Nguyễn Tiến Văn : Phiên dịch phải là quốc sách cho văn hoá Việt Nam
Con người có văn hiến từ kinh điển đến lịch sử, tư tưởng, và văn học từ khi có chữ viết để lưu truyền kinh nghiệm và suy nghĩ cùng cảm xúc. Tất cả chỉ mới 5.000 năm nay. Chữ viết không lệ thuộc vào bộ nhớ của cá nhân mà lưu giữ và truyền thông cả kí ức của tập thể, một cách chính xác tinh vi, tế nhị,và chi tiết, vì có sự tích lũy và cọ xát từ từng bộ óc và qua nhiều thế hệ.
Bách khoa thư thuộc về tiểu học.
Cho nên khoa nhân loại học (anthropology) phân biệt những tộc người có chữ viết với những tộc chỉ hoàn toàn dựa vào truyền miệng, như hai cấp độ của văn minh. Việc thông ngôn (intepretation) tức là dịch miệng và phiên dịch (translation) tức dịch viết khác nhau ở chỗ cái trước nhằm phục vụ những nhu cầu tức thời, thường ngày, còn cái sau nhằm đáp ứng những văn bản nghiêm túc, quan trọng, và có giá trị lâu bền hơn.
Mọi tộc người, dù ít ỏi đến đâu nay chỉ sống sót vài chục thành viên và về mặt kĩ thuật mưu sinh còn ở thời đại đồ đá chỉ biết săn bắt và hái lượm, cũng đều có tiếng nói (ngôn ngữ) gìn giữ và sử dụng có lẽ từ khoảng giữa 100.000 và 50.000 năm đến nay. Nhưng chữ viết (văn tự) là một phát minh kì diệu và rất hiếm hoi. Trong lịch sử loài người những hệ thống chữ viết độc lập và tồn tại đến bây giờ có thể đếm trên đầu những ngón tay, trong khi ngôn ngữ lên đến hàng chục ngàn, tức là tỉ lệ không đến một phần ngàn.
Tất cả văn minh của loài người đều nhờ cậy vào chữ viết mà lưu truyền. Cho nên học nói là trách nhiệm của mẹ cha, còn học chữ để đọc được kinh sách là trách nhiệm của nhà trường qua thầy cô. Trường học tồn tại chưa quá 3.000 năm, ở Trung Quốc bắt đầu với Khổng Tử, và ở Hi Lạp cổ đại bắt đầu với Plato.
Người xưa phân biệt bậc tiểu học là học chữ nghĩa và bậc đại học là học đạo lí. Xét như thế thì mọi tự điển, từ điển, bách khoa thư, sách giáo khoa, tuyển tập, ngữ pháp, tập làm văn… là thuộc tiểu học. Chỉ kinh điển, thánh thư, triết học, khoa học, mĩ học, văn học mới là thuộc đại học. Nhà xuất bản từ thư và sách giáo khoa lớn nhất của Nhật Bản vì vậy mới lấy tên chính xác là Tiểu học quán (Shogakkukan).
Giáo dục ở Việt Nam không huấn luyện cho học sinh và cả thầy cô sử dụng từ điển, bắt đầu từ ngay cấp cơ sở làm quen với việc tra cứu độc lập để tự học tiếng mẹ đẻ, là một thiếu sót lớn. Học sinh Việt Nam thường chỉ biết đến những tự điển và từ điển song ngữ khi bắt đầu học tiếng nước ngoài và cũng thường ngừng lại không tham khảo được những từ điển định nghĩa bằng bản ngữ (từ điển tiếng Anh định nghĩa bằng tiếng Anh; tiếng Pháp bằng tiếng Pháp…). Ngay từ khi bước khởi đầu như thế không tạo cho học sinh cách hiểu sâu xa bằng chính tinh thần của ngôn ngữ muốn học mà chỉ biết đại khái qua tiếng Việt gần tương đương và thường không chuẩn xác. Đó là một trong những nguyên nhân khiến học sinh sau 7 năm ở trung học tuyệt đại đa số vẫn không có được kĩ năng sử dụng thông thạo về tất cả các mặt: nói, nghe, đọc và viết.
Tiếng Việt và chữ việt ABC được lợi thế hiếm có là đọc lên và viết ra khít khao nhau một cách giản dị và hợp lí trong phát âm và chính tả, nên trẻ em chỉ học trong một thời gian tương đối ngắn là làm được tương đối hữu hiệu. So với nhiều ngôn ngữ khác như Anh, Pháp… thời gian để có được kĩ năng này phải tốn gấp cả chục lần. Ngữ pháp tiếng Việt cũng may mắn là đặt nguyên tắc cấu trúc là định vị (positional grammar), chứ không phải biến cách (declension), nên trẻ em Việt chỉ cần học mấy phó từ như đã, đang, sẽ là áp dụng được cho mọi động từ, không như trẻ em Pháp phải học hàng trăm biến cách cho một động từ - có thể giải toả bộ nhớ cho những thông tin và dữ liệu khác bổ ích hơn.
Thế những học sinh Việt so với học sinh các nước trên thế giới vẫn có một khoảng cách khá xa, mà thua thiệt là về phần chúng ta. Câu hỏi khoa học đặt ra là tại sao?
Câu trả lời có thể rất nhiều, nhưng cơ bản nhất vẫn là sự thua thiệt ngay từ trước khi khởi hành trên con đường học vấn và vấn đề không chỉ là ở chính sách giáo dục hay tổ chức nhà trường, cơ cấu gia đình, hoặc trình độ phát triển kinh tế – tuy những nhân tố này có góp phần vào thành tích chung.
Sự thua thiệt này là thua thiệt về văn hiến, tức là về các thiết chế văn hoá, mà cụ thể nhất là gia tài của chúng ta – kho sách chữ Việt để học sinh có thể học tập tham khảo – trong đó thiếu sót nhất là những sách công cụ tiểu học và những sách kinh điển đại học. Sách công cụ tiểu học trong vòng thế kỉ vừa qua chúng ta đã làm khá tốt, kể từ 1895 khi Huình Tịnh Của xuất bản cuốn Đại Nam Quấc âm tự vị và từ 1942 khi Hoàng Xuân Hãn xuất bản cuốn Danh từ khoa học.
Nhưng còn sách kinh điển đại học thì là một khoảng trống nhức nhối và ngày nào về cơ bản chúng ta chưa giải quyết được thì học sinh Việt Nam vẫn không thể sánh vai với những người đồng lứa tuổi khắp thế giới.
Ai cũng biết là trên thế giới có mấy trung tâm văn minh: Ai Cập, Hi Lạp-La Mã, Ấn Độ-Ba Tư, Trung Quốc thời cổ đại và châu Âu từ thời Phục Hưng thế kỉ 15, châu Mĩ từ khoảng 200 năm nay.
Việt Nam nằm trong khu vực Đông Nam Á, giữa hai văn minh Ấn Độ và Trung Quốc. Gần 2.000 năm nay tiếp nhận từ Ấn Độ ở Việt Nam gần như chỉ có đạo Phật và cũng chỉ có một phần nhỏ của đạo Phật Đại thừa/Bắc tông. Chúng ta thua hầu hết các nước Đông Nam Á là mãi tới năm 2000 chúng ta mới dịch được Đại tạng kinh tiếng Pali của Phật giáo Nguyên thủy/Nam tông và hiện mới bắt đầu xúc tiến việc dịch Đại tạng kinh Đại thừa Trung Quốc, và hầu như chưa động gì đến Đại tạng kinh Tây Tạng.
Văn hiến kinh điển của các trung tâm văn minh khác, chúng ta chưa phiên dịch được một phần trăm, phần ngàn.
Đối với phương Đông, chúng ta từ thập niên 1910 đã bị Pháp bãi bỏ khoa cử chữ Nho và vì thế tầng lớp gọi là trí thức bị cắt với nguồn mạch của vùng khối chữ vuông (chữ Nho) là Trung Quốc, Nhật Bản, và Hàn Quốc (cũng như với Đài Loan, Hong Kong, Singapore).
Trong suốt một ngàn năm trí thức Việt Nam không nghĩ tới việc dịch kinh điển của Trung Quốc vì ai đi học cũng học chữ Nho. Việc dịch ra chữ Nôm không cần thiết lắm vì muốn học chữ Nôm cũng phải biết chữ Nho. Đây không phải là sự nô lệ hay thiếu tinh thần độc lập, nếu chúng ta xét rằng một ngàn năm khoa cử chỉ mới đào tạo được khoảng 2.000 người tức là 200 trí thức cho một thế kỉ – và dân số nước ta trong hai ngàn năm qua chỉ mới tăng từ khoảng hơn một triệu thời Hai Bà Trưng (40–43 Công nguyên), 10 triệu thời Lý–Trần, và 20 triệu vào năm 1930.
Ở châu Âu đến thế kỉ 17 các nhà khoa học như Newton, nhà triết học như Descartes và Leibnid còn dùng tiếng Latinh trong những tác phẩm của mình, bởi vì đó là chuyển ngữ cho giới tri thức toàn Châu Âu đương thời, như một ngôn ngữ truyền thông quốc tế.
Cho tới thế kỉ 19 ở Á Đông vai trò của chữ Nho cũng như thế: đó là văn tự đại đồng của những quốc gia gọi nhau là đồng văn (dùng chung một văn tự để truyền đạt). Một người qua 10 năm đèn sách thời đó có thể tiếp cận được với toàn bộ tinh hoa tư tưởng và văn học của cả một nền văn hoá mà khối lượng đông đảo nhất thế giới (500 triệu người) và có một lịch sử văn hiến sâu dầy nhất của loài người (2.500 năm). Cho nên thời đó sách tư tưởng, lịch sử, văn học đều dùng chữ Nho. Cho nên Nguyễn Du ngoài Truyện Kiều và Văn tế thập loại chúng sinh bằng chữ Nôm, thì làm mấy trăm bài thơ chữ Nho, mà hầu như không làm thơ Nôm. Cũng vậy, Cao Bá Quát làm chỉ có 7 bài hát nói chữ Nôm nhưng làm hơn ngàn bài thơ chữ Nho. Thơ quốc ngữ, quốc âm lúc đó đều viết bằng chữ Nôm cho người đọc trong nước. Còn thơ chữ Nho là tham gia vào mạng trí thức quốc tế lúc bấy giờ và họ nghĩ mãi đến về sau.
Cuộc cách mạng Pháp 1789 hình thành một nhà nước quốc gia kiểu dân tộc, cũng như thế kỉ 19 nhìn thấy sự thành lập các quốc gia, Đức và Ý, cũng như sự hiện xuất cái nền văn học quốc gia ở Nga và Trung Âu, Đông Âu. Tiếng Latinh không còn đóng vai trò ngôn ngữ quốc tế nữa, ngoại trừ trong giáo hội Thiên Chúa giáo La Mã.
Ở Việt Nam, từ 1887 với sự cưỡng bách dùng chữ Pháp và chữ Việt ABC trong văn thư chính thức của thống xoái Pháp và từ 1919 với sự bãi bỏ trường thi Thừa Thiên, giới đi học ở nước ta bỏ bút lông sang bút sắt. Đây là một sự xâm lăng của thực dân về văn hoá, không phải sự tự chọn, tự nguyện của người Việt. Thế hệ nhà Nho như Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Tản Đà, Phan Bội Châu, Phan Khôi là lớp cuối cùng của truyền thống ngàn năm đó và họ đã ghi lại trong thơ văn, tác phẩm tâm trạng của tầng lớp trí thức dân tộc đầu thế kỉ 20.
Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc không trải qua sự đoạn tuyệt như Việt Nam. Và vì vậy trí thức Việt Nam từ 1919 bị bật gốc với di sản của tổ tiên để trở thành lớp trí thức mất gốc nhất trong châu Á và thế giới. Sự hoang mang về bản sắc và căn cước của chúng ta ngày nay có một nguồn gốc, một nguyên nhân rất cụ thể như vậy.
Chúng ta mất lối về với di sản, với nguồn cội – khác với trí thức ở Trung quốc, Nhật bản, Hàn quốc. Chúng ta lại không tiếp cận, thu nhập được tinh hoa thế giới vì hàng rào ngôn ngữ văn tự.
Trong giai đoạn 1862 – 1945 là thời Pháp chiếm Nam kì làm thuộc địa và từ 1884 đặt nền bảo hộ lên khắp cả Việt Nam và Đông Dương, những người học theo Tây đã có tiếng Pháp là cơ sở nên thành phần tinh hoa có thể ngang tầm với trí thức Pháp và châu Âu, tuy tỉ lệ là nhỏ nhoi, từ Trương Vĩnh Ký đến Trần Đức Thảo. Cả những nhà thơ, nhà văn hồi đó như Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Xuân Diệu, Vũ Hoàng Chương ,Hoàng Cầm… cho đến Trần Dần, Thanh Tâm Tuyền, Hữu Loan, đều có thể tiếp xúc với văn học tư tưởng thế giới qua tiếng Pháp, là một nền văn hiến hàng đầu thế giới. Cho nên trong một thế hệ văn học Việt Nam có thể tiếp thu cả hàng trăm năm của phương Tây mà đi hết các trào lưu từ cổ điển cho đến mũi nhọn của thi ca lúc ấy là tượng trưng, siêu thực.
Thế nhưng với cả cuộc cách mạng tin học và những công cụ truyền thông điện tử như bây giờ, thế hệ các nhà văn, nhà thơ và trí thức đương đại của Việt Nam về mặt thông thạo một thứ tiếng mạnh để tiếp cận với thế giới vẫn còn thua xa lớp trí thức tiền chiến. Thành tích tương xứng và dễ hiểu.
Ngày nay, cái học của chúng ta phần lớn vẫn là cái học thực dụng để đi làm, để kiếm sống, và theo trào lưu, theo thị trường nên hết tiếng Pháp, tiếng Nga, lại tiếng Trung, tiếng Mỹ… nhưng chủ chốt chỉ để giao dịch, làm ăn.
Chúng ta không có một tầng lớp trí thức đúng nghĩa, tức là học và nghiên cứu vì đạo, vì sự thật khoa học và chân lí. Vì thế những mảng sách dịch của chúng ta cũng mảnh mún, chạy theo thời thượng, hoặc ngẫu hứng, tùy tiện. Vừa ít về số lượng, kém về phẩm chất, và nhất là lệch lạc về sự tuyển chọn và phân bố. Có những thời đại, khu vực, và ngôn ngữ quan trọng của thế giới như Hi Lạp cổ đại, châu Âu thời Phục hưng, Trung Âu đương đại, ngôn ngữ Tây Ban Nha… gần như là những khoảng trắng đối với tiếng Việt vì sự dịch thuật quá mỏng.
Không thể có một nền văn hoá và giáo dục nghiêm cách và giá trị nếu chỉ chạy theo thị trường và thị hiếu như vậy.
Thời Nho học lấy chữ Nho làm phương tiện truyền đạt, thời Tây học lấy chữ Pháp làm chuyền ngữ nên việc dịch thuật không đặt ra với những tác phẩm nền tảng mà chỉ giành cho những cuốn sách phổ thông, đại chúng, hay giải trí - chủ yếu là tiểu thuyết bình dân.
Từ 1945 lấy tiếng Việt làm cơ sở giáo dục trong nhà trường từ mẫu giáo đến đại học là định hướng đúng.
Tuy nhiên, với thực trạng là cần tiếp thu văn hoá thế giới chúng ta chưa đặt ra và giải quyết tốt vấn đề học ngôn ngữ văn tự quốc tế cũng như việc dịch thuật quy mô những kinh điển của loài người.
Bài học của các quốc gia trên thế giới là phải chọn một hoặc vài ngôn ngữ quốc tế từ lớp 1 để học sinh có thể tiếp cận tinh hoa của cả loài người và giao tiếp với toàn cầu ngay sau khoảng 5 đến 10 năm ở nhà trường.
Đồng thời phải tổ chức, hỗ trợ để trong một thời gian ngắn nhất (một thế hệ 30 năm) có thể giải quyết căn bản khoảng 500 đến 1.000 tác phẩm quy điển tối thiểu của nhân loại mà một công dân của thế giới không thể không tiếp cận, ít ra qua tiếng mẹ đẻ của mình. Một sinh viên Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc bây giờ ở trong tình trạng có thể tiếp cận với di sản toàn cầu qua tiếng mẹ đẻ. Bao giờ một sinh viên Việt Nam mới khỏi thua thiệt ngay từ trước khi khởi hành?
Kinh nghiệm của thực dân, đế quốc không phải chỉ có mặt tiêu cực, mà còn có mặt tích cực nữa. Ấn độ có hàng chục ngôn ngữ nên sau khi được Anh trả độc lập năm 1947, họ vẫn giữ tiếng Anh làm chuyển ngữ ở nhà trường để học sinh sinh viên có thể lợi dụng ngay cái ngôn ngữ phổ cập này mà có khối lượng thông tin và công cụ hàng đầu thế giới. Philippines cũng vậy. Các nước nhỏ ở châu Âu và các nước cựu thuộc địa ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latinh đều không mắc vào chủ nghĩa ái quốc cực đoan đến mức bài trừ tiếng nước ngoài mà trở về trạng thái cô lập của bộ lạc, tiểu quốc khiến cho không biết đến bao giờ mới có thể đua chen trên toàn cầu hay ngày càng tụt hậu.
Lịch sử giao lưu thế giới, đặc biệt là giai đoạn tích cực nhất từ 500 năm nay, đặt nền tảng trên sự dịch thuật, từ kinh sách đến tài liệu khoa học kĩ thuật. Một trí thức ngày nay không thể không biết ngoại ngữ để tiếp cận với thông tin toàn cầu. Người ta đã tính rằng cứ 10 năm thì khối lượng thông tin tri thức thế giới tăng gấp đôi. Một người dù có học vị cao nhất ở đại học cũng trở thành lạc hậu nếu vài ba năm không tiếp thu thông tin mới của thế giới trong địa hạt chuyên môn của mình.
Đại học Oxford với trên 700 năm tuổi và là một trong vài trường uy tín nhất thế giới chỉ có khoảng 25.000 sinh viên, nhưng là tinh hoa của toàn cầu. Ở Đại học Oxford, người ta không mở phân khoa Văn học So sánh (Comparative Literature) mà gọi là Dịch thuật học (Translation Studies).
Ngay một người cầm quyền thường bị chê là lạc hậu như Từ Hy Thái Hậu của nhà Thanh đã phải cho mở Quốc dịch quán với quy mô từ triều đình trung ương, nhưng quá trễ. Minh Trị Thiên Hoàng ở Nhật Bản với cuộc Duy tân 1867–1895, đã gửi sinh viên đi khắp thế giới với chủ đích là để học hỏi và dịch thuật tầm tri thức mũi nhọn của châu Âu. Và trong hai thập niên 1960–1980 Hàn Quốc đã động viên toàn bộ sinh viên du học và trí thức để dịch thuật hàng ngàn tác phẩm kinh điển cho học sinh và nhân dân trong nước có thể theo kịp với thế giới.
Ngày nào chúng ta còn chưa biết hổ thẹn vì không chịu học người thì chúng ta dù đánh thắng cả hai chế độ thực dân đế quốc hàng đầu của thế giới chúng ta cũng chưa thắng được cái dốt cái ngu của mình.
Source : Tiền Vệ
[Bài này đã in trên TT&VH Cuối tuần. Bản in trên Tiền Vệ đầy đủ hơn.]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét