăm sóc các con. Cả đời chỉ biết cười, cái cười nhẫn nhục, bằng lòng với những gì mình có. Tôi thì khác, một cuộc sống bên ngoài ai cũng biết là khiêm tốn, nhẫn nại, ít làm phiền người khác và chả dám gây sự với một ai. Nhưng cuộc sống bên trong cũng có nhiều tham vọng, làm quan hay làm anh nhà giàu thì không dám vì tôi không có bản lĩnh tiến thân bằng hoạn lộ hay kinh doanh. Tôi chỉ có một ao ước duy nhất là được viết văn cho đến già. Với cái tài tôi tự biết, tôi phải sống rất lâu và viết rất nhiều may ra mới được một hai cuốn sách hay, mà cũng chỉ hay trong cái thời của nó chứ không thể hay ở mọi thời. Tôi tự nhận tôi là người có một con mắt bên trong và một cái tai bên trong từ nhỏ. Để quan sát, nghe ngóng những người khác họ yêu mình hay ghét mình. Càng lớn tuổi cái khả năng tự xét mình của tôi càng sắc nhọn. Và tôi đã nhận ra cái lợi của phép giấu mình. Trang Tử đã nói: Con chim bay cao thì tránh được tên, được bẫy, con chuột đào hang sâu thì tránh được cái hoạ bị khói hun.
16.
Khi tôi nói, tôi sống và viết cũng thoái mải, vui vẻ trong một chế độ chuyên chế về tư tưởng cứ như là người nói dối, lại nói dối một cách trơ tráo, sống sượng. Nhưng đó là lời nói thật, không thật với nhiều người nhưng với tôi là thật. Tôi được thay đổi số phận từ cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945. Chín năm đánh Pháp với nhiều người là rất dài, với tôi lại rất ngắn vì tôi được sống trong niềm vui, trong những cái khác thường và cả trong nhiều hi vọng. Nhiều anh trong cơ quan tuyên huấn của quân khu đều xuất thân từ các gia đình viên chức nhỏ, địa chủ nhỏ, được ăn học đàng hoàng đến hết bậc cao đẳng tiểu học đã có những thói quen, những nền nếp của cuộc sống thị dân từ nhỏ. Họ rất thích quan sát những phản ứng của tôi khi phải đối mặt với mọi thiếu thốn của cuộc sống kháng chiến. Vì nhìn ngoài tôi như một thư sinh con nhà quý tộc chưa từng biết cái thiếu cái khổ là gì. Những việc làm rất tự nhiên của tôi đều được đánh giá phải có nhiều nghị lực, nhiều quyết tâm mới làm được thế. Tôi vẫn sống như xưa kia, ngày xưa thì bị chê bị chửi, bây giờ lại được khen, được tuyên dương, người cứ lâng lâng như nhập đồng, còn biết cái thiếu là gì cái khổ là gì. Nếu so sánh thì trước kia tôi chỉ là con số không, còn bây giờ tôi đã có một cái tên ký dưới các bài báo, đã được nhiều ông anh trong cơ quan nhờ vả, đòi hỏi, bực tức hoặc khen ngợi. Tôi đã được tách ra khỏi đám đông để tự bằng lòng mình và có cả chút ít “kế hoạch riêng” cho mình nữa. Còn các anh hơn tôi dăm bảy tuổi thì đã có nhiều thứ để so sánh những cái “đã có” trước kia và cái “đang có” bây giờ. Cái “đang có” của dân tộc thì nhiều, còn cái “đang có” của cá nhân như chả còn được bao nhiêu. Những kiến thức lịch sử và xã hội, triết học và văn chương xem ra phải bỏ đi quá nửa. Các quan hệ giao tiếp xã hội được dạy bảo từ thuở còn thơ nếu dùng lại cứ vênh váo, buồn cười thế nào trong hoàn cảnh kháng chiến. Sống tinh tế, tôn trọng người khác là cách sống của anh tiểu tư sản. Lòng thương người không đúng chỗ cũng được xem như biểu hiện của một tính cách nhu nhược, không đáng tin cậy. Còn những câu đùa thông minh, kín đáo ánh lên như một vệt sáng vui trong cuộc sống đơn điệu, tẻ nhạt của mỗi ngày lại dễ bị đồng đội hiểu lầm là một cách chế diễu của người có học với những anh em ít học. Qua mỗi cuộc chỉnh huấn tầm vóc của mấy anh càng như nhỏ lại, mờ nhạt hơn, mất dần những vẻ riêng, cái phần độc đáo riêng để nhập vào cái dòng chảy chung, vào cách nghĩ cách sống của một tập thể bao bọc quanh mình. Đại để cái riêng của mỗi chúng tôi đã bị cái chung nuốt dần như thế. Tôi thì sao? Tôi đã có một may mắn lớn vì tôi thuộc về số đông, một quần thể vô danh tồn tại âm thầm trong nhiều thế kỷ dưới chế độ phong kiến. Cách mạng Tháng Tám đã nhất loạt giải phóng họ ra khỏi thân phận nô lệ, tạo cơ hội cho họ phát triển những tài năng riêng của mình, chủ yếu trong lĩnh vực quân sự để kịp thời phục vụ những nhu cầu của kháng chiến. Số đông trong họ chỉ mới biết đọc biết viết từ ngày vào quân đội nhưng học rất nhanh cách xây dựng một quân đội hiện đại với những cơ quan phục vụ cho công việc tham mưu, tác chiến, hậu cần vì họ đã có được một ông thầy lý tưởng là quân đội hiện đại của đối phương với ông tướng lừng danh trong thế chiến 2 của nó. Trong chín năm đánh Pháp quân đội đã trở thành cái nôi đào tạo, nuôi dưỡng nhiều nhân tài quân sự của thời hiện đại, cả những tài năng văn nghệ phục vụ trong quân đội, nó là tổ chức tiên tiến nhất của xã hội Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ 20. Trong chiến tranh người chỉ huy quân sự là hình tượng đẹp nhất, lãng mạn nhất vì họ là con người của hành động, của đảm bảo chiến thắng, luôn ở vị trí thứ nhất, còn con người của học thuyết chỉ ở vị trí đứng sau, trong nhiều trường hợp chỉ là cái anh bàn thêm, nói góp. Còn những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội thì con người lý luận có nhiệm vụ bảo vệ sự trong sáng của học thuyết chính thống ở hàng đầu được tôn trọng và có quyền quyết định sự sống chết của nhiều người. Chính là trong những năm này mới sinh ra nhiều vụ án chính trị và văn chương, nay nghĩ lại vừa vô nghĩa vừa buồn cười nhưng thời ấy nó đã chôn sống nhiều tài năng thực sự ở mọi lĩnh vực vì họ đã tỏ ra ngờ vực sự đúng đắn của tư tưởng chính thống.
Một nửa nước đã được độc lập nhưng lòng người tan nát vì tài sản một đời chắt chiu của họ đã bị nhà nước tịch thu hoặc trưng thu khiến họ trở thành những người vô sản bất đắc dĩ. Tầng lớp trí thức chả có tài sản gì ngoài cái đầu được tư duy tự do, thì cái đầu cũng bị nhà nước trưng thu luôn, vì từ nay họ chỉ được nghĩ được viết theo sự chỉ dẫn của một học thuyết, của một đường lối nếu họ không muốn giẫm vào vết chân của nhóm “Nhân Văn Giai Phẩm”. Một dân tộc đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ mà mặt người dân nám đen, mắt nhìn ngơ ngác, đi đứng long rom như một kẻ bại trận. Quả thật dân tộc Việt Nam đã thắng lớn trong phong trào chiến tranh giải phóng nhưng lại thua đậm trong công cuộc xây dựng một xã hội tự do và dân chủ. Thoát ách nô lệ của thực dân lại tự nguyện tròng vào cổ cái ách của một học thuyết đã mất hết sức sống. Dân mình sao lại phải chịu một số phận nghiệt ngã đến vậy!
Một xã hội tan nát, lòng người chĩu nặng những phiền muộn ưu tư, mà là những người đã hết lòng hết sức với kháng chiến bằng cách này hay cách khác. Vậy nhà văn phải viết như thế nào, phải viết cái gì để tạo được một hiện thực tràn đầy hy vọng như các nhà lãnh đạo cách mạng yêu cầu.
17.
Những năm 50, 60 của thế kỷ 20, với tôi là những năm tràn đầy niềm vui. Nhìn vào đâu tôi cũng thấy tôi được, dân tộc tôi được. Nhưng cũng những năm ấy với hàng triệu người dân thường lại là những năm đầy lo lắng, hãi sợ và tuyệt vọng. Tôi vui là chuyện có thật, những trang viết của tôi vào những năm ấy là rất thành thật. Nhưng nước mắt của người khác cũng là chuyện có thật, tôi có biết, có được chứng kiến. Tôi nên nghiêng ngòi bút của tôi về phía nào. Về già tôi mới nhận ra nhà văn phải nghe theo tiếng gọi của tình cảm, của trái tim, của cái phần thiện lương trong con người mình. Nó đã bảo sai là sai, không có thứ lý luận nào chống đỡ nổi. Vả lại văn chương bao giờ cũng đồng cảm với nỗi đau của con người, những bất hạnh của con người. Chưa bao giờ vì sự mãn nguyện, sự thành công của con người mà cất lên tiếng hát ca ngợi cả. Ở các thể loại nghệ thuật ngôn từ con người phải chống chọi với mọi cảnh ngộ trái ngược chiếm gần hết các trang viết, các màn diễn, còn khi người nghèo đã thành giàu, người hèn được bước vào thế giới phú quý, trai gái phải chịu nhiều năm chia lìa tới lúc tái hợp là cuốn sách, vở diễn phải chấm hết ngay. Nó đã kết thúc cái phần nghệ thuật để bắt đầu sang phần tụng ca là cái thế giới của mãn nguyện của buồn chán, là cái phần phi nghệ thuật. Nhưng người lãnh đạo lại chỉ thích cái phần không phải là nghệ thuật, tặng giải thưởng, trao huân chương cho các tác giả chỉ để tưởng thưởng cái phần nhạt nhẽo vô vị ấy mà thôi. Cái cách cảm nhận hiện thực đầy tính lãng mạn ấy đã làm lệch lạc cách xem xét, cách ứng xử của nhiều thế hệ bạn đọc, nhất là bạn đọc ở tuổi mới trưởng thành, trước những biến hoá muôn mặt của cuộc sống. Họ chỉ có mỗi khả năng làm người phê bình văn học theo đường lối chính trị chính thống, tại sao cuộc sống đẹp như thế mà nhà văn lại miêu tả nó xấu đến thế. Làm sao dám cãi, hãy để cho những trải nghiệm của chính họ qua năm tháng sẽ âm thầm biện hộ giúp mình thôi.
18.
Một xã hội không tự hiểu mình, mỗi cá nhân cũng không tự hiểu mình, vàng thau, phải trái, cao quý ti tiện lẫn lộn, các giá trị lẫn lộn bắt đầu từ sự không chuẩn xác của ngôn từ. Câu mở đầu kinh thánh Cựu ước “Thoạt Tiên Là Ngôn Ngữ…” (Au conmmencement était le Verbe). Ngôn ngữ làm nên văn minh này, vì nó có thể lưu giữ và truyền lại toàn bộ kinh nghiệm của nhiều đời trước cho nhiều đời sau, càng ngày cái khả năng nhận thức càng gần đúng như nó có, khiến sự lựa chọn của con người khách quan hơn, có hiệu quả tích cực trong quá trình chủ động thích ứng với mọi đổi thay của môi trường sống và môi trường xã hội. Vậy mà ngôn từ lại là cái mặt yếu nhất trong các lãnh vực thuộc thượng tầng kiến trúc ở các nước xã hội chủ nghĩa. Công dân của các nước ấy dùng ngôn từ để che đậy chứ không nhằm giao tiếp, hoặc giao tiếp bằng cách che đậy, “nói vậy mà không phải vậy”! Nó là cái vỏ cứng để bảo vệ mọi sự bất trắc, chống lại thói quen hay xét nét lời ăn tiếng nói của công dân của mọi chính quyền chuyên chế. Cái cách tự bảo vệ ấy lại càng rõ rệt ở cấp lãnh đạo và các viên chức nhà nước làm việc ở các cơ quan quyền lực. Họ nói bằng thứ ngôn ngữ khô cứng đã mất hết sinh khí, một thứ ngôn ngữ chết, ngôn ngữ “gỗ”, nói cả buổi mà người nghe vẫn không thể nhặt ra một chút thông tin mới nào. Các buổi trả lời phỏng vấn báo chí, diễn văn tại các buổi lễ kỷ niệm, báo cáo của Đảng, của chính phủ, của quốc hội, tất cả đều dùng các từ rất mơ hồ, ít cá tính và ít trách nhiệm nhất. Người cầm quyền cấp cao nhất và cấp thấp nhất đều biết cách nói mơ hồ, càng nói mơ hồ càng được đánh giá là chín chắn. Và nói dối, nói dối hiển nhiên, không cần che đậy. Vẫn biết rằng nói dối như thế sẽ không thay đổi được gì vì không một ai tin nhưng vẫn cứ nói. Nói đủ thứ chuyện, nói về dân chủ và tự do, về tập trung và dân chủ, về nhân dân là người chủ của đất nước còn người cầm quyền chỉ là nô bộc của nhân dân. Rồi nói về cần kiện liêm chính, về chí công vô tư, về lý tưởng và cả quyết tâm đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Nói dối lem lém, nói dối lì lợm, nói không biết xấu hổ, không biết run sợ vì người nghe không có thói quen hỏi lại, không có thói quen lưu giữ các lời giải thích và lời hứa để kiểm tra. Hoặc giả hỏi lại và kiểm tra là không được phép, là tối kỵ, dễ gặp tai hoạ nên không hỏi gì cũng là một phép giữ mình. Người nói nói trong cái trống không, người nghe tuy có mặt đấy nhưng cũng chỉ nghe có những tiếng vang của cái trống không. Nói để giao tiếp đã trở thành nói để không giao tiếp gì hết, nói để mà nói, chả lẽ làm người lại không nói. Thật ra nói thế mà vẫn hiểu nhau cả. Người cầm quyền thì biết là nhân dân đang rất bất bình về nhiều chuyện, nhân dân thì biết người cầm quyền đang nói dối, nhìn vào thực tiễn là biết ngay họ đang nói dối. Nhưng hãy mặc họ với những lời lẽ dối trá của họ, còn mình là dân chả nên hỏi lại nói thế là thật hay không thật. Mình cứ làm theo ý mình và mình cũng sẽ nói dối, nói che đậy nếu như có dịp được người cầm quyền hỏi.
Trong hàng trăm cuốn hồi ký của các nhà văn hoá, của những người hoạt động chính trị, của nhiều tướng lĩnh, ta chả biết được bao nhiêu cái thế giới riêng của họ, cái thế giới cá nhân của họ. Cái phần đóng góp của họ càng nhỏ thì cái ý nghĩa quyết định của tập thể càng lớn, cái có tên thì bé tí xíu, vô nghĩa, cái không tên thì bao trùm rộng khắp nhưng cũng không có hình thù rõ rệt, cứ mờ mờ mịt mịt, có đấy mà cũng không có đấy, cái chung ấy chả phải chịu trách nhiệm với một ai, có biết nó là ai mà truy cứu.
19.
Trong cái bối cảnh xã hội, chính trị như thế, mỗi người đều ít nhiều đánh mất cái cá nhân của mình cũng là lẽ đương nhiên. Nhà văn là chuyên viên nghiên cứu mọi chuyện của cá nhân, những sắc thái tâm lý cùng với những biến hoá vô tận của nó trong những hoàn cảnh khác nhau, những thời thế khác nhau. Nhưng đọc hồi ký của các nhà văn cũng nhạt nhẽo lắm, họ chỉ phô diễn cái tôi trong các cuộc gặp những bậc đàn anh và bạn bè trong nghề, nói toàn chuyện tào lao, vụn vặt, chuyện sinh hoạt và chả đả động chút nào tới thời thế, tới những bức xúc về thời thế và cái nghề của mình trong thời thế. Tính hiện thực và tính lịch sử của một thời rất mờ nhạt, đơn giản, thành thử cái ý nghĩa truyền đạt những giá trị đích thực của một thời tới các thế hệ đến sau hầu như không có. Đó là điều rất đáng tiếc, vì nếu các chứng nhân không nói gì cả thì lịch sử cũng không thể cất lên tiếng nói chân thực của nó, thời gian qua đi, bóng tối phủ lên, quên lãng phủ lên, cái thời mở nước, giữ nước chỉ còn lưu lại những cột mốc của các chiến công, còn cuộc chiến thầm lặng đã làm tan nát nhiều con người để con người được là chính mình, được là một thực thể thiêng liêng, đền đài lưu giữ muôn thuở cái tài sản tinh thần của một dân tộc, một dòng họ mãi mãi được vun xới, được phát triển tương ứng với sự phát triển của dân tộc, của thời đại thì chưa được văn thơ nói đến, triết học nói đến, các ngành khoa học nhân văn nói đến.
Dầu không nói đến, không được phép nói đến thì cái dòng chảy vĩnh cửu ấy vẫn được nhiều triệu người âm thầm khai thông, bồi đắp để các nhân tài Việt Nam không ngừng xuất hiện lúc ở lãnh vực này, lúc ở lãnh vực khác. Một đất nước không có những cá nhân kiệt xuất, tài ba làm chân dung đại diện trong cộng đồng nhân loại thì đó là một bất hạnh cho dân tộc, tạo ra một khoảng trống tiếp nối trong lịch sử sinh tồn của mỗi cá nhân. Rồi các thế hệ đến sau phải nối lại bằng cách nào vì vẫn phải bắt đầu từ môi trường chính trị, xã hội, từ một xã hội vừa truyền thống vừa văn minh, những mục tiêu nhắm tới vừa là phát triển cái riêng biệt, vừa là sự hòa nhập vào nền văn minh của khu vực và thế giới. Một nền văn minh riêng lẻ, với những mục tiêu hoang tưởng, một môi trường xã hội ngột ngạt vì cái bóng quyền lực phủ lên tất cả, quyết định tất cả thì số phận những cá nhân sẽ ra sao?
Hãy nhìn vào nước Nga những năm 90 của thế kỷ 20 là sẽ rõ. Họ vừa thoát khỏi cái bóng che của chủ nghĩa chuyên chế để được nhìn cái ánh sáng thật của dân chủ và tự do. Ai chả nghĩ họ đã có cơ hội sải những bước chân dài khi đã bung phá mọi sự trói buộc. Nước Nga mãi mãi là một siêu cường vì những thử thách lớn nhất của một dân tộc là chiến tranh và cách mạng nước Nga đều đã trải qua mà vẫn tồn tại vì đất đai mênh mông của mình và những tiềm lực vô hạn ẩn giấu trong đó cả vật chất lẫn tinh thần. Phải vài chục năm nữa nước Nga sẽ là như thế nhưng trước mắt thì không thể. Lý do rất đơn giản, kinh tế có thể phục hồi nhanh nhưng con người phải có thời gian dài hơn nhiều nó mới có thể lấy lại những gì đã mất. Tầm vóc cá nhân của người Nga trong non một thế kỷ dưới chế độ Xô Viết đã bị co hẹp lại rất nhiều dầu họ vẫn được sống, được học tập và lao động trong những điều kiện của một xã hội văn minh. Chỉ đáng tiếc cái văn minh của họ là một nền văn minh tự tạo tách khỏi nền văn minh nhân loại, dựa trên những tiêu chuẩn mà tâm hồn Nga không thể chấp nhận, không thể tiến hoá. Lại thêm trong non một thế kỷ người Nga đã mất dần thói quen suy nghĩ độc lập, quyết định độc lập, mất dần cả tính cách phản kháng và bảo vệ chân lý, con người quen sống trong đám đông, trong tập thể, trong bầy đàn, không có cơ hội và sự khích lệ của xã hội để tạo ra những chân dung riêng với những tư tưởng khác nhau, những triết lý khác nhau những cách sống khác nhau. Mọi cái khác với chính thống đều bị lên án, mọi cái giống nhau đều được tuyên dương. Vì những cái khác nhau rất khó tạo ra sự nhất trí, còn những cái giống nhau sẽ dễ nghe theo, làm theo mọi mệnh lệnh. Người cai trị sẽ rất dễ chịu, rất nhàn nhã nếu quốc gia mình cầm quyền được tổ chức giống như trại lính, ông ta sẽ có dư thời gian để làm thơ hoặc viết tiểu thuyết, vừa có cái bây giờ lại có cả cái sau này. Còn phải lãnh đạo một xã hội dân sự của các công dân tự do thì có hàng trăm công việc đòi hỏi phải được giải quyết mỗi ngày, mà cách thức giải quyết cũng rất phức tạp, nó yêu cầu phải đối thoại, phải được tranh luận bình đẳng, phải thương lượng, phải luôn luôn thay đổi những chủ trương mà dân chúng không bằng lòng. Và mọi việc làm đều phải tuân theo hiến pháp và được xã hội kiểm tra thông qua hệ thống thông tấn báo chí. Chẳng những người lãnh đạo phải bị kiểm tra những công việc thuộc về chức năng của họ mà còn bị theo dõi rất nghiêm ngặt mọi sinh hoạt thuộc về đời tư của họ để ngăn chặn kịp thời những vi phạm thuộc về đạo đức. Ở những xã hội văn minh thì người cầm quyền bị rất nhiều luật lệ câu thúc, trói buộc, là người mất tự do nhiều nhất, còn dân chúng thì được pháp luật bảo vệ đủ mọi đàng, càng ít bị trói buộc càng tốt, càng có nhiều tự do càng tốt. Chỉ một xã hội được tổ chức như thế thì vị trí cá nhân mới được tôn trọng, người có giá trị là người có cái TÔI mạnh mẽ, đầy sức sống, đầy sáng tạo. Nên mỗi người đều có ý thức vun trồng những nét đặc sắc của riêng mình, cái vẻ đẹp của riêng mình và con của cháu thành những gia đình nổi tiếng, những dòng họ nổi tiếng làm cột chống cho một quốc gia. Một chế độ độc tài khi phải đối mặt với những biến động lớn thường rễ bị nứt rạn, từ nứt rạn đến tiêu vong, thời gian diễn ra rất nhanh vì nó chỉ có trụ đỡ là quyền lực của một phe đảng, không có trụ đỡ về tinh thần của cả dân tộc. Một chế độ chính trị tồn tại tới non một thế kỷ hay một nửa thế kỷ cũng là lâu lắm, đã tạo ra mấy thế hệ ăn chung ở chung với nó, sinh con đẻ cái với nó mà khi nó chết không ai nhỏ được một giọt nước mắt, có người còn nhẫn tâm đạp lên cái vừa chết đó rồi mới tiếp tục bước đi, đủ biết người ta đã xem nó như vật bất thường, là quái thai, là tai hoạ, thời thế đã bất thần xoá bỏ nó một cách êm dịu, không phải tốn đến máu cũng là một may mắn phi thường. Có thể kết luận, một chế độ chính trị được xem là văn minh hay lạc hậu, là sẽ tồn tại lâu dài hay chỉ có mặt trong khoảng khắc của lịch sử là tuỳ thuộc vào cương lĩnh chính trị của Đảng cầm quyền có thật sự tôn trọng những quyền của con người hay không, các cá nhân với những khác biệt, những phản ứng, những bất tuân của nó có được đặt ở vị trí trang trọng trong hiến pháp hay không? Vì tiềm lực tinh thần của mọi cá nhân được vun xới, được phát triển trong tự do là nền tảng vững chắc nhất của mọi thiết chế chính trị. Vì còn nó ta có thể vững tin sẽ vượt qua mọi sóng gió bất thần của thời thế để mãi mãi tiến về phía trước.
Viết xong tại quận Bốn Thành phố Hồ Chí Minh ngày 27/5/2006
NGUYỄN KHẢI
12/12/08
THƠ Lê Sơn Thạch : VÀNG PHAI MẤY ĐỘ
Nhớ
Ta bỗng nhớ em như rừng nhớ gió,
Như con nai vàng nhớ bãi cỏ non,
Như con dế mèn ngóng đợi hoàng hôn,
Và ta nhớ những mùa trăng cũ.
Con chích choè còn tự hào có tổ,
Cớ sao ta sứ mãi lang thang,
Ngất ngưỡng say trên cuộc điêu tàn,
Cười nghiêng ngả trên dòng hoang phế!
Ta ngồi đấy nghĩ buồn Thượng Đế,
Bỏ ta một mình mòn mỏi đợi em.
Trăng thao thức đợi rừng đêm trở giấc,
Rừng lặng im như ngậm mối căn hờn.
Ta với rừng là hai kẻ cô đơn,
Không hẹn ước mà thành tri kỷ.
Rừng với ta là muôn điều kỳ bí,
Còn với em ta có vạn cổ sầu.
Em xa rồi mà ta có hay đâu,
Chợt thấy nhớ mới biết mình chia cách.
Rừng Mã Đà - 1982
Vẫn Còn
Ngựa hồng ta nát vó câu,
Đời còn ngây ngất giọt sầu rã riêng.
Trên dòng thác đổ triền miên,
Mùa thu vẫn có mây hiền hoà trôi;
Vẫn còn em đứng bên đời,
Vẫy tay cho gió lả lơi áo hồng.
Vẫn còn một khoảng trời trong,
Cho chim xây tổ, cho ong kết đàn.
…
Ta về khơi đống tro tàn,
Còn nghe hơi ấm trong than lửa gầy…
Cung Thương Ngày Cũ
Mười bảy tuổi đã nghe hồn biêng biếc,
Trôi lênh đênh cùng biển rộng sông dài;
Anh ngượng ngùng dạy em vũ Thiên Thai,
Mùa lưu diễn có em lòng chợt ấm.
Anh nhìn em, thương con chim én nhỏ,
Ngập ngừng rung đôi cánh mộng ngây thơ,
Đêm liên hoan tưng bừng muôn pháo nổ,
Về trường xưa anh mãi nhớ vu vơ…
Hai mươi tuổi lòng anh cơn bão nổi,
Tim rạt rào tìm kiếm những âm xưa.
Hồn anh rộng nên tình em mỏi cánh,
Một chiều đông, con chim én bay về.
Anh đón em trên miền chiêm bao thần thánh,
Suốt bốn mùa biên trấn thương ca.
Đây mê cung xin em cứ bước vào,
Rượu tình đó xin mời em uống cạn
(…)
Cho em say đắm đuối mắt thiên nga,
Cho em say quên trời rộng, trăng ngà,
Cho em chết một linh hồn nhỏ dại…
Anh thuở đó như dòng sông lưu lạc,
Mà thuyền em đầy ắp những màu trăng,
Anh phiêu bạt để thuyền em quạnh vắng,
Ngồi ôm con mòn mỏi nét phai tàn!
Em vẫn hát: “Chim xa rừng còn thương cây nhớ cội”
Lời ru ngọt ngào toả ấm nôi con,
Anh vẫn lang thang, hồn bạc màu sương khói,
Đời lãng du đành khép lại từ đây
(…)
Anh bây giờ co ro trong vỏ ốc,
Nhớ miên man trăng nước Ngũ Hành Sơn…
(…)
Bài này do con gái của tác giả là Lê Hoàng Thanh Thuỷ ghi lại theo trí nhớ với lời nhắn gửi: “Xin lỗi Ba, bài này rất dài, con không nhớ hết, còn thiếu sót nhiều câu”. Tác giả cũng thấy tiếc nhưng cảm thấy thế vẫn tạm đủ nên để vậy.
Tìm Nhau
Men theo phấn bụi thời gian,
Tìm chiếc lá úa trên ngàn thu phong,
Lần trong từng cánh mây hồng,
Tìm màu mắt biếc nghìn trùng xa khơi.
Lần theo từng nẻo cuộc đời,
Tìm trong kỷ niệm bóng người thiên thu.
Tìm trong khói nhạt, sương mù,
Tóc thề buổi ấy bây chừ về đâu?
Tìm nhau tóc đã phai màu,
Biển xanh nay hoá cồn dâu mất rồi!!!
Khúc Thương Ca
Em mơ gì khi bờ vai vừa xoã tóc,
Đi vào đời như một cuộc viễn du;
Em ước gì khi hồn vừa thêu nắng,
Dang đôi tay đón ánh mặt trời?
Em ngày đó ngu ngơ: Con én nhỏ,
Như hạt sương mai e ấp trên cành.
Chợt hôm nao trời lên giông bão,
Em chơi vơi trong hạnh phúc ngậm ngùi!
Hạnh phúc nhỏ nhoi như hạt bụi,
Và mong manh hơn sợi tơ trời;
Hạnh phúc hiếm hoi như mưa tháng hạ,
Và đắng cay hơn mọi cay đắng trên đời!
Vì yêu anh em một đời lận đận,
Gạo cơm đâu để nuôi lớn nụ cười;
Vì yêu anh nên em thành cô phụ,
Để mỏi mòn chờ đợi… tháng ngày trôi!
Vì yêu anh em cam lòng chịu thiệt,
Còn đâu em đời dệt gấm thêu hoa!
Anh xấu số nên khiến em bất hạnh,
Đành trăm năm chung một khúc thương ca!
Rồi Một Ngày
Ta về đây mang mang hồn viễn khách,
Đã mềm môi qua ngàn chén rượu cay;
Bỗng thấy đời chỉ là bọt biển,
Mắt miệng đã mù, sầu vẫn chất đầy!
Ta về đây làm con sông u uẩn,
Mà hồn ta đầy những rong rêu.
Bài hát cũ sao ta nghe xa lạ,
Tỉnh cơn say, đời ngã bóng chiều!
Ta về đây gọi tên mình để nhớ,
Và để quên, hết những ngày qua.
Còn gì đâu? Chỉ đôi bàn tay trắng,
Nhìn tương lai: Dòng nước cuốn mờ xa!
Bên Bờ
Sông nước mãi cuốn trôi,
Sao ta vẫn đứng yên một chỗ!
Ta đứng đây biết đến bao giờ?
Ôi, chút mộng hải hồ,
Đành vùi trong chăn ấm,
Nằm co ro nghe tháng năm mòn;
Nước tiễn đưa bao xác lá vàng,
Thân ta nặng nên chìm sâu đáy vực…
Sông ơi! Lòng ta mơ ước,
Một ngày nào về với đại dương…
Hương Xưa
Người về tìm lại hương xưa,
Mưa giăng phố cũ, nắng thưa ngõ chiều.
Ta về phố chợ đìu hiu,
Dừng chân lá đổ, nghe chiều tan hoang.
Về nghe từng cánh thu vàng,
Nghe em dệt nỗi cơ hàn thâu đêm.
Ta về như máu về tim,
Như con suối nhỏ đi tìm nguồn xưa…
Ta về đập vỡ gương xưa,
Nghe chiều rưng rức, nghe thơ nghẹn ngào.
Mười năm: một giấc chiêm bao,
Dừng chân phố cũ nghe màu tóc sương!
Từ yêu mây nước bềnh bồng,
Ngày đi để lại bên sông nỗi buồn.
Thương em ngày đó mưa cuồng,
Xa em ngày đó mộng còn biếc xanh;
Bây giờ mây khói xây thành,
Yêu em ta ngắt một cành phù dung…
Ra Đi
Ta như một vệt khói buồn,
Sợi len trong nắng, sợi luồn trong mưa.
Đêm qua nghe gió chuyển mùa,
Đàn lên Tư Mã, đàn mờ Văn Quân.
Ta yêu ta – Tình lặng câm,
Ra đi trong tiếng đàn trầm trầm rơi.
Ta đi nắng xế ngậm ngùi,
Nhớ trời hoa gấm, nhớ đời ca xang.
Ta đi cơn mộng vừa tàn,
Thương em sầu đợi bên hoàng hôn phai !
Hun Hút Đường Trần
Lê Sơn Thạch
Đời em thuyền nhẹ mong manh quá,
Ta chỉ là tên thuỷ thủ bất tài;
Ta cũng cố đưa em về bến đỗ,
Em ngại ngùng mặc năm tháng nổi trôi.
Ta cũng muốn dìu em qua muôn trùng sóng vỗ,
Đưa em xa vùng gió cát điêu linh,
Đưa em về miền trăng nước yên bình,
Sao em vẫn sợ đời cơn biển động!
Em có biết, từ sự chết đã ươm mầm sự sống,
Và tình yêu mọc từ nỗi cô đơn;
Có tình yêu nào không nước mắt tủi hờn,
Có vinh quang nào không xây bằng máu?!
Chiếc lá lung linh, ơi người tình bé nhỏ,
Giọt thương yêu rụng từng cánh ngập ngừng :
Ngày lê thê và đường dài hun hút,
Ta một mình đếm bước tha hương!
Mùa Xuân Không Trở Lại
Rồi từ đó mùa xuân không trở lại,
Ta mất em là mất cả quê hương;
Như hòn cuội lăn khắp vạn nẻo đường,
Bao năm tháng ta là tên du mục.
Cánh mai vàng nở hoài trong ký ức,
Mà mùa đông thì cứ mãi lê thê;
Rượu giang hồ đã bao lần say khướt,
Trời bao la sao chim én không về?
Ta từng có bạn bè đăm bảy đứa,
Từng bao phen tuý ngoạ sa trường*
Đêm giao thừa nghe tiếng vạc kêu sương,
Lòng rạo rực nghe mùa xuân chậm bước.
Rồi từ đó theo dòng sông lưu lạc,
Đi lang thang nghe biển gọi ta về;
Để đêm đêm nghe tiếng sóng vỗ bờ,
Ta chợt thấy tình yêu như bọt biển!
Em ra đi, mang mùa xuân đi mất,
Ta còn đây chiếc lá úa ven đường,
Ta còn đây một hạt bụi vô thường,
Bay vất vưởng giữa đời hiu hắt!
Rồi từ đó theo đàn chim biệt xứ,
Ta mãi bay vào tháng năm mù sương;
Ta lắng nghe từng mùa đi rất lạ,
Mà trong ta sao chẳng thấy mùa xuân!!!
* Tuý ngoạ sa trường quân mạc tiếu. (thơ Lương Châu Từ)
Mùa Xuân Nơi Đâu
Vài con chim ủ rũ,
Run rẩy trên cành khô ;
Chim nhìn nhau thầm hỏi
Mùa xuân chừ nơi mô?
Một con ong lìa tổ,
Mải miết bay tìm hoa.
Đầy trời bông tuyết trắng
Mùa xuân ôi mờ xa!
Hàng thông già lặng lẽ,
Soi bóng giữa trời sương;
Đợi gió về lay nhẹ,
Ngân dài mấy cung thương.
Mưa rơi, mưa cứ rơi,
Cho đời không chút nắng;
Mùa xuân còn xa vắng
Biết chờ ai, đợi ai?
Người đi, còn đi mãi,
Đường trần ôi quá xa,
Dừng chân chiều xuân tái,
Biết nơi đâu quê nhà?!
Dấu Chân Chim
Em đến tự thuở nào,
Cho đời xanh xanh lá,
Cho mùa xuân vào hạ,
Xanh một vùng chiêm bao.
Em đến tự thuở nào,
Cây cỏ bỗng xôn xao,
Nhìn bay bay tà áo,
Sao ta bỗng nghẹn ngào.
Ta nghe cơn buốt lạnh,
Trong tim mình lắng sâu,
Ta còn gì nữa đâu,
Sòng đời vừa thua trắng.
Em đến rồi em đi,
Cơn mưa chiều mùa hạ,
Ta buồn buồn, nhớ nhớ,
Thương hoài bước chim di…
Khi Những Lưu Dân Trở Về
Phải xưa ta là rừng
Nên hồn ta xanh ngát,
Em bơ vơ cánh vạc
Về hát mãi trong sương.
Ta đi tìm đau thương,
Mang vào đời chất ngất,
Bao cánh hồng héo hắt,
Rụng dần trong lãng quên.
Con oanh về ngủ yên,
Trên tình xưa đã chết.
Ta về đây đốt hết,
Những năm tháng cuồng điên.
Ta như những lưu dân,
Tìm quê hương đã mất.
Trên đường chiều hiu hắt,
Chuông giáo đường ngân vang.
Chuông gieo nỗi bình yên,
Cửa Thiên Đường đã mở.
Ta sấp mình sám hối,
Xin làm con chiên ngoan…
Được đăng bởi GÓP TƠ LÒNG vào lúc 23:43 0 nhận xét
Tâm Sự...
Em mãi mãi là đỉnh cao Everest,
Ta chỉ là tên thám hiểm bất tài.
Em huy hoàng từ một cõi thiên thai
Ta tàn tạ trên vùng mưa phù phiếm.
Em mãi mãi là khung trời kỷ niệm,
Ta tâng tiu từng giây phút ngọc ngà.
Dẫu cho đời chỉ là giấc Nam Kha,
Tình em mãi là dòng sông vô lượng.
Phải chăng em về qua rừng thần thoại,
Như người tình "Ngàn Lẻ Một Đêm"?
Rồi mai đây trong trận chiến êm đềm,
Ta vĩnh viễn là tên chiến bại.
Xin em mãi là nhà tu khổ hạnh,
Để ta làm một kẻ hành hương,
Để được nghe trong lời kinh nguyện,
Chút ngọt ngào man mác yêu thương.
Em mãi mãi là vì sao lạ,
Là ngọn hải đăng của biển cả mênh mông,
Kẻ lạc đường mong tìm nơi ánh sáng,
Mà bóng đêm là tiếng nói vô cùng!!!
Từ Khi
Từ em lìa cội xa nguồn
Sông xưa êm biếc thành cuồng lưu dâng.
Từ em bạn với phong trần,
Ta về ta đắp mộ phần cho ta!
Rượu nồng nhớ buổi quan hà,
Tàn y rũ cánh dưới tà huy bay;
Đàn chùng nhớ ngón tay gầy,
Cho mưa cung oán lên ngày phù dung.
Từ em theo dấu mây hồng,
Có con cuốc lẻ bên sông gọi buồn.
Đành rằng cuối bể, đầu nguồn,
Sao nghe thương nhớ ngập hồn vô biên.
Vắng rồi tiếng hát chim uyên,
Lẻ loi cánh nhạn về miền xa xăm,
Xa rồi những bước chân thầm,
Chờ bao la gọi, trăm năm quay về…
Nửa Đời
Ta buồn đã quá ba mươi,
Tóc dăm sợi trắng, nửa đời vắng không.
Ta buồn bẻ kiếm quăng sông,
Ta, tên vô đạo múa ngông chém Trời.
Nửa đời nghe nhịp tim lơi,
Giận đời ta hát, yêu người ta si
…
Nửa đời ôi còn lại gì!
Ngẩng đầu cười ngất, bỏ đi cũng vừa…
Về Nguồn
Người hỡi người! Xin chào nhau lần cuối,
Ta trở về nguồn ôn lại nét kinh thư;
Ta về nguồn ca bài ca bất tử,
Dù ngàn năm… thù hận cũng phai mờ.
Ta xếp tàn y, thắng yên lưng ngựa,
Gọi bốn phương mưa gió hãy dừng chân,
Cho ta về tắm dòng sông thanh thủy,
Cho ta về như một đứa con hoang.
Hỡi những rừng, truông, khe, suối!
Ta gửi lời từ biệt đến cho ngươi.
Trên núi cao có còn chim đậu?
Ta, con chim cô độc, ngậm ngùi đi.
Ta lần theo dấu mòn quá khứ.
Bản tình ca lạc giữa trời quên.
Mộng hải hồ bỏ lại ngoài biên trấn,
Ta đi tìm một cõi bình yên…
Ta về đây dẫu ngày xưa vàng võ
Tình bao la ta ươm lại mùa sau
Cây lại xanh và muôn hoa lại nở
Và tim ta dòng máu vẫn tươi màu…
Ta không muốn lênh đênh ngoài muôn bến
Mây cứ lang thang và gió mãi giang hồ
Ta dừng lại bên bờ sông dĩ vãng
Em vẫn chờ, vẫn đợi, vẫn bơ vơ…
Về Trên Phố Núi
Ngày nào về đây lặng đứng trên đồi,
Nhìn xuống phố phường chìm dưới mưa rơi;
Rặng liễu đìu hiu, gục đầu tóc rũ,
Ta chợt thấy ta lạc lõng giữa đời.
Ngày nào về bên dòng suối êm đềm,
Ta chẳng còn gì để nói yêu em,
Nhìn bóng thời gian, nghe con suối hát,
Nghe tình lắng sâu trong máu trong tim.
Ngày nào về đây lặng lẽ bên hồ,
Trên cành thông buồn chim hót vu vơ.
Sao em không cười, sao em không khóc?
Sao em dỗi hờn, sao em hững hờ?
Ngày nào về trên phố núi sương mù,
Nghe tiếng cồng ngân trong gió âm u;
Tình đã tan theo từng mùa lá chết,
Còn biết tìm đâu lời hẹn thiên thu!!!
NGUỒN : trích trong tập thơ " VÀNG PHAI MẤY ĐỘ " . Nhà thơ LÊ SƠN THẠCH
( Tác giả hiện sống và làm việc tại Hoa Kỳ : Indochina Cultural & Service Center of Tacoma - Washington state -USA )
Ta bỗng nhớ em như rừng nhớ gió,
Như con nai vàng nhớ bãi cỏ non,
Như con dế mèn ngóng đợi hoàng hôn,
Và ta nhớ những mùa trăng cũ.
Con chích choè còn tự hào có tổ,
Cớ sao ta sứ mãi lang thang,
Ngất ngưỡng say trên cuộc điêu tàn,
Cười nghiêng ngả trên dòng hoang phế!
Ta ngồi đấy nghĩ buồn Thượng Đế,
Bỏ ta một mình mòn mỏi đợi em.
Trăng thao thức đợi rừng đêm trở giấc,
Rừng lặng im như ngậm mối căn hờn.
Ta với rừng là hai kẻ cô đơn,
Không hẹn ước mà thành tri kỷ.
Rừng với ta là muôn điều kỳ bí,
Còn với em ta có vạn cổ sầu.
Em xa rồi mà ta có hay đâu,
Chợt thấy nhớ mới biết mình chia cách.
Rừng Mã Đà - 1982
Vẫn Còn
Ngựa hồng ta nát vó câu,
Đời còn ngây ngất giọt sầu rã riêng.
Trên dòng thác đổ triền miên,
Mùa thu vẫn có mây hiền hoà trôi;
Vẫn còn em đứng bên đời,
Vẫy tay cho gió lả lơi áo hồng.
Vẫn còn một khoảng trời trong,
Cho chim xây tổ, cho ong kết đàn.
…
Ta về khơi đống tro tàn,
Còn nghe hơi ấm trong than lửa gầy…
Cung Thương Ngày Cũ
Mười bảy tuổi đã nghe hồn biêng biếc,
Trôi lênh đênh cùng biển rộng sông dài;
Anh ngượng ngùng dạy em vũ Thiên Thai,
Mùa lưu diễn có em lòng chợt ấm.
Anh nhìn em, thương con chim én nhỏ,
Ngập ngừng rung đôi cánh mộng ngây thơ,
Đêm liên hoan tưng bừng muôn pháo nổ,
Về trường xưa anh mãi nhớ vu vơ…
Hai mươi tuổi lòng anh cơn bão nổi,
Tim rạt rào tìm kiếm những âm xưa.
Hồn anh rộng nên tình em mỏi cánh,
Một chiều đông, con chim én bay về.
Anh đón em trên miền chiêm bao thần thánh,
Suốt bốn mùa biên trấn thương ca.
Đây mê cung xin em cứ bước vào,
Rượu tình đó xin mời em uống cạn
(…)
Cho em say đắm đuối mắt thiên nga,
Cho em say quên trời rộng, trăng ngà,
Cho em chết một linh hồn nhỏ dại…
Anh thuở đó như dòng sông lưu lạc,
Mà thuyền em đầy ắp những màu trăng,
Anh phiêu bạt để thuyền em quạnh vắng,
Ngồi ôm con mòn mỏi nét phai tàn!
Em vẫn hát: “Chim xa rừng còn thương cây nhớ cội”
Lời ru ngọt ngào toả ấm nôi con,
Anh vẫn lang thang, hồn bạc màu sương khói,
Đời lãng du đành khép lại từ đây
(…)
Anh bây giờ co ro trong vỏ ốc,
Nhớ miên man trăng nước Ngũ Hành Sơn…
(…)
Bài này do con gái của tác giả là Lê Hoàng Thanh Thuỷ ghi lại theo trí nhớ với lời nhắn gửi: “Xin lỗi Ba, bài này rất dài, con không nhớ hết, còn thiếu sót nhiều câu”. Tác giả cũng thấy tiếc nhưng cảm thấy thế vẫn tạm đủ nên để vậy.
Tìm Nhau
Men theo phấn bụi thời gian,
Tìm chiếc lá úa trên ngàn thu phong,
Lần trong từng cánh mây hồng,
Tìm màu mắt biếc nghìn trùng xa khơi.
Lần theo từng nẻo cuộc đời,
Tìm trong kỷ niệm bóng người thiên thu.
Tìm trong khói nhạt, sương mù,
Tóc thề buổi ấy bây chừ về đâu?
Tìm nhau tóc đã phai màu,
Biển xanh nay hoá cồn dâu mất rồi!!!
Khúc Thương Ca
Em mơ gì khi bờ vai vừa xoã tóc,
Đi vào đời như một cuộc viễn du;
Em ước gì khi hồn vừa thêu nắng,
Dang đôi tay đón ánh mặt trời?
Em ngày đó ngu ngơ: Con én nhỏ,
Như hạt sương mai e ấp trên cành.
Chợt hôm nao trời lên giông bão,
Em chơi vơi trong hạnh phúc ngậm ngùi!
Hạnh phúc nhỏ nhoi như hạt bụi,
Và mong manh hơn sợi tơ trời;
Hạnh phúc hiếm hoi như mưa tháng hạ,
Và đắng cay hơn mọi cay đắng trên đời!
Vì yêu anh em một đời lận đận,
Gạo cơm đâu để nuôi lớn nụ cười;
Vì yêu anh nên em thành cô phụ,
Để mỏi mòn chờ đợi… tháng ngày trôi!
Vì yêu anh em cam lòng chịu thiệt,
Còn đâu em đời dệt gấm thêu hoa!
Anh xấu số nên khiến em bất hạnh,
Đành trăm năm chung một khúc thương ca!
Rồi Một Ngày
Ta về đây mang mang hồn viễn khách,
Đã mềm môi qua ngàn chén rượu cay;
Bỗng thấy đời chỉ là bọt biển,
Mắt miệng đã mù, sầu vẫn chất đầy!
Ta về đây làm con sông u uẩn,
Mà hồn ta đầy những rong rêu.
Bài hát cũ sao ta nghe xa lạ,
Tỉnh cơn say, đời ngã bóng chiều!
Ta về đây gọi tên mình để nhớ,
Và để quên, hết những ngày qua.
Còn gì đâu? Chỉ đôi bàn tay trắng,
Nhìn tương lai: Dòng nước cuốn mờ xa!
Bên Bờ
Sông nước mãi cuốn trôi,
Sao ta vẫn đứng yên một chỗ!
Ta đứng đây biết đến bao giờ?
Ôi, chút mộng hải hồ,
Đành vùi trong chăn ấm,
Nằm co ro nghe tháng năm mòn;
Nước tiễn đưa bao xác lá vàng,
Thân ta nặng nên chìm sâu đáy vực…
Sông ơi! Lòng ta mơ ước,
Một ngày nào về với đại dương…
Hương Xưa
Người về tìm lại hương xưa,
Mưa giăng phố cũ, nắng thưa ngõ chiều.
Ta về phố chợ đìu hiu,
Dừng chân lá đổ, nghe chiều tan hoang.
Về nghe từng cánh thu vàng,
Nghe em dệt nỗi cơ hàn thâu đêm.
Ta về như máu về tim,
Như con suối nhỏ đi tìm nguồn xưa…
Ta về đập vỡ gương xưa,
Nghe chiều rưng rức, nghe thơ nghẹn ngào.
Mười năm: một giấc chiêm bao,
Dừng chân phố cũ nghe màu tóc sương!
Từ yêu mây nước bềnh bồng,
Ngày đi để lại bên sông nỗi buồn.
Thương em ngày đó mưa cuồng,
Xa em ngày đó mộng còn biếc xanh;
Bây giờ mây khói xây thành,
Yêu em ta ngắt một cành phù dung…
Ra Đi
Ta như một vệt khói buồn,
Sợi len trong nắng, sợi luồn trong mưa.
Đêm qua nghe gió chuyển mùa,
Đàn lên Tư Mã, đàn mờ Văn Quân.
Ta yêu ta – Tình lặng câm,
Ra đi trong tiếng đàn trầm trầm rơi.
Ta đi nắng xế ngậm ngùi,
Nhớ trời hoa gấm, nhớ đời ca xang.
Ta đi cơn mộng vừa tàn,
Thương em sầu đợi bên hoàng hôn phai !
Hun Hút Đường Trần
Lê Sơn Thạch
Đời em thuyền nhẹ mong manh quá,
Ta chỉ là tên thuỷ thủ bất tài;
Ta cũng cố đưa em về bến đỗ,
Em ngại ngùng mặc năm tháng nổi trôi.
Ta cũng muốn dìu em qua muôn trùng sóng vỗ,
Đưa em xa vùng gió cát điêu linh,
Đưa em về miền trăng nước yên bình,
Sao em vẫn sợ đời cơn biển động!
Em có biết, từ sự chết đã ươm mầm sự sống,
Và tình yêu mọc từ nỗi cô đơn;
Có tình yêu nào không nước mắt tủi hờn,
Có vinh quang nào không xây bằng máu?!
Chiếc lá lung linh, ơi người tình bé nhỏ,
Giọt thương yêu rụng từng cánh ngập ngừng :
Ngày lê thê và đường dài hun hút,
Ta một mình đếm bước tha hương!
Mùa Xuân Không Trở Lại
Rồi từ đó mùa xuân không trở lại,
Ta mất em là mất cả quê hương;
Như hòn cuội lăn khắp vạn nẻo đường,
Bao năm tháng ta là tên du mục.
Cánh mai vàng nở hoài trong ký ức,
Mà mùa đông thì cứ mãi lê thê;
Rượu giang hồ đã bao lần say khướt,
Trời bao la sao chim én không về?
Ta từng có bạn bè đăm bảy đứa,
Từng bao phen tuý ngoạ sa trường*
Đêm giao thừa nghe tiếng vạc kêu sương,
Lòng rạo rực nghe mùa xuân chậm bước.
Rồi từ đó theo dòng sông lưu lạc,
Đi lang thang nghe biển gọi ta về;
Để đêm đêm nghe tiếng sóng vỗ bờ,
Ta chợt thấy tình yêu như bọt biển!
Em ra đi, mang mùa xuân đi mất,
Ta còn đây chiếc lá úa ven đường,
Ta còn đây một hạt bụi vô thường,
Bay vất vưởng giữa đời hiu hắt!
Rồi từ đó theo đàn chim biệt xứ,
Ta mãi bay vào tháng năm mù sương;
Ta lắng nghe từng mùa đi rất lạ,
Mà trong ta sao chẳng thấy mùa xuân!!!
* Tuý ngoạ sa trường quân mạc tiếu. (thơ Lương Châu Từ)
Mùa Xuân Nơi Đâu
Vài con chim ủ rũ,
Run rẩy trên cành khô ;
Chim nhìn nhau thầm hỏi
Mùa xuân chừ nơi mô?
Một con ong lìa tổ,
Mải miết bay tìm hoa.
Đầy trời bông tuyết trắng
Mùa xuân ôi mờ xa!
Hàng thông già lặng lẽ,
Soi bóng giữa trời sương;
Đợi gió về lay nhẹ,
Ngân dài mấy cung thương.
Mưa rơi, mưa cứ rơi,
Cho đời không chút nắng;
Mùa xuân còn xa vắng
Biết chờ ai, đợi ai?
Người đi, còn đi mãi,
Đường trần ôi quá xa,
Dừng chân chiều xuân tái,
Biết nơi đâu quê nhà?!
Dấu Chân Chim
Em đến tự thuở nào,
Cho đời xanh xanh lá,
Cho mùa xuân vào hạ,
Xanh một vùng chiêm bao.
Em đến tự thuở nào,
Cây cỏ bỗng xôn xao,
Nhìn bay bay tà áo,
Sao ta bỗng nghẹn ngào.
Ta nghe cơn buốt lạnh,
Trong tim mình lắng sâu,
Ta còn gì nữa đâu,
Sòng đời vừa thua trắng.
Em đến rồi em đi,
Cơn mưa chiều mùa hạ,
Ta buồn buồn, nhớ nhớ,
Thương hoài bước chim di…
Khi Những Lưu Dân Trở Về
Phải xưa ta là rừng
Nên hồn ta xanh ngát,
Em bơ vơ cánh vạc
Về hát mãi trong sương.
Ta đi tìm đau thương,
Mang vào đời chất ngất,
Bao cánh hồng héo hắt,
Rụng dần trong lãng quên.
Con oanh về ngủ yên,
Trên tình xưa đã chết.
Ta về đây đốt hết,
Những năm tháng cuồng điên.
Ta như những lưu dân,
Tìm quê hương đã mất.
Trên đường chiều hiu hắt,
Chuông giáo đường ngân vang.
Chuông gieo nỗi bình yên,
Cửa Thiên Đường đã mở.
Ta sấp mình sám hối,
Xin làm con chiên ngoan…
Được đăng bởi GÓP TƠ LÒNG vào lúc 23:43 0 nhận xét
Tâm Sự...
Em mãi mãi là đỉnh cao Everest,
Ta chỉ là tên thám hiểm bất tài.
Em huy hoàng từ một cõi thiên thai
Ta tàn tạ trên vùng mưa phù phiếm.
Em mãi mãi là khung trời kỷ niệm,
Ta tâng tiu từng giây phút ngọc ngà.
Dẫu cho đời chỉ là giấc Nam Kha,
Tình em mãi là dòng sông vô lượng.
Phải chăng em về qua rừng thần thoại,
Như người tình "Ngàn Lẻ Một Đêm"?
Rồi mai đây trong trận chiến êm đềm,
Ta vĩnh viễn là tên chiến bại.
Xin em mãi là nhà tu khổ hạnh,
Để ta làm một kẻ hành hương,
Để được nghe trong lời kinh nguyện,
Chút ngọt ngào man mác yêu thương.
Em mãi mãi là vì sao lạ,
Là ngọn hải đăng của biển cả mênh mông,
Kẻ lạc đường mong tìm nơi ánh sáng,
Mà bóng đêm là tiếng nói vô cùng!!!
Từ Khi
Từ em lìa cội xa nguồn
Sông xưa êm biếc thành cuồng lưu dâng.
Từ em bạn với phong trần,
Ta về ta đắp mộ phần cho ta!
Rượu nồng nhớ buổi quan hà,
Tàn y rũ cánh dưới tà huy bay;
Đàn chùng nhớ ngón tay gầy,
Cho mưa cung oán lên ngày phù dung.
Từ em theo dấu mây hồng,
Có con cuốc lẻ bên sông gọi buồn.
Đành rằng cuối bể, đầu nguồn,
Sao nghe thương nhớ ngập hồn vô biên.
Vắng rồi tiếng hát chim uyên,
Lẻ loi cánh nhạn về miền xa xăm,
Xa rồi những bước chân thầm,
Chờ bao la gọi, trăm năm quay về…
Nửa Đời
Ta buồn đã quá ba mươi,
Tóc dăm sợi trắng, nửa đời vắng không.
Ta buồn bẻ kiếm quăng sông,
Ta, tên vô đạo múa ngông chém Trời.
Nửa đời nghe nhịp tim lơi,
Giận đời ta hát, yêu người ta si
…
Nửa đời ôi còn lại gì!
Ngẩng đầu cười ngất, bỏ đi cũng vừa…
Về Nguồn
Người hỡi người! Xin chào nhau lần cuối,
Ta trở về nguồn ôn lại nét kinh thư;
Ta về nguồn ca bài ca bất tử,
Dù ngàn năm… thù hận cũng phai mờ.
Ta xếp tàn y, thắng yên lưng ngựa,
Gọi bốn phương mưa gió hãy dừng chân,
Cho ta về tắm dòng sông thanh thủy,
Cho ta về như một đứa con hoang.
Hỡi những rừng, truông, khe, suối!
Ta gửi lời từ biệt đến cho ngươi.
Trên núi cao có còn chim đậu?
Ta, con chim cô độc, ngậm ngùi đi.
Ta lần theo dấu mòn quá khứ.
Bản tình ca lạc giữa trời quên.
Mộng hải hồ bỏ lại ngoài biên trấn,
Ta đi tìm một cõi bình yên…
Ta về đây dẫu ngày xưa vàng võ
Tình bao la ta ươm lại mùa sau
Cây lại xanh và muôn hoa lại nở
Và tim ta dòng máu vẫn tươi màu…
Ta không muốn lênh đênh ngoài muôn bến
Mây cứ lang thang và gió mãi giang hồ
Ta dừng lại bên bờ sông dĩ vãng
Em vẫn chờ, vẫn đợi, vẫn bơ vơ…
Về Trên Phố Núi
Ngày nào về đây lặng đứng trên đồi,
Nhìn xuống phố phường chìm dưới mưa rơi;
Rặng liễu đìu hiu, gục đầu tóc rũ,
Ta chợt thấy ta lạc lõng giữa đời.
Ngày nào về bên dòng suối êm đềm,
Ta chẳng còn gì để nói yêu em,
Nhìn bóng thời gian, nghe con suối hát,
Nghe tình lắng sâu trong máu trong tim.
Ngày nào về đây lặng lẽ bên hồ,
Trên cành thông buồn chim hót vu vơ.
Sao em không cười, sao em không khóc?
Sao em dỗi hờn, sao em hững hờ?
Ngày nào về trên phố núi sương mù,
Nghe tiếng cồng ngân trong gió âm u;
Tình đã tan theo từng mùa lá chết,
Còn biết tìm đâu lời hẹn thiên thu!!!
NGUỒN : trích trong tập thơ " VÀNG PHAI MẤY ĐỘ " . Nhà thơ LÊ SƠN THẠCH
( Tác giả hiện sống và làm việc tại Hoa Kỳ : Indochina Cultural & Service Center of Tacoma - Washington state -USA )
Kiên Giang : bài đề tựa tập thơ " VÀNG PHAI MẤY ĐỘ " của LÊ SƠN THẠCH
Vàng Phai Mấy Độ - (Tựa)
Tôi đã từng nghĩ thơ ca phải chăng là chiếc cầu vồng muôn màu gọi ta phải nhìn ngắm, là cung đàn muôn điệu thúc giục ta phải lắng nghe. Nhìn ngắm, lắng nghe với mối đồng cảm cao khiết. Và tôi đang tìm màu sắc nào đẹp, lắng nghe âm thanh nào trầm bổng trong "Vàng phai mấy độ", một thi tập của nhà thơ xa xứ Lê Sơn Thạch.
Vàng phai mấy độ thu phong
Đàn chim mỏi cánh về trong sương mù
Đá buồn nhỏ lệ thiên thu
Sông buồn, sông cũng viễn du phương nào
Bạc phai từng sợi tóc xanh
Nghe tình còn vọng những thanh âm buồn. . .
Bài thơ chủ điểm là dấu ấn mang tín hiệu vàng phai mấy độ của Lê Sơn Thạch, là lời gợi mở thông thoáng. Dù ở góc trời nào (quê hương hay tha phương), con người sau khi trải qua nhiều bước thăng trầm chìm nổi đều giật mình soi lại mái tóc trước gương. Phải chăng thanh âm buồn là kỷ niệm, là hồi ức; là thói đời, là mặt trái của chữ tình mà những người trong cuộc, dù còn tương hợp hay đã ly tan đều luôn ấp ủ. Đó cũng như là thú đau thương dành cho một nhà thơ?
Tìm đến với tình yêu, chúng ta bắt gặp một Lê Sơn Thạch bùng nổ nhưng rất lãng mạn :
Thuở yêu em buồn đau từng cọng tóc
Từng nhánh thần kinh, từng dòng máu âm u
Vì yêu em, anh tin Thiên Đường có thật
Vì yêu em, anh đốt nến nguyện cầu
(Thuở yêu em)
Lê Sơn Thạch không ca ngợi thân xác phù du mà đau buồn với từng cọng tóc một cách tinh tế.
Sau trạng thái buồn đau, thất thần, người thơ sẽ tự cân bằng để tìm lại niềm sâu lắng :
Ngày nào về bên dòng suối êm đềm
Ta chẳng còn gì để nói yêu em
Nhìn bóng thời gian nghe con suối hát
Nghe tình lắng sâu trong máu trong tim
(Về trên phố núi)
Thế giới tình cảm của nhà thơ thật đa dạng, phong phú cho nên nỗi buồn, niềm vui, khát vọng, uẩn ức sẽ tan nhòa để tự nhận mình là đứa con hoang sau khi tắm mát trên dòng sông kỷ niệm :
Ta xếp tàn y thắng yên trên ngựa
Gọi bốn phương mây gió hãy dừng chân
Cho ta về tắm dòng sông thanh thủy
Cho ta về như một đứa con hoang
(Về nguồn)
Trong dòng đời chìm nổi, chính vì đã trải qua lắm nỗi phong trần mà mọi người cha, người ông đều ghi ấn tượng sâu sắc đối với những đứa con, đứa cháu ra đời. Đó là những đóa hoa, vì sao, giọt nắng...
Ta viết bài thơ
Mừng vì sao mới nở
Một bông hồng vừa dang cánh cho đời
Trái đất thêm nụ cười
Và nhân thế thêm nhiều lo nghĩ
Có phải con là chân lý
Là dòng sông hiện tại nối tương lai
Là niềm vui
Là hy vọng
Là nước mắt đêm dài
Là ước mơ đã thành trái chín
Là mật ngọt xua tan cay đắng
Là giọt nắng hồng
Là suối nước trong
(Mừng đầy tháng Lucky)
Trước cảnh quan kỳ vĩ, ngàn hoa đua nở, Lê Sơn Thạch vẫn ngùi nhớ hoa cau, hoa bưởi, hoa xoan ở quê nhà :
Rừng thông nở trắng ngàn hoa
Dòng sông trải lụa trắng ngà êm trôi
Như hoa cau rụng, như hoa bưởi rơi
Hoa lê nhuộm trắng khung trời cố hương
Hoa xoan trắng ngập sân trường
Ở đây hoa tuyết mãi vương chân người
(Hoa tuyết)
Phải chăng hồn quê vẫn luôn luôn vấn vương trong lòng người xa xứ. Mỗi người xa xứ đều có một cảnh ngộ :
Ai ngờ một chuyến ra đi
Là thiên thu vĩnh biệt quê hương rồi
Bao mùa lá rụng tuyết rơi
Có đàn chim Việt bên trời bơ vơ
(Về thăm cố hương)
Khi cuộc thế xoay vần, mối thắt gút được mở ra, định kiến được giải tỏa thì đàn chim Việt kia sẽ bay về tổ cũ. Với bài thơ "Về thăm cố hương”, nhà thơ Lê Sơn Thạch vừa thắt vừa mở nên ngày về vẫn là đáp số gần xa.
Từ năm 1698, lưu dân trên đường mở đất phương Nam đã biến đất hoang thành ruộng lúa phì nhiêu. Đương nhiên, tổ tiên đã mang đậm khí tiết lưu dân trên đường khai biên mở cõi. Con người xa xứ dù không mở cõi khai biên nhưng cũng có tâm trạng:
Ta như những lưu dân
Tìm quê hương đã mất
Trên đường chiều hiu hắt
Chuông giáo đường ngân vang.
(Khi những lưu dân trở về)
Trở về cố hương đâu chỉ thuần đi thăm những danh thắng, cảnh quê một thời cho đỡ nhớ. Đó còn là đi viếng và nghiêng mình một cách thành kính, cảm thông trước đồng bào mình đã vĩnh viễn nằm xuống.
Người nằm xuống, chiếc lá vàng rơi cô tịch
Như tinh sương rụng một đóa luân hồi
Người ra đi là trở về với đãt
Đất ôm người như mẹ ôm con
(Cho những người nằm xuống)
Từ dòng chảy vô tận của thi cảm, Lê Sơn Thạch trong hành trình quy cố hương bằng tâm tởng đã khôn nguôi nhớ đến các địa danh : Huế, Đà Nẵng, Tuy Hòa, Cần Thơ... Ở các nơi đó, nhà thơ đều gởi lại tấm lòng qua hồn thơ mở rộng muốn ôm ấp cả biển trời, sông núi dành cho toàn dân tộc chứ không phải dành riêng cho một ai. Thế là quê hương trong lòng vẫn ấp ủ cả cái còn cái mất. Cho đến ngày nhắm mắt, tình nghĩa khó phôi phai.
*
Bởi, mỗi nhà thơ là một thế giới thì mỗi một diêm quẹt một ngọn đèn, một ánh hỏa châu không soi thấu hết vòm trời bao la.
Bởi mỗi tâm hồn thơ là một vũ trụ thì một cánh diều, một khinh khí cầu, một con tàu vũ trụ cũng không thể khám phá đến tận cùng.
Đành mượn hồn thơ của Lê Sơn Thạch để hẹn hò :
Ta ước mơ một ngày xanh lá
Nhờ mùa xuân rực rỡ cánh rừng mai
Cho muôn chim về ca hát đêm ngày
Và non nước đón xuân về trẩy hội
(Rừng đã cháy)
Ta về như máu về tim
Như con suối nhỏ đi tìm nguồn xa...
(Hương xưa)
Đêm Biệt trang Xử quân tử (Thủ Đức)
Ngày Phú Lạc (Bình Chánh)
17. 08. 2007
Kiên Giang
Tôi đã từng nghĩ thơ ca phải chăng là chiếc cầu vồng muôn màu gọi ta phải nhìn ngắm, là cung đàn muôn điệu thúc giục ta phải lắng nghe. Nhìn ngắm, lắng nghe với mối đồng cảm cao khiết. Và tôi đang tìm màu sắc nào đẹp, lắng nghe âm thanh nào trầm bổng trong "Vàng phai mấy độ", một thi tập của nhà thơ xa xứ Lê Sơn Thạch.
Vàng phai mấy độ thu phong
Đàn chim mỏi cánh về trong sương mù
Đá buồn nhỏ lệ thiên thu
Sông buồn, sông cũng viễn du phương nào
Bạc phai từng sợi tóc xanh
Nghe tình còn vọng những thanh âm buồn. . .
Bài thơ chủ điểm là dấu ấn mang tín hiệu vàng phai mấy độ của Lê Sơn Thạch, là lời gợi mở thông thoáng. Dù ở góc trời nào (quê hương hay tha phương), con người sau khi trải qua nhiều bước thăng trầm chìm nổi đều giật mình soi lại mái tóc trước gương. Phải chăng thanh âm buồn là kỷ niệm, là hồi ức; là thói đời, là mặt trái của chữ tình mà những người trong cuộc, dù còn tương hợp hay đã ly tan đều luôn ấp ủ. Đó cũng như là thú đau thương dành cho một nhà thơ?
Tìm đến với tình yêu, chúng ta bắt gặp một Lê Sơn Thạch bùng nổ nhưng rất lãng mạn :
Thuở yêu em buồn đau từng cọng tóc
Từng nhánh thần kinh, từng dòng máu âm u
Vì yêu em, anh tin Thiên Đường có thật
Vì yêu em, anh đốt nến nguyện cầu
(Thuở yêu em)
Lê Sơn Thạch không ca ngợi thân xác phù du mà đau buồn với từng cọng tóc một cách tinh tế.
Sau trạng thái buồn đau, thất thần, người thơ sẽ tự cân bằng để tìm lại niềm sâu lắng :
Ngày nào về bên dòng suối êm đềm
Ta chẳng còn gì để nói yêu em
Nhìn bóng thời gian nghe con suối hát
Nghe tình lắng sâu trong máu trong tim
(Về trên phố núi)
Thế giới tình cảm của nhà thơ thật đa dạng, phong phú cho nên nỗi buồn, niềm vui, khát vọng, uẩn ức sẽ tan nhòa để tự nhận mình là đứa con hoang sau khi tắm mát trên dòng sông kỷ niệm :
Ta xếp tàn y thắng yên trên ngựa
Gọi bốn phương mây gió hãy dừng chân
Cho ta về tắm dòng sông thanh thủy
Cho ta về như một đứa con hoang
(Về nguồn)
Trong dòng đời chìm nổi, chính vì đã trải qua lắm nỗi phong trần mà mọi người cha, người ông đều ghi ấn tượng sâu sắc đối với những đứa con, đứa cháu ra đời. Đó là những đóa hoa, vì sao, giọt nắng...
Ta viết bài thơ
Mừng vì sao mới nở
Một bông hồng vừa dang cánh cho đời
Trái đất thêm nụ cười
Và nhân thế thêm nhiều lo nghĩ
Có phải con là chân lý
Là dòng sông hiện tại nối tương lai
Là niềm vui
Là hy vọng
Là nước mắt đêm dài
Là ước mơ đã thành trái chín
Là mật ngọt xua tan cay đắng
Là giọt nắng hồng
Là suối nước trong
(Mừng đầy tháng Lucky)
Trước cảnh quan kỳ vĩ, ngàn hoa đua nở, Lê Sơn Thạch vẫn ngùi nhớ hoa cau, hoa bưởi, hoa xoan ở quê nhà :
Rừng thông nở trắng ngàn hoa
Dòng sông trải lụa trắng ngà êm trôi
Như hoa cau rụng, như hoa bưởi rơi
Hoa lê nhuộm trắng khung trời cố hương
Hoa xoan trắng ngập sân trường
Ở đây hoa tuyết mãi vương chân người
(Hoa tuyết)
Phải chăng hồn quê vẫn luôn luôn vấn vương trong lòng người xa xứ. Mỗi người xa xứ đều có một cảnh ngộ :
Ai ngờ một chuyến ra đi
Là thiên thu vĩnh biệt quê hương rồi
Bao mùa lá rụng tuyết rơi
Có đàn chim Việt bên trời bơ vơ
(Về thăm cố hương)
Khi cuộc thế xoay vần, mối thắt gút được mở ra, định kiến được giải tỏa thì đàn chim Việt kia sẽ bay về tổ cũ. Với bài thơ "Về thăm cố hương”, nhà thơ Lê Sơn Thạch vừa thắt vừa mở nên ngày về vẫn là đáp số gần xa.
Từ năm 1698, lưu dân trên đường mở đất phương Nam đã biến đất hoang thành ruộng lúa phì nhiêu. Đương nhiên, tổ tiên đã mang đậm khí tiết lưu dân trên đường khai biên mở cõi. Con người xa xứ dù không mở cõi khai biên nhưng cũng có tâm trạng:
Ta như những lưu dân
Tìm quê hương đã mất
Trên đường chiều hiu hắt
Chuông giáo đường ngân vang.
(Khi những lưu dân trở về)
Trở về cố hương đâu chỉ thuần đi thăm những danh thắng, cảnh quê một thời cho đỡ nhớ. Đó còn là đi viếng và nghiêng mình một cách thành kính, cảm thông trước đồng bào mình đã vĩnh viễn nằm xuống.
Người nằm xuống, chiếc lá vàng rơi cô tịch
Như tinh sương rụng một đóa luân hồi
Người ra đi là trở về với đãt
Đất ôm người như mẹ ôm con
(Cho những người nằm xuống)
Từ dòng chảy vô tận của thi cảm, Lê Sơn Thạch trong hành trình quy cố hương bằng tâm tởng đã khôn nguôi nhớ đến các địa danh : Huế, Đà Nẵng, Tuy Hòa, Cần Thơ... Ở các nơi đó, nhà thơ đều gởi lại tấm lòng qua hồn thơ mở rộng muốn ôm ấp cả biển trời, sông núi dành cho toàn dân tộc chứ không phải dành riêng cho một ai. Thế là quê hương trong lòng vẫn ấp ủ cả cái còn cái mất. Cho đến ngày nhắm mắt, tình nghĩa khó phôi phai.
*
Bởi, mỗi nhà thơ là một thế giới thì mỗi một diêm quẹt một ngọn đèn, một ánh hỏa châu không soi thấu hết vòm trời bao la.
Bởi mỗi tâm hồn thơ là một vũ trụ thì một cánh diều, một khinh khí cầu, một con tàu vũ trụ cũng không thể khám phá đến tận cùng.
Đành mượn hồn thơ của Lê Sơn Thạch để hẹn hò :
Ta ước mơ một ngày xanh lá
Nhờ mùa xuân rực rỡ cánh rừng mai
Cho muôn chim về ca hát đêm ngày
Và non nước đón xuân về trẩy hội
(Rừng đã cháy)
Ta về như máu về tim
Như con suối nhỏ đi tìm nguồn xa...
(Hương xưa)
Đêm Biệt trang Xử quân tử (Thủ Đức)
Ngày Phú Lạc (Bình Chánh)
17. 08. 2007
Kiên Giang
11/12/08
Abraham Lincoln : Diễn văn Gettysburg
Diễn văn Gettysburg
Abraham Lincoln
(1809 – 1865)
Bài diễn văn tuy ngắn ngủi nhưng đã toát ra tinh thần trách nhiệm cao cả nhất của những người còn sống đối với sự nghiệp dân tộc mà biết bao chiến sĩ đã ngã xuống. Nó khẳng định lại lý tưởng Tự do, Bình đẳng đã được viết trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ.
Nguyễn Xuân Xanh
Dưới đây là bài diễn văn nổi tiếng, có lẽ nổi tiếng nhất của Tổng Thống Mỹ Abraham Lincoln, mà ông đã đọc trong buổi lễ khánh thành Nghĩa trang quốc gia Gettysburg ngày 19.11.1863, tức 144 năm trước đây. Trong cuộc nội chiến Nam Bắc (1861–1865), trận chiến xung quanh thành phố Gettysburg thuộc bang Pennsilvania vào tháng 7 năm đó có lẽ là đẫm máu nhất và được xem như khúc quanh cho cuộc chiến.
Bài diễn văn tuy ngắn ngủi nhưng đã toát ra tinh thần trách nhiệm cao cả nhất của những người còn sống đối với sự nghiệp dân tộc mà biết bao chiến sĩ đã ngã xuống. Nó khẳng định lại lý tưởng Tự do, Bình đẳng đã được viết trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ.
Gettysburg đã trở thành cái tên rất nổi tiếng trong lịch sử Mỹ. Một vị lãnh đạo của một quốc gia lớn châu Á mấy năm trước trong chuyến công du tại Hoa Kỳ đã xin cho ông được đi thăm địa danh này. Ông coi đấy là một phần văn hóa không thể thiếu của chương trình thăm nước Mỹ.
Những ngày gần đây một số báo chí Mỹ đưa tin, hai tấm ảnh vừa được tìm thấy trong thư viện quốc gia (Congress library) có thể là của Abraham Lincoln lúc trước khi ông đọc diễn văn. Cho đến nay chỉ có một tấm ảnh duy nhất còn lưu lại của ông chụp chung với đám đông sau khi đọc diễn văn. Cuộc thảo luận còn tiếp diễn về hai tấm ảnh mới này.
Sau đây là bản dịch ( Nguyễn Xuân Xanh )
Diễn văn Gettysburg
Abraham Lincoln
Tám mươi bảy năm trước ông cha chúng ta đã khai sinh ra trên lục địa này một quốc gia mới, được thai nghén trong Tự do, và sống hiến dâng cho lý tưởng được đề ra, rằng tất cả mọi người được tạo hóa sinh ra bình đẳng.
Giờ đây chúng ta bị lâm vào một cuộc nội chiến lớn, thử thách xem quốc gia này, hay bất cứ quốc gia nào được thai nghén và sống hiến dâng như thế, có thể tồn tại được lâu dài hay không. Chúng ta gặp nhau trên một chiến trường lớn của cuộc chiến này. Chúng ta đến để hiến dâng một phần đất nhỏ của chiến trường này làm nơi an nghỉ cuối cùng cho những người đã để lại mạng sống mình tại đây, để cho quốc gia này có thể tồn tại. Tất cả đều phù hợp và chính đáng để chúng ta làm việc này.
Tuy nhiên, theo một nghĩa rộng hơn, chúng ta không thể hiến dâng – không thể tôn phong – không thể thánh hóa – miếng đất này. Chính những con người dũng cảm đã chiến đấu tại đây, dù còn sống hay đã chết, đã làm thiêng liêng nó, vượt xa khả năng kém cỏi của chúng ta để thêm hay bớt đi điều gì cho nó. Thế giới sẽ ít chú ý, hay nhớ lâu những gì chúng ta nói ở đây, nhưng sẽ không bao giờ quên điều gì họ đã làm ở đây. Chính chúng ta, những người còn sống, mới phải hiến dâng mình cho công việc dở dang mà những người chiến đấu ở đây đã tiến hành một cách cao quý. Chính chúng ta mới là những người phải hiến dâng mình cho nhiệm vụ lớn còn ở trước mặt – rằng từ những người chết được vinh danh này chúng ta sẽ nhận lấy sự tận tụy nhiều hơn cho sự nghiệp mà họ đã cống hiến đến hơi thở cuối cùng – rằng chúng ta ở đây sẽ có quyết tâm cao để cho những người đã ngã xuống sẽ không hy sinh một cách phí hoài – rằng quốc gia này, dưới ơn trên của Chúa, sẽ chứng kiến một cuộc sinh nở mới của tự do – và rằng chính quyền của dân, do dân và vì dân, sẽ không biến mất khỏi trái đất này.
Bản dịch : Nguyễn Xuân Xanh
Original text :
The Gettysburg address
Four score and seven years ago our fathers brought forth on this continent, a new nation, conceived in Liberty, and dedicated to the proposition that all men are created equal.
Now we are engaged in a great civil war, testing whether that nation, or any nation so conceived and so dedicated, can long endure. We are met on a great battle-field of that war. We have come to dedicate a portion of that field, as a final resting place for those who here gave their lives that that nation might live. It is altogether fitting and proper that we should do this.
But, in a larger sense, we can not dedicate -- we can not consecrate -- we can not hallow -- this ground. The brave men, living and dead, who struggled here, have consecrated it, far above our poor power to add or detract. The world will little note, nor long remember what we say here, but it can never forget what they did here. It is for us the living, rather, to be dedicated here to the unfinished work which they who fought here have thus far so nobly advanced. It is rather for us to be here dedicated to the great task remaining before us -- that from these honored dead we take increased devotion to that cause for which they gave the last full measure of devotion -- that we here highly resolve that these dead shall not have died in vain -- that this nation, under God, shall have a new birth of freedom -- and that government of the people, by the people, for the people, shall not perish from the earth.
Abraham Lincoln
19.11.1863
Source: Collected Works of Abraham Lincoln, edited by Roy P. Basler.
Abraham Lincoln
(1809 – 1865)
Bài diễn văn tuy ngắn ngủi nhưng đã toát ra tinh thần trách nhiệm cao cả nhất của những người còn sống đối với sự nghiệp dân tộc mà biết bao chiến sĩ đã ngã xuống. Nó khẳng định lại lý tưởng Tự do, Bình đẳng đã được viết trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ.
Nguyễn Xuân Xanh
Dưới đây là bài diễn văn nổi tiếng, có lẽ nổi tiếng nhất của Tổng Thống Mỹ Abraham Lincoln, mà ông đã đọc trong buổi lễ khánh thành Nghĩa trang quốc gia Gettysburg ngày 19.11.1863, tức 144 năm trước đây. Trong cuộc nội chiến Nam Bắc (1861–1865), trận chiến xung quanh thành phố Gettysburg thuộc bang Pennsilvania vào tháng 7 năm đó có lẽ là đẫm máu nhất và được xem như khúc quanh cho cuộc chiến.
Bài diễn văn tuy ngắn ngủi nhưng đã toát ra tinh thần trách nhiệm cao cả nhất của những người còn sống đối với sự nghiệp dân tộc mà biết bao chiến sĩ đã ngã xuống. Nó khẳng định lại lý tưởng Tự do, Bình đẳng đã được viết trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ.
Gettysburg đã trở thành cái tên rất nổi tiếng trong lịch sử Mỹ. Một vị lãnh đạo của một quốc gia lớn châu Á mấy năm trước trong chuyến công du tại Hoa Kỳ đã xin cho ông được đi thăm địa danh này. Ông coi đấy là một phần văn hóa không thể thiếu của chương trình thăm nước Mỹ.
Những ngày gần đây một số báo chí Mỹ đưa tin, hai tấm ảnh vừa được tìm thấy trong thư viện quốc gia (Congress library) có thể là của Abraham Lincoln lúc trước khi ông đọc diễn văn. Cho đến nay chỉ có một tấm ảnh duy nhất còn lưu lại của ông chụp chung với đám đông sau khi đọc diễn văn. Cuộc thảo luận còn tiếp diễn về hai tấm ảnh mới này.
Sau đây là bản dịch ( Nguyễn Xuân Xanh )
Diễn văn Gettysburg
Abraham Lincoln
Tám mươi bảy năm trước ông cha chúng ta đã khai sinh ra trên lục địa này một quốc gia mới, được thai nghén trong Tự do, và sống hiến dâng cho lý tưởng được đề ra, rằng tất cả mọi người được tạo hóa sinh ra bình đẳng.
Giờ đây chúng ta bị lâm vào một cuộc nội chiến lớn, thử thách xem quốc gia này, hay bất cứ quốc gia nào được thai nghén và sống hiến dâng như thế, có thể tồn tại được lâu dài hay không. Chúng ta gặp nhau trên một chiến trường lớn của cuộc chiến này. Chúng ta đến để hiến dâng một phần đất nhỏ của chiến trường này làm nơi an nghỉ cuối cùng cho những người đã để lại mạng sống mình tại đây, để cho quốc gia này có thể tồn tại. Tất cả đều phù hợp và chính đáng để chúng ta làm việc này.
Tuy nhiên, theo một nghĩa rộng hơn, chúng ta không thể hiến dâng – không thể tôn phong – không thể thánh hóa – miếng đất này. Chính những con người dũng cảm đã chiến đấu tại đây, dù còn sống hay đã chết, đã làm thiêng liêng nó, vượt xa khả năng kém cỏi của chúng ta để thêm hay bớt đi điều gì cho nó. Thế giới sẽ ít chú ý, hay nhớ lâu những gì chúng ta nói ở đây, nhưng sẽ không bao giờ quên điều gì họ đã làm ở đây. Chính chúng ta, những người còn sống, mới phải hiến dâng mình cho công việc dở dang mà những người chiến đấu ở đây đã tiến hành một cách cao quý. Chính chúng ta mới là những người phải hiến dâng mình cho nhiệm vụ lớn còn ở trước mặt – rằng từ những người chết được vinh danh này chúng ta sẽ nhận lấy sự tận tụy nhiều hơn cho sự nghiệp mà họ đã cống hiến đến hơi thở cuối cùng – rằng chúng ta ở đây sẽ có quyết tâm cao để cho những người đã ngã xuống sẽ không hy sinh một cách phí hoài – rằng quốc gia này, dưới ơn trên của Chúa, sẽ chứng kiến một cuộc sinh nở mới của tự do – và rằng chính quyền của dân, do dân và vì dân, sẽ không biến mất khỏi trái đất này.
Bản dịch : Nguyễn Xuân Xanh
Original text :
The Gettysburg address
Four score and seven years ago our fathers brought forth on this continent, a new nation, conceived in Liberty, and dedicated to the proposition that all men are created equal.
Now we are engaged in a great civil war, testing whether that nation, or any nation so conceived and so dedicated, can long endure. We are met on a great battle-field of that war. We have come to dedicate a portion of that field, as a final resting place for those who here gave their lives that that nation might live. It is altogether fitting and proper that we should do this.
But, in a larger sense, we can not dedicate -- we can not consecrate -- we can not hallow -- this ground. The brave men, living and dead, who struggled here, have consecrated it, far above our poor power to add or detract. The world will little note, nor long remember what we say here, but it can never forget what they did here. It is for us the living, rather, to be dedicated here to the unfinished work which they who fought here have thus far so nobly advanced. It is rather for us to be here dedicated to the great task remaining before us -- that from these honored dead we take increased devotion to that cause for which they gave the last full measure of devotion -- that we here highly resolve that these dead shall not have died in vain -- that this nation, under God, shall have a new birth of freedom -- and that government of the people, by the people, for the people, shall not perish from the earth.
Abraham Lincoln
19.11.1863
Source: Collected Works of Abraham Lincoln, edited by Roy P. Basler.
Giã từ thế kỉ hai mươi E. Evtushenko (Ngân Xuyên dịch)
Giã từ thế kỉ hai mươi
E. Evtushenko (Ngân Xuyên dịch)
Maldelshtam viết : " Thế kỉ chó sói nhảy bổ vào vai tôi ". Thế kỉ này đã bóp chết không thương tiếc Maldelshtam, cùng nhiều người khác. Nhưng khi đó thế kỉ hai mươi đang là con chó săn trẻ trung, mạnh khoẻ. May cho thế hệ chúng tôi, khi chúng tôi qua tuổi nhỏ trưởng thành lên thì thế kỉ chó sói đã già đi, hàm răng của nó đã bắt đầu lung lay. Nó thỉnh thoảng vẫn nhảy bổ vào chúng tôi, nhưng cú ngoạm đã không còn như xưa. Chúng tôi cũng còn may là thế kỉ hiện ra không chỉ dưới dạng sói đực đi săn, mà còn dưới dạng sói cái cho sữa.
GIÃ TỪ THẾ KỈ HAI MƯƠI
E. EVTUSHENKO
Ngân Xuyên dịch
1. Cuốn sách có những trang bị xé
Hồi trẻ có lần người bạn của tôi là họa sĩ Oleg Tselkov tình cờ tìm thấy ở một hố rác tại vùng quê Tushin của mình cuốn tiểu thuyết Tội ác và sự trừng phạt đã được đọc đến sờn rách với những trang bị xé hay đơn giản là bị mất. Anh bạn hoạ sĩ coi đó là món quà của số phận nên gần một năm đi đâu anh cũng cứ kè kè cuốn tiểu thuyết bên mình, khi thì trong metro, khi thì ở một quán rượu nhỏ, còn có khi lại là một buổi sáng trên chiếc đi văng võng xuống vì tình yêu của một cô bạn gái qua đường thuộc về bộ phận loài người chưa từng bao giờ nghe nói đến Dostoievsky.
ee
Nhà hoạ sĩ đoan chắc với tôi rằng đọc cuốn sách có những trang bị xé thú vị hơn nhiều, bởi vì những chỗ trống buộc mình phải ức đoán.
Cứ coi như là bạn tìm thấy cuốn sách này của tôi trong hố rác. Nó cũng giống như cuốn tiểu thuyết có những trang bị mất hay thậm chí có những chương bị lược bỏ. Nhưng chúng không phải bị xé – chúng chỉ đơn giản là chưa được viết ra.
Suốt cả cuộc đời, với tính chính xác của một chiếc máy ghi địa chấn, tôi đã ráo riết ghi lại tất cả những chuyển động dưới lòng đất và những cơn động đất của thế kỉ hai mươi, đôi khi vì thế mà tôi đã không ghi lại được nhịp đập trái tim mình.
Người ta gọi tôi là kẻ coi mình là trung tâm, thực ra tôi chỉ là kẻ đứng ở vòng ngoài. Nhưng những gì tôi viết – ngay cả là không phải về mình – cũng chính là về tôi. Còn những gì tôi viết dường như chỉ về mình thì đôi khi lại còn lớn hơn chỉ mình tôi. Cuốn sách này là một điện tâm đồ kép – của tôi và của thế kỉ hai mươi.
Khi hai lăm tuổi, tôi đã chia tay với một phụ nữ hai mươi tuổi tài năng hiếm có mà tôi yêu nhất trên đời. Dịp đó tôi đã viết ra, đúng hơn là đã thở hắt ra, bài thơ Chuyện xảy ra với anh. Tôi không gán cho bài thơ đó một "ý nghĩa xã hội" nào, chỉ coi nó là một thứ rất riêng tư, được viết ra chỉ để cho nàng và cho tôi, mong nó giúp được chút gì cho chúng tôi. Bài thơ đã không giúp gì được, mọi điều đã muộn. Nhưng khi nó vừa được in ra nhiều bạn trẻ đã chép chuyền tay nhau, dường như tôi viết nó là về họ, vì họ và cho họ.
Tôi đã vĩnh viễn chia tay người yêu của mình, dù vẫn còn làm bạn với nhau lâu, ngay khi tôi đã có vợ và nàng đã có chồng, cho đến khi một bàn tay nào đó – mong rằng đấy không phải là tay nàng – đã báo thù hèn hạ bằng cách xoá hết tất cả những lời đề tặng tôi trong các bài thơ nàng viết.
Nhưng không ai có thể xoá được những lời đề tặng nàng trong các bài thơ của tôi. Thật hết sức vô nghĩa là sự ghen tuông hằn học đối với quá khứ. Không thể làm lại được gì ở đấy hết.
Còn bài thơ Chuyện xảy ra với anh thì vẫn sống, bởi điều nói trong đó vẫn lại tiếp tục xảy ra, không chỉ là với tôi. Thoạt đầu nó bất ngờ vang lên say đắm bằng tiếng Đức được dịch ra ở Cộng hoà Dân chủ Đức nhưng không phải để nói về sự ngăn cách của hai người, mà của cả một dân tộc ở hai bên bức tường Berlin.
Mấy năm sau bài thơ được phổ nhạc trong phim Sự mỉa mai của số phận của Ryazanov và được hát với đàn ghi ta trong các khu sinh viên, công nhân, bên những đống lửa của dân du lịch. Sau nữa, bài thơ dường như là tiếng lòng thầm kín nhất này của tôi đã vượt ra ngoài ý muốn của tác giả bắt đầu trở thành bài thơ mang tâm trạng công dân, khi những con người hết sức gần gũi về tinh thần lại bị phân cách về địa lý. Tại các buổi đọc thơ những người đồng hương cũ của tôi bây giờ tản mát khắp thế giới – ở Israel, Mỹ, Australia, Đức – rất hay đề nghị tôi đọc nó.
Giờ đây, khi tôi bước vào cái gọi là "nước ngoài kề bên", nơi biết bao người Nga đột nhiên bị rơi vào tình cảnh buộc thành người "ngoại quốc", thì những vần thơ của tôi viết ra khi tôi không thể ngờ là sẽ có lúc Liên Xô biến mất, vang lên đặc biệt cay đắng.
Ôi, ai người,
hãy đến,
hãy phá vỡ
sự thống nhất của những người xa lạ
và sự biệt lập
của những tâm hồn gần gũi !
Như vậy nhật kí cá nhân của tôi đôi khi bất giác biến thành nhật kí của thế kỉ. Bất giác, nhưng không phải ngẫu nhiên.
Những trang sách bị xé ra hay chưa được viết ra đôi khi dính liền.
2. Không với chó nhà, chẳng với chó rừng
Maldelshtam viết : "Thế kỉ chó sói nhảy bổ vào vai tôi". Thế kỉ này đã bóp chết không thương tiếc Maldelshtam, cùng nhiều người khác. Nhưng khi đó thế kỉ hai mươi đang là con chó săn trẻ trung, mạnh khỏe. May cho thế hệ chúng tôi, khi chúng tôi qua tuổi nhỏ trưởng thành lên thì thế kỉ chó sói đã già đi, hàm răng của nó đã bắt đầu lung lay. Nó thỉnh thoảng vẫn nhảy bổ vào chúng tôi, nhưng cú ngoạm đã không còn như xưa. Chúng tôi cũng còn may là thế kỉ hiện ra không chỉ dưới dạng sói đực đi săn, mà còn dưới dạng sói cái cho sữa. Thế hệ những năm sáu mươi (thế kỉ hai mươi – ND) đó là những cừu non của những khu rừng rậm xã hội chủ nghĩa.
Tôi viết không phải bằng mực, mà bằng sữa của con sói cái đã cứu tôi khỏi nanh vuốt của bầy chó núi. Không phải ngẫu nhiên tôi bị đuổi khỏi trường học với hạnh kiểm xấu – với "tấm căn cước sói". Không phải ngẫu nhiên hai giống chó thuộc loại người căm thù tôi từ trong trứng, nhưng vẫn đồng lòng với tôi và với nhau – chó nhà và chó rừng (những kẻ phù phiếm chuyên nghiệp và những người "yêu nước" chuyên nghiệp) luôn nhảy bổ vào tôi.
Tôi vui mừng là với "tấm căn cước sói" như thế tôi đã bị "đuổi" khỏi tất cả các nơi – tôi không thuộc một đảng phái nào, một băng nhóm nào, một giới thời thượng kiêu căng nào của chúng ta, nó chỉ làm ra vẻ độc lập chứ thực chất là chao đảo giữa các đảng phái và băng nhóm. Tôi không nhập hội với chó nhà, mà cũng không hùa vào với chó rừng.
"Tấm căn cước sói" - đấy là số phận của tôi.
3. Tôi là nhà thơ xô viết cuối cùng
Brodsky là nhà thơ hoàn toàn phi xô viết đầu tiên trong số người sinh vào thời xô viết. Còn tôi là nhà thơ xô viết cuối cùng. Nhưng chính quyền xô viết đã làm đủ cách để đánh bật "chất xô viết" đó ra khỏi tôi.
Tôi thuộc lớp người những năm sáu mươi (thế kỉ XX - ND) bắt đầu đấu tranh với bóng ma Stalin nhờ bóng ma Lenin. Nhưng làm sao hồi đó chúng tôi biết được, khui được các tài liệu lưu trữ về một Lenin khác, chưa từng biết đến, được bảo quản rất chặt chẽ ? Làm sao chúng tôi có thể đọc được Quần đảo GULAK trước khi nó được viết ra ? Chúng tôi không biết rằng dưới sắc lệnh về việc xây dựng Solovkov – trại tập trung đầu tiên trước thời Hitler – là chữ kí của Lenin, rằng chính ông ta đã ban ra những mệnh lệnh tàn bạo đàn áp nông dân, chúng tôi không biết thái độ không khoan nhượng của ông ta đối với giới trí thức khác chính kiến. Nhiều thư từ của ông gửi Dzerzhinsky, Stalin, những công văn khẩn, những chỉ thị, đã bị giấu kín. Đối với tôi và nhiều người khác, từ bỏ sự lý tưởng hoá Lenin là một điều đau khổ. Khi quan niệm cách mạng như là "sự báo thù cho người anh" chính Lenin cũng không nhận biết là ông ta đã bắt đầu báo thù cả một dân tộc, chứ không chỉ chế độ Nga hoàng đã tử hình người anh của mình. Bi kịch của Lenin là ở chỗ Stalin, kẻ mà đến cuối đời ông ta hết sức căm thù, lại đã thực sự trở thành người học trò trung thành của ông ta.
Nhưng tất cả những điều trên phải đến thập niên tám mươi, chứ không phải ở thập niên sáu mươi, tôi mới hiểu ra. Tôi yêu lá cờ đỏ mà đứng dưới nó chiến đấu chống lại chủ nghĩa phát xít không chỉ có Vasili Terkin, mà còn có Viktor Nekrasov, Lev Kobelev, Bulat Okudzhava. Tôi yêu không phải một nước Liên Xô trên danh pháp, mà một nước Liên Xô của cá nhân tôi, nơi tôi có rất nhiều bạn bè ở tất cả các nước cộng hoà. Tôi thích và đến bây giờ vẫn thích bài Quốc tế ca – không phải như một bài đảng ca, mà như một bài hát thường.
Nhưng trong điệp khúc "Những người xưa chỉ tay không – Mai đây tất cả sẽ trong tay mình" có một sự mập mờ nguy hiểm. Nếu người thực sự tay trắng mà trở nên có tất cả thì đó là điều đáng ghê sợ.
Đấy là điều đã xảy ra sau cách mạng tháng Mười, và bất hạnh thay, cũng đã xảy ra ngay cả sau những biến cố tháng 8/1991.
4. Cạo râu trước tấm gương của Blok
Người ta kể rằng khi Aleksandr Blok trở lại điền trang của mình vào lúc nổ ra cuộc cách mạng mà ông đã tiên báo một cách kinh hoàng thì ông chỉ thấy quang cảnh đổ nát và tro tàn. Chợt trong đống hoang tàn có một vật gì lấp lánh. Đó là những mảnh vỡ từ tấm gương của gia đình ông.
Blok chọn lấy mảnh gương vỡ to nhất và suốt ngày cầm nó trong tay đi quanh đống tro tàn, dường như ông hy vọng mảnh gương còn nguyên này có giấu trong đáy sâu của nó dù chỉ là một mẩu lịch sử.
Những người lính Hồng quân tóc tai rũ rượi như bước ra từ bản trường ca Mười hai người của ông lệnh cho nhà thơ vĩ đại đứng lại và cầm mảnh gương giơ ra trước mặt họ khi họ cạo râu.
Các vị tông đồ của cách mạng với những băng đạn súng máy vắt chéo trước ngực không thích thú lắm khi thấy mảnh gương bị ám khói không soi tỏ vẻ mặt cách mạng đằng đằng sát khí của mình, họ bực bội chửi rủa, rồi lau sạch mảnh gương bằng những bàn tay có hình xăm và mép áo lót thuỷ thủ. Còn nhà thơ vẫn đứng yên trong vai trò Người Giữ Gương.
Văn học Nga là gì ?
Đó là tấm gương bị các cuộc chiến tranh và cách mạng đập vỡ nhưng các mảnh vỡ của nó vẫn lại lớn lên, giữ được trong bề sâu tất cả những gì đã phản chiếu trong nó.
Lenin từng gọi Tolstoy là "tấm gương phản chiếu cuộc cách mạng Nga", định nghĩa này lập tức đã giới hạn nhà văn đến phiến diện què quặt. Văn học – đó là tấm gương phản chiếu cả cách mạng lẫn phản cách mạng.
Sâu trong tấm gương này có hàng đống những chú hươu bị giới quý tộc Sa hoàng giết chết, giới này thậm chí không thể ngờ rằng chỉ ít lâu sau chính họ lại bị các nông nô của mình giết chết hàng đống như vậy. Trong tấm gương này nước Nga hiện ra khi thì với bộ mặt bạc nhược thiếu sức sống của Nikolai đệ Nhị, khi thì với cặp mắt ranh mãnh điên cuồng của Rasputin, khi thì với điệu bộ luật sư của Kerensky, khi thì trong mớ tóc giả hoá trang của Lenin, khi thì với chiếc tẩu của Stalin mà từ đó khói của những sinh mạng người bốc ra còn nhiều hơn từ ống khói của những lò hơi Osventsim (Auschwitz), khi thì với cái mũi hình củ khoai tây nhanh trí của Khrushchev, khi thì với đôi mắt như đèn từ của Gorbachev nhưng chẳng bao lâu thì cháy, khi thì với cái cằm như được tạc từ đá Ural của Yeltsyn, nó đôi khi chẳng hiểu sao dường như thiếu sinh khí, nói theo từ chuyên môn của ngành quyền Anh.
Người Nga có câu tục ngữ : "Mặt mày xấu xí đừng đổ tại gương". Nhưng lịch sử là một phụ nữ hiếm có, không thích soi gương. Nó cứ ra sức chùi gương làm như có thể chỉnh sửa được khuôn mặt mình.
Chính thế kỉ hai mươi đã phá giá tất cả các sách giáo khoa lịch sử của thế kỉ hai mươi.
Tất cả đều tiên đoán nhầm – cả Lenin người cho rằng chủ nghĩa cộng sản là tất yếu, cả Trotsky với luận điểm của ông về cách mạng thường trực, cả Stalin với tư tưởng thực hiện chủ nghĩa Marx kiểu Arakcheev trong một nước riêng rẽ, cả Khrushchev với lời hứa hẹn đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản, cả Solzhenitsyn người đã buồn bã báo trước việc những người cộng sản chiếm lĩnh thế giới, cả Gorbachev người cố công một cách tuyệt vọng cứu vớt hệ thống mang bản chất phản tự do bằng sự tự do hoá, cả Yeltsyn người hứa hẹn tiệt trừ tất cả mọi thứ đặc quyền. Những điều tiên tri mơn trớn lòng tự ái. Bản thân tôi đã viết hoàn toàn chân thật trong trường ca Nhà máy thuỷ điện Brask những câu thơ : "Băng qua các cuộc chiến tranh, băng qua các tội ác, loài người vẫn đi tới Lenin không lùi bước, loài người vẫn đi tới Lenin". Nhưng bộ phận Lenin hoá của loài người đột nhiên thấy ra hướng đi theo bàn tay từ vô số các tượng đài chỉ lối là ngõ cụt và họ bắt đầu vội vã thoát ra khỏi nó.
Hãy tránh những bàn tay chỉ đường, ngay cả nếu chúng chỉ theo hướng ngược lại ngõ cụt cũ. Một ngõ cụt khác có thể vẫn đang chờ anh ở đấy với nụ cười khẩy của người anh em sinh đôi ranh mãnh. Ở đấy cũng có thể có những vũng bẩn và những vũng máu.
Một lần tôi bắt gặp tấm ảnh của Nga hoàng Aleskey thời trẻ chụp cùng ông thầy thuỷ thủ có bộ ria hiền từ của ngài. Bên cạnh là chiếc xe đạp có kết cấu đặc biệt để cậu bé bị bệnh ưa chảy máu (hemophilie) khỏi ngã. Nhưng bây giờ chúng ta biết điều cậu bé trong ảnh không biết. Chúng ta biết rằng ông thầy thuỷ thủ đã phản bội người học trò của mình khi bí mật liên kết với những người nhạo báng hoàng gia. Nhưng nhiều người trong số người xử bắn hoàng gia về sau cũng lại bị xử bắn. Tình trạng không cầm máu – bệnh hemophilie – là căn bệnh dân tộc của nước Nga. Nó khởi nguồn từ thời thống trị của quân Tarta-Mongolia, khi các vị bá tước Nga cứ đánh nhau liên miên thay vì thống nhất với nhau. Chính khi đó đã sinh ra thảm kịch dân tộc chẳng hề đáng tự hào – thói quen người Nga làm đổ máu Nga.
Chủ nghĩa xã hội chẳng bao giờ có ở chúng ta. Dưới cái tên giả chủ nghĩa xã hội chúng ta đã tạo ra một chế độ phong kiến - quân chủ che đậy. Chẳng phải Stalin là Nga hoàng, còn các vị bí thư đảng là những lãnh chúa đó sao ? Chủ nghĩa xã hội phong kiến sau khi giết chết Nga hoàng Aleksey đã thay ông ta thừa kế ngai vàng, thừa kế bệnh hemophilie. Nền dân chủ của chúng ta hiện thời cũng là nền dân chủ phong kiến, nền dân chủ hemophilie. Máu vẫn tiếp tục đổ không ngừng – cả ở quanh nước Nga, cả ở bên trong – máu của các cuộc xung đột dân tộc trên những lãnh địa cũ của đế chế, máu ở Chechnya, máu của cuộc huynh đệ tương tàn giữa nghị viện và tổng thống, máu của những vụ giết người được thuê sẵn.
Nước Nga luôn là đất nước của nền văn hoá cao cả, nhưng đồng thời là đất nước của sự vô văn hoá chính trị. Chúng ta đối xử với sự tự do của mình một cách vô văn hoá. Tự do của những người không đáng được tự do là nguy hiểm cho chính họ. Gertsen từng viết : "Không thể giải phóng cho mọi người nhiều hơn họ tự giải phóng từ bên trong".
Chẳng hề mong muốn một nhà thơ nào đó của thế kỉ XXI sẽ lại giống như Aleksander Blok lang thang quanh đống đổ nát, tay cầm một mảnh gương phản chiếu chỉ những xác chết và tro tàn.
Tôi những muốn chúng ta nhìn vào tấm gương của lịch sử và thấy ở đấy chỉ khuôn mặt mình và khuôn mặt con cái chúng ta mà khi nhìn vào không thấy xấu hổ.
5. Chúng ta không việc gì phải xấu hổ
Chúng ta xấu hổ về gì, tất cả đã rõ.
Nhưng lẽ nào chúng ta phải xấu hổ về việc chúng ta đã tránh cho loài người nỗi sợ cuộc thế chiến ba ? (Mặc dù bất cứ người mẹ nào mất con thì ở đâu cũng là mất con – trong cuộc thế chiến hay tại một khu vực nào đó ở Chechnya, Tadzhikistan).
Chúng ta không cần phải xấu hổ về việc chúng ta không còn phải sợ cái "con quạ đen" có thể lôi bất cứ ai trong chúng ta đến Lubyanka hay vào trại tâm thần (mặc dù chúng ta sợ bị cướp bóc và đánh đập trên phố hay trong nhà của mình).
Chúng ta không cần phải xấu hổ về việc chúng ta không chỉ có một đảng duy nhất nữa, cái đảng mà ta buộc phải yêu từ khi đi vườn trẻ (mặc dù thật khó mà yêu được một đảng nào trong khoảng nửa trăm đảng phái đã đăng kí hoạt động).
Chúng ta không cần phải xấu hổ về việc không còn sự kiểm duyệt chính trị nữa (mặc dù có sự kiểm duyệt thương mại chuyển thành sự kiểm duyệt chính trị), về việc không phải xếp hàng mua hàng (mặc dù có sự xếp hàng của những người thất nghiệp kiếm việc làm), về việc không còn những ủy ban lưu động nhục nhã nữa (mặc dù phần đông dân ta không vui khi biết rằng anh có thể đi đến Paris nhưng kiếm cả đời cũng chẳng đủ tiền để mà đi).
Chúng ta không cần phải xấu hổ về việc nếu anh là người theo đạo, anh có thể không phải che giấu đức tin của mình và tự do đi vào bất kỳ nhà thờ, nhà nguyện, thánh đường nào mà sẽ không bị ai theo dõi (mặc dù nhiều người trong chính các thầy tu lại không khoan dung với các tôn giáo khác nhưng đồng thời lại buôn bán thuốc lá và lòng trung thành đối với chính quyền).
Chúng ta không cần phải xấu hổ về việc bây giờ trong các cửa hàng có đủ mọi thứ hàng hoá (mặc dù đồng thời lại xấu hổ là hầu như tất cả không phải là hàng của chúng ta làm ra).
Tất cả những cái đó tất nhiên là còn lâu mới hoàn thiện và đôi khi còn rất mong manh. Nhưng đừng nên quên rằng TẤT CẢ NHỮNG CÁI ĐÓ CHỈ MỚI CÁCH ĐÂY CHƯA LÂU LÀ KHÔNG CÓ VÀ KHÔNG THỂ NÀO CÓ ĐƯỢC.
Chúng ta không được phép quay lại cả cái thời đã xa lẫn cái thời chưa xa của chúng ta.
Chúng ta cần phải suy nghĩ về những cái hiện chưa có, nhưng cần phải có.
Về những cái sẽ không phải xấu hổ.
Giữa xấu hổ và sợ hãi có hai trạng thái trung gian. Một là nỗi sợ hãi của xấu hổ, và một là nỗi xấu hổ của sợ hãi.
Một số người mong muốn kéo lại quá khứ thì thích nỗi sợ hãi của xấu hổ và chỉ tìm cách lựa chọn trong hai trạng thái đó cái nào ít ác hơn. Đó là "sự ủng hộ với tiếng thở dài buồn bã". Nhưng cái ác nhỏ có một thuộc tính nguy hiểm là trên con đường ủng hộ như thế nó lớn lên thành cái ác lớn. Lịch sử cho thấy cùng một con người trong những thời kỳ khác nhau có thể là người thức tỉnh xã hội, còn sau đó bản thân lại trở thành lực cản của những lực lượng đã được hắn đánh thức. Các biến cố rất thường vượt lên trước những người cầm đầu các biến cố. Trong lịch sử quan trọng không chỉ là biết xuất hiện đúng lúc, mà còn biết rút lui đúng lúc, mong muốn trao quyền trượng vào những bàn tay đáng tin cậy. Trình độ dân chủ được xác định bằng chính sự chuyển giao quyền lực một cách bình an.
Trong lịch sử nước Nga chưa từng xảy ra một sự quá độ êm ả tự nhiên như thế.
Khrushchev, người không trừng trị về thể chất đối với những kẻ đối địch mình – Malenkov, Molotov, Kaganovich và "Shepilov vào hùa theo ông" như lời đồn đại, đã tạo ra một tiền lệ cứu thoát chính ông, khi ông bị hạ bệ nhưng kỳ lạ là vẫn còn được sống, ông đã đi vào nhà hát và lặng lẽ đọc cho ghi hồi kí của mình. Nhưng ông đã bị loại ra khỏi đời sống chính trị.
Gorbachev là tác giả của những sự thay đổi chính trị nghiêm trọng trong xã hội, những thay đổi không cho phép cô lập ông về mặt chính trị, mặc dù có thể Yeltsyn muốn điều đó. Gorbachev không thành công, nhưng dù sao đã tranh cử chức tổng thống Nga, ông trả lời phỏng vấn một cách thận trọng, nhưng công khai bày tỏ quan điểm đối lập, và thường xuyên công du nước ngoài. Đó là điều bình thường trong một quốc gia bình thường, nhưng ở nước Nga là điều chưa từng có !
Mà biết đâu, dần dần điều đó sẽ trở nên bình thường?
Toàn bộ lịch sử nước Nga là lịch sử của những cơn động đất chính trị. Trong những khu vực có nguy cơ động đất những người thợ xây dựng thường phải xem xét một loại cấu trúc nền móng đặc biệt. Cái chính bây giờ là phải tạo được một cơ sở hạ tầng cho phép dù quyền lực chuyển giao vào tay ai thì vẫn tránh được sự đổ vỡ. Làm được thế thì sẽ yên ổn cho cả người Nga và cả nhân loại.
Ngày 19 tháng 8 năm 1991 quá khứ đã muốn cưỡi xe tăng xộc vào hiện tại và tương lai của nước Nga.
Yeltsyn khi đó đã đóng một vai trò lịch sử.
Khi đó tôi không thể hình dung là đã bắt đầu cuộc chiến tranh ở Cherchnya và tôi đã từ chối nhận huân chương "Hữu nghị các dân tộc" từ tay của vị tổng thống đã ban hành sắc lệnh phát động cuộc chiến tranh đó.
Tôi không thể hình dung năm 1993 những chiếc xe tăng Nga đứng giữa trung tâm thủ đô Nga bắt đầu nã đạn vào nghị viện Nga.
Yeltsyn đã có một cơ hội mang tính quyết định đối với thanh danh lịch sử cuối cùng của ông – tạo ra tiền lệ của việc chuyển giao êm ả quyền lực từ tay này sang tay khác. Nếu ông thực hiện lời hứa của mình và trở thành người lãnh đạo đầu tiên của nước Nga tự nguyện trao quyền trượng vào tay của người kế tục do nhân dân lựa chọn thì có lẽ toàn bộ lịch sử nước Nga từ thời điểm đó sẽ thay đổi.
Nhưng đó sẽ là bàn tay của ai ?
Của ai không quan trọng – chỉ cần đó là những bàn tay sạch.
6. Tôi không thương xót chính quyền xô viết
Tôi không thương xót chính quyền xô viết, bởi vì nó đã không hề thương xót hàng triệu người bị nó giết chết. Nó tất phải sụp đổ giống như chế độ sa hoàng là chế độ cũng không thương xót mọi người. Thiếu lòng thương xót đối với những con người của một hệ thống nhà nước rốt cuộc sẽ quay ra thành sự không thương xót của mọi người đối với hệ thống đó. Hãy để hệ thống hôm nay nhớ lấy điều đó như một lời cảnh báo, hệ thống này vẫn chưa đáng được gọi là dân chủ bởi vì đáng tiếc là nó vẫn thừa kế của chính quyền xô viết sự không thương xót mọi người. Sự không thương xót đó tự gọi mình là gì đi nữa – chủ nghĩa xã hội, hay chủ nghĩa tư bản, hay một cái gì khác, thì cũng có khác gì nhau. Thế kỉ hai mốt đã ngấp nghé ngưỡng cửa. Tôi mong muốn gì ở nó ? Tôi muốn sao cho nó học được cách thương xót mọi người.
7. Giã từ thế kỉ hai mươi
Tôi chia tay thế kỉ hai mươi, như chính mình chia tay với mình.
Người ta có thể hân hoan nhẹ nhõm nói về một số người : "Ôi, đó là người của thế kỉ hai mốt...". Về tôi thì không thể nói như thế được. Tôi chỉ là người của thế kỉ hai mươi.
Một nhà thơ "đầy xung khắc trong mình", ở đó những ảo tưởng lãng mạn cách mạng bện kết với sự bác bỏ những ảo tưởng đó, một nhà thơ như thế chỉ có thể xuất hiện vào nửa sau thế kỉ hai mươi và chỉ ở nước Nga – không phải nước Nga trước cách mạng, mà chỉ ở nước Nga xô viết với hệ thống một đảng, kiểm duyệt, khó đi lại. Tôi cám ơn thế kỉ hai mươi, bởi vì tôi không có thế kỉ nào khác.
Tôi mang trong mình những căn bệnh của thế kỉ này, những hi vọng, lầm lạc, sợ hãi của nó, sự hạn chế, sự điên cuồng của nó, những cơn hoài nghi, cơn hoang tưởng tự đại, và lạy Chúa, cả niềm tin ngây thơ nhưng không sao chữa nổi là tình bác ái của mọi người dẫu sao vẫn có thể có được.
Cả hai chúng tôi – thế kỉ hai mươi và tôi – không hợp với dấu cộng, và tôi hy vọng là cũng không hợp với dấu trừ. Nhưng thế kỉ hai mươi đã xé rách tôi. Nói theo Tsvetaeva, "chúng tôi lớn lên cùng nhau".
Dịch từ nguyên bản tiếng Nga
Evgeny Evtushenko. Volchii Pasport (Tấm căn cước sói)
Moskva. Vagrius. 1998
Copyright © 2006 by Dien Dan Forum, BP 50, 92340 Bourg-La-Reine, France
diendan@diendan.org
E. Evtushenko (Ngân Xuyên dịch)
Maldelshtam viết : " Thế kỉ chó sói nhảy bổ vào vai tôi ". Thế kỉ này đã bóp chết không thương tiếc Maldelshtam, cùng nhiều người khác. Nhưng khi đó thế kỉ hai mươi đang là con chó săn trẻ trung, mạnh khoẻ. May cho thế hệ chúng tôi, khi chúng tôi qua tuổi nhỏ trưởng thành lên thì thế kỉ chó sói đã già đi, hàm răng của nó đã bắt đầu lung lay. Nó thỉnh thoảng vẫn nhảy bổ vào chúng tôi, nhưng cú ngoạm đã không còn như xưa. Chúng tôi cũng còn may là thế kỉ hiện ra không chỉ dưới dạng sói đực đi săn, mà còn dưới dạng sói cái cho sữa.
GIÃ TỪ THẾ KỈ HAI MƯƠI
E. EVTUSHENKO
Ngân Xuyên dịch
1. Cuốn sách có những trang bị xé
Hồi trẻ có lần người bạn của tôi là họa sĩ Oleg Tselkov tình cờ tìm thấy ở một hố rác tại vùng quê Tushin của mình cuốn tiểu thuyết Tội ác và sự trừng phạt đã được đọc đến sờn rách với những trang bị xé hay đơn giản là bị mất. Anh bạn hoạ sĩ coi đó là món quà của số phận nên gần một năm đi đâu anh cũng cứ kè kè cuốn tiểu thuyết bên mình, khi thì trong metro, khi thì ở một quán rượu nhỏ, còn có khi lại là một buổi sáng trên chiếc đi văng võng xuống vì tình yêu của một cô bạn gái qua đường thuộc về bộ phận loài người chưa từng bao giờ nghe nói đến Dostoievsky.
ee
Nhà hoạ sĩ đoan chắc với tôi rằng đọc cuốn sách có những trang bị xé thú vị hơn nhiều, bởi vì những chỗ trống buộc mình phải ức đoán.
Cứ coi như là bạn tìm thấy cuốn sách này của tôi trong hố rác. Nó cũng giống như cuốn tiểu thuyết có những trang bị mất hay thậm chí có những chương bị lược bỏ. Nhưng chúng không phải bị xé – chúng chỉ đơn giản là chưa được viết ra.
Suốt cả cuộc đời, với tính chính xác của một chiếc máy ghi địa chấn, tôi đã ráo riết ghi lại tất cả những chuyển động dưới lòng đất và những cơn động đất của thế kỉ hai mươi, đôi khi vì thế mà tôi đã không ghi lại được nhịp đập trái tim mình.
Người ta gọi tôi là kẻ coi mình là trung tâm, thực ra tôi chỉ là kẻ đứng ở vòng ngoài. Nhưng những gì tôi viết – ngay cả là không phải về mình – cũng chính là về tôi. Còn những gì tôi viết dường như chỉ về mình thì đôi khi lại còn lớn hơn chỉ mình tôi. Cuốn sách này là một điện tâm đồ kép – của tôi và của thế kỉ hai mươi.
Khi hai lăm tuổi, tôi đã chia tay với một phụ nữ hai mươi tuổi tài năng hiếm có mà tôi yêu nhất trên đời. Dịp đó tôi đã viết ra, đúng hơn là đã thở hắt ra, bài thơ Chuyện xảy ra với anh. Tôi không gán cho bài thơ đó một "ý nghĩa xã hội" nào, chỉ coi nó là một thứ rất riêng tư, được viết ra chỉ để cho nàng và cho tôi, mong nó giúp được chút gì cho chúng tôi. Bài thơ đã không giúp gì được, mọi điều đã muộn. Nhưng khi nó vừa được in ra nhiều bạn trẻ đã chép chuyền tay nhau, dường như tôi viết nó là về họ, vì họ và cho họ.
Tôi đã vĩnh viễn chia tay người yêu của mình, dù vẫn còn làm bạn với nhau lâu, ngay khi tôi đã có vợ và nàng đã có chồng, cho đến khi một bàn tay nào đó – mong rằng đấy không phải là tay nàng – đã báo thù hèn hạ bằng cách xoá hết tất cả những lời đề tặng tôi trong các bài thơ nàng viết.
Nhưng không ai có thể xoá được những lời đề tặng nàng trong các bài thơ của tôi. Thật hết sức vô nghĩa là sự ghen tuông hằn học đối với quá khứ. Không thể làm lại được gì ở đấy hết.
Còn bài thơ Chuyện xảy ra với anh thì vẫn sống, bởi điều nói trong đó vẫn lại tiếp tục xảy ra, không chỉ là với tôi. Thoạt đầu nó bất ngờ vang lên say đắm bằng tiếng Đức được dịch ra ở Cộng hoà Dân chủ Đức nhưng không phải để nói về sự ngăn cách của hai người, mà của cả một dân tộc ở hai bên bức tường Berlin.
Mấy năm sau bài thơ được phổ nhạc trong phim Sự mỉa mai của số phận của Ryazanov và được hát với đàn ghi ta trong các khu sinh viên, công nhân, bên những đống lửa của dân du lịch. Sau nữa, bài thơ dường như là tiếng lòng thầm kín nhất này của tôi đã vượt ra ngoài ý muốn của tác giả bắt đầu trở thành bài thơ mang tâm trạng công dân, khi những con người hết sức gần gũi về tinh thần lại bị phân cách về địa lý. Tại các buổi đọc thơ những người đồng hương cũ của tôi bây giờ tản mát khắp thế giới – ở Israel, Mỹ, Australia, Đức – rất hay đề nghị tôi đọc nó.
Giờ đây, khi tôi bước vào cái gọi là "nước ngoài kề bên", nơi biết bao người Nga đột nhiên bị rơi vào tình cảnh buộc thành người "ngoại quốc", thì những vần thơ của tôi viết ra khi tôi không thể ngờ là sẽ có lúc Liên Xô biến mất, vang lên đặc biệt cay đắng.
Ôi, ai người,
hãy đến,
hãy phá vỡ
sự thống nhất của những người xa lạ
và sự biệt lập
của những tâm hồn gần gũi !
Như vậy nhật kí cá nhân của tôi đôi khi bất giác biến thành nhật kí của thế kỉ. Bất giác, nhưng không phải ngẫu nhiên.
Những trang sách bị xé ra hay chưa được viết ra đôi khi dính liền.
2. Không với chó nhà, chẳng với chó rừng
Maldelshtam viết : "Thế kỉ chó sói nhảy bổ vào vai tôi". Thế kỉ này đã bóp chết không thương tiếc Maldelshtam, cùng nhiều người khác. Nhưng khi đó thế kỉ hai mươi đang là con chó săn trẻ trung, mạnh khỏe. May cho thế hệ chúng tôi, khi chúng tôi qua tuổi nhỏ trưởng thành lên thì thế kỉ chó sói đã già đi, hàm răng của nó đã bắt đầu lung lay. Nó thỉnh thoảng vẫn nhảy bổ vào chúng tôi, nhưng cú ngoạm đã không còn như xưa. Chúng tôi cũng còn may là thế kỉ hiện ra không chỉ dưới dạng sói đực đi săn, mà còn dưới dạng sói cái cho sữa. Thế hệ những năm sáu mươi (thế kỉ hai mươi – ND) đó là những cừu non của những khu rừng rậm xã hội chủ nghĩa.
Tôi viết không phải bằng mực, mà bằng sữa của con sói cái đã cứu tôi khỏi nanh vuốt của bầy chó núi. Không phải ngẫu nhiên tôi bị đuổi khỏi trường học với hạnh kiểm xấu – với "tấm căn cước sói". Không phải ngẫu nhiên hai giống chó thuộc loại người căm thù tôi từ trong trứng, nhưng vẫn đồng lòng với tôi và với nhau – chó nhà và chó rừng (những kẻ phù phiếm chuyên nghiệp và những người "yêu nước" chuyên nghiệp) luôn nhảy bổ vào tôi.
Tôi vui mừng là với "tấm căn cước sói" như thế tôi đã bị "đuổi" khỏi tất cả các nơi – tôi không thuộc một đảng phái nào, một băng nhóm nào, một giới thời thượng kiêu căng nào của chúng ta, nó chỉ làm ra vẻ độc lập chứ thực chất là chao đảo giữa các đảng phái và băng nhóm. Tôi không nhập hội với chó nhà, mà cũng không hùa vào với chó rừng.
"Tấm căn cước sói" - đấy là số phận của tôi.
3. Tôi là nhà thơ xô viết cuối cùng
Brodsky là nhà thơ hoàn toàn phi xô viết đầu tiên trong số người sinh vào thời xô viết. Còn tôi là nhà thơ xô viết cuối cùng. Nhưng chính quyền xô viết đã làm đủ cách để đánh bật "chất xô viết" đó ra khỏi tôi.
Tôi thuộc lớp người những năm sáu mươi (thế kỉ XX - ND) bắt đầu đấu tranh với bóng ma Stalin nhờ bóng ma Lenin. Nhưng làm sao hồi đó chúng tôi biết được, khui được các tài liệu lưu trữ về một Lenin khác, chưa từng biết đến, được bảo quản rất chặt chẽ ? Làm sao chúng tôi có thể đọc được Quần đảo GULAK trước khi nó được viết ra ? Chúng tôi không biết rằng dưới sắc lệnh về việc xây dựng Solovkov – trại tập trung đầu tiên trước thời Hitler – là chữ kí của Lenin, rằng chính ông ta đã ban ra những mệnh lệnh tàn bạo đàn áp nông dân, chúng tôi không biết thái độ không khoan nhượng của ông ta đối với giới trí thức khác chính kiến. Nhiều thư từ của ông gửi Dzerzhinsky, Stalin, những công văn khẩn, những chỉ thị, đã bị giấu kín. Đối với tôi và nhiều người khác, từ bỏ sự lý tưởng hoá Lenin là một điều đau khổ. Khi quan niệm cách mạng như là "sự báo thù cho người anh" chính Lenin cũng không nhận biết là ông ta đã bắt đầu báo thù cả một dân tộc, chứ không chỉ chế độ Nga hoàng đã tử hình người anh của mình. Bi kịch của Lenin là ở chỗ Stalin, kẻ mà đến cuối đời ông ta hết sức căm thù, lại đã thực sự trở thành người học trò trung thành của ông ta.
Nhưng tất cả những điều trên phải đến thập niên tám mươi, chứ không phải ở thập niên sáu mươi, tôi mới hiểu ra. Tôi yêu lá cờ đỏ mà đứng dưới nó chiến đấu chống lại chủ nghĩa phát xít không chỉ có Vasili Terkin, mà còn có Viktor Nekrasov, Lev Kobelev, Bulat Okudzhava. Tôi yêu không phải một nước Liên Xô trên danh pháp, mà một nước Liên Xô của cá nhân tôi, nơi tôi có rất nhiều bạn bè ở tất cả các nước cộng hoà. Tôi thích và đến bây giờ vẫn thích bài Quốc tế ca – không phải như một bài đảng ca, mà như một bài hát thường.
Nhưng trong điệp khúc "Những người xưa chỉ tay không – Mai đây tất cả sẽ trong tay mình" có một sự mập mờ nguy hiểm. Nếu người thực sự tay trắng mà trở nên có tất cả thì đó là điều đáng ghê sợ.
Đấy là điều đã xảy ra sau cách mạng tháng Mười, và bất hạnh thay, cũng đã xảy ra ngay cả sau những biến cố tháng 8/1991.
4. Cạo râu trước tấm gương của Blok
Người ta kể rằng khi Aleksandr Blok trở lại điền trang của mình vào lúc nổ ra cuộc cách mạng mà ông đã tiên báo một cách kinh hoàng thì ông chỉ thấy quang cảnh đổ nát và tro tàn. Chợt trong đống hoang tàn có một vật gì lấp lánh. Đó là những mảnh vỡ từ tấm gương của gia đình ông.
Blok chọn lấy mảnh gương vỡ to nhất và suốt ngày cầm nó trong tay đi quanh đống tro tàn, dường như ông hy vọng mảnh gương còn nguyên này có giấu trong đáy sâu của nó dù chỉ là một mẩu lịch sử.
Những người lính Hồng quân tóc tai rũ rượi như bước ra từ bản trường ca Mười hai người của ông lệnh cho nhà thơ vĩ đại đứng lại và cầm mảnh gương giơ ra trước mặt họ khi họ cạo râu.
Các vị tông đồ của cách mạng với những băng đạn súng máy vắt chéo trước ngực không thích thú lắm khi thấy mảnh gương bị ám khói không soi tỏ vẻ mặt cách mạng đằng đằng sát khí của mình, họ bực bội chửi rủa, rồi lau sạch mảnh gương bằng những bàn tay có hình xăm và mép áo lót thuỷ thủ. Còn nhà thơ vẫn đứng yên trong vai trò Người Giữ Gương.
Văn học Nga là gì ?
Đó là tấm gương bị các cuộc chiến tranh và cách mạng đập vỡ nhưng các mảnh vỡ của nó vẫn lại lớn lên, giữ được trong bề sâu tất cả những gì đã phản chiếu trong nó.
Lenin từng gọi Tolstoy là "tấm gương phản chiếu cuộc cách mạng Nga", định nghĩa này lập tức đã giới hạn nhà văn đến phiến diện què quặt. Văn học – đó là tấm gương phản chiếu cả cách mạng lẫn phản cách mạng.
Sâu trong tấm gương này có hàng đống những chú hươu bị giới quý tộc Sa hoàng giết chết, giới này thậm chí không thể ngờ rằng chỉ ít lâu sau chính họ lại bị các nông nô của mình giết chết hàng đống như vậy. Trong tấm gương này nước Nga hiện ra khi thì với bộ mặt bạc nhược thiếu sức sống của Nikolai đệ Nhị, khi thì với cặp mắt ranh mãnh điên cuồng của Rasputin, khi thì với điệu bộ luật sư của Kerensky, khi thì trong mớ tóc giả hoá trang của Lenin, khi thì với chiếc tẩu của Stalin mà từ đó khói của những sinh mạng người bốc ra còn nhiều hơn từ ống khói của những lò hơi Osventsim (Auschwitz), khi thì với cái mũi hình củ khoai tây nhanh trí của Khrushchev, khi thì với đôi mắt như đèn từ của Gorbachev nhưng chẳng bao lâu thì cháy, khi thì với cái cằm như được tạc từ đá Ural của Yeltsyn, nó đôi khi chẳng hiểu sao dường như thiếu sinh khí, nói theo từ chuyên môn của ngành quyền Anh.
Người Nga có câu tục ngữ : "Mặt mày xấu xí đừng đổ tại gương". Nhưng lịch sử là một phụ nữ hiếm có, không thích soi gương. Nó cứ ra sức chùi gương làm như có thể chỉnh sửa được khuôn mặt mình.
Chính thế kỉ hai mươi đã phá giá tất cả các sách giáo khoa lịch sử của thế kỉ hai mươi.
Tất cả đều tiên đoán nhầm – cả Lenin người cho rằng chủ nghĩa cộng sản là tất yếu, cả Trotsky với luận điểm của ông về cách mạng thường trực, cả Stalin với tư tưởng thực hiện chủ nghĩa Marx kiểu Arakcheev trong một nước riêng rẽ, cả Khrushchev với lời hứa hẹn đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản, cả Solzhenitsyn người đã buồn bã báo trước việc những người cộng sản chiếm lĩnh thế giới, cả Gorbachev người cố công một cách tuyệt vọng cứu vớt hệ thống mang bản chất phản tự do bằng sự tự do hoá, cả Yeltsyn người hứa hẹn tiệt trừ tất cả mọi thứ đặc quyền. Những điều tiên tri mơn trớn lòng tự ái. Bản thân tôi đã viết hoàn toàn chân thật trong trường ca Nhà máy thuỷ điện Brask những câu thơ : "Băng qua các cuộc chiến tranh, băng qua các tội ác, loài người vẫn đi tới Lenin không lùi bước, loài người vẫn đi tới Lenin". Nhưng bộ phận Lenin hoá của loài người đột nhiên thấy ra hướng đi theo bàn tay từ vô số các tượng đài chỉ lối là ngõ cụt và họ bắt đầu vội vã thoát ra khỏi nó.
Hãy tránh những bàn tay chỉ đường, ngay cả nếu chúng chỉ theo hướng ngược lại ngõ cụt cũ. Một ngõ cụt khác có thể vẫn đang chờ anh ở đấy với nụ cười khẩy của người anh em sinh đôi ranh mãnh. Ở đấy cũng có thể có những vũng bẩn và những vũng máu.
Một lần tôi bắt gặp tấm ảnh của Nga hoàng Aleskey thời trẻ chụp cùng ông thầy thuỷ thủ có bộ ria hiền từ của ngài. Bên cạnh là chiếc xe đạp có kết cấu đặc biệt để cậu bé bị bệnh ưa chảy máu (hemophilie) khỏi ngã. Nhưng bây giờ chúng ta biết điều cậu bé trong ảnh không biết. Chúng ta biết rằng ông thầy thuỷ thủ đã phản bội người học trò của mình khi bí mật liên kết với những người nhạo báng hoàng gia. Nhưng nhiều người trong số người xử bắn hoàng gia về sau cũng lại bị xử bắn. Tình trạng không cầm máu – bệnh hemophilie – là căn bệnh dân tộc của nước Nga. Nó khởi nguồn từ thời thống trị của quân Tarta-Mongolia, khi các vị bá tước Nga cứ đánh nhau liên miên thay vì thống nhất với nhau. Chính khi đó đã sinh ra thảm kịch dân tộc chẳng hề đáng tự hào – thói quen người Nga làm đổ máu Nga.
Chủ nghĩa xã hội chẳng bao giờ có ở chúng ta. Dưới cái tên giả chủ nghĩa xã hội chúng ta đã tạo ra một chế độ phong kiến - quân chủ che đậy. Chẳng phải Stalin là Nga hoàng, còn các vị bí thư đảng là những lãnh chúa đó sao ? Chủ nghĩa xã hội phong kiến sau khi giết chết Nga hoàng Aleksey đã thay ông ta thừa kế ngai vàng, thừa kế bệnh hemophilie. Nền dân chủ của chúng ta hiện thời cũng là nền dân chủ phong kiến, nền dân chủ hemophilie. Máu vẫn tiếp tục đổ không ngừng – cả ở quanh nước Nga, cả ở bên trong – máu của các cuộc xung đột dân tộc trên những lãnh địa cũ của đế chế, máu ở Chechnya, máu của cuộc huynh đệ tương tàn giữa nghị viện và tổng thống, máu của những vụ giết người được thuê sẵn.
Nước Nga luôn là đất nước của nền văn hoá cao cả, nhưng đồng thời là đất nước của sự vô văn hoá chính trị. Chúng ta đối xử với sự tự do của mình một cách vô văn hoá. Tự do của những người không đáng được tự do là nguy hiểm cho chính họ. Gertsen từng viết : "Không thể giải phóng cho mọi người nhiều hơn họ tự giải phóng từ bên trong".
Chẳng hề mong muốn một nhà thơ nào đó của thế kỉ XXI sẽ lại giống như Aleksander Blok lang thang quanh đống đổ nát, tay cầm một mảnh gương phản chiếu chỉ những xác chết và tro tàn.
Tôi những muốn chúng ta nhìn vào tấm gương của lịch sử và thấy ở đấy chỉ khuôn mặt mình và khuôn mặt con cái chúng ta mà khi nhìn vào không thấy xấu hổ.
5. Chúng ta không việc gì phải xấu hổ
Chúng ta xấu hổ về gì, tất cả đã rõ.
Nhưng lẽ nào chúng ta phải xấu hổ về việc chúng ta đã tránh cho loài người nỗi sợ cuộc thế chiến ba ? (Mặc dù bất cứ người mẹ nào mất con thì ở đâu cũng là mất con – trong cuộc thế chiến hay tại một khu vực nào đó ở Chechnya, Tadzhikistan).
Chúng ta không cần phải xấu hổ về việc chúng ta không còn phải sợ cái "con quạ đen" có thể lôi bất cứ ai trong chúng ta đến Lubyanka hay vào trại tâm thần (mặc dù chúng ta sợ bị cướp bóc và đánh đập trên phố hay trong nhà của mình).
Chúng ta không cần phải xấu hổ về việc chúng ta không chỉ có một đảng duy nhất nữa, cái đảng mà ta buộc phải yêu từ khi đi vườn trẻ (mặc dù thật khó mà yêu được một đảng nào trong khoảng nửa trăm đảng phái đã đăng kí hoạt động).
Chúng ta không cần phải xấu hổ về việc không còn sự kiểm duyệt chính trị nữa (mặc dù có sự kiểm duyệt thương mại chuyển thành sự kiểm duyệt chính trị), về việc không phải xếp hàng mua hàng (mặc dù có sự xếp hàng của những người thất nghiệp kiếm việc làm), về việc không còn những ủy ban lưu động nhục nhã nữa (mặc dù phần đông dân ta không vui khi biết rằng anh có thể đi đến Paris nhưng kiếm cả đời cũng chẳng đủ tiền để mà đi).
Chúng ta không cần phải xấu hổ về việc nếu anh là người theo đạo, anh có thể không phải che giấu đức tin của mình và tự do đi vào bất kỳ nhà thờ, nhà nguyện, thánh đường nào mà sẽ không bị ai theo dõi (mặc dù nhiều người trong chính các thầy tu lại không khoan dung với các tôn giáo khác nhưng đồng thời lại buôn bán thuốc lá và lòng trung thành đối với chính quyền).
Chúng ta không cần phải xấu hổ về việc bây giờ trong các cửa hàng có đủ mọi thứ hàng hoá (mặc dù đồng thời lại xấu hổ là hầu như tất cả không phải là hàng của chúng ta làm ra).
Tất cả những cái đó tất nhiên là còn lâu mới hoàn thiện và đôi khi còn rất mong manh. Nhưng đừng nên quên rằng TẤT CẢ NHỮNG CÁI ĐÓ CHỈ MỚI CÁCH ĐÂY CHƯA LÂU LÀ KHÔNG CÓ VÀ KHÔNG THỂ NÀO CÓ ĐƯỢC.
Chúng ta không được phép quay lại cả cái thời đã xa lẫn cái thời chưa xa của chúng ta.
Chúng ta cần phải suy nghĩ về những cái hiện chưa có, nhưng cần phải có.
Về những cái sẽ không phải xấu hổ.
Giữa xấu hổ và sợ hãi có hai trạng thái trung gian. Một là nỗi sợ hãi của xấu hổ, và một là nỗi xấu hổ của sợ hãi.
Một số người mong muốn kéo lại quá khứ thì thích nỗi sợ hãi của xấu hổ và chỉ tìm cách lựa chọn trong hai trạng thái đó cái nào ít ác hơn. Đó là "sự ủng hộ với tiếng thở dài buồn bã". Nhưng cái ác nhỏ có một thuộc tính nguy hiểm là trên con đường ủng hộ như thế nó lớn lên thành cái ác lớn. Lịch sử cho thấy cùng một con người trong những thời kỳ khác nhau có thể là người thức tỉnh xã hội, còn sau đó bản thân lại trở thành lực cản của những lực lượng đã được hắn đánh thức. Các biến cố rất thường vượt lên trước những người cầm đầu các biến cố. Trong lịch sử quan trọng không chỉ là biết xuất hiện đúng lúc, mà còn biết rút lui đúng lúc, mong muốn trao quyền trượng vào những bàn tay đáng tin cậy. Trình độ dân chủ được xác định bằng chính sự chuyển giao quyền lực một cách bình an.
Trong lịch sử nước Nga chưa từng xảy ra một sự quá độ êm ả tự nhiên như thế.
Khrushchev, người không trừng trị về thể chất đối với những kẻ đối địch mình – Malenkov, Molotov, Kaganovich và "Shepilov vào hùa theo ông" như lời đồn đại, đã tạo ra một tiền lệ cứu thoát chính ông, khi ông bị hạ bệ nhưng kỳ lạ là vẫn còn được sống, ông đã đi vào nhà hát và lặng lẽ đọc cho ghi hồi kí của mình. Nhưng ông đã bị loại ra khỏi đời sống chính trị.
Gorbachev là tác giả của những sự thay đổi chính trị nghiêm trọng trong xã hội, những thay đổi không cho phép cô lập ông về mặt chính trị, mặc dù có thể Yeltsyn muốn điều đó. Gorbachev không thành công, nhưng dù sao đã tranh cử chức tổng thống Nga, ông trả lời phỏng vấn một cách thận trọng, nhưng công khai bày tỏ quan điểm đối lập, và thường xuyên công du nước ngoài. Đó là điều bình thường trong một quốc gia bình thường, nhưng ở nước Nga là điều chưa từng có !
Mà biết đâu, dần dần điều đó sẽ trở nên bình thường?
Toàn bộ lịch sử nước Nga là lịch sử của những cơn động đất chính trị. Trong những khu vực có nguy cơ động đất những người thợ xây dựng thường phải xem xét một loại cấu trúc nền móng đặc biệt. Cái chính bây giờ là phải tạo được một cơ sở hạ tầng cho phép dù quyền lực chuyển giao vào tay ai thì vẫn tránh được sự đổ vỡ. Làm được thế thì sẽ yên ổn cho cả người Nga và cả nhân loại.
Ngày 19 tháng 8 năm 1991 quá khứ đã muốn cưỡi xe tăng xộc vào hiện tại và tương lai của nước Nga.
Yeltsyn khi đó đã đóng một vai trò lịch sử.
Khi đó tôi không thể hình dung là đã bắt đầu cuộc chiến tranh ở Cherchnya và tôi đã từ chối nhận huân chương "Hữu nghị các dân tộc" từ tay của vị tổng thống đã ban hành sắc lệnh phát động cuộc chiến tranh đó.
Tôi không thể hình dung năm 1993 những chiếc xe tăng Nga đứng giữa trung tâm thủ đô Nga bắt đầu nã đạn vào nghị viện Nga.
Yeltsyn đã có một cơ hội mang tính quyết định đối với thanh danh lịch sử cuối cùng của ông – tạo ra tiền lệ của việc chuyển giao êm ả quyền lực từ tay này sang tay khác. Nếu ông thực hiện lời hứa của mình và trở thành người lãnh đạo đầu tiên của nước Nga tự nguyện trao quyền trượng vào tay của người kế tục do nhân dân lựa chọn thì có lẽ toàn bộ lịch sử nước Nga từ thời điểm đó sẽ thay đổi.
Nhưng đó sẽ là bàn tay của ai ?
Của ai không quan trọng – chỉ cần đó là những bàn tay sạch.
6. Tôi không thương xót chính quyền xô viết
Tôi không thương xót chính quyền xô viết, bởi vì nó đã không hề thương xót hàng triệu người bị nó giết chết. Nó tất phải sụp đổ giống như chế độ sa hoàng là chế độ cũng không thương xót mọi người. Thiếu lòng thương xót đối với những con người của một hệ thống nhà nước rốt cuộc sẽ quay ra thành sự không thương xót của mọi người đối với hệ thống đó. Hãy để hệ thống hôm nay nhớ lấy điều đó như một lời cảnh báo, hệ thống này vẫn chưa đáng được gọi là dân chủ bởi vì đáng tiếc là nó vẫn thừa kế của chính quyền xô viết sự không thương xót mọi người. Sự không thương xót đó tự gọi mình là gì đi nữa – chủ nghĩa xã hội, hay chủ nghĩa tư bản, hay một cái gì khác, thì cũng có khác gì nhau. Thế kỉ hai mốt đã ngấp nghé ngưỡng cửa. Tôi mong muốn gì ở nó ? Tôi muốn sao cho nó học được cách thương xót mọi người.
7. Giã từ thế kỉ hai mươi
Tôi chia tay thế kỉ hai mươi, như chính mình chia tay với mình.
Người ta có thể hân hoan nhẹ nhõm nói về một số người : "Ôi, đó là người của thế kỉ hai mốt...". Về tôi thì không thể nói như thế được. Tôi chỉ là người của thế kỉ hai mươi.
Một nhà thơ "đầy xung khắc trong mình", ở đó những ảo tưởng lãng mạn cách mạng bện kết với sự bác bỏ những ảo tưởng đó, một nhà thơ như thế chỉ có thể xuất hiện vào nửa sau thế kỉ hai mươi và chỉ ở nước Nga – không phải nước Nga trước cách mạng, mà chỉ ở nước Nga xô viết với hệ thống một đảng, kiểm duyệt, khó đi lại. Tôi cám ơn thế kỉ hai mươi, bởi vì tôi không có thế kỉ nào khác.
Tôi mang trong mình những căn bệnh của thế kỉ này, những hi vọng, lầm lạc, sợ hãi của nó, sự hạn chế, sự điên cuồng của nó, những cơn hoài nghi, cơn hoang tưởng tự đại, và lạy Chúa, cả niềm tin ngây thơ nhưng không sao chữa nổi là tình bác ái của mọi người dẫu sao vẫn có thể có được.
Cả hai chúng tôi – thế kỉ hai mươi và tôi – không hợp với dấu cộng, và tôi hy vọng là cũng không hợp với dấu trừ. Nhưng thế kỉ hai mươi đã xé rách tôi. Nói theo Tsvetaeva, "chúng tôi lớn lên cùng nhau".
Dịch từ nguyên bản tiếng Nga
Evgeny Evtushenko. Volchii Pasport (Tấm căn cước sói)
Moskva. Vagrius. 1998
Copyright © 2006 by Dien Dan Forum, BP 50, 92340 Bourg-La-Reine, France
diendan@diendan.org
TRẦN NHÂN TÔNG và tầm vóc của một thời đại
Nguyễn Huệ Chi và Trần Thị Băng Thanh
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
tuong
Tượng Trần Nhân Tông trong tháp tổ Huệ Quang
Nhân Tông lên ngôi năm 1278, mới hai mươi tuổi. Nhà Trần lúc này đã bước vào thời kỳ ổn định, đất nước hoà bình, nông nghiệp phát triển, luật pháp thi cử học hành đều đã vào nề nếp… Một thời kỳ thịnh trị bắt đầu. Song khó khăn đối với ông vua trẻ lại là cái áp lực dồn tới từ phương Bắc. Nhà Nguyên đã diệt xong nước Tống, bắt đầu tính đến Việt Nam, thường xuyên gây sức ép và cuối cùng là hai cuộc xâm lăng năm 1285 và 1288. Chưa đầy năm năm phải đương đầu với hai trận tấn công ồ ạt của “giặc mạnh” có đủ quân thuỷ, quân bộ, quân kỵ và mỗi lần con số đều không dưới 50 vạn không phải là việc dễ, trong khi phần lớn thế giới từ Âu sang Á lúc ấy đều đã bị khuất phục nhanh chóng dưới vó ngựa đạo quân Mông Cổ cực kỳ thiện chiến và hung hãn này. Song Trần Nhân Tông đã cố kết được lòng dân, phát huy được năng lực của các tướng, động viên được tài trí của cả nước đánh thắng giặc, bảo vệ toàn vẹn nền độc lập cho nước nhà. Quả là trong kháng chiến chống ngoại xâm, ông là một anh hùng tiêu biểu. Công lao của những tướng lĩnh kiệt xuất như Trần Quốc Tuấn... không thể phủ nhận, vai trò cố vấn của vị Thượng hoàng dày dạn kinh nghiệm là Trần Thánh Tông cũng khó lòng coi nhẹ, nhưng ở vị trí một người lãnh đạo tối cao, Trần Nhân Tông mới chính là linh hồn của cuộc chiến. Bằng phong thái ung dung tự tại trong tầm nhìn và trong chỉ đạo chiến lược, ông đã đem lại cho quân dân nhà Trần niềm tin sắt đá vào thắng lợi cuối cùng.
Những năm sau đó, bước vào công cuộc xây dựng lại đất nước đã bị tàn phá, Nhân Tông một mặt lo tổng kết việc đánh giặc thưởng công, ghi Trung hưng thực lục, một mặt lo tiếp tục đối phó với cuộc tấn công phục thù của địch, vận dụng một cách hoàn thiện cả hai nguyên tắc mềm dẻo và cứng rắn trong nhiều lần vất vả giải quyết các yêu sách ngang ngược của sứ bộ nhà Nguyên, đồng thời lo làm sao cho nước mạnh dân giàu. Có thể nói, hơn mười bốn năm làm vua (1278-1293), cũng là suốt cả thời trai trẻ, Nhân Tông đã dành hầu hết tâm sức cho chỉ hai mục tiêu liên thông chặt chẽ với nhau : cơ đồ xã tắc vững bền và nhân tâm an lạc. Thông thường, khi một giai đoạn lịch sử đã đóng lại, đời sau dễ phát hiện những ưu khuyết điểm của người xưa, dễ dàng chỉ ra những việc nên làm và không nên làm… Song, nếu nghĩ rằng Trần Nhân Tông thuở đó chỉ mới trên dưới ba mươi tuổi, đã phải gánh vác trách nhiệm quyết định những việc lớn lao liên quan đến chuyện mất còn của cả dân tộc thì mới thấy hết bản lĩnh và tầm vóc của ông. Nhất là khi đối thủ mà ông phải đương đầu chẳng phải một kẻ địch hạng xoàng ! Hốt Tất Liệt vốn là một tướng cầm quân lão luyện, giặc Thát lại là một đội quân ngang dọc vẫy vùng. Và sau khi đã làm chủ mảnh đất Trung Hoa, “chúa tể Đại Nguyên” còn tập hợp được cả một đội ngũ đông đảo văn thần người Hán, nhiều người từng là nhà ngoại giao, chính khách sừng sỏ, “tận trung” bày mưu tính kế. Có xét đến những hoàn cảnh cụ thể như vậy mới hiểu hết được tính cách mạnh của Trần Nhân Tông, bộc lộ ra ở cả tư tưởng và hành vi trong nhiều thời điểm có ý nghĩa bước ngoặt lịch sử, rất cần sự quyết đoán, cái nhìn sáng suốt ở một người như ông.
Vào khoảng cuối 1284 đầu 1285 sau khi cuộc chiến lần thứ nhất diễn ra chỉ mới chừng mươi ngày, mặt trận Khâu Cấp - Nội Bàng đã tan vỡ và đại quân Trần phải lùi về Vạn Kiếp. Trên con thuyền chạy ra Hải Đông nhằm tránh mũi dùi tấn công của giặc, giữa lúc quần thần không khỏi hoang mang, Trần Nhân Tông đã viết vào đuôi thuyền hai câu :
會 稽舊 事 君須 記
驩 愛猶 存十 萬 兵
Cối Kê cựu sự quân tu ký,
Hoan, Diễn do tồn thập vạn binh
(Cối Kê việc cũ ngươi nên nhớ,
Hoan Diễn còn kia mười vạn quân).
Hai câu thơ, có lẽ chỉ nhằm trấn an những bề tôi nào đó cùng đi trên thuyền, nhưng đã lan truyền rất nhanh như một thông điệp về tinh thần tự chủ kỳ lạ của người đứng đầu xã tắc. Một nghìn quân còn lại trên núi Cối Kê của Việt Vương Câu Tiễn ở thời Chiến quốc, ngỡ bị quân Ngô dồn đến chân tường, vậy mà về sau đã lại dấy lên, đánh bại đội quân hùng mạnh của nước Ngô. Gợi một điển tích cũ để bày tỏ niềm tin vững chắc của mình vào triển vọng của đất nước lúc bấy giờ, trong tình thế nghìn cân treo sợi tóc, đồng thời Trần Nhân Tông cũng nhắc người nghe đừng quên mất thực tế là vùng hậu phương Thanh - Nghệ lực lượng hiện vẫn chưa suy suyển. Nhưng còn quan trọng hơn là cái dung lượng triết lý mà câu nói của ông chứa đựng. Với hình thức thi ca chứ không phải chiếu lệnh, Nhân Tông như muốn truyền vào người tiếp nhận cùng lúc nguồn cảm hứng lãng mạn của một thi nhân và con mắt nhìn động của một triết nhân, để họ nhận rõ xu thế chuyển hóa bên trong của cái hiện thực rối bời trước mắt. Một sự kiện Cối Kê sẽ được lặp lại trong cuộc chiến đấu tưởng như rất bất lợi nhưng lại đang diễn ra trên mảnh đất mà chính dân Nam mới đích thực là người chủ còn kẻ địch chỉ là “bất tốc chi khách” – ông khách không mời mà đến, điều ấy cả ông và Trần Quốc Tuấn đều đã lường thấy. Có điều, nếu Trần Quốc Tuấn bày tỏ sự thấy bằng cái cách của con nhà tướng, đem đầu ra đánh cược với Trần Thánh Tông, thì Trần Nhân Tông lại thể hiện nó bằng tầm bao quát tinh xác tương quan lực lượng trên khắp mọi mặt trận khi đó, cả trước mặt mình và khuất xa sau lưng mình. Chưa nói đến đức bình tĩnh hiếm có, chỉ nội dung của lời thông báo cũng đủ chứng tỏ năng lực một con người lãnh đạo kỳ tài.
Cũng với niềm xác tín phi thường như thế ta lại thấy buột thốt ra trong hai câu thơ của Trần Nhân Tông vào ngày khải hoàn, khi ông đến bái yết lăng tẩm ông nội, giữa lúc dấu tích chiến tranh để lại còn ngổn ngang. Hai câu thơ như một âm hưởng vĩ thanh hoà điệu với hai câu thơ trên con thuyền chạy giặc ngày nào mà sự đối lập động và tĩnh ở đây tưởng như ngược với trước, kỳ thực là hoàn toàn thống nhất :
社 稷兩 回勞 石 馬
山 河千 古奠 金 甌
Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã,
Sơn hà thiên cổ điện kim âu.
(Xã tắc hai phen chồn ngựa đá,
Non sông nghìn thuở vững âu vàng).
Rõ ràng, cái động nhất thời do kẻ địch gây ra dù có ghê gớm đến đâu cũng đã bị lịch sử phủ định. Thực tế đất nước đã vận động đúng như suy đoán tài tình của nhà vua lúc chiến tranh vừa khởi sự để trở lại thế tĩnh cân bằng.
Phải nói, niềm xác tín lịch sử của Trần Nhân Tông có được chính là xuất phát từ cái nhìn hết sức nhân bản đối với người và việc trong thời đại ông. Ông tin ở phẩm chất hướng thiện của mọi con người kinh qua thử thách thực tiễn, hay đúng hơn, ông không hề xem xét con người một cách đơn nhất hóa. Trong hội nghị tướng lĩnh ở Bình Than năm 1282 mà ông đích thân chủ trì nhằm đối phó với nguy cơ quân Nguyên Mông gây hấn, vừa bắt gặp chiếc thuyền bán than của Trần Khánh Dư – một tướng tài nhưng cũng lắm tật – lướt qua bên đoàn thuyền chiến, Trần Nhân Tông đã có ngay lệnh chỉ tha tội cho Dư, gọi Dư lại và cho lại được dự vào hàng tướng soái cầm quân. Thái độ bao dung của vị Hoàng đế thực không uổng phí: rồi đây Phó tướng Trần Khánh Dư sẽ lập công xuất sắc ở nhiều chiến trận. Thái độ bao dung ấy còn gây một không khí cởi mở trong tầng lớp quý tộc vương hầu, khiến họ càng xích lại gần nhau, để toàn tâm toàn ý sống mái với giặc.
Cũng vậy, sau ngày kéo quân khải hoàn về Thăng Long (1288), bắt được một hòm thư biểu của không ít vương hầu quan lại từng vì nao núng mà xin hàng Thoát Hoan, biết tình thế muôn phần gay go của những ngày nước sôi lửa bỏng khiến có lúc xa giá triều đình cũng phải mặc ai nấy chạy; lại cũng thừa hiểu tâm lý con người thường tục ai mà chẳng có chỗ tham sống sợ chết; nên sau khi đã định công khen thưởng (1), tuân lệnh Thượng hoàng Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông liền cho đốt ngay hòm biểu kẻ thù bỏ lại nhằm “giữ yên lòng người”. Với hành vi “xé bỏ lý lịch” kiểu đó, dám chắc đây là một thời đại nhân hậu vượt lên mọi luật lệ khuôn phép, mà tính đến tận hôm nay có dễ cũng là một thời đại có một không hai.
Không chỉ có thế. Chính trong những tháng ngày bôn ba đánh giặc, Trần Nhân Tông còn nhận chân ra một sự thực : chỉ ở những đám người “chân đất” mới thực giàu phẩm chất trung thành tận tụy mà không chút tính toán so đo. Hộ vệ ông đến cùng chính là “bọn ấy” và cũng chính ông được “bọn ấy” dâng cơm hẩm trên con đường rút chạy phải nhịn đói từ sáng đến chiều. Nhận thức về cái cao quý của người nghèo hèn đã in sâu vào trực giác của ông nên sau này, trở lại ngai vàng, hễ mỗi lần gặp gia đồng của các vương hầu ông đều ân cần thăm hỏi ; khi trị tội những kẻ đã cam tâm làm tay sai cho giặc, ông chủ trương “chỉ lính tráng và dân thường là được miễn tội chết” (Đại Việt sử ký toàn thư); ông cũng đem những điều chiêm nghiệm đã đúc thành chân lý ra dụ bảo bề tôi : “Ngày thường thì có thị vệ tả hữu, nhưng khi quốc gia hoạn nạn chỉ có bọn chúng là có mặt” (Đại Việt sử ký toàn thư). Đấy hẳn là một nhận thức cơ bản trong ý thức Trần Nhân Tông, có vị trí cao hơn mọi tư tưởng cao siêu nào hết, làm nên bệ đỡ cho cả một thời đại nói như Trần Quốc Tuấn : “vua tôi chung sức đồng lòng”.
Đối với phần cuối cuộc đời ông vua anh hùng, kể từ sau năm 1293, Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con lên giữ chức Thượng hoàng, rồi vài năm sau ông chính thức xuất gia, trở thành vị tổ thứ nhất dòng Thiền Trúc Lâm, vào tu hạnh đầu đà ở Yên Tử cho đến khi viên tịch, đã có nhiều cách lý giải khác nhau của hậu thế. Ngô sĩ Liên thì cho là ông đã “đi tìm siêu thoát”, trái với đạo Trung dung của Khổng Mạnh (Đại Việt sử ký toàn thư). Tăng Hải Hoà tức Nguyễn Đăng Sở ở thế kỷ XVIII lại liên tưởng xa hơn, rằng thực chất Nhân Tông tìm lên Yên Tử là để chọn một vọng gác tiền tiêu bao quát vùng Đông Bắc. Bởi tuy “trong nước vô sự nhưng ở phía Bắc vẫn có nước láng giềng mạnh mẽ, chưa được an tâm... Cho nên nhằm được ngọn Yên Tử là núi cao nhất, phía Đông nhìn về Yên Quảng, phía Bắc liếc sang hai tỉnh Lạng, dựng lên ngôi chùa, thời thường dạo chơi để xem động tĩnh, cốt để ngừa cái mối lo nước ngoài xâm phạm. Thật là một vị Vô lượng lực Đại thế chí Bồ Tát” (Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh).
Thoạt nhìn, cả hai lời giải đáp trái ngược nhau xem ra đều có những mặt hữu lý. Tuy nhiên, xét từ phương pháp tư tưởng, cả Ngô Sĩ Liên và Nguyễn Đăng Sở lại cùng chung một nhầm lẫn là chỉ thuần dựa trên những hệ quy chiếu chủ quan, không đếm xỉa gì đến tiến trình tư tưởng nội tại của vị Hoàng đế nhà Trần. Việc Trần Nhân Tông xuất gia vốn là sở nguyện của cả đời ông, phát lộ ngay từ còn trẻ. Ông không bao giờ quên cảnh giác với mưu ma chước quỷ của Thiên triều, chắc chắn là thế, nhưng thiết tưởng ông cần gì làm cái chuyện khoác áo cà sa để giấu giếm những hoạt động “tình báo” trên đất mình. Cách giải thích “chính trị hoá” của Nguyễn Đăng Sở vì thế khó có thể chấp nhận. Song Trần Nhân Tông đi tu phải chăng là đi tìm siêu thoát ? Không ! Nếu chỉ tìm đường siêu thoát cớ sao đã đi tu ông còn triệu tập quần thần về Thiên Trường định bàn chuyện phế lập khi bắt gặp Trần Anh Tông say rượu bỏ bê chính sự (1299) ? Hoặc giả, sau khi vân du nhiều vùng miền trong nước, ông còn sang tận Chiêm Thành trong 9 tháng trời, xem xét tình hình nước Chiêm và bàn chuyện tác hợp Huyền Trân Công chúa với vua Chiêm Chế Mân (1301) ? v.v. và v.v...
Chỉ có thể làm sáng tỏ những mắc mớ như trên khi ta đặt Trần Nhân Tông vào trong cùng chuỗi cả một hệ phái Thiền mang nặng cảm thức nhập thế của Việt Nam. Trước Trần Nhân Tông đến hơn 300 năm, Thiền sư Pháp Thuận (915 - 990) đã từng khuyên vua Lê Đại Hành : “Vô vi trên điện gác / Chốn chốn tắt đao binh”. Vô vi, trong nghĩa từ nguyên của thuật ngữ, không phải là không làm gì mà trái lại, làm bất cứ việc gì thuận theo quy luật tự nhiên, hay nói như vua Lý Nhân Tông khuyên Thiền sư Mãn Giác (1052 - 1096) “Không việc gì không làm, chẳng những đắc lực về Thiền định mà cũng có công giúp đỡ nhà nước” (Thiền uyển tập anh). Kế thừa người đi trước, Trần Nhân Tông đã đề xuất phương châm “cư trần lạc đạo” – ở giữa cõi trần mà vui đạo, cũng là một khái niệm vô vi được vận dụng cụ thể hoá trong bối cảnh lịch sử phức tạp và vĩ đại buổi thịnh Trần. Và nhà vua đã bỏ hai phần ba cuộc đời giữ trọng trách “vỗ yên dân chúng” chính là thuận theo cái lẽ sống “cư trần lạc đạo” ấy . Cũng như ông nội và thân phụ, trong tư cách một con người lịch sử ông ý thức được quy luật lịch sử và trách nhiệm trước lịch sử của cá nhân mình. Ông đang thực hiện vô vi ngay trên ngai vàng. Khi ông rời triều đình lên Yên Tử, con người nhập thế tất nhiên vẫn còn (chứ làm sao triệt tiêu ngay được?!). Tuy vậy, lại cũng bởi là người nắm vững hơn ai hết quy luật sinh lão bệnh tử của tự nhiên, Trần Nhân Tông đã biết cách chủ động truyền trọng trách thế sự lại cho Hoàng tử trưởng là Anh Tông kế tục, và mục tiêu vô vi giờ đây là thung dung đi tìm niềm vui của sự “giác ngộ”, cũng là tìm lời giải đáp cho những câu hỏi lớn : Con người là ai ? Từ đâu đến và cuối cùng đi đâu ? Thế giới có hay không ? Thật hay ảo ?... Những câu hỏi ấy loài người đặt ra từ rất sớm, và cũng từ rất sớm con người đã luôn cố gắng tìm câu trả lời. Giống như Thích-ca-mâu-ni tìm ra đáp án thế giới gồm trong “ngũ uẩn”, kể cả tâm cả vật – sắc, thụ, tưởng, hành, thức, chúng ta không loại trừ ở Trần Nhân Tông – giờ đây đã mang pháp danh Trúc Lâm Đại Đầu đà – niềm khát khao được toả sáng trí tuệ theo cách riêng của ông trước những câu hỏi loại này để từ con người vô minh của nhân thế thật sự trở thành một người tự do (Cõi trần vui đạo hãy tuỳ duyên / Đói cứ ăn no, mệt ngủ yên / Báu sẵn trong nhà thôi khỏi kiếm / Vô tâm trước cảnh hỏi gì thiền – Cư trần lạc đạo phú) ; nhờ đó ít nhiều ông gầy dựng cho Thiền phái Trúc Lâm một cơ sở triết thuyết nó là nền tảng vũ trụ quan và nhân sinh quan của xã hội thời thịnh Trần. Về phương diện này nữa, gương mặt Trần Nhân Tông cũng phản ánh tầm vóc của một thời đại lớn trong lịch sử.
Hà Nội 27 - 11 - 2008
Mấy bài thơ của Trần Nhân Tông
(Lời bình của Nguyễn Huệ Chi):
春 景
楊 柳 花 深 鳥 語遲
畫 堂 簷 影 暮 雲飛
客 來 不 問 人 間事
共 倚 欄 杆 看 翠微
Phiên âm:
XUÂN CẢNH
Dương liễu hoa thâm, điểu ngữ trì,
Họa đường thiềm ảnh mộ vân phi.
Khách lai bất vấn nhân gian sự,
Cộng ỷ lan can khán thúy vi.
Dịch nghĩa :
CẢNH XUÂN
Trong khóm hoa dương liễu rậm, chim hót chậm rãi,
Dưới bóng thềm ngôi nhà chạm vẽ, mây chiều lướt bay.
Khách đến chơi không hỏi việc thế tục,
Cùng đứng tựa lan can ngắm màu xanh mờ mịt ở chân trời.
Dịch thơ :
Chim nhẩn nha kêu, liễu trổ dày,
Thềm hoa chiều rợp bóng mây bay.
Khách vào chẳng hỏi chuyện nhân thế,
Cùng tựa lan can nhìn núi mây.
Huệ Chi dịch
二 月 十 一 夜
歡 伯 澆 愁 風 味長
桃 笙 竹 簟 穩 龍床
一 天 如 水 月 如晝
花 影 滿 窗 春 夢長
Phiên âm:
NHỊ NGUYỆT THẬP NHẤT DẠ
Hoan bá kiêu sầu phong vị trường,
Đào sinh, trúc đạm, ổn long sàng.
Nhất thiên như thuỷ, nguyệt như trú,
Hoa ảnh mãn song, xuân mộng trường.
Dịch nghĩa :
ĐÊM MƯỜI MỘT THÁNG HAI
Chén rượu rửa mối sầu có phong vị nồng đậm mãi,
Chiếc chiếu “đào sinh” (ở Tứ Xuyên) bằng trúc yên ổn trên giường rồng.
Trời trong như nước, trăng sáng như ban ngày,
Bóng hoa tràn ngập cửa sổ, giấc mộng đêm xuân triền miên.
Dịch thơ :
Rượu tưới sầu tan, vị đậm đà,
giường rồng, chiếu trúc trải bày ra.
Trời trong như nước, trăng vằng vặc,
Giấc mộng xuân dài dưới bóng hoa.
Trần Lê Văn dịch
天 長 晚 望
村 後 村 前 淡 似煙
半 無 半 有 夕 楊邊
牧 童 笛 裡 歸 牛盡
白 鷺 雙 雙 飛 下田
Phiên âm :
THIÊN TRƯỜNG VÃN VỌNG
Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô bán hữu, tịch dương biên.
Mục đồng địch lý quy ngưu tận,
Bạch lộ song song phi hạ điền.
Dịch nghĩa :
NGẮM CẢNH CHIỀU Ở THIÊN TRƯỜNG
Trước thôn, sau thôn đều mờ mờ như khói phủ,
Bên bóng chiều, cảnh vật nửa như có nửa như không.
Trong tiếng sáo, mục đồng lùa trâu về hết.
Từng đôi cò trắng hạ cánh xuống đồng.
Dịch thơ :
Trước xóm sau thôn tựa khói lồng,
Bóng chiều dường có lại dường không.
Mục đồng sáo vẳng, trâu về hết,
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.
Theo bản dịch Ngô Tất Tố
Bài thơ tả cảnh một buổi chiều ở phủ Thiên Trường (Nam Định) nhưng cũng là giải đáp một câu hỏi về hai phạm trù Thiền học “có” và “không” cho chính nhà thơ. Hai câu đầu, buổi chiều hiện ra trong trạng thái “tĩnh” và mờ mờ ảo ảo khiến người ngắm cảnh giằng mắc trong cái cảm giác “có” và “không” lẫn lộn của hiện hữu. Nhưng chợt từ xa hình ảnh một chú bé chăn trâu đi gần lại với tiếng sáo véo von, đánh thức ấn tượng rõ rệt về cái “có” – sự hiện hữu muôn đời của làng quê Việt Nam – trong tâm trí tác giả. Thêm vào đấy lại một đàn cò trắng lấp loáng bay xuống giữa đồng. Cái “có” lần lượt đánh bạt cái “không” thì cũng chính là trước mắt người ngắm cảnh, cái “động” đang thay thế cho cái “tĩnh”.
武 林 秋 晚
畫 橋 倒 影 蘸 溪 橫
一 抹 斜 陽 水 外 明
寂 寂 千 山 紅 葉 落
濕 雲 如 夢 遠 鐘 聲
Phiên âm :
VŨ LÂM THU VÃN
Hoạ kiều đảo ảnh, bán khê hoành,
Nhất mạt tà dương thuỷ ngoại sinh.
Tịch tịch thiên sơn hồng lạc diệp,
Thấp vân như mộng, viễn chung thanh.
Dịch nghĩa :
CHIỀU THU Ở VŨ LÂM
Chiếc cầu chạm vẽ in ngược bóng vắt ngang dòng suối,
Một vệt nắng chiều rực sáng bên ngoài ngấn nước.
Nghìn núi lặng tờ, lá đỏ rơi,
Mây ướt giăng như mộng, tiếng chuông xa vẳng.
Dịch thơ :
Lòng khe in ngược bóng cầu hoa,
Hắt sáng bờ khe, vệt nắng tà.
Lặng lẽ nghìn non rơi lá đỏ,
Mây giăng như mộng, tiếng chuông xa.
Trần Thị Băng Thanh dịch
Khung cảnh một chiều thu được nhà thơ vẽ lên bằng hình ảnh phản chiếu qua một con suối, ở đó cái gì cũng đảo ngược : bóng cầu, vệt nắng... rất đẹp nhưng hình như không thật. Điểm thêm vào đó là cái nền mây trùm lên cảnh vật mờ ảo như trong giấc mộng trong đó có những lá đỏ đang rơi nhè nhẹ và tiếng chuông vẳng tới từ rất xa. Tất cả, như muốn nói lên cái cảm quan Thiền về “thật” và “ảo” trong tâm hồn tác giả.
餽 張 顯 卿 春 餅
柘 枝 舞 罷 試 春 衫
況 值 今 朝 三 月 三
紅 玉 堆 盤 春 菜 餅
從 來 風 俗 舊 安 南
Phiên âm :
QUỸ TRƯƠNG HIỂN KHANH XUÂN BÍNH
Giá chi vũ bãi, thí xuân sam,
Huống trị kim triêu tam nguyệt tam.
Hồng ngọc đôi bàn xuân thái bính,
Tòng lai phong tục cựu An Nam.
Dịch nghĩa :
TẶNG BÁNH NGÀY XUÂN CHO SỨ BẮC TRƯƠNG HIỂN KHANH
Múa giá chi xong, thử tấm áo ngày xuân,
Huống nữa hôm nay lại gặp tiết mồng ba tháng Ba.
Bánh rau mùa xuân như ngọc hồng bày đầy mâm,
Đó là phong tục của nước An Nam xưa nay.
Dịch thơ :
Múa giá chi rồi thử áo xuân,
Hôm nay hàn thực, buổi thanh thần.
Bánh rau đầy đặn như hồng ngọc,
Nước Việt, tục này theo cổ nhân.
Trần Lê Văn dịch
Một bài thơ tiếp sứ trình bày vẻ đẹp của phong tục đất nước để khách thưởng lãm, có bánh, có rau, có điệu múa cổ “giá chi” và trang phục mùa xuân của nghệ sĩ đang múa. Người làm thơ khiêm nhường với những lời nhã nhặn, nhưng đã phác hoạ lên cả một bề dày văn hoá mà thấp thoáng đằng sau là ánh mắt tự hào về bản sắc riêng của dân tộc mình.
CHÚ THÍCH
(1) Trong cuốn Trần Nhân Tông toàn tập, nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2000, nhà nghiên cứu Lê Mạnh Thát cho rằng trong lần định công khen thưởng này “Đỗ Hành, người bắt được Ô Mã Nhi tại trận thuỷ chiến Bạch Đằng, đã không được tước cao, vì đã không đem Ô Mã Nhi dâng cho Trần Nhân Tông mà lại đem dâng cho Thượng hoàng Trần Thánh Tông”, và “Hưng Trí vương Nghiễn không được thăng trật do hăng say đón đánh bọn giặc Nguyên trên đường tháo chạy về nước sau khi đã có lệnh của vua Trần Nhân Tông không được cản trở chúng”, những sự việc ấy “muốn xác định cho ta biết ai là người lãnh đạo tối cao của đất nước” (tr. 160). Chúng tôi nghĩ, hai sự kiện đã nêu chỉ mới chứng tỏ Trần Nhân Tông là người trực tiếp chỉ huy hai cuộc chiến tranh tự vệ chống quân Nguyên, còn vai trò lãnh đạo tối cao đối với đất nước, kể cả trong chiến trận, thì theo truyền thống của nhà Trần, vẫn thuộc về Thượng hoàng Trần Thánh Tông. Cần nhớ rằng người điều khiển cuộc định công ban thưởng này cũng là Trần Thánh Tông chứ không phải Trần Nhân Tông. Chủ trương đốt bỏ hòm biểu của những vương hầu hàng giặc cũng là Trần Thánh Tông, những lệnh chỉ trị tội Trần Khánh Dư khi ông thua trận Vân Đồn, và tiếp đấy tha tội cho ông sau khi ông lập công đánh tan thuyền lương Trương Văn Hổ đều là do Trần Thánh Tông ban bố, và ngay Đại Việt sử ký toàn thư cũng không hề nói Trần Nhân Tông hay Trần Thánh Tông là người đưa ra quyết định không truy đuổi tiếp đội quân Nguyên rút theo đường bộ nữa. Bởi vậy, việc ban thưởng cho các tướng đến bậc nào và ai không được ban thưởng chắc chắn là tuân thủ những nguyên tắc đã vạch sẵn chứ không tuỳ tiện theo ý cá nhân Trần Nhân Tông được. Cách nói như trên e không làm cho người đọc thấy vai trò lớn lao của ông mà trái lại có thể làm nhỏ ông đi trong mắt người đọc
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
tuong
Tượng Trần Nhân Tông trong tháp tổ Huệ Quang
Nhân Tông lên ngôi năm 1278, mới hai mươi tuổi. Nhà Trần lúc này đã bước vào thời kỳ ổn định, đất nước hoà bình, nông nghiệp phát triển, luật pháp thi cử học hành đều đã vào nề nếp… Một thời kỳ thịnh trị bắt đầu. Song khó khăn đối với ông vua trẻ lại là cái áp lực dồn tới từ phương Bắc. Nhà Nguyên đã diệt xong nước Tống, bắt đầu tính đến Việt Nam, thường xuyên gây sức ép và cuối cùng là hai cuộc xâm lăng năm 1285 và 1288. Chưa đầy năm năm phải đương đầu với hai trận tấn công ồ ạt của “giặc mạnh” có đủ quân thuỷ, quân bộ, quân kỵ và mỗi lần con số đều không dưới 50 vạn không phải là việc dễ, trong khi phần lớn thế giới từ Âu sang Á lúc ấy đều đã bị khuất phục nhanh chóng dưới vó ngựa đạo quân Mông Cổ cực kỳ thiện chiến và hung hãn này. Song Trần Nhân Tông đã cố kết được lòng dân, phát huy được năng lực của các tướng, động viên được tài trí của cả nước đánh thắng giặc, bảo vệ toàn vẹn nền độc lập cho nước nhà. Quả là trong kháng chiến chống ngoại xâm, ông là một anh hùng tiêu biểu. Công lao của những tướng lĩnh kiệt xuất như Trần Quốc Tuấn... không thể phủ nhận, vai trò cố vấn của vị Thượng hoàng dày dạn kinh nghiệm là Trần Thánh Tông cũng khó lòng coi nhẹ, nhưng ở vị trí một người lãnh đạo tối cao, Trần Nhân Tông mới chính là linh hồn của cuộc chiến. Bằng phong thái ung dung tự tại trong tầm nhìn và trong chỉ đạo chiến lược, ông đã đem lại cho quân dân nhà Trần niềm tin sắt đá vào thắng lợi cuối cùng.
Những năm sau đó, bước vào công cuộc xây dựng lại đất nước đã bị tàn phá, Nhân Tông một mặt lo tổng kết việc đánh giặc thưởng công, ghi Trung hưng thực lục, một mặt lo tiếp tục đối phó với cuộc tấn công phục thù của địch, vận dụng một cách hoàn thiện cả hai nguyên tắc mềm dẻo và cứng rắn trong nhiều lần vất vả giải quyết các yêu sách ngang ngược của sứ bộ nhà Nguyên, đồng thời lo làm sao cho nước mạnh dân giàu. Có thể nói, hơn mười bốn năm làm vua (1278-1293), cũng là suốt cả thời trai trẻ, Nhân Tông đã dành hầu hết tâm sức cho chỉ hai mục tiêu liên thông chặt chẽ với nhau : cơ đồ xã tắc vững bền và nhân tâm an lạc. Thông thường, khi một giai đoạn lịch sử đã đóng lại, đời sau dễ phát hiện những ưu khuyết điểm của người xưa, dễ dàng chỉ ra những việc nên làm và không nên làm… Song, nếu nghĩ rằng Trần Nhân Tông thuở đó chỉ mới trên dưới ba mươi tuổi, đã phải gánh vác trách nhiệm quyết định những việc lớn lao liên quan đến chuyện mất còn của cả dân tộc thì mới thấy hết bản lĩnh và tầm vóc của ông. Nhất là khi đối thủ mà ông phải đương đầu chẳng phải một kẻ địch hạng xoàng ! Hốt Tất Liệt vốn là một tướng cầm quân lão luyện, giặc Thát lại là một đội quân ngang dọc vẫy vùng. Và sau khi đã làm chủ mảnh đất Trung Hoa, “chúa tể Đại Nguyên” còn tập hợp được cả một đội ngũ đông đảo văn thần người Hán, nhiều người từng là nhà ngoại giao, chính khách sừng sỏ, “tận trung” bày mưu tính kế. Có xét đến những hoàn cảnh cụ thể như vậy mới hiểu hết được tính cách mạnh của Trần Nhân Tông, bộc lộ ra ở cả tư tưởng và hành vi trong nhiều thời điểm có ý nghĩa bước ngoặt lịch sử, rất cần sự quyết đoán, cái nhìn sáng suốt ở một người như ông.
Vào khoảng cuối 1284 đầu 1285 sau khi cuộc chiến lần thứ nhất diễn ra chỉ mới chừng mươi ngày, mặt trận Khâu Cấp - Nội Bàng đã tan vỡ và đại quân Trần phải lùi về Vạn Kiếp. Trên con thuyền chạy ra Hải Đông nhằm tránh mũi dùi tấn công của giặc, giữa lúc quần thần không khỏi hoang mang, Trần Nhân Tông đã viết vào đuôi thuyền hai câu :
會 稽舊 事 君須 記
驩 愛猶 存十 萬 兵
Cối Kê cựu sự quân tu ký,
Hoan, Diễn do tồn thập vạn binh
(Cối Kê việc cũ ngươi nên nhớ,
Hoan Diễn còn kia mười vạn quân).
Hai câu thơ, có lẽ chỉ nhằm trấn an những bề tôi nào đó cùng đi trên thuyền, nhưng đã lan truyền rất nhanh như một thông điệp về tinh thần tự chủ kỳ lạ của người đứng đầu xã tắc. Một nghìn quân còn lại trên núi Cối Kê của Việt Vương Câu Tiễn ở thời Chiến quốc, ngỡ bị quân Ngô dồn đến chân tường, vậy mà về sau đã lại dấy lên, đánh bại đội quân hùng mạnh của nước Ngô. Gợi một điển tích cũ để bày tỏ niềm tin vững chắc của mình vào triển vọng của đất nước lúc bấy giờ, trong tình thế nghìn cân treo sợi tóc, đồng thời Trần Nhân Tông cũng nhắc người nghe đừng quên mất thực tế là vùng hậu phương Thanh - Nghệ lực lượng hiện vẫn chưa suy suyển. Nhưng còn quan trọng hơn là cái dung lượng triết lý mà câu nói của ông chứa đựng. Với hình thức thi ca chứ không phải chiếu lệnh, Nhân Tông như muốn truyền vào người tiếp nhận cùng lúc nguồn cảm hứng lãng mạn của một thi nhân và con mắt nhìn động của một triết nhân, để họ nhận rõ xu thế chuyển hóa bên trong của cái hiện thực rối bời trước mắt. Một sự kiện Cối Kê sẽ được lặp lại trong cuộc chiến đấu tưởng như rất bất lợi nhưng lại đang diễn ra trên mảnh đất mà chính dân Nam mới đích thực là người chủ còn kẻ địch chỉ là “bất tốc chi khách” – ông khách không mời mà đến, điều ấy cả ông và Trần Quốc Tuấn đều đã lường thấy. Có điều, nếu Trần Quốc Tuấn bày tỏ sự thấy bằng cái cách của con nhà tướng, đem đầu ra đánh cược với Trần Thánh Tông, thì Trần Nhân Tông lại thể hiện nó bằng tầm bao quát tinh xác tương quan lực lượng trên khắp mọi mặt trận khi đó, cả trước mặt mình và khuất xa sau lưng mình. Chưa nói đến đức bình tĩnh hiếm có, chỉ nội dung của lời thông báo cũng đủ chứng tỏ năng lực một con người lãnh đạo kỳ tài.
Cũng với niềm xác tín phi thường như thế ta lại thấy buột thốt ra trong hai câu thơ của Trần Nhân Tông vào ngày khải hoàn, khi ông đến bái yết lăng tẩm ông nội, giữa lúc dấu tích chiến tranh để lại còn ngổn ngang. Hai câu thơ như một âm hưởng vĩ thanh hoà điệu với hai câu thơ trên con thuyền chạy giặc ngày nào mà sự đối lập động và tĩnh ở đây tưởng như ngược với trước, kỳ thực là hoàn toàn thống nhất :
社 稷兩 回勞 石 馬
山 河千 古奠 金 甌
Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã,
Sơn hà thiên cổ điện kim âu.
(Xã tắc hai phen chồn ngựa đá,
Non sông nghìn thuở vững âu vàng).
Rõ ràng, cái động nhất thời do kẻ địch gây ra dù có ghê gớm đến đâu cũng đã bị lịch sử phủ định. Thực tế đất nước đã vận động đúng như suy đoán tài tình của nhà vua lúc chiến tranh vừa khởi sự để trở lại thế tĩnh cân bằng.
Phải nói, niềm xác tín lịch sử của Trần Nhân Tông có được chính là xuất phát từ cái nhìn hết sức nhân bản đối với người và việc trong thời đại ông. Ông tin ở phẩm chất hướng thiện của mọi con người kinh qua thử thách thực tiễn, hay đúng hơn, ông không hề xem xét con người một cách đơn nhất hóa. Trong hội nghị tướng lĩnh ở Bình Than năm 1282 mà ông đích thân chủ trì nhằm đối phó với nguy cơ quân Nguyên Mông gây hấn, vừa bắt gặp chiếc thuyền bán than của Trần Khánh Dư – một tướng tài nhưng cũng lắm tật – lướt qua bên đoàn thuyền chiến, Trần Nhân Tông đã có ngay lệnh chỉ tha tội cho Dư, gọi Dư lại và cho lại được dự vào hàng tướng soái cầm quân. Thái độ bao dung của vị Hoàng đế thực không uổng phí: rồi đây Phó tướng Trần Khánh Dư sẽ lập công xuất sắc ở nhiều chiến trận. Thái độ bao dung ấy còn gây một không khí cởi mở trong tầng lớp quý tộc vương hầu, khiến họ càng xích lại gần nhau, để toàn tâm toàn ý sống mái với giặc.
Cũng vậy, sau ngày kéo quân khải hoàn về Thăng Long (1288), bắt được một hòm thư biểu của không ít vương hầu quan lại từng vì nao núng mà xin hàng Thoát Hoan, biết tình thế muôn phần gay go của những ngày nước sôi lửa bỏng khiến có lúc xa giá triều đình cũng phải mặc ai nấy chạy; lại cũng thừa hiểu tâm lý con người thường tục ai mà chẳng có chỗ tham sống sợ chết; nên sau khi đã định công khen thưởng (1), tuân lệnh Thượng hoàng Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông liền cho đốt ngay hòm biểu kẻ thù bỏ lại nhằm “giữ yên lòng người”. Với hành vi “xé bỏ lý lịch” kiểu đó, dám chắc đây là một thời đại nhân hậu vượt lên mọi luật lệ khuôn phép, mà tính đến tận hôm nay có dễ cũng là một thời đại có một không hai.
Không chỉ có thế. Chính trong những tháng ngày bôn ba đánh giặc, Trần Nhân Tông còn nhận chân ra một sự thực : chỉ ở những đám người “chân đất” mới thực giàu phẩm chất trung thành tận tụy mà không chút tính toán so đo. Hộ vệ ông đến cùng chính là “bọn ấy” và cũng chính ông được “bọn ấy” dâng cơm hẩm trên con đường rút chạy phải nhịn đói từ sáng đến chiều. Nhận thức về cái cao quý của người nghèo hèn đã in sâu vào trực giác của ông nên sau này, trở lại ngai vàng, hễ mỗi lần gặp gia đồng của các vương hầu ông đều ân cần thăm hỏi ; khi trị tội những kẻ đã cam tâm làm tay sai cho giặc, ông chủ trương “chỉ lính tráng và dân thường là được miễn tội chết” (Đại Việt sử ký toàn thư); ông cũng đem những điều chiêm nghiệm đã đúc thành chân lý ra dụ bảo bề tôi : “Ngày thường thì có thị vệ tả hữu, nhưng khi quốc gia hoạn nạn chỉ có bọn chúng là có mặt” (Đại Việt sử ký toàn thư). Đấy hẳn là một nhận thức cơ bản trong ý thức Trần Nhân Tông, có vị trí cao hơn mọi tư tưởng cao siêu nào hết, làm nên bệ đỡ cho cả một thời đại nói như Trần Quốc Tuấn : “vua tôi chung sức đồng lòng”.
Đối với phần cuối cuộc đời ông vua anh hùng, kể từ sau năm 1293, Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con lên giữ chức Thượng hoàng, rồi vài năm sau ông chính thức xuất gia, trở thành vị tổ thứ nhất dòng Thiền Trúc Lâm, vào tu hạnh đầu đà ở Yên Tử cho đến khi viên tịch, đã có nhiều cách lý giải khác nhau của hậu thế. Ngô sĩ Liên thì cho là ông đã “đi tìm siêu thoát”, trái với đạo Trung dung của Khổng Mạnh (Đại Việt sử ký toàn thư). Tăng Hải Hoà tức Nguyễn Đăng Sở ở thế kỷ XVIII lại liên tưởng xa hơn, rằng thực chất Nhân Tông tìm lên Yên Tử là để chọn một vọng gác tiền tiêu bao quát vùng Đông Bắc. Bởi tuy “trong nước vô sự nhưng ở phía Bắc vẫn có nước láng giềng mạnh mẽ, chưa được an tâm... Cho nên nhằm được ngọn Yên Tử là núi cao nhất, phía Đông nhìn về Yên Quảng, phía Bắc liếc sang hai tỉnh Lạng, dựng lên ngôi chùa, thời thường dạo chơi để xem động tĩnh, cốt để ngừa cái mối lo nước ngoài xâm phạm. Thật là một vị Vô lượng lực Đại thế chí Bồ Tát” (Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh).
Thoạt nhìn, cả hai lời giải đáp trái ngược nhau xem ra đều có những mặt hữu lý. Tuy nhiên, xét từ phương pháp tư tưởng, cả Ngô Sĩ Liên và Nguyễn Đăng Sở lại cùng chung một nhầm lẫn là chỉ thuần dựa trên những hệ quy chiếu chủ quan, không đếm xỉa gì đến tiến trình tư tưởng nội tại của vị Hoàng đế nhà Trần. Việc Trần Nhân Tông xuất gia vốn là sở nguyện của cả đời ông, phát lộ ngay từ còn trẻ. Ông không bao giờ quên cảnh giác với mưu ma chước quỷ của Thiên triều, chắc chắn là thế, nhưng thiết tưởng ông cần gì làm cái chuyện khoác áo cà sa để giấu giếm những hoạt động “tình báo” trên đất mình. Cách giải thích “chính trị hoá” của Nguyễn Đăng Sở vì thế khó có thể chấp nhận. Song Trần Nhân Tông đi tu phải chăng là đi tìm siêu thoát ? Không ! Nếu chỉ tìm đường siêu thoát cớ sao đã đi tu ông còn triệu tập quần thần về Thiên Trường định bàn chuyện phế lập khi bắt gặp Trần Anh Tông say rượu bỏ bê chính sự (1299) ? Hoặc giả, sau khi vân du nhiều vùng miền trong nước, ông còn sang tận Chiêm Thành trong 9 tháng trời, xem xét tình hình nước Chiêm và bàn chuyện tác hợp Huyền Trân Công chúa với vua Chiêm Chế Mân (1301) ? v.v. và v.v...
Chỉ có thể làm sáng tỏ những mắc mớ như trên khi ta đặt Trần Nhân Tông vào trong cùng chuỗi cả một hệ phái Thiền mang nặng cảm thức nhập thế của Việt Nam. Trước Trần Nhân Tông đến hơn 300 năm, Thiền sư Pháp Thuận (915 - 990) đã từng khuyên vua Lê Đại Hành : “Vô vi trên điện gác / Chốn chốn tắt đao binh”. Vô vi, trong nghĩa từ nguyên của thuật ngữ, không phải là không làm gì mà trái lại, làm bất cứ việc gì thuận theo quy luật tự nhiên, hay nói như vua Lý Nhân Tông khuyên Thiền sư Mãn Giác (1052 - 1096) “Không việc gì không làm, chẳng những đắc lực về Thiền định mà cũng có công giúp đỡ nhà nước” (Thiền uyển tập anh). Kế thừa người đi trước, Trần Nhân Tông đã đề xuất phương châm “cư trần lạc đạo” – ở giữa cõi trần mà vui đạo, cũng là một khái niệm vô vi được vận dụng cụ thể hoá trong bối cảnh lịch sử phức tạp và vĩ đại buổi thịnh Trần. Và nhà vua đã bỏ hai phần ba cuộc đời giữ trọng trách “vỗ yên dân chúng” chính là thuận theo cái lẽ sống “cư trần lạc đạo” ấy . Cũng như ông nội và thân phụ, trong tư cách một con người lịch sử ông ý thức được quy luật lịch sử và trách nhiệm trước lịch sử của cá nhân mình. Ông đang thực hiện vô vi ngay trên ngai vàng. Khi ông rời triều đình lên Yên Tử, con người nhập thế tất nhiên vẫn còn (chứ làm sao triệt tiêu ngay được?!). Tuy vậy, lại cũng bởi là người nắm vững hơn ai hết quy luật sinh lão bệnh tử của tự nhiên, Trần Nhân Tông đã biết cách chủ động truyền trọng trách thế sự lại cho Hoàng tử trưởng là Anh Tông kế tục, và mục tiêu vô vi giờ đây là thung dung đi tìm niềm vui của sự “giác ngộ”, cũng là tìm lời giải đáp cho những câu hỏi lớn : Con người là ai ? Từ đâu đến và cuối cùng đi đâu ? Thế giới có hay không ? Thật hay ảo ?... Những câu hỏi ấy loài người đặt ra từ rất sớm, và cũng từ rất sớm con người đã luôn cố gắng tìm câu trả lời. Giống như Thích-ca-mâu-ni tìm ra đáp án thế giới gồm trong “ngũ uẩn”, kể cả tâm cả vật – sắc, thụ, tưởng, hành, thức, chúng ta không loại trừ ở Trần Nhân Tông – giờ đây đã mang pháp danh Trúc Lâm Đại Đầu đà – niềm khát khao được toả sáng trí tuệ theo cách riêng của ông trước những câu hỏi loại này để từ con người vô minh của nhân thế thật sự trở thành một người tự do (Cõi trần vui đạo hãy tuỳ duyên / Đói cứ ăn no, mệt ngủ yên / Báu sẵn trong nhà thôi khỏi kiếm / Vô tâm trước cảnh hỏi gì thiền – Cư trần lạc đạo phú) ; nhờ đó ít nhiều ông gầy dựng cho Thiền phái Trúc Lâm một cơ sở triết thuyết nó là nền tảng vũ trụ quan và nhân sinh quan của xã hội thời thịnh Trần. Về phương diện này nữa, gương mặt Trần Nhân Tông cũng phản ánh tầm vóc của một thời đại lớn trong lịch sử.
Hà Nội 27 - 11 - 2008
Mấy bài thơ của Trần Nhân Tông
(Lời bình của Nguyễn Huệ Chi):
春 景
楊 柳 花 深 鳥 語遲
畫 堂 簷 影 暮 雲飛
客 來 不 問 人 間事
共 倚 欄 杆 看 翠微
Phiên âm:
XUÂN CẢNH
Dương liễu hoa thâm, điểu ngữ trì,
Họa đường thiềm ảnh mộ vân phi.
Khách lai bất vấn nhân gian sự,
Cộng ỷ lan can khán thúy vi.
Dịch nghĩa :
CẢNH XUÂN
Trong khóm hoa dương liễu rậm, chim hót chậm rãi,
Dưới bóng thềm ngôi nhà chạm vẽ, mây chiều lướt bay.
Khách đến chơi không hỏi việc thế tục,
Cùng đứng tựa lan can ngắm màu xanh mờ mịt ở chân trời.
Dịch thơ :
Chim nhẩn nha kêu, liễu trổ dày,
Thềm hoa chiều rợp bóng mây bay.
Khách vào chẳng hỏi chuyện nhân thế,
Cùng tựa lan can nhìn núi mây.
Huệ Chi dịch
二 月 十 一 夜
歡 伯 澆 愁 風 味長
桃 笙 竹 簟 穩 龍床
一 天 如 水 月 如晝
花 影 滿 窗 春 夢長
Phiên âm:
NHỊ NGUYỆT THẬP NHẤT DẠ
Hoan bá kiêu sầu phong vị trường,
Đào sinh, trúc đạm, ổn long sàng.
Nhất thiên như thuỷ, nguyệt như trú,
Hoa ảnh mãn song, xuân mộng trường.
Dịch nghĩa :
ĐÊM MƯỜI MỘT THÁNG HAI
Chén rượu rửa mối sầu có phong vị nồng đậm mãi,
Chiếc chiếu “đào sinh” (ở Tứ Xuyên) bằng trúc yên ổn trên giường rồng.
Trời trong như nước, trăng sáng như ban ngày,
Bóng hoa tràn ngập cửa sổ, giấc mộng đêm xuân triền miên.
Dịch thơ :
Rượu tưới sầu tan, vị đậm đà,
giường rồng, chiếu trúc trải bày ra.
Trời trong như nước, trăng vằng vặc,
Giấc mộng xuân dài dưới bóng hoa.
Trần Lê Văn dịch
天 長 晚 望
村 後 村 前 淡 似煙
半 無 半 有 夕 楊邊
牧 童 笛 裡 歸 牛盡
白 鷺 雙 雙 飛 下田
Phiên âm :
THIÊN TRƯỜNG VÃN VỌNG
Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô bán hữu, tịch dương biên.
Mục đồng địch lý quy ngưu tận,
Bạch lộ song song phi hạ điền.
Dịch nghĩa :
NGẮM CẢNH CHIỀU Ở THIÊN TRƯỜNG
Trước thôn, sau thôn đều mờ mờ như khói phủ,
Bên bóng chiều, cảnh vật nửa như có nửa như không.
Trong tiếng sáo, mục đồng lùa trâu về hết.
Từng đôi cò trắng hạ cánh xuống đồng.
Dịch thơ :
Trước xóm sau thôn tựa khói lồng,
Bóng chiều dường có lại dường không.
Mục đồng sáo vẳng, trâu về hết,
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.
Theo bản dịch Ngô Tất Tố
Bài thơ tả cảnh một buổi chiều ở phủ Thiên Trường (Nam Định) nhưng cũng là giải đáp một câu hỏi về hai phạm trù Thiền học “có” và “không” cho chính nhà thơ. Hai câu đầu, buổi chiều hiện ra trong trạng thái “tĩnh” và mờ mờ ảo ảo khiến người ngắm cảnh giằng mắc trong cái cảm giác “có” và “không” lẫn lộn của hiện hữu. Nhưng chợt từ xa hình ảnh một chú bé chăn trâu đi gần lại với tiếng sáo véo von, đánh thức ấn tượng rõ rệt về cái “có” – sự hiện hữu muôn đời của làng quê Việt Nam – trong tâm trí tác giả. Thêm vào đấy lại một đàn cò trắng lấp loáng bay xuống giữa đồng. Cái “có” lần lượt đánh bạt cái “không” thì cũng chính là trước mắt người ngắm cảnh, cái “động” đang thay thế cho cái “tĩnh”.
武 林 秋 晚
畫 橋 倒 影 蘸 溪 橫
一 抹 斜 陽 水 外 明
寂 寂 千 山 紅 葉 落
濕 雲 如 夢 遠 鐘 聲
Phiên âm :
VŨ LÂM THU VÃN
Hoạ kiều đảo ảnh, bán khê hoành,
Nhất mạt tà dương thuỷ ngoại sinh.
Tịch tịch thiên sơn hồng lạc diệp,
Thấp vân như mộng, viễn chung thanh.
Dịch nghĩa :
CHIỀU THU Ở VŨ LÂM
Chiếc cầu chạm vẽ in ngược bóng vắt ngang dòng suối,
Một vệt nắng chiều rực sáng bên ngoài ngấn nước.
Nghìn núi lặng tờ, lá đỏ rơi,
Mây ướt giăng như mộng, tiếng chuông xa vẳng.
Dịch thơ :
Lòng khe in ngược bóng cầu hoa,
Hắt sáng bờ khe, vệt nắng tà.
Lặng lẽ nghìn non rơi lá đỏ,
Mây giăng như mộng, tiếng chuông xa.
Trần Thị Băng Thanh dịch
Khung cảnh một chiều thu được nhà thơ vẽ lên bằng hình ảnh phản chiếu qua một con suối, ở đó cái gì cũng đảo ngược : bóng cầu, vệt nắng... rất đẹp nhưng hình như không thật. Điểm thêm vào đó là cái nền mây trùm lên cảnh vật mờ ảo như trong giấc mộng trong đó có những lá đỏ đang rơi nhè nhẹ và tiếng chuông vẳng tới từ rất xa. Tất cả, như muốn nói lên cái cảm quan Thiền về “thật” và “ảo” trong tâm hồn tác giả.
餽 張 顯 卿 春 餅
柘 枝 舞 罷 試 春 衫
況 值 今 朝 三 月 三
紅 玉 堆 盤 春 菜 餅
從 來 風 俗 舊 安 南
Phiên âm :
QUỸ TRƯƠNG HIỂN KHANH XUÂN BÍNH
Giá chi vũ bãi, thí xuân sam,
Huống trị kim triêu tam nguyệt tam.
Hồng ngọc đôi bàn xuân thái bính,
Tòng lai phong tục cựu An Nam.
Dịch nghĩa :
TẶNG BÁNH NGÀY XUÂN CHO SỨ BẮC TRƯƠNG HIỂN KHANH
Múa giá chi xong, thử tấm áo ngày xuân,
Huống nữa hôm nay lại gặp tiết mồng ba tháng Ba.
Bánh rau mùa xuân như ngọc hồng bày đầy mâm,
Đó là phong tục của nước An Nam xưa nay.
Dịch thơ :
Múa giá chi rồi thử áo xuân,
Hôm nay hàn thực, buổi thanh thần.
Bánh rau đầy đặn như hồng ngọc,
Nước Việt, tục này theo cổ nhân.
Trần Lê Văn dịch
Một bài thơ tiếp sứ trình bày vẻ đẹp của phong tục đất nước để khách thưởng lãm, có bánh, có rau, có điệu múa cổ “giá chi” và trang phục mùa xuân của nghệ sĩ đang múa. Người làm thơ khiêm nhường với những lời nhã nhặn, nhưng đã phác hoạ lên cả một bề dày văn hoá mà thấp thoáng đằng sau là ánh mắt tự hào về bản sắc riêng của dân tộc mình.
CHÚ THÍCH
(1) Trong cuốn Trần Nhân Tông toàn tập, nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2000, nhà nghiên cứu Lê Mạnh Thát cho rằng trong lần định công khen thưởng này “Đỗ Hành, người bắt được Ô Mã Nhi tại trận thuỷ chiến Bạch Đằng, đã không được tước cao, vì đã không đem Ô Mã Nhi dâng cho Trần Nhân Tông mà lại đem dâng cho Thượng hoàng Trần Thánh Tông”, và “Hưng Trí vương Nghiễn không được thăng trật do hăng say đón đánh bọn giặc Nguyên trên đường tháo chạy về nước sau khi đã có lệnh của vua Trần Nhân Tông không được cản trở chúng”, những sự việc ấy “muốn xác định cho ta biết ai là người lãnh đạo tối cao của đất nước” (tr. 160). Chúng tôi nghĩ, hai sự kiện đã nêu chỉ mới chứng tỏ Trần Nhân Tông là người trực tiếp chỉ huy hai cuộc chiến tranh tự vệ chống quân Nguyên, còn vai trò lãnh đạo tối cao đối với đất nước, kể cả trong chiến trận, thì theo truyền thống của nhà Trần, vẫn thuộc về Thượng hoàng Trần Thánh Tông. Cần nhớ rằng người điều khiển cuộc định công ban thưởng này cũng là Trần Thánh Tông chứ không phải Trần Nhân Tông. Chủ trương đốt bỏ hòm biểu của những vương hầu hàng giặc cũng là Trần Thánh Tông, những lệnh chỉ trị tội Trần Khánh Dư khi ông thua trận Vân Đồn, và tiếp đấy tha tội cho ông sau khi ông lập công đánh tan thuyền lương Trương Văn Hổ đều là do Trần Thánh Tông ban bố, và ngay Đại Việt sử ký toàn thư cũng không hề nói Trần Nhân Tông hay Trần Thánh Tông là người đưa ra quyết định không truy đuổi tiếp đội quân Nguyên rút theo đường bộ nữa. Bởi vậy, việc ban thưởng cho các tướng đến bậc nào và ai không được ban thưởng chắc chắn là tuân thủ những nguyên tắc đã vạch sẵn chứ không tuỳ tiện theo ý cá nhân Trần Nhân Tông được. Cách nói như trên e không làm cho người đọc thấy vai trò lớn lao của ông mà trái lại có thể làm nhỏ ông đi trong mắt người đọc
Đăng ký:
Nhận xét (Atom)