31-12-2013
Văn tế Vinashin
Phan Vĩnh Trị
Theo Tạp Bút
Hỡi ơi! Quyết định sấm rền; lòng dân hoảng sợ.
Mười bảy năm chìm nổi, chưa ắt còn danh xấu nổi như phao;
Một trận bão cuốn bay, thân tuy mất tiếng chê vang như mõ.
Nhớ linh xưa:
Côi cút làm ăn;
Toan lo nghèo khó.
Chưa quen hiện đại, đâu biết cạnh tranh;
Chỉ biết cấp trên, sống quen bao cấp.
Canô, tàu kéo, tàu sông, tay vốn quen làm;
Tàu lớn, máy to, mắt chưa từng ngó.
Khá thương thay:
Vốn chẳng phải thương trường dày dạn, theo dòng hiện đại, cạnh tranh;
Chẳng qua là tàu nhỏ chạy sông, nay một bước lao ra biển lớn.
Mười tám ban công nghệ, nào đợi tập rèn;
Chín chục trận know-how, đâu chờ bày bố.
Ngoài cật có dăm con tàu bé, nào đợi đeo kinh nghiệm, học hành;
Trong tay cầm một ngọn bút chì, chi nài sắm phần mềm, máy tính.
Hạ liệu trên sàn phóng, cũng cắt xong cả một đống tôn to;
Quản lý bằng mệnh lệnh, chỉ tay, cũng tập đoàn lẫy lừng thiên hạ.
Chi nhọc học thầy, học bạn, đạp rào lướt tới coi tàu lớn cũng như không
Nào sợ lỗ nhỏ, lỗ to, cứ ký làm ào, cốt giao tàu xong đã.
Kẻ ăn ngang, người chém dọc, làm cho chi phí hồn kinh;
Bọn nịnh trước, lũ hót sau, trối kệ nợ nần đến cổ.
Những lăm sự nghiệp lâu dùng;
Đâu biết nửa đường gãy đổ.
Một chắc thương trường rằng chữ lãi, nào hay lỗ đến đầm đìa;
Trăm năm nợ nần ấy chữ nguy, nào đợi chủ nợ đòi tận cửa.
Đoái trông khắp nước, dự án nghìn dặm sầu giăng;
Nhìn cảnh nhân viên, già trẻ hai hàng lệ nhỏ.
Tấc đất ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta;
Bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó.
Vì ai khiến công nhân khó nhọc, đội nắng, dầm mưa;
Vì ai xui nhà xưởng tan tành, xiêu mưa ngã gió.
Người người ngơ ngác, mong chờ một đấng cứu tinh
Ai ngờ phận rủi, vận đen, tái cơ cấu thêm bẽ bàng tủi hổ
Một lũ trẻ con ngơ ngẩn, cũng đòi trục vớt, cứu tàu
Chia bè kết phái tranh ăn, ai chết kệ thây cha chúng nó.
Một chút xương tàn còn lại, bầy kền kền rỉa rói tứ tung.
Một nấm mồ hoang, là bệ phóng để đổi đời, lên chức.
Kẻ cơ hội vẫy đuôi ngoe nguẩy, chân chủ nào cũng liếm, những mong mưa móc ơn trên.
Người thất cơ nhịn nhục làm thinh, phận “lưu dụng” còn gì mà nói
Sống làm chi theo quân tà đạo, chém đồng đội, giết anh em, thấy lại thêm buồn;
Sống làm chi chịu phận tôi đòi, chia canh cặn, gặm cơm thừa, nghe càng thêm hổ.
Thà đi mà đặng câu danh dự, về theo phường phố cũng vinh;
Hơn ở mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ.
Ôi thôi thôi!
Chùa Bạch Đằng năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm;
Đồn Hạ Long một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.
Đau đớn bấy! Công nhân ngồi chờ việc, đồng lương còm lại chịu cảnh nợ nần;
Não nùng thay! Cán bộ tìm đường chuồn, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.
Ôi!
Một trận khói tan;
Nghìn năm tủi hổ.
Thác mà để nước non trả nợ, tiếng xấu đồn quốc tế, chúng đều kinh;
Thác mà nhiều số phận dở dang theo, tấm gương trải muôn đời ai cũng sợ.
Cay đắng nhẽ! Phải đâu mình mình xấu, cùng vòm trời cả lũ cũng như nhau;
Bẽ bàng thay! Phải chịu tiếng đi đầu, nêu gương xấu cho người đời chê trách.
Thôi thôi thôi
Chết là hết, còn gì nói nữa. Chỉ mong gương để lại cho đời
Sống không khôn thì chết hãy hiển linh. Phù hộ cháu con tránh đường xe đổ.
Sống đóng tàu, thác cũng đóng tàu, linh hồn theo giúp hậu nhân, muôn kiếp nguyện trả được nợ kia;
Đắm một lần, rồi sẽ nổi lên, nghị quyết dạy rành rành, một chữ nhẫn đủ đền công đó.
Nước mắt đau lòng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân;
Cây hương tưởng nhớ thắp nên thơm, cám bởi một câu vương thổ.
Hỡi ơi!
Có linh xin hưởng.
(Hậu bối xin phép cụ Đồ Chiểu)
P. V. T.
Theo Tạp Bút
Hỡi ơi! Quyết định sấm rền; lòng dân hoảng sợ.
Mười bảy năm chìm nổi, chưa ắt còn danh xấu nổi như phao;
Một trận bão cuốn bay, thân tuy mất tiếng chê vang như mõ.
Nhớ linh xưa:
Côi cút làm ăn;
Toan lo nghèo khó.
Chưa quen hiện đại, đâu biết cạnh tranh;
Chỉ biết cấp trên, sống quen bao cấp.
Canô, tàu kéo, tàu sông, tay vốn quen làm;
Tàu lớn, máy to, mắt chưa từng ngó.
Khá thương thay:
Vốn chẳng phải thương trường dày dạn, theo dòng hiện đại, cạnh tranh;
Chẳng qua là tàu nhỏ chạy sông, nay một bước lao ra biển lớn.
Mười tám ban công nghệ, nào đợi tập rèn;
Chín chục trận know-how, đâu chờ bày bố.
Ngoài cật có dăm con tàu bé, nào đợi đeo kinh nghiệm, học hành;
Trong tay cầm một ngọn bút chì, chi nài sắm phần mềm, máy tính.
Hạ liệu trên sàn phóng, cũng cắt xong cả một đống tôn to;
Quản lý bằng mệnh lệnh, chỉ tay, cũng tập đoàn lẫy lừng thiên hạ.
Chi nhọc học thầy, học bạn, đạp rào lướt tới coi tàu lớn cũng như không
Nào sợ lỗ nhỏ, lỗ to, cứ ký làm ào, cốt giao tàu xong đã.
Kẻ ăn ngang, người chém dọc, làm cho chi phí hồn kinh;
Bọn nịnh trước, lũ hót sau, trối kệ nợ nần đến cổ.
Những lăm sự nghiệp lâu dùng;
Đâu biết nửa đường gãy đổ.
Một chắc thương trường rằng chữ lãi, nào hay lỗ đến đầm đìa;
Trăm năm nợ nần ấy chữ nguy, nào đợi chủ nợ đòi tận cửa.
Đoái trông khắp nước, dự án nghìn dặm sầu giăng;
Nhìn cảnh nhân viên, già trẻ hai hàng lệ nhỏ.
Tấc đất ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta;
Bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó.
Vì ai khiến công nhân khó nhọc, đội nắng, dầm mưa;
Vì ai xui nhà xưởng tan tành, xiêu mưa ngã gió.
Người người ngơ ngác, mong chờ một đấng cứu tinh
Ai ngờ phận rủi, vận đen, tái cơ cấu thêm bẽ bàng tủi hổ
Một lũ trẻ con ngơ ngẩn, cũng đòi trục vớt, cứu tàu
Chia bè kết phái tranh ăn, ai chết kệ thây cha chúng nó.
Một chút xương tàn còn lại, bầy kền kền rỉa rói tứ tung.
Một nấm mồ hoang, là bệ phóng để đổi đời, lên chức.
Kẻ cơ hội vẫy đuôi ngoe nguẩy, chân chủ nào cũng liếm, những mong mưa móc ơn trên.
Người thất cơ nhịn nhục làm thinh, phận “lưu dụng” còn gì mà nói
Sống làm chi theo quân tà đạo, chém đồng đội, giết anh em, thấy lại thêm buồn;
Sống làm chi chịu phận tôi đòi, chia canh cặn, gặm cơm thừa, nghe càng thêm hổ.
Thà đi mà đặng câu danh dự, về theo phường phố cũng vinh;
Hơn ở mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ.
Ôi thôi thôi!
Chùa Bạch Đằng năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm;
Đồn Hạ Long một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.
Đau đớn bấy! Công nhân ngồi chờ việc, đồng lương còm lại chịu cảnh nợ nần;
Não nùng thay! Cán bộ tìm đường chuồn, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.
Ôi!
Một trận khói tan;
Nghìn năm tủi hổ.
Thác mà để nước non trả nợ, tiếng xấu đồn quốc tế, chúng đều kinh;
Thác mà nhiều số phận dở dang theo, tấm gương trải muôn đời ai cũng sợ.
Cay đắng nhẽ! Phải đâu mình mình xấu, cùng vòm trời cả lũ cũng như nhau;
Bẽ bàng thay! Phải chịu tiếng đi đầu, nêu gương xấu cho người đời chê trách.
Thôi thôi thôi
Chết là hết, còn gì nói nữa. Chỉ mong gương để lại cho đời
Sống không khôn thì chết hãy hiển linh. Phù hộ cháu con tránh đường xe đổ.
Sống đóng tàu, thác cũng đóng tàu, linh hồn theo giúp hậu nhân, muôn kiếp nguyện trả được nợ kia;
Đắm một lần, rồi sẽ nổi lên, nghị quyết dạy rành rành, một chữ nhẫn đủ đền công đó.
Nước mắt đau lòng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân;
Cây hương tưởng nhớ thắp nên thơm, cám bởi một câu vương thổ.
Hỡi ơi!
Có linh xin hưởng.
(Hậu bối xin phép cụ Đồ Chiểu)
P. V. T.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét