15/6/11

Đặng Tiến - Vũ trụ thơ (3 )

Đặng Tiến
Vũ trụ thơ

Nguyễn Du, Bà huyện Thanh Quan, Tản Đà, Hàn Mặc Tử, Đinh Hùng



Tản Đà, thi sĩ của phôi pha

TẢN-ĐÀ sinh ngày 24 tháng Tư năm Kỷ sửu (Thành Thái nguyên niên) nhằm ngày 23 tháng 5 năm 1889, tại làng Khê-thượng, huyện Bất-bạt, tỉnh Sơn-tây, Bắc Việt, dòng dõi khoa cử xuất thân. Thuở nhỏ học chữ Hán với cha anh, rồi học Quốc ngữ tại trường Tân-quy ở Hà-nội. Thi rớt, thất tình, ông đâm thất chí. Sau lập gia đình và bắt đầu viết báo. Thoạt hợp tác với Đông dương tạp chí nhưng không đủ mưu sinh. Từ chối theo học trường Hậu bổ dù đó là một đặc ân của nhà cầm quyền thực dân Pháp dành cho ông. Sáng tác tuồng cho các gánh hát. Rồi sau đó, lênh đênh suốt mười mấy năm trong làng thơ làng báo: chủ bút tạp chí Hữu Thanh (1921), thành lập Tản Đà thư điếm, chủ trương An-nam Tạp chí (1925), vô Nam kỳ viết giúp các báo Thần Chung, Đông Pháp, Thời báo, trở ra Bắc dịch thơ Đường cho tuần báo Ngày Nay, chú giải truyện Kiều, dạy chữ Hán, giữ mục thơ trên Tiểu thuyết Tuần san, viết mướn cho Phật học tạp chí Tiếng chuông sớm… Nghề thơ, nghề báo chẳng đủ nuôi sống gia đình nên vào khoảng cuối đời, ông đã cho đăng báo quảng cáo xem số Hà lạc để kiếm thêm. Sau cơn đau dài, ngày 20 tháng Tư năm Kỷ mão (7-6-1939), Tản Đà từ giã cõi đời nhiều hệ lụy trong một căn nhà tồi tàn mang số 71 Ngã tư Sở, ngoại ô Hà-nội, để lại một vợ tám con cùng một gia tài phong phú cho nền văn học đất nước.

Thơ Tản-Đà, cho tới nay còn được nhiều người ưa thích. Được thế vì thi sĩ đã bảo tồn được cái cũ, dung nạp cái mới. Và cũng vì, ngoài đặc tính thanh nhã bay bướm của dòng thơ trữ tình, với những hình ảnh trau chau chuốt và âm điệu thanh tao, thơ Tản Đà còn ký thác trọn vẹn tấm lòng khắc khoải, thiết tha đối với non sông đất nước trong thời bị trị…


*


Nguồn thơ nào mà không mang ít nhiều nhan sắc của phôi pha, nếu bản chất của thơ không phải chính là di tích của phôi pha… Tập thơ nào hay mà không u ẩn một cuộc tiễn đưa, một lời tống biệt?

Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai [1] …

Tản-Đà. Một ước vọng trường tồn. Ai nói trường tồn mà không nghĩ đến pha phôi? Ý thức hương nhạt màu phai do đâu mà có? Vì giấc mộng công danh sớm hão huyền. Vì gia đình ly tán, vì sự nghiệp văn chương ba nổi bảy chìm? Hay vì mối tình đầu với người đẹp hàng Bồ? Hay chỉ là cái nhìn yếm thế tự nhiên của kẻ sống giữa những đổi thay lớn lao của thế cuộc? Chung quanh những giả thiết đó, chúng ta thử tìm về ngôn ngữ của Tản-Đà, tìm lại giữa vũ trụ đang tàn phai, một thân phận hư ảo bám quanh một triết lý phù du.

Những bài thơ hay của Tản-Đà, những tác phẩm đích thị là thơ, thường mang không khí ngậm ngùi của cách biệt, của úa héo trong một cuộc sống đang lìa tan.

Trận gió thu phong rụng lá vàng
Lá rơi hàng xóm lá bay sang

Một ngoại cảnh úa héo và tan tác. Xác lá trong thơ Tản Đà mang theo niềm đau đớn chua xót rồi ngậm ngùi của nhiều giai đoạn từ ly. Rụng là chia lìa, rơi là viễn cách, bay là sống lại, là trở về với ký ức, với một kiếp sống khác.

Lá thu rơi rụng đầu ghềnh
Sông thu đưa lá bao ngành biệt ly.

Rơi rụng ở đây là vĩnh biệt ngàn đời trong kiếp sống dù có tuần hoàn cũng vẫn là duy nhất trong trần gian đang tự hủy. Ở đâu đó, ngoài trần gian thì lá đào không rơi rụng mà rơi rắc. Vì lối Thiên Thai vốn là cảnh tràng sinh, chỉ có sinh ly mà không tử biệt. Rụng là đau xé, là đoạn trường. Rơi là vết thương đang hàn gắn, bằng thời gian, bằng xa cách, bằng những ngọn thu phong.

Gió thu lạnh lẽo mây trời quang
Sân thu đêm khuya rơi lá vàng
Trăng tà chìm lặn, nhạn kêu sương
Gối chiếc, chăn đơn, thiếp nhớ chàng

Tôi giữ lại cảm giác chìm lặn của một chiếc lá rơi. U hoài của thiếp là niềm tự hoài trong gối chiếc chăn đơn. Sân thu chỉ là một khí hậu nhớ nhung, là một tâm cảnh đã ngoại hoá tình yêu của thiếp, trong đó kỷ niệm của chàng rơi dịu nhẹ, êm ái và thụ động. Có thể chỉ rơi bên hàng xóm. Chiếc lá không hồi sinh thảng thốt trong ký ức như một chiếc lá bay

Lạnh lẽo hơi thu chiếc lá bay
Gió đưa người cũ lại về đây.

Người cũ trở về. Có khi chỉ là kỷ niệm trở về, lúc thực tế đã hoàn toàn úa héo, đã từ màu vàng luyến lưu nhựa sống đến màu hồng của vĩnh cách muôn đời.

Hồng bay mấy lá năm hồ hết
Thơ thẩn kìa ai vẫn đứng đông.

Từ lá vàng đến vàng bay mấy lá, thực vật chuyển thành màu sắc, chỉ còn là màu sắc theo thị giác nhập vào tâm cảnh, một nội giới nhạt mờ và hờ hững. Bỗng dưng sự phụ bạc hoà đồng với ngoại cảnh lìa tan và tan và trở thành thi vị, hờ hững ở đây là một nguồn mỹ cảm vì nó đã hoà hợp với những màu sắc tàn phai, ở cái phút trần gian ngất lịm.

Hồng bay mấy lá năm hồ hết.

Tuyệt diệu ở chữ hồ, yếu ớt như một hơi thở đang hấp hối, quyến luyến như đôi mắt lìa đời, nhưng dịu dàng, chịu đựng, bình thản đến hững hờ. Thơ thẩn kìa ai vẫn đứng trông cũng như một thế giới khác thơ thẩn bóng trăng chơi là một dáng điệu vu vơ, một tâm trạng mờ nhạt như được tiết chế để cùng phôi pha với hồng bay mấy lá.

Mấy lá là bao nhiêu lá? Vài ba lá, dăm bảy lá? Nhất định phải nhiều hơn

Lạnh lẽo hơi thu chiếc lá bay.

Một chiếc lá bay mang theo một ý niệm, hay một cuộc đời, một giấc mơ. Có khi là sự hồi tỉnh, vì mỗi chiếc lá có một giới hạn minh bạch, vẽ ra trong không gian một chu trình nhất định. Tôi còn nhớ câu thơ thật đẹp của Vũ Hân, một thi sĩ tài hoa ít người biết đến:

Một lá ngô vèo qua cửa trúc
Giật mình phấn mộng trắng canh thân [2]

Một chiếc lá đưa về thực tại minh mẫn – cái minh mẫn của Yên Đổ tựa gối ôm cần chẳng hạn – không như vàng bay mấy lá đưa vào cõi mộng, hay đưa đến biên giới một thực tại đang phôi pha, nhưng vẫn còn luyến lưu, hò hẹn. Mấy lá là một lượng số phiếm định lưu lại một hy vọng mơ hồ, có thể thẩn thơ hay hờ hững. Khác với

Vèo trông lá rụng đầy sân
Công danh phù thế có ngần ấy thôi.

Ở đây chỉ còn xác lá. Không còn tan tác gợi nhớ nhung thương tiếc. Nguyễn Công Hoan kể lại là Tản Đà rất đắc ý với chữ vèo [3] sắc bén đến tàn nhẫn, chứ không nhẹ nhàng như chiếc lá vàng trước gió trong thơ Nguyễn Khuyến. Chữ vèo ở đây gọn gàng, chóng vánh dứt khoát. Còn lại là lá rụng đầy sân, nấm mồ của dĩ vãng để tóc bạc thương thân. Khác với chiếc lá, mấy lá, ở đây đống lá là sự huỷ diệt vĩnh viễn, bất khả kháng.

Trong cảnh mây nước tan lìa đó, tàn phai đưa tiễn tàn phai

Lá sen tàn tạ trong đầm
Nặng mang giọt lệ âm thầm khóc hoa
Sắc đâu nhuộm ố quan hà
Cỏ vàng cây đỏ, bóng tà tà dương.

Cây cỏ tiễn đưa nhau trong cùng một chuyến ra đi, khi ánh sáng và màu sắc cũng dặt dìu quyến luyến. Tản Đà chuộng tả những cảnh hoá sinh của trời đất, dù tin hay không tin ở tuần hoàn, giọng điệu lúc nào cũng u hoài

Giăng kia tròn được mấy khi
Hoa kia nở được mấy thì hỡi hoa
…Khúc sông bồi lấp nên cồn
Dâu xanh bãi bể đá mòn nước khe.

Tản Đà tả những tàn phai, không phải chỉ để nói lên ý tưởng phù sinh thấm thoắt, mà chính vì những tàn tạ đó chứa chan một nét đẹp não nùng

Hoa ơi! hoa hỡi! hoa hời
Đương ở trên cành bỗng chốc rơi
Nhị mềm cánh úa
Hương nhạt màu phai
Sống chửa bao lâu đã chết đời.

Cảnh vân tán, tuyết tan, hoa tàn, nguyệt khuyết dĩ nhiên là một ước lệ của văn xưa; Tản Đà đã ra ngoài ước lệ, để cảm xúc lắng xuống chiều sâu của ngoại cảnh: cánh hoa tàn, ngoài giá trị tượng trưng, còn có cái vẻ đẹp thê thiết của nó

Nhị mềm cánh úa
Hương nhạt màu phai

Âm giai não nuột gợi lại một sự chia phôi nào đó

Đá mòn, rêu nhạt
Nước chảy huê trôi
Cái hạc bay lên vút tận trời

Thế giới Tản Đà tàn phai nhưng không mong manh chợt biến; thơ Tản Đà quyến luyến, như muốn e ấp, giữ gìn, rồi buông thả dần dần với thời gian. Giữa những phôi pha vẫn còn chút gì vương vấn. Danh hiệu Tản Đà cũng là một hẹn ước với trần gian. Cho nên hương chỉ nhạt mà chưa tan, như màu rêu còn lưu luyến vết chân. Màu tuy chưa phai mờ mà còn đợi chờ vĩnh biệt. Thơ Tản Đà chậm lại ở cái phút mong manh đó như một ngưng đọng, trìu mến. Lúc phải rời tay, nhà thơ còn tìm cách hẹn hò, như trong “Thề non nước”.

Lời thề đó chỉ là niềm an ủi, một ảo giác thơ ngây. Giờ hội ngộ còn luôn là một vỗ về trong ly cách; mưa về nguồn và ngàn dâu xanh tốt, chỉ là một hư tưởng, do lý trí lợi dụng địa lý thiên nhiên ngụy tạo nên để xoa dịu niềm xót xa trong vĩnh cách. Lời lẽ và tình cảm đẹp nhất của bài thơ thắm thiết nhất, sâu xa nhất không phải lời nhắn nhe mộc mạc ngây thơ ở đoạn cuối

Bảo cho non chớ có buồn làm chi

mà ở lời vĩnh biệt não nùng ở đoạn đầu

Non cao những ngóng cùng trông
Suối khô giòng lệ chờ mong tháng ngày
Xương mai một nắm hao gầy
Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương
Trời tây ngả bóng tà dương
Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha.

nếu chỉ tả cảnh Non nhớ Nước, nhất là để trình bày quan niệm thiên địa tuần hoàn, hay lý thuyết tương đối, như giáo sư Nguyễn Đăng Thục đã có lần giải thích rất tinh tế trên tạp chí Luận Đàm cách đây non mười năm mà tôi tiếc là không còn giữ, thì nhà thơ khó mà thốt lên những tâm tình thống thiết như thế. Tôi cho rằng không chỉ có Non nhớ Nước, mà còn người nhớ người, nhớ cảnh, nhớ đời, hay nhớ chính mình cũng được. Một trăm nỗi nhớ mơ màng đó, tại sao ta không góp lại cho Người tình nhân không quen biết? Cái người không biệt mà ly trong tâm tưởng người thơ. Những chữ giòng lệ, xương mai, tóc mây, vẻ ngọc, nét vàng phải thể hiện tình người. Tản Đà thiên nhiên hoá nhân tình thì đúng hơn là nhân cách hóa nước non. Ít ra, đó cũng là một cách nhìn, một cách hiểu. Và khi đã đặt cuộc sinh ly vào giới hạn một đời người, thì quan niệm thiên địa tuần hoàn không giải quyết được gì hết. Nước có thể về với non, chắc chắn là về lại với non, chúng mình làm sao biết còn về lại được với nhau? Chính Tản Đà cũng hoài nghi những giá trị vĩnh cửu

Còn ai ai tỉnh ai mê
Những ai thiên cổ đi về những đâu.

Ngọn nước sông Hoàng Hà, trong nửa kiếp phù sinh, sẽ không còn bao giờ trở lại. Nước trong thơ Tản Đà là thứ nước đi đi mãi, cũng như nhà thơ còn nặng gánh tình. Nước tượng trưng cho thời gian phôi pha, không những vì không về cùng non. Nước là mạch sống của mạch đất, lương thực của thiên nhiên: nước là sự sống phát nguyên, chuyển hóa rồi huỷ diệt. Nước là thời gian trong cái lẽ sinh tử của con người, là trần gian, là nguồn sống đồng thời cũng là cõi chết. Nhìn suối tuôn róc rách ngang đèo là tự nhìn mình và nhất là nhìn mình đang sống, trong một nhãn quan hãn hữu vì không dễ gì vừa sống vừa nhìn mình sống. Nước là nguồn thi hứng bất tận của các nhà thơ Đông Tây, vì là một vật chất môi giới, nuôi dưỡng mộng mị. Chất lỏng vừa thấm sâu vào lòng vũ trụ, vừa buông thả cho phỉ tình người bơi lặn, nước là nguồn ân ái chan chan giữa người và vũ trụ. Nhưng ở Tản Đà, yếu tính của nước không phải ở tính chất đó, như trong mắt em là một dòng sông của Lưu Trọng Lư, yếu tính của nước chỉ là sự luân lưu, một vận trình miên viễn

Sông nước chảy núi mây bay

Vì chỉ là một hành trình, cho nên nước, cũng như mây, chỉ có chuyển động mà không có hình thể, như là trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ của Bà Huyện Thanh Quan.

Đặc trưng cho vật chất vô thể là mây, còn phù ảo hơn cả nước, biến tan không vết tích, nước chảy mây bay trời ở lại. Nước và mây là thời gian mà cũng là không gian, một không gian bất hạnh, vì nước mây là viễn cách

Bốn phương mây nước người đôi ngả
Hai chữ tương tư một gánh sầu

Mây nước ra đi thì nhà thơ cũng ra đi, khi trời chưa nghỉ. Hình ảnh quen thuộc Tản Đà để lại là một hành nhân thất thểu. Thơ Tản Đà là một thứ thi ca lang thang. Trần thế phôi pha nói trên phản ảnh một nhân-sinh quan xem kiếp sống như là bèo dạt hoa trôi. Quan niệm đó không có gì là đặc biệt trong lịch sử văn học, chỉ khác lạ ở chỗ Tản Đà sống trọn vẹn tư tưởng đó. Chu-Thần, Uy-Viễn cũng nói lên quan niệm phù sinh, những vẫn cố cùng trong định luật xuất xử. Tản Đà không cố cùng. Từ lối nhìn ngoại cảnh, lối sống, cách sáng tạo, cách xử thế đều theo hàm số phôi pha. Chuyện Thiên lương hay Dư đồ chỉ là cái ngông của nhà thơ, không phải của người thất chí. Những đại nghĩa ấy, thỉnh thoảng có nồng nàn thì cũng chóng bay đi như hơi rượu. Tản Đà danh vọng chẳng là bao, nhưng sống nhẹ nhàng sảng khoái, như trong giấc mộng

Đời người như giấc chiêm bao
Trơ trơ là cái hoa đào gió đông

Tản Đà yêu giấc chiêm bao đó và sống trọn vẹn chân thành với phù thế, vì ngoài ba vạn sáu ngàn ngày ra, không có sự cứu rỗi nào khác. Dù cho

Nước chảy ngày tháng đổi thay
Non sông ngày cũng một ngày khác xưa.

Ngoại cảnh là một tuồng ảo hoá. Tản Đà không than trách, không cay đắng, chỉ u hoài man mác. Vì chính tâm tình mình, hình hài mình cũng đổi thay, trách gì trò bãi bể nương dâu?

Trông gương mình lại ngợ mình
Phải chăng vẫn giống đa tình ngày xưa.

Thái độ viên hoạt của nhà thơ cho ta cái cảm giác như Tản Đà đã tìm ra được cho mình một giải pháp thích hợp giữa trần thế: đó phải chăng là lối sống trung dung giữa một xã hội đang băng rã? Tản Đà hờ hững với công danh nhưng không hờn giận số mệnh, sống giữa lòng đời mà không hề tục lụy. Hai câu thơ gói ghém quan niệm khoan dung của nhà thơ:

Đời chưa duyên kiếp ai xanh mắt
Khách chẳng công danh cũng bạc đầu.

Ngay đến cái chuyện văn chương cũng không thoát khỏi vòng hoá sinh của tạo vật

“Tạp chí” mười kỳ duyên đã nhạt
“An Nam” hai chữ mực hồ phai.

Nhạt phai là thế giới trong đó Tản Đà dàn bày một thế sống, quay chung quanh nghệ thuật hưởng thụ

Chắc có một phen đời khóc tớ
Đời chưa khóc tớ, tớ còn chơi.

Lối chơi thứ nhất của nhà thơ giang hồ như muốn đánh lận thời gian, bằng cách lẫn với đời quay như trong Xuân Diệu. Sự xê dịch làm cho người ta có cảm giác không mất thì giờ, sống kịp với thời gian như trong một chuyến xe. Giang hồ là sống tham, sống vội. Đi bách bộ thoải mái hơn ngồi một chỗ vì cái không gian thu được tạo ảo giác lấp đầy khoảng thời gian trôi qua. Vì muốn sống vội mà nhà thơ đã bỏ khói hương trừ tịch

Chơi xuân kể lại hành trình
Ngày ba mươi tết hứng tình ra đi.

Định mệnh nhà thơ là một chuyến đi, chỉ dừng lại ở một quê hương là ngôi mả cũ bên đường. Ở mỗi nơi tạm trú, nhà thơ ghi lại những Thú ăn chơi trên lộ trình đánh dấu thời gian, như những hương vị ẩm thực cũng là di tích của tàn phai. Nhà thơ đã giang hồ mê chơi quên quê hương vì quê hương là một cõi về, một nấm mồ thời gian mà nhà thơ chưa muốn ký thác hình hài.

Lối đánh lận thời gian thứ hai là say:

Rượu say thơ lại khơi nguồn
Nên thơ rượu cũng thêm ngon giọng tình
Rượu thơ mình lại với mình
Khi say quên cả cái hình phù du.

Thơ và Rượu đều có thể có tác dụng giải thoát con người khỏi trần lụy. Say là sống ngoài đời. Để nhìn đời luân chuyển. Thơ và rượu khác nhau ở chỗ Thơ là một cố gắng của tri thức để nhảy vọt ra khỏi biên giới của thực tại còn Rượu là một trạng thái thụ động của cơ thể. Tôi không khỏi không nhớ đến những câu thơ của Hà Nguyên Thạch về tương quan giữa Thơ, Rượu và Cuộc Đời:

Còn những chén rượu sầu chưa uống cạn
Nên ta làm thơ có nghĩa chờ say
Lúc say khướt sẽ quay cuồng hoài vọng
Chạy quanh đời nghe hồn nhẹ như mây [4]

Ra ngoài đời mới nhìn thấy chân tướng của cuộc sống, như Tản Đà đã nhận xét:

Mảnh hình hài quen giả trá xưa nay
Chúng sinh tưởng lúc này coi mới hiện.

Hơi men giải thoát con người ra khỏi những câu thúc của trần lụy, của thân thế phù du, tạo cho thần trí cảm giác đồng đẳng tề vật để nhìn suốt đến chân như. Phút thoát nghiệp trong hơi cay là một thứ cứu rỗi của Tản Đà trong trần thế phôi pha, cho nên nhà thơ vừa say sưa vừa tả cái say sưa một cách say sưa. Âu say sưa cũng là một cách tránh say đắm.

Nói tóm lại thơ Tản Đà là một thế giới trong đó tất cả đều biến thể kể cả vô thể. Giữa cảnh tàn phai của tạo vật, phải chăng nhà thơ - mỗi nhà thơ Đông phương là một triết nhân- đã tạo ra đời sống một triết lý phôi pha, đại để như tôi đã trình bày? Không có gì chắc chắn cả. Thi giới và quan niệm sống của Tản Đà không nhất thiết phải làm thành một hệ thống suy cảm, dù chỉ trong vô thức, như tôi đã mô tả. Kỹ thuật biên khảo đòi hỏi tôi phải viết cho có mạch lạc. Nhưng cái mạch lạc đó có tính cách từ chương và giả tạo, thực chất của văn nghệ không mạch lạc một cách giản dị như thế. Tôi đi tìm một Tản Đà nào đó, không nhất thiết phải là Tản Đà duy nhất hoặc chân chính. Cũng không nhất thiết là Tản Đà của tôi. Dĩ nhiên là tôi không bao giờ nghĩ mình có cái nhìn nhất quán và dứt khoát về Tản Đà, cũng như về bất cứ một nhà thơ nào khác.

Hoa lá đang tàn phai đâu đó cũng như mây nước đang lìa tan, chỉ là một cái nhìn. Một cái nhìn đang phôi pha.

Và lời nói cũng phôi pha.

Fribourg, 24-8-1970


[1]Thơ Tản Đà trích dẫn trong bài này dựa theo bộ Tản-Đà vận văn toàn tập của nhà xuất bản Hương Sơn, Hà-nội, 1952.
[2]Diễm Trang, Huế, 1956, không ghi nhà xuất bản, tr. 47.
[3]Tạp chí Văn Nghệ, Hà Nội, tháng 1-1963.
[4]Nguyệt san Tân Văn, Sài Gòn, số Xuân Canh Tuất (1970).

Nguồn: Vũ trụ thơ, tiểu luận của Đặng Tiến, bìa Văn Thanh, Giao Điểm xuất bản lần thứ nhất. In xong ngày 24 tháng 6 năm 1972.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét