24/11/08

Đọc sách và điểm sách.

Chương 6



Đọc sách và điểm sách.



Y hỏi :

Xem chừng như có lúc « vị » cũng đóng vai trò « phê bình văn học » ? Cái này nguy hiểm lắm.



Tôi đáp :

Tôi chưa từng bao giờ dám thử đóng vai trò phê bình văn học dù là nghiệp dư ; tôi chỉ là một độc giả bình thường, đọc vài cuốn sách thấy có điều đáng chú ý, thì viết lên cảm tưởng của mình để chia sẻ với bạn đọc khác. Do đó, tôi chưa từng viết lên nhận xét của tôi về một cuốn sách mà tôi « hoàn toàn » không ưa, bởi lẽ là khi tôi không ưa thì tôi … không đọc, và chẳng ai hoặc cái gì buộc tôi phải đọc cả : đó không phải là nghề nghiệp của tôi. Cho nên nói rằng tôi « hiền », không hay phê phán chỉ trích người khác, thì cũng chỉ đúng có một phần. Ngoài ra, nội dung một cuốn sách đọc, thường kéo tôi liên tưởng ra những sự việc liên quan, nhất là khi đọc hồi ký hay tiểu sử ; do đó có lúc tôi tra cứu tài liệu và viết kèm thêm một số thông tin hay điều nhận xét của riêng tôi. Nói thêm là trong hồi ký hay tiểu sử, theo tôi, sự việc, lời chứng mới là quan trọng, cách hành văn là thứ yếu, văn hay thì giá trị cuốn sách tăng gấp bội, nhưng nếu văn lủng củng thì cũng không quan trọng lắm ; nếu văn quá dở thì cũng đành để nó sang một bên, nín không nói tới. Nói vậy cho ra vẻ một chút, chứ tôi có viết gì nhiều đâu, tất cả chỉ có mấy lần, chép lại dưới đây những gì tôi đọc thấy trong mấy cuốn sách ít nhiều liên quan đến sử ngày xưa hay sử ngày này.



Y:

Về điểm này, chúng ta chả có điều gì phải thảo luận, tôi để « vị » hoàn toàn chịu trách nhiệm



Tôi : Đồng ý.



I. Nhân đọc cuốn sách

Phương Đông- Phương Tây

(Phiếm luận)

của Đặng Vũ Nhuế, tác giả tự xuất bản năm 2004.

(Bài điểm sách của Bùi Trọng Liễu viết ngày 15/2/2005)



Đây là một cuốn sách do tác giả Đặng Vũ Nhuế (ĐVN) tự xuất bản và tự phát hành trong chốn bạn bè, cho nên rất ít người biết tới. Cuốn sách khổ nhỏ, 195 trang, tuy ngắn nhưng nhiều thông tin bổ ích, gồm 6 chương :



Chương 1 : Đông gặp Tây tại Phương Đông.



Sau khi lướt qua về tình hình việc học ở nước ta trước Chiến tranh thế giới thứ hai (khoa thi hương cuối cùng ở Nam Kỳ vào năm 1864 tại An Giang ; ở Bắc Kỳ vào năm 1915 tại Nam Định ; ở Trung Kỳ vào năm 1918 tại Nghệ An, Thừa Thiên, Bình Định, và năm sau thi hội thi đình ở Thừa Thiên, chấm dứt chín thế kỉ thi cử Hán học), tác giả nói qua về hệ thống giáo dục vào khoảng năm 1935 (5 cấp hoc : Sơ học 3 năm, Tiểu học 3 năm, Cao đẳng tiểu học 4 năm, Trung học 3 năm để thi tú tài phần 1 và phần 2, và Đại học), rồi kể chuyện về trường Trung học Albert Sarraut ở Hà Nội mà tiền thân là Collège Paul Bert (trường Collège này, từ năm 1919 đã đổi thành Lycée de Hanoi, dọn lên cơ sở gần Hồ Tây, năm 1923 đổi tên thành Lycée Albert Sarraut). Tác giả kể những chi tiết, như học phí cấp tiểu học cho học sinh ngoại trú của trường này vào năm 1935 là 3 đồng bạc Đông Dương một tháng, nghĩa là tương đương khoảng 18 tạ thóc mỗi năm ; cấp trung học đắt hơn, cưe lên một lớp thì đắt hơn 1 đồng bạc, lớp thi tú tài phần hai lên đến 12 đồng một tháng (tất nhiên là chưa kể tiền ăn ở, sách vở, quần áo, vv.). Tác giả cung kể cách tuyển sinh, tổ chức việc học từ tiểu học đến tú tài, phương tiện học (như thư viện, học cụ), các giáo viên, quan hệ giữa học trò Pháp và học trò Việt, vv. Cuốn sách cũng kể là bắt đầu từ năm học 1941-1942, trường này cũng mở thêm các lớp Mathématiques Supérieures và Lettres Supérieures (trên tú tài và là năm đầu sửa soạn và thi tuyển vào các « grandes écoles » [trường lớn] của Pháp ; đến năm 1943-44 lại mở cả lớp chuẩn bị thi vào trường võ quan Saint-Cyr. Nhưng vào đầu tháng 12 năm 1943, máy bay Mỹ ném bom (lúc đó đang là chiến tranh Mỹ-Nhật trong thế chiến thứ hai, mà quân đội Nhật đang đóng ở Việt Nam) ; các trường học ở Hà Nội giải thể, tản cư đi nơi khác, trường Albert Sarraut hòa lẫn vào các trường khác : các lớp bậc tú tài và cao hơn thì dọn vào Đà Lạt, các lớp trung học thấp hơn dọn lên Tam Đảo, Sầm Sơn, các lớp tiểu học, trung học dọn vào Hà Đông, vv. Đó là những lời chứng về một thời : thời mà tác giả gọi là « Đông gặp Tây » tại Việt Nam.

Về đội ngũ nhà giáo, tác giả có ghi là « hồi tiền chiến » ở Việt Nam (có lẽ nói trước 1945 cho chính xác), chỉ có 3 người Việt Nam có bằng agrégé trung học - (thuở ấy gọi là « thạc sĩ », nhưng ngày nay ở ta sử dụng từ này để chỉ bằng « master ») - là ông Phạm Duy Khiêm (Văn phạm Pháp), ông Hoàng Xuân Hãn (Toán) và ông Ngụy Như Kontum (Lý Hóa) ; và 2 người Việt Nam khác lúc đó còn ở Pháp chưa về là ông Phạm Huy Thông (Sử Địa) và Trần Đức Thảo (Triết).

[Chú thích của Bùi Trọng Liễu : Nhắc lại là trong hệ thống bằng cấp của Pháp, có hai loại agrégés :

- Loại thứ nhất : Agrégé de l’enseignement secondaire (agrégé trung học) là loại bằng thi tuyển « khó », khó nhưng không đồng nghĩa với « cao », tuyển giáo viên dạy trung học, trong các ngành dạy ở cấp bậc này như : toán, lý hóa, sử địa, văn chương, triết học, sinh ngữ, vv. Tùy theo nhu cầu hàng năm mà lấy số người đỗ. Loại Agrégé này còn đôi khi được gọi là Agrégé de l’université, vì nước Pháp có chính thể chính quyền tập trung, người ta trọng những bằng cấp của « Nhà nước » (diplômes d’Etat), còn những diplômes d’université đôi khi không « thiêng » đối với bất cứ nơi nào.

- Loại thứ hai : Agrégé de l’enseignement supérieur (agrégé để làm giáo sư đại học), thuở xưa còn gọi là Agrégé des Facultés, thuở mà Université (Đại học) còn được tổ chức theo kiểu bao gồm 5 Facultés (Faculté des Sciences -Khoa học, Facultés des Lettres et Sciences Humaines - Văn học và Khoa học xã hội, Faculté des Droit et Scicences Economiques - Luật và Kinh tế, Faculté de Médecine - Y, Faculté de Pharmacie - Dược). Loại agrégé này chỉ mở cho các ngành Luật, Y, Dược, (nghĩa là những ngành không dạy trong Trung học), và thi tuyển các giáo sư đại học cho các Facultés Luật, Y, Dược). Riêng đối với Faculté des Sciences (Khoa học) và Faculté des Lettres et des Sciences Huamines (Văn học và khoa học xã hội), (với các ngành có giảng dạy trong Trung học), cách tuyển giáo sư đại học lại khác : phải có học vị Docteur d’Etat (Tiến sĩ Nhà nước), phải được Hội đồng khoa học nhà nước công nhận tư cách ứng viên, rồi do hội đồng giáo sư Đại học tuyển theo hình thức bỏ phiếu bàu. Sau 1976, khi Université ở Pháp được tổ chức lại theo kiểu các Universités pluridisciplinaires (đa khoa kết hợp), và bỏ các Facultés, nhất là sau vụ cải cách năm 1986, bỏ học vị Docteur d’Etat, và lập HDR (Habilitation à Diriger des Recherches) cho việc tuyển giáo sư đại học, thì cũng bỏ Agrégé trong các ngành Y và Dược ; chỉ còn tồn tại Agrégé trong ngành Luật và Kinh tế, vì quyền lợi tập đoàn và thế lực chính trị nhiều hơn là vì lý do khoa học].

Trở lại cuốn sách. Tác giả ĐVN kể là các ông Hoàng Xuân Hãn và Ngụy Như Kontum dạy trường Trung học bảo hộ (tức trường Buởi), còn ông Phạm Duy Khiêm dạy trường Trung học Albert Sarraut, và kể là có học ông này mấy tuần vào tháng 9 năm 1940 trước khi ông ta tình nguyện tòng ngũ làm lính hạng nhì sang Pháp « giúp » Pháp chống Đức lúc thế chiến thứ hai bắt đầu. Vì câu chuyện cũng dính dáng một chút đến tư cách của người « có học », nên tôi muốn đi vào chi tiết một chút chứ không phải là chỉ nhắm kể đời tư của một cá nhân. Tác giả ĐVN viết :

Về việc ông ấy [Phạm Duy Khiêm] đi lính sang Pháp, có được nghe chuyện sau đây : trước khi ông ấy xuống Hải Phòng đáp tàu, các ông Việt Nam xưa đã từng du học ở Pháp tổ chức một bữa cơm tiễn ông ấy , ở nhà ô. Hoàng Xuân Hãn. Quanh bàn tiệc có nhiều người, như : Ngụy Như Kontum, Nguyễn Mạnh Tường, Ngô Đình Nhu vv. Để giảng giải tại sao mình tình nguyện đi lính giúp Pháp chống Đức, đại lược ô. Khiêm nói như sau : « Cái nhà họ cháy, tôi đổ giúp họ một thùng nước đấy thôi mà ! ». Nghe thấy thế, ông Ngô Đình Nhu hỏi lại : « Nhà ta cũng đang cháy, mà cháy đã từ lâu, anh đã đổ được thùng nước nào chưa ?».

[Lời kể thêm của Bùi Trọng Liễu : Tác giả ĐVN không kể câu trả lời của ông Khiêm hôm đó, nên tôi tò mò tìm đọc thêm trong cuốn hồi ký « Một đời nhìn lại » (có trên mạng) của em ruột ông Khiêm là nhạc sỹ Phạm Duy [Cẩn], thì thấy có một bài của một ông tên là Nguyễn Đình Hòa trích lời ông Phạm Duy Khiêm tự biện minh như sau :

Chúng ta có thể bất mãn nhưng vẫn chiến đấu cho nước Pháp khi nước ấy bị nguy hiểm. […] Trong chúng ta, ai quên được truyền thống hào hùng và ý niệm xưa về quân tử, con người có lòng cao cả. Có bạn hỏi tôi : « Nhiều người tình nguyện đăng lính hơn nữa thì Pháp sẽ cải cách chính trị ư ? ».[…]. Tình thần cao thượng đâu có cầu được tiền tưởng thưởng. Khi cháy nhà hàng xóm thì dù ông láng giềng không thích mình thì mình cũng không thể bảo : « Tôi đem cho ông thùng nước thì ông sẽ trả tôi bao nhiêu tiền ? ». (Trích lá thư Lettre d'un engagé volontaire trên tạp chí Indochine số 58, ngày 9 tháng 10 năm 1941, trang 7-8).

Khiếp quá ! Bài viết chắc là bằng tiếng Pháp dịch ra tiếng Việt, nhưng nội dung thì vẫn đó : truyền thống hào hùng, quân tử, cao cả, … từ ngữ hình như không còn ý nghĩa nữa. Nhưng cũng không lấy gì làm lạ lắm , vì tôi nhớ mang máng là vào khoảng năm 1957, ông Phạm Duy Khiêm có phát biểu một câu tiếng Pháp đại khái như sau : « La langue vietnamienne est une langue primitive » (tạm dịch là « Tiếng Việt Nam là một thứ tiếng thô thiển », trong khi nhạc sỹ Phạm Duy, em ông, lại là tác giả của một bài hát, với câu « Tôi yêu tiếng nước tôi, từ khi mới ra đời…. »), gây ra một sự bất bình rất lớn. Sau đó, có tin đồn là ông ta bị ông Ngô Đình Diệm cất chức đại sứ ở UNESCO (Tổ chức quốc tế về Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc). Nhưng cũng có một nguồn giải thích khác về sự « mất chức » của ông, (theo lời của một ông tên là Võ Long Tê): Vốn là giữa năm 1954, ông Phạm Duy Khiêm được ông Diệm bổ nhiệm làm cao ủy rồi đại sứ của chính quyền này ở Pháp. Cho tới năm 1957, ông ta phải nhường chỗ cho người khác. Khi vào chào từ biệt tổng thống Pháp, ông được gắn Bắc Ðẩu bội tinh. Sau đó, có một điện tín của Bộ Ngoại giao của chính quyền ông Diệm cho biết là ông Diệm không hài lòng vì sự nhận lãnh huân chương ngoại quốc mà không xin phép trước. Ông Khiêm thảo một văn thư trả lời gay gắt, cuối thư không có công thức chào kính ; sau đó thấy dự định cử ông làm đại diện thường trực cạnh tổ chức UNESCO đã bị ngưng lại rồi về sau đình hẳn. Thực hư thế nào, tôi không rõ. Mất chức, ông đi dạy học ở một trường tư thục ở Pháp, lui về sống trong ở một vùng quê, túng thiếu rồi mất việc, cuối cùng tự tử vào cuối năm 1974. Theo lời kể của em ông (lời kể của nhạc sĩ Phạm Duy trong cuốn hồi ký, mà tôi nghĩ là trung thực), ông Khiêm được học bổng tư nhân đi du học ở Pháp, thi tuyển đỗ vào Ecole normale supérieure cùng khóa với cố tổng thống Pháp Georges Pompidou (tổng thống từ 1969 đến 1974) và cũng là bạn học của cố tổng thống Xê-nê-gan Léopold Sédar Senghor tuy ông này không phải là cựu học sinh của Ecole normale supérieure (ông Senghor là nhà văn nhà thơ, tổng thống từ 1960 đến 1980) ; khi ông Senghor gửi tặng ông Khiêm tập tác phẩm thơ thì ông này gửi trả lại kèm theo những ghi chú bằng bút đỏ, như chữa bài học trò. Ông Khiêm học xong trở về nước, thay vì che chở nâng đỡ các em trong việc học hành, thì lại phạt ác, cấm các em không được « học chữ » cao lên mà bắt quay ra học nghề. Chấm thi Pháp văn, ông cho điểm số không hoặc số âm, có trường hợp ông hạ điểm xuống 5,75/20 để thí sinh tú tài bị đánh trượt dù điểm chung các môn thi vượt trung bình (vì thể lệ thuở đó là môn Pháp văn phải tối thiểu là 6/20), gây ra uất ức. Có ý cho đó là cách cư xử bệnh hoạn, lẽ ra nên chữa chạy từ sớm chứ không đợi đến lúc gần tự tử. Nhưng cũng có ý cho rằng có thể là khung cảnh lịch sử đã góp phần tạo nên (nhận xét này cũng là một cách « giảm khinh ») : thuở ấy rất ít người Việt Nam được học hành, lại có thêm truyền thống trọng bằng cấp, lại thêm sự hiểu biết khá lơ mơ về tình hình nước ngoài, cộng thêm với mặc cảm tự ti của kẻ bị trị (mỗi năm tùy ngành, Ecole normale supérieure cũng tuyển cả chục thí sinh, số người trúng tuyển kỳ thi agrégation trung học cũng cả hàng chục, ngày nay hàng trăm - tất nhiên họ là người Pháp, lọt được một người gốc Việt Nam thì coi là oai), mới gây nên một chuyện bi đát như vậy. Hy vọng cũng là một bài học cho ngày nay.]

Chương hai : Đông là Đông, Tây là Tây, Đông Tây có bao giờ gặp nhau không ?



Tác giả ĐVN sửa câu « Đông là Đông, Tây là Tây, Đông Tây không bao giờ gặp nhau » của Rudyard Kipling (1865-1936) để đặt thành câu hỏi, đầu đề cho chương này. Kipling là văn hào người Anh, giải thưởng Nobel Văn học 1907, tác giả của các cuốn tiểu thuyết cho trẻ em thí dụ như cuốn « The Jungle Book » (Cuốn Sách Rừng Già, trong đó nhân vật chính là chú bé Mowgli được một bầy chó sói nuôi dưỡng trong rừng), đồng thời cũng là người đề cao tinh thần quốc gia và tinh thần đế quốc. Trong chương này tác giả đề cập đến những vấn đề của nước Anh, từ thế kỉ 19 cho đến ngày nay, qua nhiều câu chuyện như chuyện những trường tư thục nhưng mang tên Public schools tuy không phải là trường « công » (có khoảng 400 trường loại này, mà trong đám đó, trường Eton là nổi tiếng nhất) : gọi tên là Public schools như vậy vì nhận học trò nội trú từ bất cứ đâu gửi đến miễn là có đủ điều kiện, (khác với những lớp học tư tại các gia đình giàu sang, đón riêng thày dạy con cháu trong nhà mình), mang mục tiêu không những mở mang trí tuệ, óc suy luận mà đồng thời cũng rèn luyện tính nết nữa.

Trong mục « Tây là Anh, Đông là Ấn Độ » tác giả luận về quan hệ giữa Anh và Ấn, Anh nhỏ mà lấn Ấn to ; quan hệ mà cũng có so sánh, thí dụ như : Xã hội Anh là một xã hội phân chia giai cấp, có quý tộc, có trung lưu, có hạ lưu vô sản, nhưng nếu có công với xã hội cũng có thể được phong tước quý tộc. Xã hội Ấn Độ phân chia theo đẳng, sinh ra thuộc cấp nào thì chết đi vẫn thuộc cấp ấy : Cao nhất là cấp Bà-la-môn do cái ngai « Tạo Hóa » ngồi mà ra ; cấp này có nhiệm vụ giảng tôn giáo . Thứ nhì là cấp Kshatriya, do cánh tay « Tạo Hóa » mà ra ; đó là cấp của các quân nhân, sĩ quan trong quân đội, các quan cai trị, các chính trị gia. Thứ ba là cấp Vaishiya do bắp đùi « Tạo Hóa » mà ra ; đó là cấp của các nhà buôn lớn, các nhà công kỹ nghệ, các phú nông, các người có trại chăn nuôi súc vật. Cấp thứ tư là cấp Shudra do bàn chân của « Tạo Hóa » mà ra ; đó là cấp của các nhà nông, tiểu công nghệ, tiểu thương, thủ công, của những người làm nghề chân tay mà không bị coi là ô uế. Cấp thứ năm là cấp « tiện dân » (untouchable, cấm không đụng đến) bị coi là ô uế, không có quyền dự các lễ tôn giáo, sống ngoài xã hội. Và những người paria, bị đuổi ra các cấp khác, thí dụ như những đứa con hoang. Tây và Đông cũng là vậy.

Trong mục « Đông là Tây-ban-nha, Tây là Nam Mỹ », tác giả nhắc tới nhà thám hiểm Christophorus Colombus (1450-1506, người xứ Genova nay thuộc Ý, thuở xưa ta gọi theo Tàu là Kha-luân-bố, như đã nói ở Lời mở đầu), thuyết phục được vua Fernando II và hoàng hậu Isabel la Catolica trao cho sứ mạng thám hiểm, đi sang phuơng Đông bằng con đường biển phía Tây, vì ba lẽ : đường bộ lúc ấy bị nghẽn vì Đế quốc Ottoman Hồi giáo ; con đường thủy vòng qua Phi Châu phức tạp ; và lúc đó người ta đã biết là quả đất tròn đi về phía Tây rồi cũng tới Đông. Kết quả là người Âu tìm ra châu Mỹ, mở đường cho bọn « Conquistadores » chiếm đất cướp vàng bạc ở châu Mỹ La tinh.

Trong mục « Đông là Mỹ, Tây là Nhật. Đông là Nga, Tây là Hoa Kỳ », tác giả ĐVN lướt qua cuộc chiến tranh Mỹ-Nhật trong thế chiến thứ hai, và chiến tranh lạnh giữa Nga và Mỹ.

Trong những mục còn lại : « Chỉ trong 10 năm, hoàn cảnh và lòng người thay đổi », « Rút ra khỏi thuộc địa, tự xóa Đế quốc của mình trên bản đồ thế giới, một Đế quốc to nhất trong lịch sử nhân loại », « Ngọn lửa đế quốc bập bùng nổi lên trong ba ngày … rồi lại tắt » vv., tác giả ĐVN nói tới những thay đổi của nước Anh kể từ khoảng 1936 cho đến năm 2003 : những sự kiện quân sự ; những sáng kiến khoa học kỹ thuật giúp cho sự thành công trong chiến tranh ; những biến chuyển trong xã hội ; rút ra khỏi Ấn Độ, thay dổi quan hệ với các thuộc địa cũ ; các công trình kiến trúc và kiến thiết đô thị ; vụ việc năm 1956 ở kênh đào Suez ; tình hình các ngành kỹ nghệ ; vụ việc quần đảo Falkslands (quần đảo Malvinas) với nước Argentina, vv. Tóm lại từ một vị trí Đế quốc làm bá chủ, ngày nay nước Anh yên phận sống trong hòa bình cho đến năm 2003, khi mắc vào vụ việc nước Irak.

Chương 3 : Đông gặp Tây ở phương Tây.

Tác giả ĐVN (nhân một dịp thăm nuớc Anh năm 1948, rồi một lần nữa năm 1955 và một thời gian làm việc nơi đó từ năm 1957 đến 1959), nói lên những nhận xét của mình về xã hội Anh và về người Anh, và những biến chuyển của nước này qua thời gian : đó là chương nói về một người Đông tìm hiểu một nuớc Tây.

Chương 4 : Đông Tây gặp nhau trên sa trường.

Tác giả ĐVN luận về Đế quốc Mông Cổ thời Trung cổ. Những câu chuyện về phía Đông thì đã nói nhiều, chẳng cần nhắc lại lắm. Có những chuyện về phía Tây có lẽ mới đáng chú ý hơn. Nhân vật chính là Temujin, người Hán phiên âm ra rồi viết theo chữ của họ, ta đọc theo kiểu chữ Nho thành Thiết-mộc-chân, năm 1206 được các tù trưởng Mông Cổ công nhận làm chúa, gọi là Gengis Khan, người Hán phiên âm ra, rồi ta đọc theo kiểu ta mà thành Thành-cát-tư hãn. « Hãn » là chữ « Khan » của người Mông Cổ, phiên âm ra chữ Hán, đọc theo kiểu ta là « Hãn », có nghĩa là vua chúa (gốc gác là tiếng Thổ-nhĩ-kỳ, dùng cho cả Mông Cổ, Trung Đông và Ấn Độ). Nếu đọc theo kiểu ta ngày nay có lẽ phải là Hãn Thành-cát-tư ? Chúa các nước bé là « Hãn », chúa nước lớn là « Đại hãn », nước của chúa Hãn gọi là Hãn quốc (Khanat). Thuở đó, quân Mông Cổ rất mạnh, với những đặc điểm như sau :

- Binh lực chính là kỵ binh. Khí giới là cung tên và giáo mác. Mũi tên làm bằng sắt, có nhiều loại : có loại để giết người, mũi nhọn hoặc bẹt sắc như lưỡi dao ; có loại đầu có những lỗ như lỗ sáo diều, bắn ra tên bay kêu hú hú, làm cho địch chỉ nghe tiếng tên bay mà khiếp sợ hết vía.

- Kỵ binh đội mũ sắt, mặc áo giáp làm bằng da ngựa, nhẹ hơn giáp sắt của Âu Tây, nhờ vậy nhanh nhẹn dễ chiến đấu. Ngựa chết lột da, ngâm da vào nước tiểu ngựa, da thành cứng, mũi tên đâm không thửng, dao chém không rách. Cánh tay trái đeo mộc, loại mộc nhỏ, giơ lên để che mặt. Tay phải cầm giáo để đâm, hay kích để đâm hoặc móc. Bên hông đeo cung đựng trong một cái túi, sau lưng đeo hai hay ba bị đựng tên. Chân đi hia, trong ống hia có những mảnh sắt nhỏ để che chân và bắp chân khỏi bị giáo mác đâm.

- Yên ngựa có bàn đạp như cái đĩa tròn, ngồi trên lưng ngựa đặt chân lên bàn đạp, thế rất vững không sợ ngã, lại có sức mạnh khi giao chiến, không như người Hy-lạp hay La-mã thuở xưa.

- Quân Mông Cổ có rất nhiều ngựa. Ngựa Mông Cổ tuy nhỏ bé hơn ngựa Âu Tây, nhưng rất khỏe và rất dai sức. Khi lâm trận, kỵ binh có thể đổi ngựa đến 3 lần, con này mệt, lấy con khác cưỡi thay.

- Kỵ binh Mông Cổ cưỡi ngựa giỏi, bắn cung giỏi, đặc biệt có tài phi ngựa bắn cung về phía đằng trước hay đằng sau. Người ta đã nhận xét thử, thấy người Mông Cổ cưỡi ngựa bắn được đến 6 mũi tên trong một phút. Cung làm bằng gỗ lắp thêm mảnh xương súc vật, giây cung làm bằng gân bò gân ngựa.

- Quân thì chia ra thành đội 10 người, cứ nhân lên gấp 10, thành trăm, thành nghìn, thành vạn. Lúc lập các đạo quân, trộn lẫn người bộ lạc nọ với người bộ lạc kia, để tránh sự mưu phản. Tướng sĩ không phải là các tù trưởng mà là người có tài. Sau này khi mộ thêm người các nước khác vào hàng ngũ, cũng giữ chính sách ấy.

- Lại học thêm được của người Tàu hay người Tây Á cách làm các cần bằng gỗ để ném đá, ném các chất cháy để đốt phá thành trì của địch. Có khi ném cả các thây súc vật chết, các xác người chết thối rữa vào thành địch để gây nên bệnh truyền nhiễm trong thành.

- Tàn ác, tàn sát dân kháng cự bại trận, già trẻ nam nữ đều bị giết không tha, làm cho tiếng đồn xa, quân địch thấy quân Mông Cổ đến đánh thì thường qui hàng ngay không dám kháng cự.

- Lúc di chuyển thì dẫn ngựa bò, phụ nữ cũng đi cùng. Khát đói thì chích máu ngựa máu bò để uống, giết bò giết ngựa để ăn. Đàn bà cũng tham gia trận mạc, cầm dao giết các thương binh địch, tan trận đi thu nhặt cung, tên, khí giới rơi trên chiến trường.

- Lại mưu mẹo giả vờ thua chạy, địch đuổi theo thì quay lại phản công. Lúc đánh chiếm Đông Âu, nhiều lần thắng vì mưu này.

- Sau mấy chục năm chinh chiến, người Mông Cổ học được cách dùng thuốc súng để làm đổ vỡ tường thành của địch, nhưng chưa biết dùng súng bắn đạn. Nhưng sau này khi có chiến thuyền, quân Mông Cổ học được ở Cận Đông cách dùng những ống đồng để phóng chất cháy sang thuyền địch.

Cuốn sách kể việc Mông Cổ tấn công nước Tây Hạ vào năm 1209, nước này thua phải triều cống ; năm 1211 đánh nước Kim phá thành Trung Đô của nuớc này vào năm 1215. Năm 1218, sai tướng Jebe mang 2 vạn kỵ binh sang phía Tây đánh chiếm nước Tây Liêu, dễ dàng vì vua nước này là Kuchlug cấm đạo Hồi mà dân xứ này lại theo đạo ấy. Quá nữa về phía Tây, là nước Kwarzim (Ouzbekistan ngày nay), vua là shah Muhammed, thủ đô là Samarkand, có nhiều của cải. Lúc đầu Thành-cát-tư hãn muốn kết thân và giao dịch thương mại, gửi sứ thần và 450 nhà buôn mang ngọc thạch, ngà voi, vàng và áo lông lạc đà sang biếu. Nhưng phái đoàn này bị quan cai trị biên giới xứ này là Inalchug nghi ngờ là gián điệp, bắt giam rồi giết. Thành-cát-tư hãn phái sứ thần đến đòi vua shah Muhammed trừng phạt viên quan nọ, vua này không những không nghe mà còn chém đầu sứ thần mang trả Thành-cát-tư hãn. Vì thế quân Mông Cổ kéo sang. Shah Muhammed có 40 vạn quân, Thành-cát-tư hãn có khoảng 11 vạn quân, mới hỏi mượn quân Tây Hạ, vua nước này trả lời xấc ngạo, (nên năm 1226 khi thắng trận trở về, Thành-cát-tư hãn đánh chiếm Tây Hạ). Quân Mông Cổ chia làm hai đạo, một đạo vây đánh thành Utrar mà viên quan trấn thủ chính là Inalchug, người đã giết sứ thần. Viên này thủ thành được một tháng thì tử trận, thành bị san bằng, các thợ khéo thì đưa về Mông Cổ. Hai thành Samarkand và Bukhara, nằm trên đường tơ lụa, mở cổng thành đầu hàng. Thành-cát-tư hãn vào thành, uống rượu, uống sữa, nghe đánh đàn thổi sáo, xong ra lệnh bắt các nhân vật quan trọng trong thành mang của cải châu báu đến nộp, rồi cho phép lính tự do cướp bóc, hãm hiếp, phóng lửa đốt phá thành, thánh đường, nhà cửa. Năm sau, lại đi về phía Tây, phá thành Urgench, cũng trên đương tơ lụa, sau một trận chiến hung dữ, giết đến 10 vạn người. Rồi lại tiến đánh Merv (thuộc Turkmenistan ngày nay) ; tương truyền có một tu sĩ Hồi giáo đếm xác chết 13 ngày chưa hết, ước lượng đến 1 triệu 3 trăm ngàn cái thây, chắc là hoang đường phóng đại vì thuở ấy chưa có thành phố nào đông đến cả triệu dân. Có điều là tin đồn khiếp đảm làm cho mọi nơi kinh sợ. Quân Mông Cổ cũng có lý do không tha cho địch sống, vì sợ bị trả thù ; như trường hợp năm 1221 khi chiếm thành Herat (thuộc Afghanistan ngày nay), tha sống nhiều người, lúc đạo quân bỏ đi, chỉ để một ít quân giữ thành, thì những người này bị dân nổi lên giết đi.

Năm 1221, Thành-cát-tư hãn sai hai tướng Jebe và Sudebei mang 2 vạn quân sang phía Tây biển Caspienne phá hai đạo quân của xứ Géorgie. Mùa Đông năm ấy, vuợt qua rặng núi Caucase vào đất Nga cướp phá. Thuở ấy, nước Nga chưa thống nhất, chỉ có nhiều ông chúa đứng đầu các lãnh thổ nhỏ, lại càng nhỏ đi khi chia cho các con. Dân Nga lúc đó thì theo đạo Ki-tô nhưng không thuộc Tòa thánh La-mã mà thuộc Tòa thánh Byzance. Khi quân Mông Cổ cướp phá, mấy ông chúa ở các xứ Nga như Kiev, Chernigov, Galicia, Rostov, Suzdal hội họp, tụ tập được 8 vạn quân kéo ra đánh quân Mông Cổ ở bờ sông Kalka vào năm 1223, bị quân Mông Cổ lập mưu đánh cho đại bại. Sau trận, hai tướng Mông Cổ Jebe và Sudebei ngồi trên một cái hòm gỗ lớn ăn uống, trong hòm là 3 ông chúa Nga bại trân bị bắt, dần dần ngạt hơi tắt thở, vì theo phong tục Mông Cổ, khi trọng một chiến sĩ nào thì lúc giết người ta, không để máu người ta chảy xuống đất. Sau đấy, hai tướng này đi về mạn sông Volga, thắng thêm hai trận, vượt núi Oural, hội quân với Thành-cát-tư hãn năm 1224 ; qua nước Kazakhstan, cướp lương thực của cải, đánh tan bất cứ quân nào cưỡng lại. Năm 1225 lên đường trở về Mông Cổ, để lại kỷ niệm một mối kinh hoàng, và hình ảnh trong trí tưởng tượng của người Âu như những ác quỉ ăn thịt người, không có đầu, mắt mũi ở ngực hay ở lưng (tác giả ĐVN dẫn hình ảnh lưu trữ ở Cambridge University và Thư viện Quốc gia Pháp). Trên đường về, Thành-cát-tư hãn tạt xuống miến Nam để chinh phạt nước Tây Hạ để trả thù vua nước này đã không giúp quân lúc trước, và chết năm 1227 trong lúc đang vây thủ đô nước này. Sau một cuộc viễn chinh dài 13 nghìn cây số và lâu 9 năm, Thành-cát-tư hãn để lại cho con cháu một vùng đất đai rộng lớn và một binh lực mạnh nhất thế giới thời đó. Đất đai chia cho bốn người con trai vợ cả, mỗi người làm vua một « Hãn quốc », nhưng người con thứ ba Ogodei (Oa-khoát-đài) mà Thành-cát-tư hãn cho là tài giỏi hơn cả, được trao cho nhiệm vụ làm vua « Đại hãn quốc », phần đất rộng rãi quan trọng gồm Mông Cổ, Tây Hạ và một phần Tây Liêu. Những người này và con cháu của họ tiếp tục mở rộng đất đai.

Năm 1230, quân Mông Cổ đi về phía Tây Nam chiếm xứ Kirghizstan (còn gọi là Kirghizistan) và xứ Tadjikistan họp lại thành một nuớc gọi là Sát-hợp-đài hãn quốc, vua là Chaghatai (Sát-hợp-đài), con thứ nhì của Thành-cát-tư hãn. Hãn quốc này lâu được 140 năm, đến năm 1370 thì bị Timur Leng (Pháp gọi là Tamerlan, người gốc Thổ-nhĩ-kỳ) chiếm.

Năm 1231, quân Mông Cổ tiến sang chiếm phía nam nước Ba-tư (Iran) rồi lên phía Bắc chiếm Tabriz, lập nên nước I-nhi hãn quốc (I là Iran), vua là Hulagu (Húc-liệt-ngột) con của Tolui (tức Đà-lôi, con thứ tư của Thành-cát-tư hãn). Năm 1236, Hulagu chiếm xứ Arménie (Ác-mê-ni), năm 1257 đánh thành Bagdad (Irak), năm 1258 chiếm toàn bộ nước này, mở rộng bờ cõi nước I-nhi. Năm 1259, Hulagu mang quân đánh xứ Syrie (Xi-ri) và xứ Palestine (Pa-lét-xtin) nhưng bị thua. Hãn quốc này bị Timur Leng chiếm vào năm 1344.

Con trưởng Thành-cát-tư hãn là Jochi (Thuật-xích) được hưởng xứ Kazakhtan, sau trao cho con là Batu. Năm 1236, Batu dẫn quan sang châu Âu, tướng Sudebei vượt qua núi Oural, qua sông Volga, đại phá quân Nga ở thành Riazan, tiếp tục đánh chiếm thành trì của các chúa khác như Moscou (Mát-xcơ-va), Vladmir, Kiev, Varsovie (Warzawa) và Cracovie (Kraków) (thuộc Ba Lan ngày nay), rồi xuống phía nam đánh thành Budapest (Hung) . Năm 1241 tiến tới thành Vienne (Wien, thủ đô nước Áo ngày nay). May cho thành này, đúng lúc bấy giờ có tin rằng Đại hãn Ogodei từ trần ở Mông Cổ, nên Batu phân vân chờ tin, không tiến quân đánh thành. Lãnh thổ của Batu mang tên là Kiptchak (Khâm-sát hãn quốc), tiếng Pháp gọi là Horde d’Or, rất rộng, gồm các nước (tên ngày nay là) Nga, Ba-Lan, Kazakhstan, Arménie (Ác-mê-ni), Bulgarie (Bun), bền lâu hơn các Hãn quốc khác, gần 250 năm sau mới trở lại của người Nga. Batu và hậu duệ đóng đô ở Sarai trên sông Volga, gần biến Caspienne, kệ các chúa Nga cai trị dân xứ họ, chỉ phải mỗi năm nộp thuế, tính theo đầu người (thuế thân), chứ không tính theo lối của người Nga theo số lửa bếp và số lưỡi cầy. Người Mông Cổ ở hãn quốc này (cũng như ở I-nhi hãn quốc và Sát-hợp-đài hãn quốc dần dần theo đạo Hồi, nhưng để yên cho người bản xứ theo đạo Ki-tô. Mãi đến năm 1480, chúa xứ Mát-xcơ-va nay đã thành vua nước Nga, là Ivan III, mới không thần phục Mông Cổ nữa.

Người con thứ ba của Thành-cát-tư hãn là Oa-khoát-đài (Ogodei) làm vua Đại hãn quốc (Từ đây, vì Mông Cổ vào Trung quốc, tôi chuyển ghi tên theo âm từ chữ Hán). Năm 1232, Oa-khoát-đài dẫn quân qua sông Hoàng Hà đánh thành Khai Phong thủ đô nước Kim, năm 1233 thì hạ được thành, nhập nước Kim vào lãnh thổ Mông Cổ. Năm ấy, sai hai đạo quân sang đánh nước Nam Tống, nhưng không giữ được đất. Năm 1241, Oa-khoát-đài chết, con là Quí-do (Guyuk) nối ngôi đến năm 1248 thì chết. Ngôi Đại hãn chuyển sang ngành khác. Mông-kha (Mongke, con cả của Đại-lôi, con thứ tư của Thành-cát-tư hãn) lên ngôi Đại hãn. Năm 1253, Mông-kha sai em là Hốt-tất-liệt (Kubilai) đánh nước Đại Lý (thuộc Vân Nam), rồi sang đánh nước Đại Việt ta nhưng không thành phải rút về .

[Lời thêm của Bùi Trọng Liễu: Đó là cái vụ « giặc phật » năm 1257 đời Trần Thái Tôn nước ta. Theo Đại Việt Sử ký, quân Mông Cổ vào nước ta thế rất hăng, vua Trần Thái Tôn thân chinh đánh không được, đi thuyền nhỏ đến hỏi kế thái úy Trần Nhật Hạo, (còn gọi là Nhật Hiệu), Nhật Hạo sợ giặc tới mức ngồi tựa mạn thuyền không đứng dạy được, chỉ lấy ngón tay chấm nước viết hai chữ « nhập Tống » ở mạn thuyền, nghĩa là khuyên vua nên chạy vào nước Tống lúc ấy còn đang giữ miền Nam nước Tàu. Vua hỏi quân Tinh Cương đâu, quân này là quân mà Nhật Hạo cai quản, Nhật Hạo trả lời : « Gọi không đến ». (Vì thế sử gia Ngô Sĩ Liên sau này, thế kỉ XV, viết lời phê bình gay gắt Nhật Hạo. Và bảy năm sau, vua Trần Thánh Tôn muốn cho Nhật Hạo làm thái sư, nhưng Nhật Hạo cố từ chối không nhận vì xấu hổ về việc viết chữ vào mạn thuyền khi trước). Trở lại việc vua Trần Thái Tôn, vua dời thuyền đến hỏi ý thái sư Trần Thủ Độ, ông này trả lời : « Đầu tôi chưa rơi xuống đất thì Bệ hạ không cần lo ngại gì cả ». Bấy giờ vua mới yên lòng. Sau tiến quân phá được giặc, quân Mông Cổ rút về, đi đường mỏi mệt không cướp phá, cho nên gọi là giặc phật. Thuở ấy, cũng có câu chuyện « tiểu hiệu Cự Đà không được ăn xoài » : Trước đó, vua cho các quan hầu cận ăn quả xoài, Cự Đà không được ăn. Khi quân Mông Cổ tiến đến bến Đông, cũng như những người sợ hãi, Cự Đà ngồi thuyền nhẹ trốn đi. Gặp thuyền của thái tử đi ngược lên, quan quân hỏi « Quân Nguyên ở đâu? », Cự Đà trả lời : « Không biết. Các ngươi nên hỏi những người ăn xoài ấy ». Đến phá được giặc rồi, thái tử xin khép Cự Đà vào cực hình. Vua nói : « Cự Đà tội đáng giết cả họ, […Nhưng] việc của Cự Đà là lỗi của ta ; tha cho tội chết, cho đánh giặc chuộc tội ». Cũng vào dịp này, Lê Phụ Trần theo vua đánh giặc rất can đảm, lúc thưởng công vua cho làm chức ngự sử đại phu và đem công chúa Chiêu Thánh (tức Lý Chiêu Hoàng, vợ cũ của vua) gả cho !].

Năm 1258, ba đạo quân Mông Cổ lại tấn công nước Nam Tống ; năm 1259 Mông-kha bị thương rồi chết, quân Mông Cổ lại phải rút về . Hốt-tất-liệt nối ngôi Đại hãn. Năm 1267 chuyển kinh đô về Đại Đô (Bắc kinh ngày nay), lại tấn công nhà Tống. Năm 1271, Hốt-tất-liệt lập nên triều đình nhà Nguyên, tức là Nguyên Thế Tổ. Năm 1276 mới chiếm được Hàng Châu, kinh đô của nước Nam Tống, bắt được vua Nam Tống. Nhưng các tướng nhà Tống kháng cự mãi, đến năm 1279 mới dứt được Nam Tống.

Quân Mông Cổ muốn mở mang thêm bờ cõi, hai lần đánh Nhật nhưng không được (1274 vì gặp bão, 1281 cũng thất bại) ; hai lần đánh Đại Việt bị thua (1284 và 1287-88, việc này sử ta đã nói nhiều, không nhắc lại ở đây) ; đánh đảo Java (Nam Dương ngày nay) vào 1292-1293 cũng không được. Từ đó ngưng.

Tác giả ĐVN cũng nói đến xã hội nước Tàu dưới triều Nguyên. Thí dụ như nhắc việc nhà Nguyên chia 4 giai cấp : 1/ Dân Mông Cổ, được nhiều quyền lợi nhất. 2/ Dân « Sắc mục nhân », được giải thích là dân mắt « màu », không đen, có thể là màu xanh màu xám, ở về phía Tây , thường là người Thổ-nhĩ-kỳ. 3/ Người Hán ở lưu vục sông Hoàng Hà. 4/ Thấp nhất là người Hán ở phía Nam. Về tôn giáo thì có thái độ cởi mở, như đối với đạo Ki-tô, đạo Hồi. Lại chú trọng đến các phương tiện giao thông, đường thủy, đưòng bộ, có chính sách khuyến nông, khuyến khích khoa học, vv.

So với các hãn quốc khác ở phương Tây, nhà Nguyên ở Trung quốc không lâu bền bằng. Tính từ năm 1271 khi Hốt-tất-liệt lên ngôi Đại hãn lấy hiệu là Nguyên Thế Tổ cho đến năm 1368, tất cả là 97 năm, tất cả có 11 đời Đại hãn. Năm 1368, bị Chu Nguyên Chương (Minh Thái Tổ) đánh, Đại hãn cuối cùng nhà Nguyên bỏ chạy về Mông Cổ.



Chương 5 : Tây ở phương Tây.



Trong chương này, tác giả ĐVN luận về Đế quốc La-mã. Khỏi thủy là sự tích thành La-mã : có hai đứa trẻ mồ côi tên là Romulus và Remus, ở xứ Latium, tổ tiên là Enée dòng dõi thần tiên ; dân xứ này từ lâu đã biết luyện đồng đen, là thứ kim khí cứng, làm khí giới tốt. Khi nhớn lên, hai anh em tụ họp một số nhà nông chăn cừu trồng trọt và người du đãng, cùng nhau xây dựng những nhà sàn mái rơm vách gỗ tại một khu đầm ao trên bờ sông Tibre (tên La-tinh là sông Tiberis), dưới chân bảy ngọn đồi. Hai anh em tranh nhau làm vua, rút cuộc định rằng gửi số phận trong điềm trời, nhìn xem chim bay về phía nào. Chim bay hướng Romulus chọn, nên Romulus lên làm vua ; người em không thần phục, nên bị giết. Đó là vào năm 753 trước Công nguyên. Có thuyết cho rằng vì Romulus làm vua, nên nơi ấy mang tên là Roma (La-mã); nhưng cũng có thuyết cho rằng tên Roma là do chữ Hy-lạp « rhome » có nghĩa là khỏe mạnh. Dân xứ này không có đàn bà, bèn lập mưu bắt cóc đàn bà con gái của xứ láng giềng là xứ của dân Sa-banh (Sabins) mang về làm vợ, gây ra chiến tranh. Sau phụ nữ Sa-banh đứng ra giảng hòa, dân hai xứ họp lại làm một.

[Chú thích của Bùi Trọng Liễu : Sự tích này khá dài dòng, không kể ở đây. Chỉ xin nói là có hai bức tranh sơn dầu nổi tiếng « L’enlèvement des Sabines » (Bắt cóc phụ nữ xứ Sa-banh), một của Nicolas Poussin (1640) nay ở bảo tàng Louvre, và một của Picasso (1962) ở Centre Pompidou].

Khi Romulus từ trần, vua nối ngôi là một người Sa-banh, vv. Thời đại quân chủ kéo dài 243 năm (từ năm 735 trước Công nguyên đến 510 trước Công nguyên) chỉ có 7 vua , với đặc điểm là không cha (mẹ) truyền con nối, và người bất cứ tộc nào cũng có thể được bàu lên làm vua.

Nguyên thủy xã hội La-mã có một đẳng cấp quân nhân, có ngựa để cưỡi, cư ngụ trong một thành phố có tường xây chung quanh, xây từ thời vua thứ sáu Servius Tellius (579-534 trướcCông nguyên). Các quân nhân có ruộng đất gần xa ở đồng bằng ngoài thành, dưới chân 7 ngọn đồi trong thành. Đẳng cấp quân nhân này có những người phục vụ, đó là những người làm ruộng trồng trọt, chăn nuôi ngựa, bò, cừu ; những người này cư ngụ ngoài thành. Nhà cửa trong thành, mái rơm, vách gỗ, xây cất trên đầm ao bên bờ sông. Dần dần, người ta lấp đầm ao, xây nhà bằng đá bằng gạch mái ngói. Trên một ngọn đồi tên là Capitole, xây một cái thành tường cao, đặt một trại lính. Cư dân trong thành mới đầu là một trăm dòng họ quí tộc, gốc Latium hay Sabin hay Etrusque. Người mỗi dòng họ thờ tổ tiên của mình. Tổ tiên các dòng họ gọi là « patres » (« pater » nghĩa là cha), con cháu được gọi là « praticiens » ; những người cùng một dòng họ quí tộc họp lại thành một « gens » (chữ gentleman trong tiếng Anh, gentilhomme trong tiếng Pháp, cũng ở chữ « gens » mà ra). Ban đầu, chỉ những người thuộc cấp « praticiens » mới có quyền « công dân », tức quyền giữ những chức quan trọng cai trị dân. Bảy vua nói trên là những người thuộc cấp quí tộc, được một hội đồng gọi là « Comices » (gồm đại diện của 30 đội quân nhân, gọi là « curies ») bàu lên. Vua vừa là Tướng tổng chỉ huy quân đội, vừa là Giáo quan tối cao coi việc tôn giáo tế lễ thần thánh, vừa là Pháp quan tối cao coi việc tư pháp, vừa là chủ tịch hội đồng quí tộc (« Sénat »).

Giới thường dân là những người nguyên thủy chăn nuôi súc vật và trồng trọt tại các trại của người quí tộc. Người La-mã gọi họ là « plebs » (chữ « plouc » hay « plouk » tiếng Pháp, có nghĩa là mỉa mai là quê mùa chẳng hiểu biết gì, là do từ đó mà ra). Họ được phép vào trong thành cư ngụ, làm đầy tớ, gia nhân phục vụ giới quí tộc ; một số là thợ thuyền tiểu công nghệ, sản xuất, buôn bán những vật liệu giới quí tộc dùng. Họ không có quyền tham dự vào việc cai trị, mới đầu không có quyền bàu cử, nhưng được quyền sở hữu, mua đất, tậu nhà, mua nô lệ, được quyền tự do đi lại, không lệ thuộc vào ai ; có người buôn bán trở thành giàu có. Năm 578 trước Công nguyên, vua thứ sáu là Servius Tullius (579-534 trước Công nguyên) cho họ quyền công dân, nghĩa là những quyền mà giới « praticiens » được hưởng, nhưng cũng phải hơn hai thế kỉ rưỡi sau, mới có người giới này được cử vào chức vụ cao nhất có đủ mọi quyền hành. Những người xưa thuộc giới thường dân mà có tiền của, nay được gọi là « equites », kỵ sĩ .

Giới thấp nhất là giới nô lệ, giới của những người dân nam nữ các xứ thua trận, được tha cho sống không bị giết (nô lệ tiếng La-tinh là « servus » nghĩa là người được tha). Họ không bị giết nhưng thuộc quyền sở hữu của kẻ thắng trận. Chủ có quyền sinh tử đối với họ, tùy tiện cho họ sống hay bắt họ chết, có thể đem bán họ. Mẹ là nô lệ thì con lại là nô lệ. Nhưng nô lệ cũng có thể được giải phóng : tùy chủ , hoặc có tiền mua lại tự do của mình. Tuy vậy họ vẫn phụ thuộc một phần nào vào chủ cũ cho đến khi chết ; nhưng con họ thì thành thường dân hoàn toàn.

Tương truyền vua cuối cùng của thời đại quân chủ này là Tarquinius Superbus (nghĩa là Tarquin Hoành Tráng, 534-509, trước Công nguyên) cư xử độc tài, nên bị dân nổi dậy, phế đi, và lập nên Thời đại cộng hòa.

Từ thế kỉ thứ năm trước Công nguyên, trong thời đại cộng hòa, người La-mã đã phân chia ba quyền : quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Quyền lập pháp (và kiểm soát người hành pháp) thuộc hội đồng « Sénat » (khoảng ba trăm thành viên, đa số thuộc giới quí tộc) và hội đồng « Comices » (gồm các quân nhân đại biểu của 3 tộc nguyên thủy, mỗi tộc có 10 nhóm đại biểu gọi là « curie », tổng cộng là 30 curies). Trong thời đại cộng hòa, các curies dần dần mất quyền hành, vì người các tộc lấy lẫn nhau, khái niệm tộc không quan trọng nữa ; các Comices chuyển thành Comices Centuriates (bởi vì từ centurion chỉ người sĩ quan trong quân đội). Như vậy là cách đây 2500 năm, La-mã đã đặt ra thể chế hai nghị viện : Hạ nghị viện « Comices » biểu quyết các đạo luật và thượng nghị viện « Sénat » duyệt y hay bắt sửa đổi lại.

Quyền hành pháp ở trong tay những người mỗi năm được hội đồng « Comices » bàu ra. Cao quyền nhất là hai « Consuls » (Chấp chính quan), cầm đầu quân đội, đồng thời làm chủ tịch hai viện, chỉ giữ chức vụ trong một năm. Trong các người đã từng làm « Consul », được bàu ra hai người giữ chức « Censeur » (Kiểm soát quan), giữ chức trong 5 năm, có nhiệm vụ xếp hạng dân theo tiền nong của cải của họ, vì thuở ấy giàu mới được giao các chức lớn. Lại có chức « Tribun » (Hộ dân quan) được lập ra năm 493 trước Công nguyên, có nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi của giới thường dân plebs. Chức này quan trọng vì dưới thời đại cộng hòa, giới thường dân luôn luôn đấu tranh để ngang hàng với giới quí tộc.

Quyền tư pháp được trao cho các quan tòa, do vị « Preteur » (Pháp quan) cử ra. La-mã có dân luật, nghĩa là luật về những sự giao dịch giữa các tư nhân, chủ với nô lệ, chồng với vợ, chủ nợ với con nợ, người mua với người bán, vv. Khi xử án, có người buộc tội nhưng cũng có trạng sư bênh vực người bị buộc tội ; và cũng có cả những bồi thẩm, tức là những thường dân được cử ra để tham gia vụ xử, quyết định người bị buộc tội có phạm tội hay không.

Quân đội La-mã thuở xưa rất hùng mạnh, chia thành những đội trăm người. Khí giới gồm gươm giáo và một cái khiên to hình chữ nhật ; khi gặp quân địch thì lính xếp hàng san sát gần nhau, dùng khiên che kín đội lính ba phía phải, trái, đằng trước, và che lên đầu, như cái mai rùa, chĩa giáo tiến về phía địch ; lại trọng kỷ luật, canh phòng cẩn thận, nên đánh đâu thắng đấy. Dần dần chiếm được các xứ khác, nơi thì chịu cống hiến, nơi thì tình nguyện liên kết. Đế quốc La-mã lập nên, gồm các 17 tỉnh. La-mã chiếm đảo Sicile năm 241 trước Công nguyên, chiếm đảo Sardaigne và Corse năm 231 trước Công nguyên, ba đảo này vốn thuộc xứ Carthage (Tunisie ngày nay). Ba lần chiến tranh với xứ này, sau chiếm được năm 149 trước Công nguyên.

Những năm 58-51 trước Công nguyên, La-mã chiếm xứ Gaule (vùng nước Pháp ngày nay). Vốn là sau mấy năm có nội loạn, chính quyền La-mã từ năm 60 trước Công nguyên thuộc về ba người : Pompelus (tiếng Pháp gọi là Pompée), Crassus và Caesar (tiếng Pháp gọi là César). Pompelus là tướng và cũng là nhà chính trị, dẹp nội loạn và mang quân sang chiếm xứ Syrie (Xi-ri), Palestine (Pa-lét-xtin) và Jerusalem. Crassus là một người lắm của, biết cách làm giàu. Crassus tổ chức một đội lính cứu hỏa, khi có nhà giàu bị cháy, ông ta cho lính cứu hỏa mang xe ngựa chở nước và dụng cụ tới, nhưng không cứu ngay mà điều đình giá cả với chủ nhà, chủ nhà không có tiền ngay, thì phải làm giấy khất nợ, ngã giá rồi mới chữa cháy ; chủ nhà không trả nợ được thì phải bán rẻ nhà cho Crassus , vì thế mà giàu. Giàu mà lại muốn có cái vinh dự của người làm tướng, nên bỏ tiền ra thuê mướn tướng tá binh lính, mang quân sang Cận Đông đánh xứ Parthes, chết trận vào năm 53 trước Công nguyên. Khi dân Parthes biết được Crassus là ai, lấy vàng đun chảy đổ vào miệng cái xác để vong linh Crassus được toại nguyện.

Người thứ ba cầm quyền là Caesar (Julius Caesar, tiếng Pháp là Jules César, sinh năm 100 hay 101, chết năm 44 trước Công nguyên). Lúc mẹ Caesar đẻ, bà đỡ phải mổ tử cung để lấy đứa con ra, vì thế nên mới đặt tên con là Caesar, (có nghĩa là cắt, sau này tiếng Pháp có chữ « césarienne » để chỉ sự mổ dạ con lúc đẻ). Caesar hào phóng, chi nhiều tiền để được lòng dân, nợ lung tung, nên làm thân với đại phú Crassus. Năm 58 trước Công nguyên, Caesar mang quân đánh chiếm xứ Gaule (Pháp ngày nay). Dân tộc xứ này thuở xưa là người Celtes. Caesar cũng phải chật vật mấy năm mới thắng được, đó là vào năm 52 trước Công nguyên, khi tướng cầm đầu quân đội Celtes là Vercingétorix đầu hàng sau khi thua trận ở Alésia. Chiếm xứ Gaule rồi, Caesar mang quân về La-mã. Lẽ ra thì không được vượt qua khỏi địa phần mình cai trị, mà ranh giới là một con sông nhỏ tên là Rubicon, nhưng Caesar cứ liều mang quân vượt bừa để lấn vào phần đất không thuộc quyền mình. (Sau này tiếng Pháp có câu « Franchir le Rubicon » nghĩa là liều lấy một quyết định táo bạo và không thể thay đổi được nữa). Lúc đó, Crassus đã chết, chỉ còn Caesar và Pompelus đấu nhau. Năm 49 trước Công nguyên, Caesar đánh bại quân của phe Pompelus ở Tây-ban-nha, phá hạm đội của Pompelus trong trận thủy chiến ở Hy-lạp, đuổi Pompelus sang tận Ai-cập, rồi Caesar gặp nữ hoàng xứ này là Cléopâtre VII (có sáu bà hoàng Ai-cập mang tên Cléopâtre này trước đó, không có gì đáng kể nên người đời chỉ nhớ tên bà này, chẳng nhớ tới con số VII, tương truyền bà này rất đẹp), vui sống với bà này một thời gian ; rồi năm 45 trước Công nguyên, đại phá binh lực của Pompelus ở Tây-ban-nha. Caesar được gọi là « Imperator » (Đại tướng Tổng chỉ huy, người Pháp dịch là « Empereur », ta dịch là Hoàng đế). Năm sau, tức là năm 44 trước Công nguyên, Caesar bị một đảng âm mưu đâm chết, trong đảng có người con nuôi của Caesar là Brutus. Nguyên là Brutus muốn giữ chính thể cộng hòa, trách Caesar muốn làm vua một mình nắm hết quyền hành.

Caesar chết, người cháu họ là Octavianus (sinh năm 63 trước Công nguyên và chết năm 14 sau Công nguyên, sử Pháp còn gọi là Octave, rồi Octavien ), nối nghiệp, trả thù cho Caesar : thắng đảng của Brutus trong một trận chiến, Brutus tự tử. Octavianus chia quyền với hai người nữa là Antonius (tiếng Pháp gọi là Antoine) và Lepidus (tiếng Pháp gọi là Lépide) : Octavianus cai trị lãnh thổ gồm nước Ý và các lãnh thổ phương Tây ; Antonius làm chúa các lãnh thổ phương Đông ; Lepidus cai trị các lãnh thổ bên châu Phi. Antonius mải mê vui sống với nữ hoàng Ai-cập Cléopâtre, bỏ vợ để cưới bà này, sau bị Octavianus đánh bại trong một trận thủy chiến ở Actium ở Hy-lạp năm 31 trước Công nguyên ; hai vợ chồng phải bỏ chạy về Ai Cập rồi tự tử chết.

Năm 27 trước Công nguyên, Octavianus lên ngôi hoàng đế, mở đầu Thời đại các hoàng đế. Chức này bấy giờ không gọi là « Imperator » mà gọi là « Augustus » , có nghĩa là « oai nghiêm », cha truyền con nối. Cho nên sử còn gọi Octavianus là Augustus (tiếng Pháp là Auguste). Octavianus là một minh quân, bên ngoài mở bờ cõi lên phía Bắc và chiếm nốt xứ Tây-ban-nha ; bên trong trị nuớc giỏi, văn chương thời đó cực thịnh, lại tu sửa thành phố Roma, xây cất lâu đài, đền thờ bằng đá, mở rộng đường phố.

Sau Octavianus, Thời đại các hoàng đế lúc thịnh lúc suy. Trong đám các hoàng đế có Nero (tiếng Pháp gọi là Néron, hoàng đế từ năm 54 đến 68 sau Công nguyên) nổi tiếng là hung ác, có lẽ vì điên : đồng lõa với mẹ là Agrippine để giết bố nuôi là hoàng đế Claudius tiếng Pháp gọi là Claude), sau lại giết mẹ để tự do cầm quyền, đầu độc con riêng của bố nuôi là Britannicus vì sợ cạnh tranh, bỏ vợ trước là con gái của cha nuôi để lấy người yêu là Poppée, nhưng lại đạp bụng Poppée đang có mang cho chết, kết tử hình những nhà giàu để lấy của của họ, vv. Sau Nero buộc phải tự tử.

[Lời thêm của Bùi Trọng Liễu : Nero là một nhân vật gợi hứng cho nhiều tác giả văn nghệ. Thí dụ như nhà soạn kịch thơ Racine (1639-1699) có viết vở bi kịch thơ Britannicus, mà xưa kia ai học văn học Pháp đều biết. Riêng tôi thì lúc học gấp để thi tú tài phần 1, rất « oán » mấy nhà văn sĩ thi sĩ Pháp về những chuyện lẩm cẩm xa xưa này, nay thanh thản hơn thì thấy chuyện cũng hấp dẫn. Hoặc như nhà soạn nhạc Monterverdi (1567-1643) có viết vở kịch nhạc nổi tiếng opéra « Le couronnement de Poppée ». Kể dông dài một chút : tôi vốn thích nhạc Monteverdi, cách đây mấy năm có đi xem-nghe opéra ở rạp Châtelet ; nhạc thì hay, người hát cũng hay, nhưng người dàn cảnh lại cho các nhân vật ăn mặc theo « costume d’époque » (y phục đương thời), tôi tới nay vẫn chưa hiểu ý nghĩa của cụm từ này, vì chẳng thấy ăn mặc theo hình ảnh những bức vẽ hay bức tượng thuở xưa trong các lâu đài La-mã, cũng không phải y phục của thời Monteverdi mà lại thấy giống như y phục của người đánh xe thế kỉ 18 (cocher) hát trong một phòng tắm hiện đại ; nghệ thuật đôi khi thật là bí hiểm !].

Trong cuốn sách, tác giả ĐVN có ghi một bảng thống kê : từ năm 27 trước Công nguyên, cho đến năm 775 sau Công nguyên, nghĩa là trong 802 năm, Đế quốc La-mã có 115 hoàng đế , chỉ có 37 vị chết vì tuổi già hay bệnh tật. Còn lại là 78 người bất đắc kỳ tử : 2 bị bỏ thuốc ; 54 bị giết chết ; 6 bị đuổi đi nơi khác ; 6 xin thoái vị ; 1 bị chôn sống ; 5 tự tử ; và 2 không biết vì sao mà chết. Có người chỉ ở ngôi được vài ngày.

Năm 313, hoàng đế Constantinus I (tiếng Pháp gọi là Constantin I, còn gọi là Constantin le Grand, làm hoàng đế từ 306 đến 337) ra « chỉ dụ Milano » (tiếng Pháp là « l’édit de Milan »), cho phép dân muốn theo tôn giáo nào thì theo, nghĩa là đạo Ki-tô được quyền bành trướng, và chính ông ta cũng theo đạo này. Năm 324, để dễ khống chế biên thùy phía sông Danube và phía Ba-tư, Constantinus I lập một thủ đô mới của Đế quốc La-mã ở Byzance, do tên ông ta nên thủ đô này mang tên Constantinople (nay là Istanbul ở Thổ-nhĩ-kỳ). Năm 395, khi hoàng đế Theodosius I (tiếng Pháp gọi là Théodose I, còn gọi là Théodose le Grand, làm hoàng đế từ năm 379 đến 395) chết đi, hai người con là Arcadius và Honorius chia Đế quốc làm hai : người con trưởng Arcadius làm hoàng đế (chức gọi là Augustus) đế quốc phương Đông, thủ đô Constantinople, còn Honorius làm hoàng đế (chức gọi là Caesar ) đế quốc phương Tây , thủ đô La-mã. Vì Caesar danh tiếng nên sau này tên trở thành chức vụ, như vua Nga được gọi là « tsar » từ đó mà ra. (Chú thích : Hình như tôi, BTL, có nghe đâu đó là tên gọi « shah » của hoàng đế Ba-tư hay các ông chúa mấy nuớc Trung Đông, vv. cũng do chữ Caesar mà ra ?). Đế quốc La-mã phương Tây luôn luôn bị những quân tộc phía Bắc hoặc từ Trung Á sang đánh phá, đặc biệt là Attila và quân Hung-nô.

[Lời thêm của Bùi Trọng Liễu : Đế quốc La-mã có lúc khốn khổ vì Hung-nô. Hung-nô bắt đầu thâm nhập vào châu Âu vào khoảng cuối thế kỉ IV, lập nên một xứ ở vùng đồng bằng sông Danube. Attila là vua Hung-nô (từ 434 đến 453), tiểu sử thì không rõ ràng vì có nhiều nguồn nói khác nhau. Theo một ngưồn thì nói là Attila lúc trẻ một thời được nuôi dạy ở Constantinople, triều đình hoàng đế La-mã phương Đông. Cuốn Encyclopaedia Universalis thì nói là Attila một thời bị làm con tin ở Đế quốc La-mã phương Tây. Theo một nguồn khác thì Attila đánh phá Đế quốc phương Đông, hoàng đế Theodosius II phải cống nộp tiền bạc hàng năm, để được yên. Năm 451, Attila dẫn quân sang đánh Tây Âu, vào xứ Gaule, đến tận địa phận Orléans cướp phá, gây ra nối kinh hoàng khắp nơi, với lời đồn đại như Hung-nô thiếu văn minh, chỉ ngủ lều, chỉ ăn thịt sống kẹp ở lưng ngựa và đùi người cưỡi cho mềm, vv. (Có lẽ vì vậy nên ngày nay ở Pháp có món thịt bò sống băm, gọi là « steack tartare » , hồi tôi mới sang Pháp thấy có người ăn mà khiếp ?). Rồi quân Hung-nô bị chặn lại ở một nơi thời đó gọi là Duro Catalaunum (khoảng 150 km phía đông nam Paris ngày nay), trong một trận bất phân thắng phụ với Aetius (vì tướng La-mã này một thời đã là đồng minh của Hung-nô nên biết rõ cách xử sự của đối phương) và đồng minh là Theodoric vua người wisigoths (vùng Toulouse ở Pháp ngày nay). Cũng có sử gia phương Tây thời đó bảo là Attila thua, nhưng Attila vẫn bảo toàn được lực lượng, và năm 452, tiến về phía La-mã ; rồi bỗng nhiên ngưng lại, điều mà đối với sử gia ngày nay lý do chưa sáng tỏ. Chỉ biết khi tới bờ sông Mincio thì giáo hoàng Leo I (tiếng Pháp gọi là Léon le Grand, giáo hoàng từ 440 đến 461) tới thương lượng, biếu vàng bạc và khuyên hay van được Attila đừng tiến tới La-mã. Có nguồn cho rằng tại Attila tin nhảm, sợ điềm gở ; nhưng cũng có nguồn cho rằng lúc ấy hoàng đế phương Đông Theodosius II (là người luôn luôn muốn hòa hoãn) đã chết, hoàng đế nối ngôi là Marcianus (tiếng Pháp gọi là Marcien) muốn đem quân đánh phía sau, Attila sợ nên rút quân về. Năm sau, mùa xuân 453, Attila chết sau đêm tân hôn với bà vợ mới, có lẽ là bị đầu độc. Theo những sử gia ngày nay, hình ảnh mà truyền thuyết Công giáo Tây Âu tả về Attila (man rợ, hung ác, thích giết người, thích chiến tranh, ưa tàn phá, cướp bóc, vô văn hóa, được gán cái tên gọi là « fléau de Dieu » - đại họa mà Trời reo rắc xuống thế gian - đi qua đâu thì sau đó cỏ không mọc được nữa), phần lớn không phù hợp với sự thật. Theo lời kể của Priscus, một sứ thần mà La-mã gửi tới gặp Attila năm 448 ở kinh đô của Hung-nô (ở Pannonie địa phận nước Hung ngày nay), thì đó là một thị trấn với những nhà bằng gỗ, có tường bao quanh và vọng gác ; lâu đài của vua này có trạm trổ, trải thảm len ; tiệc đãi sứ thần gồm có những món sang trọng, trong những khay, đĩa, cốc chén bằng vàng bạc ; tuy y phục nhà vua giản dị, không trang điểm bằng vàng bạc nhưng sạch sẽ, vv. Có nguồn lại nói là Attila thạo cả tiếng Hy-lạp và tiếng La-tinh, có tài ngoại giao, có tài chỉ huy. Cũng nhắc lại là Hung-nô cũng một thời là đồng minh của Đế quốc La-mã. Đạo quân mà Attila kéo sang đánh xứ Gaule năm 451 là những quân đa số thuộc những tộc germaniques (xứ Giéc-ma-ni thuộc Đức ngày nay) như Gépides, Ostrogoths, Burgondes, Alamans, vv. đồng minh của Hung-nô, và quân Hung-nô chỉ là thiểu số. Sử và truyền thuyết không phải lúc nào cũng khách quan. Sau Attila, Đế quốc Hung-nô cũng tan rã, và tộc này hòa vào các dân khác trong vùng, đặc biệt ở Hung].

Năm 476, hoàng đế Romulus (Romulus Augustule) bị vua người tộc Hérules đánh thua, mất ngôi. Đế quốc La-mã phương Tây bị diệt. Kể từ vua đầu tiên Romulus đến hoàng đế cuối cùng cũng mang tên Romulus, tổng công được 1229 năm.

Còn Đế quốc La-mã phương Đông (sau còn gọi là Đế quốc Byzantin), đến năm 614, tướng Heraclius lật hôn quân Phocas, và lên ngôi hoàng đế, và « Hy-lạp hóa » Đế quốc này. Ngôi hoàng đế từ nay mang danh hiệu « Basileus », tiếng Hy-lạp nghĩa là vua lớn các xứ Ba-tư. Tiếp sau đó là nhiều thăng trầm, không cứ chỉ vì những sự kiện chiến tranh, cướp ngôi, đổi dòng họ trị vì, mà có cả những sự kiện tôn giáo. Thí dụ như năm 1054, giáo chủ Keroularios bị giáo hoàng Leo IX rút phép thông công (tiếng Pháp là « excommunié ») và nên giáo hoàng này bị giáo chủ kia trả đũa rút phép thông công, gây ra cuộc Phân lý tôn giáo phương Đông (tiếng Pháp là « Schisme d’Orient », như đã kể ở phần trên). Đế quốc phương Đông kể từ hoàng đế Arcadius (năm 395) đến năm 1453 - hoàng đế cuối cùng là Constantinus XI bị thua trận chết do bị quân Ottoman của vua Hồi giáo (sultan) Mehmed II chiếm Constantinople - tổng cộng là 1058 năm.

Đế quốc La-mã lâu dài, để lại nhiều dấu vết và ảnh hưởng cả đến các nền văn minh khác. Vài thí dụ :

- Bộ chữ cái ABC La-tinh của người La-mã được sử dụng rộng rãi trên thế giới, trong đó có chữ quốc ngữ của ta dùng ngày nay.

- Kỹ thuật và mỹ thuật xây cất.

- Sự phân biệt quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

- Chế độ hai nghị viện , vv.

- Lịch Julien là lịch mà Caesar cải đổi và phổ biến năm 4­6 trước Công nguyên. Theo lịch này mỗi năm có 12 tháng (tháng 7 tiếng Anh gọi là July, tiếng Pháp gọi là Juillet, do tên của Caesar : Julius, Jules mà ra) 365 ngày, 4 năm có một năm nhuận thêm 1 ngày, thành ra trung bình một năm có 365,25 ngày, chênh lệch với nhịp quay của trái đất so với mặt trời 1 năm là 365,2422 ngày.

[Lời thêm của Bùi Trọng Liễu : Năm 532, theo những tính toán của Denys le Petit, một tu sĩ ở La-mã, giáo hội Công giáo tính năm kể từ năm sinh của Chúa Ki-tô. Tu sĩ này cho rằng năm sinh của Chúa Ki-tô là năm 753 sau khi La-mã được thành lập ; (nhưng ngày nay có thuyết cho rằng ông ta nhầm mất 5 năm). Tuy vậy cách đề năm này cũng phải đợi nhiều thế kỉ mới được các nước theo đạo Công giáo chấp nhận. Thí dụ như vào thế kỉ thứ IX, thời hoàng đế Charlemagne, người ta còn đề năm theo năm lên ngôi của vua, đại khái theo kiểu Tàu, kiểu ta thuở xưa. Đến cuối thời Trung cổ, một số nhà thiên văn nhận xét rằng sự chênh lệch giữa mỗi « năm lịch julien » và « năm mặt trời » là 11 phút 14 giây. (Có thuyết cho rằng kỳ thật ra, nhà thiên văn Hy-lạp Hipparque, thế kỉ thứ II trước Công nguyên, đã biết « năm mặt trời » lâu bao nhiêu, trước khi Caesar định lịch Julien). Đến thế kỉ 16 thì tổng cộng sự chênh lệch giữa « lịch julien » và « lịch mặt trời » lên đến 10 ngày, cho nên năm 1582, giáo hoàng Gregorius XIII (tên Pháp là Grégoire XIII) cho sửa lại cho hợp (và do đó được gọi là lịch Grégorien) : Trước hết là quyết định rằng sau ngày thứ năm mồng 4 tháng 10 năm 1582 là ngày thứ sáu 15 tháng 10 năm 1582 (nghĩa là nhảy cóc 10 ngày). Thứ nhì là bỏ đi một số năm nhuận (năm đầu của 3 thế kỉ trên 4 thế kỉ, chỉ có 365 ngày ; vì thế nên những năm 1700, 1800, 1900 không có ngày 29 tháng 2, nhưng năm 2000 thì lại có). Với sự hiệu chỉnh như vậy, ngày nay sự chênh lệch chỉ khoảng là 1 ngày sau 3 nghìn năm. Thoạt đầu chỉ có hai nước Tây-ban-nha và Bồ-đào-nha là áp dụng ngay ; nước Pháp thì 2 tháng sau ; nước Anh theo năm 1752 ; Nhật và Trung Quốc năm 1911, Nga năm 1918, Hy-lạp năm 1923, vv. Ngày nay hầu hết các nước, có lẽ trừ các nước Hồi giáo, đều theo lịch này. Nhưng vì các nước không áp dụng lịch này cùng một lúc, cho nên cần thận trọng việc « đọc » thời điểm các sự kiện lịch sử. Thí dụ cuộc « Cách mạng tháng Mười » của Nga, lúc đó đang dùng lịch julien, xảy ra vào tháng 11. Hoặc có người lưu ý rằng hai nhà văn hào Cervantes (Miguel de Cervantes Saavedra, người Tây-ban-nha, tác giả của Don Quijote de la Mancha, ...) và Shakespeare (William Shakespeare, người Anh, tác giả của « Othello », « Macbeth », « Romeo và Juliet »,...) cùng được ghi chết ngày 23 tháng 4 năm 1616, nhưng hóa ra lại chết cách nhau 11 ngày.]



Chương 6 : Chinh Đông Chinh Tây.

Tác giả ĐVN luận về Đế quốc A-rập : xứ sở nguồn gốc bán đảo A-rập, nguồn gốc đạo Hồi với nhà tiên tri Ma-hô-mết, lòng tin sùng, chuyện ngày xưa, chuyện ngày nay, cũng như một số kỷ niệm về cuộc sống ở các nước A-rập qua mười chuyến làm việc ở các nước này. Nhưng đáng chú ý là đoạn tóm tắt sự tích Đế quốc A-rập từ thế kỉ thứ 7 trở đi, xâm chiếm các nước khác: phía Bắc chiếm xứ Xi-ri (Syria), sang Đông chiếm Ba-tư, sang Tây chiếm Ai-cập, tiếp tục sang Đông đánh vào Trung Á chiếm thành phố Samarkand, lấn chiếm đến tận xứ Pa-ki-xtan, phía Tây tiếp tục lấn chiếm các xứ Bắc Phi; thế kỉ thứ 8, chiếm Tây-ban-nha, đóng rễ ở đó trong gần tám thế kỉ, vv. Chỉ trong vòng 137 năm (632-759) mà chiếm đựoc một vùng đất rộng như vậy.

Lại đáng chú ý nữa là những nhận xét về binh lực của người A-rập thuở đó. Tác giả ĐVN kể: Trước đó, người A-rập chỉ có lạc đà, nhưng dùng lạc đà không tiện bằng ngựa, khi lạc đà chạy chỉ ưa chạy thẳng, không đổi hướng sang phải sang trái nhanh như ngựa; lại có thói là con đực ngửi thấy thấy hơi con cái thì hý lên, vì thế không dùng để đánh úp địch ban đêm được. Sau dùng ngựa; ngựa A-rập có tiếng là ngựa tốt, chạy nhanh; lúc lấn sang phía Tây, lại có ngựa xứ Li-bi là một giống ngựa tốt hơn, binh lực càng thêm mạnh. Có thuyết lại cho rằng người A-rập có lẽ biết cưỡi ngựa có « bàn đạp» (tiếng Pháp là étrier, tiếng Anh là stirrup; do học được của người Tàu vào giữa thế kỉ thứ 7, có lẽ vào khoảng năm 651 khi họ cử sứ đoàn sang nước Tàu thời nhà Đường), chứ không như người Hy-lạp, người La-mã thuở xưa cưỡi ngựa có yên nhưng không có bàn đạp, hay người Mỹ da đỏ cưỡi ngựa « trần ». Có bàn đạp, người cưỡi ngựa có thế ngồi rất vững; lúc giao chiến, nếu bị giáo địch đâm vào thì người ngồi trên ngựa nhờ có hai chân đặt trên bàn đạp ít khi bị đẩy ngã, mà khi cầm giáo đâm vào kẻ địch thì có sức mạnh của ngựa thêm vào sức mạnh của mình, kẻ địch bị thương nặng hơn và dễ bị hất khỏi thân ngựa xuống đất. Cái bàn đạp lại lợi hại hơn nữa khi yên ngựa có một bộ phận nhô lên ở đằng sau, làm cho người cưỡi dựa lưng vào đấy cho thế ngồi càng thêm vững vàng; sáng kiến này có lẽ là của Âu Tây sau đó.

Lại có câu chuyện cái áo giáp. Áo giáp của người Âu thuở xưa làm bằng những mảnh sắt lắp vào với nhau, nên rất nặng; người mặc giáp này không tự mình leo lên lưng ngựa được, mà phải có người giúp. Lúc giao chiến, nếu ngã ngựa khó đứng dậy được. Áo giáp của người A-rập nhẹ hơn, vì làm bằng những mẩu dây sắt cuốn tròn mắc vào với nhau như dây xích, mắc ngang mắc dọc như cái lưới, nhẹ mà vẫn đỡ được mũi tên lưỡi kiếm, ngọn giáo; ngã ngựa dễ đứng dậy được. Ngựa không phải mang nặng chạy nhanh hơn. Sau này, đến khi người Âu giao chiến với kỵ binh A-rập ở Poitiers năm 732 – trong cuộc tiến lên phía Bắc châu Âu, quân A-rập bị tướng Pháp là Charles Martel đánh bại ở trong trận này và phải rút về phía Nam – người Âu mới biết loại giáp ấy, tiếng Pháp gọi là « cotte de maille ».

Quân A-rập lại dùng nỏ, không biết khởi thủy học ở đâu. (Tàu và ta đã dùng nỏ từ xa xưa ; thời An Dương vương hơn hai trăm năm trước Công nguyên, đã có chuyện nỏ thần). Quân A-rập ngồi trên lưng ngựa cầm nỏ ngồi sau người cầm cương ngựa, bắn tên hay bắn đá vào địch, xong quay trở lại căng nỏ lắp tên lắp đạn vào nỏ, rồi lại xông vào địch bắn phá. Có người khen là hay, có người cho là không hay vì bắn cung nhanh hơn nên quân Mông Cổ chỉ dùng cung.

Đó là những thông tin hay về thuở xưa. Với thời gian đế quốc A-rập nay không còn nữa, nhưng sự tồn tại của dân các nước theo Hồi giáo thì còn mênh mông.

Nhận xét chung của tôi về cuốn sách là nó chứa đựng một số thông tin bổ ích, có lẽ một phần tại tác giả là nhà khoa học, ngành thống kê, nên có những nhận xét và số liệu để dẫn giải. Cách hành văn của tác giả lại giản dị, đôi khi dí dỏm; tóm lại là đây là một cuốn sách dễ đọc và đọc để giải trí.



[Lời kể thêm của Bùi Trọng Liễu: Cuốn sách của tác giả ĐVN chỉ lướt có một câu về Đế quốc Ottoman ; cũng hơi uổng. Vậy tôi nhân dịp nói thêm. Giữa thế kỉ 15, người Ottoman thuộc tộc Thổ Nhĩ Kỳ ở Trung Á, cũng theo đạo Hồi kéo sang phía Tây lấn chiếm lập nên Đế quốc Ottoman. Cũng là chuyện Đông Tây tranh chấp, kéo dài từ thuở còn Đế quốc A-rập. Một trong những thời điểm quan trọng là sự việc vua Hồi giáo (sultan) Ottoman, Mehmed II chiếm Constantinople vào năm 1453. Constantinople vốn là thủ đô của Đế quốc Byzance, khởi thủy là Đế quốc La-mã phương Đông (kể từ năm 395) trải qua nhiều thay đổi , như từ vào đầu thế kỉ thứ 7, được Hy-lạp hóa, như đã kể trên. Xứ này xưa cũng có thời cực thịnh, nhiều lần là tiền đồn đối đầu với các đạo quân Hồi giáo. Constantinople đã hai lần bị thủy quân A-rập vây đánh, lần đầu trong 5 năm (từ 673 đến 677), lần thứ nhì trong năm 717, nhưng lần nào cũng phá được vòng vây nhờ một vũ khí bí mật gọi là feu grégeois (« lửa Hy Lạp »: một thứ thuốc hỏa công gồm lưu huỳnh, xan-pét và bi-tum, có đặc điểm là cháy được trên nước), nhờ thế mà đốt phá được thủy quân địch. Nhưng dần dần với thời gian Đế quốc này suy thoái. Khi Mehmed II tiến đánh năm 1453 với mấy chục vạn quân và một hạm đội hùng mạnh, thì hoàng đế xứ Byzance này là Constantinus XI (tiếng Pháp gọi là Constantin XI) cùng quẫn, phải gửi sứ giả đi cầu cứu các nước phương Tây. Xứ Venezia gửi mười chiếc tàu lớn đến cứu trợ, nhưng không có gió, tàu không tới được. Constantinus XI đành dựa vào thành lũy, liều chết cố thủ với non tám ngàn quân để chờ viện binh. Quân Hồi giáo dùng một cái chiến đài lớn bằng gỗ, vận hành bởi ngàn người, bắn vào thành cả những tảng đá nặng hàng trăm cân, nhưng quân thủ thành đốt cháy được chiến đài đó. Hạm đội của quân Hồi giáo vây phía biển Marmara và eo biển Bosphore, nhưng không lọt vào được lạch Corne d’Or phía đông, vì quân thủ thành mắc xích sắt ngăn chặn. Cuối cùng Mehmed II ra lệnh cho dùng đông quân kéo tàu lên cạn phía bờ đối diện, kéo lên đồi rồi thả tàu cho trượt xuống lạch này. Quân Hồi giáo lọt được vào đấy rồi, nhập vào thành. Constantinus XI chiến đấu dũng cảm, và chết trong nhà thờ Sainte-Sophie cũng với tàn quân của mình, chấm dứt hơn một nghìn năm Đế quốc Byzance (395-1453), chấm dứt tên gọi Constantinople; từ nay mang tên Istanbul, thủ đô của Đế quốc Ottoman mà thời cực thịnh là triều đại của Soliman le magnifique (1520-1566). Đế quốc này tồn tại đến năm 1918. Istanbul là thủ đô của Thổ-nhĩ-kỳ ngày nay.

Khi Constantinople thất thủ, các vua chúa phương Tây chỉ than vãn , nhưng chẳng có phản ứng gì cụ thể, có lẽ là hãi sức mạnh của đế quốc Ottoman, mặc dù ở Roma, giáo hoàng Nicolaus V (tiếng Pháp gọi là Nicolas V, giáo hoàng từ 1447 đến 1455) kêu gọi các vua chúa phương Tây góp tiền bạc tụ tập quân đội để giải phóng đất Byzance. Đề án Thánh chiến này được tu sĩ Enea Silvio Piccolomini nhiệt tình tuyên truyền cổ vũ, nhưng rốt cục không thành. Năm năm sau, ông này trở thành giáo hoàng Pius II (tên tiếng Pháp gọi là Pie II, giáo hoàng từ 1458 đến 1464). Theo F. Hitzel (trong cuốn sách « Istanbul et les langues orientales », nxb L’Hamattan 1997), tương truyền rằng vị giáo hoàng này có gửi cho sultan Mehmed II một bức thư vào năm 1461 (nhưng có sử gia nghi rằng đây là một bức thư giả) khuyên vua Hồi giáo này nên quy theo đạo Ki-tô. Ngoài những lý lẽ về tôn giáo, thí dụ như nêu những điểm tương đồng của hai đạo, như việc cùng thờ một đấng Tạo Hóa, vv., giáo hoàng này còn nêu một lý lẽ rất «trần tục » nữa, đại ý là: « Chỉ cần một chút nước rửa tội cho ngươi, để ngươi quy theo đạo Ki-tô, rồi trên thế gian này sẽ không còn ông hoàng nào có danh vọng và quyền lực bằng ngươi nữa. Chúng ta sẽ gọi ngươi là Hoàng đế của Hy-lạp và của phương Đông, và tất cả những gì mà ngươi chiếm đoạt một cách bất chính, sẽ thành những sở hữu chính đáng của ngươi ». Tất nhiên là Mehmed II không có thư trả lời. Có thể là câu chuyện bịa.

Một vài hệ quả của sự việc Constantinople rơi vào tay Đế quốc Ottoman là con đường bộ buôn bán giữa phương Tây và Trung quốc, vốn được sự che chở của các hoàng đế Byzance, từ nay bị gián đoạn. Những nhà thám hiểm như Vasco de Gama , Christophorus Colombus, … sẽ dùng đường thủy. Sử ghi thời điểm này là thời điểm chấm dứt thời Trung Cổ châu Âu; những nhà học giả, bác học, nghệ sĩ, xứ Byzance di cư sang phương Tây, góp phần tạo nên giai đoạn gọi là thời Phục Hưng.

Cuộc chinh Tây của Đế quốc Ottoman còn tiếp tục trong nhiều năm, chiếm các xứ Serbie (Xéc-bi), Bosnie (Bốt-xni), Hung, vv. tiến tới tận Wien (thủ đô Áo ngày nay).

Nhân dịp đề cập đến Đế quốc Ottoman chinh Tây, tôi muốn nhắc đến sự tích cái bánh croissant (theo cuốn Từ điển Pháp-Việt của UBKHXHVN-ACCT 1981, thì ta gọi là cái « bánh sừng bò » thường thấy trong bữa ăn điểm tâm ở một số nước châu Âu, như Pháp) và chén cà-phê cappuccino. Khởi đầu là một tu sĩ Marco d’Aviano, tên thật là Carlo Cristofori (1631-1699) là một tu sĩ dòng capucin (dòng này được lập vào năm 1525 ở Montefalco thuộc Ý, do mặc áo tiện y có cái mũ choàng nhọn gọi là cappucio, nên sau đó những tu sĩ dòng này được gọi là capuccini , người thì viết hai chữ « p », người thì viết một chữ « p », chẳng biết ai đúng ; tiếng Pháp ngày nay thì viết là capucin) . Tu sĩ này là người hô hào cổ vũ cho cuộc thánh chiến chống sự xâm lấn của quân Hồi giáo. Năm 1683, vua Hồi giáo Mohamed IV của đế quốc Ottoman cử 15 vạn quân vây đánh thành Wien (Áo). Một đêm, quân Hồi giáo định lợi dụng đêm tối để tấn công, nhưng những người thợ làm bánh mì ban đêm phát hiện được và báo động, và do đó cứu được thành. Trong trận quyết chiến sau đó, tu sĩ Marco d’Aviano dương cao chiếc thánh giá giữa trận tiền để động viên kích thích 7 vạn quân Thiên chúa giáo, phá tan được đạo quân Hồi giáo. Để thưởng công những người làm bánh, nghiệp đoàn của họ được quyền chế ra một thứ bánh mới mang hình trăng lưỡi liềm (biểu tượng của người Hồi giáo) đó là cái « bánh sừng bò » ngày nay. Trong các chiến lợi phẩm, do quân Hồi giáo thua bỏ lại, có một khối lượng lớn cà-phê ; những kẻ chiến thắng thưởng thức bằng cách pha và đổ thêm sữa đánh sủi bọt vào đó để uống, và vì để vinh danh tu sĩ dòng capucin nói trên, nên gọi đó là cà-phê cappuccino (có người viết là capucino).





II. Nhân đọc cuốn « Hà Văn Lâu,

người đi từ bến làng Sình »

của Trần Công Tấn, nxb Phụ Nữ, 2004,

599 trang, khổ 13x19cm,.

(Bài điểm sách của Bùi Trọng Liễu viết ngày 9/11/2004

http://www.viet-studies.org/HaVanLau_BTL.pdf)



Cuốn sách này, do tác giả Trần Công Tấn thực hiện, kể lại cuộc đời của nhà quân sự /nhà ngoại giao Hà Văn Lâu, mà nhiều người, trong đó có bà con Việt kiều, biết tiếng – có lẽ biết tương đối ít (điều đáng tiếc!) về cuộc đời binh nghiệp của ông, biết nhiều hơn về công tác ngoại giao của ông.

Đọc những sách loại này, hồi ức, tự sự, hay tiểu sử do người khác viết, tôi thường không chú ý đến cách hành văn (viết hay thì càng tốt, viết dở thì tạm không nói đến), và tập trung vào sự nghiệp của đương sự, nhất là khi cuộc đời và hành động của nhân vật gắn liền với nhiều giai đoạn lịch sử của nước nhà.

Lướt qua thời niên thiếu : Hà Văn Lâu sinh ra ở làng Sình, nơi ngã ba một bến sông Hương, cách Huế không xa, mồ côi cha (một nhà giáo tiểu học nơi quê) khi bảy tuổi, mẹ và bà ngoại cố gắng nuôi cho ăn học. Đỗ được bằng thành chung, nhưng học đến tú tài 1, thì gia cảnh không cho phép tiếc tục, phải thi vào ngạch thư ký Tòa sứ. Rồi ý muốn du học ở Pháp thúc đẩy ông xin vào học một trường quân sự của Pháp ở Đông Dương , và sau 6 tháng, tốt nghiệp với cái bằng hạ sĩ quan trù bị ; đó là vào năm 1942. Nhưng rồi Pháp giải tán các trường đào tạo huấn luyện và đình chỉ tăng quân, ông trở về nghề cũ ; cưới vợ (Diệu Hương, nữ sinh trường Đồng Khánh). Rồi lại vì gia cảnh, ông phải thi vào ngành thương chánh, và được bổ nhiệm trông coi một đồng muối ở phủ Ninh Hòa tỉnh Khánh Hòa vào năm 1943. Chính ở nơi đây, năm 1944, mà ông gia nhập mặt trận Việt Minh. Cách Mạng Tháng tám thành công, và vì ông đã có kinh nghiệm huấn luyện tự vệ thời tiền Khởi nghĩa, ông được trao nhiệm vụ ủy viên quân sự Nha Trang, hiệu trưởng trường huấn luyên quân sự Đồng Đế. Đời binh nghiệp của ông bắt đầu từ đấy. Pháp trở lại chiếm Nam Bộ rôi Nam Trung Bộ, lúc đó mới vào cuối tháng 10/1945, ông là chỉ huy phó kiêm tham mưu trưởng mặt trận Nha Trang. Sau khi Hiệp định Sơ bộ 6/3/1945 được ký, ông dược cử làm Trưởng phái đoàn sĩ quan liên lạc của Việt Nam ở Khánh Hòa-Nha Trang, nhưng rồi chỉ sau 7 tuần lễ đình chiến thì phía Pháp đã khởi hấn tấn công lấn chiếm, bộ đội rút ra Phú Yên, rồi sau đó tổ chức lại quân chủ lực của ba tỉnh Khánh Hòa, Phan Thiết, Ninh Thuận thành một đại đoàn do ông Cao Văn Khánh làm Đại đoàn trưởng và ông Hà Văn Lâu làm Đại đoàn phó. Chiến đấu ở vùng này đến đầu tháng 12/1946, ông được triệu về Huế làm Trung đoàn trưởng trung đoàn Trần Cao Vân và chỉ huy trưởng mặt trận Huế. Ông chỉ huy nơi đây khi Kháng chiến toàn quốc bùng nổ ; sau gần hai tháng vây hãm và giữ chân quân Pháp ở Huế, mặt trận Huế bị vỡ, bộ đội rút ra cầm cự, tập kích, khi thắng khi bại. Nhưng đoạn sách này có nhắc lại mấy trận công đồn, mà tôi tình cờ đã được nghe kể từ mấy chục năm trước. Đó là nhân chuyến về nuớc làm việc năm 1970, tôi được ông Pha Lan, một cựu trung úy, người được tổ chức dẫn tôi đi thăm một số nơi, có kể lại cho nghe khi nhắc đến ông Hà Văn Lâu : mấy lần dùng hàng binh người Đức, người Áo giả làm lính commăngđô Pháp đi tuần để đột nhập đồn bốt, rồi bất thần tiêu diệt địch. Bước vào Thu Đông 1949, khi trên chiến trường chính mở chiến dịch tấn công vào quân đội viễn chinh Pháp ở các tỉnh Hòa Bình, Phúc Yên, Bắc Ninh, Bắc Giang, thì mặt trận Bình Trị Thiên mở chiến dịch phối hợp, do ông Hà Văn Lâu làm chỉ huy trưởng, đánh vào các đồn bốt từ Bắc Quảng Trị đến Nam Quảng Bình, và một số vị trí ở Thừa Thiên-Huế, như trận đánh đoàn tầu ở Như Sơn- Bến Đá. Rồi ông được cử làm đại biểu Bình Trị Thiên lên Việt Bắc báo cáo tình hình. Trong mấy tháng vắng mặt xẩy ra một việc buồn cho ông : ông có người chú là Hà Văn Lan, trước làm quan, có nâng đỡ ông lúc còn đi học, thuở ấy nghe kể là bị ép ra làm phó cho thủ hiến Trung kỳ là Phan Văn Giáo. Kháng chiến kết án tử hình Giáo, và trao nhiệm vụ cho một hàng binh da trắng đóng vai một thương nhân nước ngoài đến gặp Phan Văn Giáo để thi hành bản án. Nhưng hôm đó, Giáo đi vắng, để Hà Văn Lan ra tiếp khách thay. Vừa mới gặp chưa kịp chào hỏi, thì người « thương nhân » đã nổ súng giết ngay ông Lan rồi thoát ra ngoài.

1951, sau chiến thắng Thanh Hương, ông Hà Văn Lâu được gọi ra Bắc nhận nhiệm vụ mới : làm Cục trưởng Cục tác chiến ở bộ Tổng tham mưu. Ông tham gia chiến dịch Hòa Bình, rồi chiến dịch Thu Đông 1952, rồi chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954. Vào giai đoạn này, bộ Tổng tham mưu được « tăng cường » : ông Văn Tiến Dũng nhận chức Tổng tham mưu trưởng thay ông Hoàng Văn Thái chuyển làm phó Tổng tham mưu trưởng, ông Trần Văn Quang làm Cục trưởng Cục Tác chiến thay ông Hà Văn Lâu chuyển làm Cục phó, chuyên nghiên cứu đàm phán về mặt quân sự. Rồi ông được cử tham gia Đoàn đàm phán Genève với tư cách là chuyên viên quân sự, (làm phó cho ông Tạ Quang Bửu, thày học cũ của ông ở Huế). Cuốn sách có nhắc đến một số chi tiết về những phức tạp trong cuộc đàm phán, thí dụ như [Trích trang 404]:

Lúc ghé Bắc Kinh, đoàn Việt Nam chỉ trao đổi tình hình với bạn, do đồng chí Chu Ân Lai chủ trì. Lúc này Trung quốc chưa tỏ ý gì về mục tiêu đàm phán. Nhưng lúc đến Mạc Tư Khoa, khi nhóm quân sự gồm Tạ Quang Bửu và Hà Văn Lâu làm việc với Liên Xô thì Trung tướng Fêđêrenkô đã tim hiếu các vĩ tuyến từ 18 trở vào. Fêđêrenkô hỏi vĩ tuyến 17, 16 nằm ở đâu. Như vậy là nhóm quân sự đã ngầm hiểu Liên Xô đã suy nghĩ đến việc ngừng bắn theo kiểu phân vùng tập kết quân đội hai bên theo một số vĩ tuyến cho các phương án » [Chú thích : chứ không phải theo kiểu « da báo ». Nói thêm là lúc ấy phía ta lúc ấy muốn đòi vĩ tuyến 13].

[Trích trang 419] :

Từ ngày 3 đến 5 tháng 7 năm 1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi Liễu Châu gặp Thủ tướng Chu Ân Lai. Sau hai ngày bàn bạc, nội dung xoay quanh hai vấn đề giới tuyến quân sự tạm thời và thời hạn tổng tuyển cử. Ý kiến hai bên chưa trùng hợp nhưng Chu Ân Lai đề nghị được linh hoạt vì ở xa, không kịp xin chỉ thị về vấn đề ta đưa ra vĩ tuyến 16 và tổng tuyển cử sau 6 tháng. Chu Ân Lai đề nghị lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến và tống tuyển cử vào năm 1956.

(Nhắc lại là về điểm này, cuốn hồi ức Điện Biên phủ, điểm hẹn lịch sử của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, viết thẳng hơn :

Cuối cùng, đồng chí [Chu Ân Lai] nói truớc đây Plêven khăng khăng đòi lấy vĩ tuyến 18 làm ranh giới tạm thời, nhưng trước sự đấu tranh kiên quyết của ta, Măngđét Phrăng và Anh, Mỹ đã đồng ý rút xuống vĩ tuyến 17. Bác và chúng tôi đều ngỡ ngàng. Phải chăm chú tìm trên bản đồ mới thấy dòng sông nhỏ Bến Hải ở phía Bắc tỉnh Quảng Trị. Bác nói với so sánh lực lượng trên thực tế chiến trường hiện nay, ta đề ra vĩ tuyến 13 là hợp lý, vĩ tuyến 17 đối với ta là không thể chấp nhận, chí ít cũng phải giành được vĩ tuyến 16. [...]. )

Sau Giơnevơ, ông Hà Văn Lâu được trao nhiệm vụ làm Trưởng phái đoàn liên lạc cạnh Ủy ban quốc tế giám sát và kiểm soát việc thi hành Hiệp định, với quân hàm đại tá. Năm 1961-1962, ông tham gia Hội nghị Giơnevơ về Lào, với tư cách là tổng thư ký của phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Rồi sang năm 1968, khi cuộc mở cuộc đàm phán ở Paris, ông được cử làm phó Trưởng Đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, còn gọi là « Đoàn băm bảy [đoàn viên] ». Cuốn sách dành 33 trang (453-486) cho một số chi tiết sự việc trong lúc ông có mặt trong cuộc đàm phán gay go, giằng co, kéo dài lê thê này. Cuốn sách nhắc đến chuyện ông đến gặp G. Marchais, Tổng bí thư đảng Cộng sản Pháp. Marchais tiếp đón niềm nở, và hứa dành cho đoàn Việt Nam toàn bộ khu nhà Trường cao cấp đảng Cộng sản Pháp ở Choisy le Roi.

[Trích]:

Marchais hỏi : « Thế các đồng chí Việt Nam định họp trong bao lâu ? ». Lâu trả lời : « Đảng chúng tôi chưa định rõ thời gian cụ thể bao lâu, nhưng ít nhất cũng từ vài tuần đến vài tháng ». Nhưng có ai ngờ được trên thế giới này có cuộc họp nào kéo dài ngót 5 năm như Hội nghị Paris. [Hết phần trích].

Nhưng ông Lâu không ở Hội nghị lâu như thế. Đến đầu 1970 thì ông được điều động trở về nước. Rồi nhận được quyết định chuyển sang ngành ngoại giao làm Trợ lý Bộ trưởng, sau 28 năm trong quân ngũ. Cuốn sách viết (trang 489) [trích]:

Những người lính, người chỉ huy dưới quyền Sáu Lâu ở Mặt trận Nha Trang, Bình Trị Thiên sau này nhiều đồng chí trở thành thiếu tướng, trung tướng, thượng tướng mà Sáu Lâu vẫn mãi mãi là đại tá. Nhiều bạn bè quân ngũ hỏi : « Thân với đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị - là đại tướng Nguyễn Chí Thanh, sao không kêu « đại tá quá lâu », để được cất nhắc lên tướng ». Sáu Lâu cười hiền hỏi lại : « Đại tướng Võ Nguyên Giáp mang quân hàm đó ngót nửa thế kỷ có thấy kêu phong nguyên soái gì đâu. Anh Phạm Văn Đồng làm thủ tướng suốt đời, anh Nguyễn Cơ Thạch 20 năm làm thứ trưởng, 11 năm làm bộ trưởng vẫn chẳng thấy kêu ca gì ». Sáu Lâu kể trong một cuộc nói chuyện với cán bộ sân vận động Cột Cờ, Thủ tướng Phạm Văn Đồng nhắc nhở rằng : « Chúng ta phải đặt quyền lợi của nhân dân và đất nước lên trên hết. Còn quyền lợi riêng của chúng ta hãy để cho tổ chức lo ». Thế đấy, tổ chức của Đảng đặt đâu, ta ngồi đó và chỉ biết làm tròn nhiệm vụ được giao ». [Hết phần trích].

Câu hỏi là như thế, câu trả lời thì như vậy ; tôi không biết ai đọc có thấy được thuyết phục không ?

Sang năm 1974, ông được cử làm đại sứ ở Cuba, rồi hơn ba năm sau, chuyển làm đại sứ cạnh Liên hợp quốc; sau đó từ 1984, ông làm đại sứ ở Pháp trong bốn năm, trước khi trở về nước làm cố vấn ở Bộ Ngoại giao. Cuốn sách viết (trang 571) :

Công việc chính những ngày đó là tổng kết lại cuộc đàm phán với Mỹ ở hội nghị Paris. Chủ yếu là giúp đồng chí Lê Đức Thọ viết hồi ký về giai đoạn lịch sử này. Khi bản thảo hồi ký vừa xong, chưa được anh Thọ xem lại sửa chữa thì anh lâm bệnh nặng, qua đời. Đáng tiếc là cuốn hồi ký đó trở thành tài liệu lưu trữ ở Bộ Ngoại giao mà chưa được ra mắt bạn đọc.

Ông Thọ mất, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh muốn cử ông Lâu làm trưởng Ban Việt kiều trung ương, mà một thời ông đã làm phó.

« Sáu Lâu thưa lại với đồng chí Tổng bí thư rằng mình đã già, đã vào tuổi 72, có nguyện vọng xin về hưu để chạy chữa chăm sóc vợ đang ốm nặng ».

Thế là năm 1991 ông nghỉ hưu, và may mắn bà được khỏi bệnh. Sau một thời trở về sống ở Huế, gần làng Sình quê cũ, ông bà định cư ở Thành phố Hồ Chí Minh yên sống trong tuổi già (ông 86 bà 82).



Tôi may mắn được quen biết ông trong nhiều năm, gặp gỡ ông nhiều lần trong thời hội nghị Paris và trong nhiệm kỳ ông làm đại sứ ở Pháp, nên tôi không tránh khỏi cảm xúc khi nhận được cuốn sách với mấy dòng ông đề tặng. Vài dòng trích trên đây, tất nhiên không đủ nói về một cuộc đời đầy hy sinh và đóng góp, mà sự hưởng thụ thì chẳng được bao nhiêu …







III. Nhân đọc cuốn

« Người lính già Đặng Văn Việt,

chiến sĩ đường số 4 anh hùng »,

(bài của Bùi Trọng Liễu đăng trên Diễn Đàn số 135, tháng 12, 2003) :



Đây là một cuốn hồi ức 339 trang, nxb Trẻ, Hà Nội 2002. Đọc hồi ức, không cứ phải chú ý đến cách phát biểu và hành văn : không phải tác giả nào cũng là nhà văn, và cách hành văn của mỗi người một khác. Có người bộc trực nói thẳng những điều mình muốn nói, bất chấp lời thị phi. Giá trị của hồi ức chủ yếu nằm ở chỗ những lời chứng nó mang lại, nếu biết bỏ qua các tiểu tiết. Đó là trường hợp của cuốn sách này.

Tên tuổi ông Đặng Văn Việt gắn liền với chiến dịch Biên giới 1947-1950, với những chiến thắng trên đường số 4, những trận Bông Lau, Lũng Phầy, Đông Khê, tiêu diệt các binh đoàn Lepage và Charton, Bình Liêu, … giải phóng biên giới Việt Trung, mà tầm quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Pháp đã rõ. Lúc đó ông là trung đoàn trưởng Trung đoàn 174 (cán bộ của trung đoàn này sau có 20 người lên đến cấp tướng, như chính ủy Chu Huy Mân, sau này là đại tướng, tiểu đoàn trưởng Nguyễn Hữu An, sau này là thượng tướng, vv.). Những chiến thắng của trung đoàn 174 đã được kể trong cuốn sách « Đường số 4 rực lửa », (giải thưởng Văn học nghệ thuật toàn quốc hạng A 1998) (1), và một thời ông đã được mệnh danh là « đệ tứ quốc lộ đại vương », chắc khỏi cần nói dài.

Nhưng nội dung cuốn sách không chỉ có vậy. Nó như một cuốn phim phác họa những thăng trầm, bể dâu của hơn 60 năm qua, mà đoạn cuối là « buổi đầu hoang dã của cơ chế thị trường » như có nhà báo đã viết. Ông Đặng Văn Việt sinh trong một gia đình khoa bảng, quan lại : ông nội là hoàng giáp Đặng Văn Thụy, bố là phó bảng Đặng Văn Hướng, làm quan đến chức tham tri triều đình Huế (như thứ trường ngày nay), trong Kháng chiến làm bộ trưởng « không giữ Bộ nào » trong Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (2). Gia đình bên mẹ cũng là một gia đình có tiếng : ông ngoại là cử nhân Hoàng Đạo Phương, là một thương gia giàu có ở Hà Nội, đồng thời là anh của ông Hoàng Đạo Thúy (người anh cả của Hướng đạo Việt Nam, một lúc là giám đốc trường võ bị Trần Quốc Tuấn thời Dân chủ Cộng hòa, rồi chủ nhiệm Truyền tin, quân hàm đại tá). Năm 1945, ông Việt là sinh viên năm thứ ba trường Đại học Y ở Hà Nội. Sau 9/3/1945, Nhật đảo chính lật Pháp, thời chính phủ Trần Trọng Kim, ông về Huế, học trường Thanh niên tiền tuyến (3). Sau Cách Mạng tháng Tám, ông gia nhập bộ đội ở Huế, sau ông được chuyển làm hiệu trưởng trường Quân chính Trung Bộ, rồi chỉ huy trưởng Mặt trận đường số 9 Nam Lào. Sau ra Bắc, công tác ở Bộ Tổng Tham mưu, rồi từ tháng 7/1947, đời chinh chiến của ông gắn liền với con đường số 4. Sau chiến dịch Tây Bắc, ông được cử sang Vân Nam dự lớp trung cao ở Trường Sĩ quan lục quân Việt Nam, sau được giữ lại làm chủ nhiệm huấn luyện trường này đóng ở địa phận tỉnh Vân Nam rồi Quảng Tây. Đến năm 1957 ông mới cùng Trường Sĩ quan Lục quân trở về nước. Và đến năm 1960, thì ông rời quân đội vẫn với quân hàm trung tá, chuyển sang công tác dân sự, ở bộ Kiến trúc Xây dựng, vv. Cho đến năm 1980 thì về hưu.

Nghe ông kể về những thăng trầm của gia đình ông và bản thân ông qua những biến cố mấy chục năm kể từ 1945, phần nào hiểu thêm được một số sự kiện mà sách báo chính thức có lẽ không ghi.

Như việc cha ông khi làm Tỉnh trưởng Nghệ An thời Chính phủ Trần Trọng Kim, bổ nhiệm chánh văn phòng là ông Nguyễn Tạo, lãnh binh (4) là ông Trần Văn Quang (sau này là Thượng tướng) là những người của Việt Minh để dễ chuyển chính quyền cho Cách Mạng (trang 39).

Hoặc câu chuyện (trang 74) : cuối 1945, khi quân Tàu Tưởng kéo vào Việt Nam để giải giáp quân đội Nhật (từ vĩ tuyến 17 trở lên), có buổi lễ giải giáp quân đội Nhật ở Vinh mà ông chứng kiến. Khi viên sĩ quan Nhật tuốt kiếm hô lệnh chào hạ cờ, « cả tiểu đoàn lính Nhật cùng hét to như viên chỉ huy, đồng thời tuốt kiếm và lưỡi lê sáng ngợp cả sân vận động » làm cho cả tiểu đoàn lính Tàu Tưởng hốt hoảng ù té bỏ hàng ngũ chạy tán loạn, còn trơ lại mấy tay chỉ huy. Lễ giải giáp phải tiếp tục làm lại hai hôm sau.

Về vụ việc nhóm Castella (thiếu tá đặc phái viên của De Gaulle) (5) nhảy dù xuống Hiền Sĩ cách Huế 25 km về phía Bắc vào cuối tháng 8/1945, ông viết (trang 88-94) [trích]: Ngày 26/8/1945, đồng chí Hoàng Anh (nguyên bí thư tỉnh ủy Thừa Thiên) cùng anh Phan Tử Lăng và một số cán bộ ra tận nơi xem xét tình hình.[…]. Chúng tự xưng là phái bộ của Đồng Minh, nhảy dù xuống để thi hành một sứ mệnh. Chưa phân biệt thực hư, đồng chí Hoàng Anh vẫn để bọn quân nhảy dù ở nguyên khu nhà chúng chiếm đóng […]. Linh tính cho một nguy cơ lớn sắp xảy đến, nếu hành động chậm trễ […]. Anh em đều thống nhất chủ trương mời một cuộc họp khẩn cấp toàn bộ lớp Thanh niên tiền tuyến. Anh em bàn tán rất sôi nổi và cử ngay một nhóm chỉ huy […]. Vì phải hành động hết sức khẩn trương, bí mật, nên không xin ý kiến hay phép của bất cứ ai.[…]. Anh em Thanh niên tiền tuyến biên chế thành 3 tiểu đội […], đi đều bước thẳng vào nơi đồn trú của tốp nhảy dù. […]. Ba đại diện tiến lên. […] tên quan tư [thiếu tá Castella] tiến lên như để đón tiếp quân ta. Khi giáp mặt, anh Lê Thiệu Huy dõng dạc nói to bằng tiếng Pháp : « Nhân danh Ủy Ban khởi nghĩa Trung Bộ, tôi chuyển đến ông một bức thư ». Khi tên quan tư kính cẩn đưa hai tay ra nhận thư, thì có một phát súng Mousqueton nổ ầm vang, làm chấn động cả bầu không khí. Lập tức anh Nguyễn Thế Lương rút khẩu súng lục từ trong túi, hét lên : « Đưa tay lên ! Các anh là tù binh ! ». Cùng lúc ấy, tôi và cả phân đội xông lên, bao vây kín bọn lính nhảy dù […]. Trong cặp của tên quan tư Castella […] tôi tìm ra một mật lệnh hết sức quan trọng , mà đến nay, tôi còn nhớ rành rọt từng câu chữ : [dịch] « Quan tư Castella có nhiệm vụ bắt liên lạc với Ngô Đình Khôi, Phạm Quỳnh, với các lực lượng Pháp hải ngoại (FFE) và các lực lượng Pháp nội địa (FFI), để tổ chức chiếm lĩnh các công sở và thành lập [lại] chính quyền thuộc địa [bảo hộ] ở miền Trung Việt Nam. Tất cả các FFE và FFI đều phải đặt dưới quyền chỉ huy của quan tư Castella. [Ký] De Gaulle » . (Những chữ thẳng trong ngoặc [.] là của tôi (BTL) thêm vào cho rõ nghĩa). « Đồng chí Trần Hữu Dực hết sức vui mừng và hết lời khen ngợi chiến công vừa mới đạt được. Đồng chí nhận xét : Chỉ cần ta bị chậm một, hai ngày là bọn Pháp nhảy dù [này] có thể liên lạc được với Ngô Đình Khôi, Phạm Quỳnh, các lực lượng Pháp ở hải ngoại, ở nội địa […]. Nếu lúc ấy mà ta phát động tổng khởi nghĩa cướp chính quyền, thì có thể hàng ngàn, vạn sinh mệnh đồng bào sẽ ngã gục dưới họng súng quân thù . [Hết phần trích].
Về việc bắt các ông Ngô Đình Khôi và Phạm Quỳnh, ông viết (trang 107-108) [trích]: Tôi và anh Nguyễn Thế Lương phụ trách bắt Ngô Đình Khôi. Anh Phan Hàm và Hà Đồng phụ trách bắt Phạm Quỳnh.[…] Tôi còn nhớ lúc ấy khoảng 11 giờ, bố con ông Ngô Đình Khôi đang ngồi bàn ăn cơm. […] Hai bố con đứng dậy ra đón. Tôi đưa tay chào nhà binh, đưa một phong bì thư và nói : " Vâng lệnh Ủy ban khởi nghĩa Thừa Thiên-Huế, tôi đến mời hai ông lên gặp Ủy ban khởi nghĩa. Xin mời, xe đã sẵn sàng". [Đáp] : "Dạ dạ, xin vâng, vì đang ăn dở, xin phép ăn nốt bát cơm". Tôi đồng ý ngay và mời cứ ăn. Sau bữa cơm, hai bố con vào mặc áo the, khăn xếp chỉnh tề. Tôi mời ra xe. Trên đường về, xe không đến Tòa Khâm, trụ sở lúc ấy của Ủy ban khởi nghĩa, mà theo kế hoạch về thẳng nhà giam Phủ Doãn. Đến nơi, tôi bàn giao hai vị khách quý, ký vào giấy giao nhận rồi ra về. Số phận của hai cha con ông Ngô Đình Khôi về sau ra sao hoàn toàn tôi không hay biết. Tôi chỉ làm nhiệm vụ của người lính. Nhóm anh Phan Hàm cũng hoàn thành nhiệm vụ bắt ông Phạm Quỳnh và Nguyễn Tiến Lãng về tập trung ở nhà giam Phủ Doãn (6). [Hết phần trích].

Về việc ông treo cờ đỏ sao vàng lên kỳ đài ở Huế trước ngày giành chính quyền, ông kể (trang 103): Ngày 21/8/1945 chỉ ông và một người nữa đi kèm được lệnh đến bảo đội lính giữ kỳ đài hạ cờ que ly của nhà vua và thay bằng cờ đỏ sao vàng (lúc đó Cách Mạng chưa giành chính quyền ở Huế). Bốn ngày sau, 25/8/1945, vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị, và ngày 31/8/1945, trong buổi lễ đọc tuyên ngôn thoái vị và trao ấn kiếm cho đoàn đại biểu chính phủ Trung ương Dân chủ Cộng hòa, thì ông Lãnh binh chỉ huy đội cận vệ hoàng gia (lính khố vàng) kể cho ông nghe là hôm 21/8/1945 lúc ông hạ cờ que ly và treo cờ đỏ sao vàng, nhóm lính khố vàng đã phục sẵn đợi lệnh để có thể nổ súng vào ông, nhưng nhà vua (Bảo Đại) không cho phép.

Về gia đình ông trong những ngày đầu Dân chủ Cộng hòa, ông kể (trang 44-45) : gia đình bà Trịnh Văn Bô (em gái mẹ ông) đã hiến 117 lạng vàng, số lượng lớn nhất trong « Tuần lễ Vàng » (7) ở Hà Nội. Suốt cả thời gian kháng chiến, tổng số vàng mà gia đình bà đã đóng góp lên tới 5147 lạng vàng cho chính phủ, vv.

Ông cũng kể những sự việc đã xảy ra cho gia đình ông trong thời Cải cách ruộng đất (trang 296-305), thí dụ như : « Lường trước được những biến động có thể xảy ra đến khi nông dân được phát động đấu tranh giảm tô [1953], Bác Hồ đã hai lần cử đồng chí Hoàng Quốc Việt, đồng chí Trần Công Tường về tận quê Nho Lâm [Nghệ An] mời cụ [bố ông] ra Việt Bắc để ở và làm việc bên cạnh Chính phủ Trung ương. Cụ đang chuẩn bị hành trang để lên đường thì ở quê nhà xảy ra việc phát động giảm tô. Cụ bị đưa ra đấu tố. Mặc dù cụ vẫn là một bộ trưởng đương nhiệm, mặc dù không có một lệnh nào của Chủ tịch nước. Được tin về việc đã xảy ra, Bác Hồ ra lệnh cách ly cụ với phong trào nông dân, cử người trông nom chăm sóc cụ. Mẹ tôi trong những ngày sự việc xảy ra, vì quá đau xót, đã uống thuốc ngủ liều cao và đã qua đời. […]. Theo số phận chung của mọi người, toàn bộ của cải, tài sản trong gia đình tôi đều bị tịch thu, may chỉ còn lại mấy cái bát mẻ».Gia đình ông lúc ấy chỉ còn một bà chị dâu, một em gái út mới 12 tuổi và hai cháu nhỏ. « Nguy cơ chết đói đã đến gần trước mắt », bà chị dâu đành sắp xếp cho em gái chồng và hai cháu nhỏ một đêm trốn khỏi làng, ba bé nhỏ « dắt díu nhau vừa đi vừa ăn xin, theo hướng bắc đi miết ». Rồi một ngày, « may mắn một chú xe tải, thấy cảnh, động lòng, đã cho các cháu đi nhờ về đến Hà Nội ». Ông viết : « Trong khi ở hậu phương, ở quê nhà xảy ra những biến động to lớn như vậy, thì tôi hoàn toàn như người ngoài cuộc, không hay biết, không một tin tức.[…], tôi luôn cùng trung doàn 174 dự hết chiến dịch này đến chiến dịch khác.[…]. Mãi đến năm 1957, [ở Trung quốc về] đến Hà Nội, hỏi han bà con, tôi mới biết những gì đã xảy ra trong gia đình tôi. […] Tôi ngậm ngùi nhớ đến thầy mẹ, một số người thân.».

Trong cuốn sách, ông cũng nói đến đời riêng của ông : sự đổ vỡ trong mối tình đầu, hạnh phúc trong mối tình thứ hai, việc vừa làm vừa trở lại học Đại học Bách khoa sau khi rời khỏi quân ngũ, những thành công trong công tác dân sự. Ông cũng kể những sự « không bình thuờng » đã xảy ra cho ông (trang 282-285) : Từ 1947, ông là trung đoàn trưởng tương đương với trung tá ; 13 năm sau, khi chuyển ngành ông vẫn hàm trung tá. Sang công tác dân sự, ông được chỉ định làm cục phó (tương đương với trung tá) trong 18 năm, tuy không có cục trưởng, cũng không được chữ « quyền cục trưởng ». Mãi đến năm 1978, ông Võ Chí Công làm bộ trưởng Thủy sản mới lấy trách nhiệm đưa ông làm cục trưởng. Ông viết : « Về mặt khen thưởng, tôi đã nhận được nhiều huân, huy chương nhưng đều là khen thưởng đơn vị và tập thể lãnh đạo. Còn cá nhân thì tuyệt đối bị lãng quên sau những thành tích lớn. Nếu tôi có được một số huân huy chương hiếm thì đều là huân huy chương tổng kết mà theo tiêu chuẩn, ai cũng được nhận theo chế độ ». Ông luận đến « chủ nghĩa thành phần » (trang 289) như một lời giải thích. Ông nhắc đến 55 tuổi Đảng của ông. Ông viết (trang 238) : « Lời dạy của Bác [Hồ] là bó đuốc soi sáng cho bước đi của cả cuộc đời của tôi. Nhờ vậy mà tôi tránh được nhiều sai lầm ; nghe qua thật giản dị, nhưng lại là một chân lý của lẽ sống và đạo đức của mọi cán bộ, đảng viên » . Ông nhắc đến « Chí công vô tư. Cần kiệm liêm chính » (trang 294).

Trang 254-257 viết việc ông phải cáng trách nhiệm cùng với một ban biên soạn, thực hiện cuốn « Việt Nam, một phác thảo lịch sử quân sự ». Bắt tay vào việc, ông mới « thấy sức mạnh của đồng tiền ». Cuốn sách đã ngốn đến 140 triệu trong 4 năm : 4 lần hội thảo, tiền đi lại, máy bay, ăn uống, tiền trao cho người viết... Sách đã hình thành, nhưng nằm ở nhà xuất bản đã 6 năm nay, mà chưa được ra mắt người đọc.

Ông kể (trang 239-243) sự vỡ mộng VAC của ông (8) : Khi đã nghỉ hưu, may có thửa đất của bên vợ bỏ hoang ở ngoại thành, ông về trồng cây, trồng rau, thồ xe đạp đi bán ở ngã ba đường. Đang vui với thành quả, thì một số trẻ nhỏ lưu manh hóa chui vào trộm hoa quả. Tiếp theo là kẻ xấu phá cổng vào vườn đập phá. Còn ao thì đêm tối, cũng có kẻ vào thả lưới vét sạch không còn một con cá. Ông đã mấy lần lên báo cơ quan ủy ban xã, nhưng không có biện pháp ngăn ngừa và giúp đỡ. Ông đành bỏ cuộc sau 5 năm cố gắng.

Sau khi mộng VAC bị vỡ, ông đi đưa bánh cho nhà hàng (trang 249-251) : Có một cụ bà hàng nước hỏi : « Cụ đã cao tuổi, con cháu đâu, không nuôi cụ, để cụ phải đưa bánh cực khổ thế này ? ». Ông trả lời: « Cám ơn cụ đã hỏi thăm, nhà tôi neo người, các cháu đi làm chỉ đủ ăn. Bố làm thêm chút ít […] » . Một chú thanh niên ngồi cạnh nói : « Tôi trông tướng cụ, tôi cho là làm cao nhất, đến cái nghề đưa bánh kẹo là hết cỡ ».

Ông kể bữa tiệc mừng thọ 80 tuổi của ông (trang 260) : Trong căn buồng nhỏ, ông chuẩn bị một lọ hoa, một ly rượu, một điếu thuốc lá, vài cái bánh ngọt ; thành viên của lễ vỏn vẹn có ông và con chó của ông ; ông thắp hương tưởng nhớ cha mẹ và bà vợ hiền. Gần tuổi 84, ông viết (trang 328) « đôi điều như một di chúc » : Ông nhận xét sự « vô cùng thương tiếc » ở một số người, lúc còn sống thì suốt ngày đấu đá nhau, chửi bới nhau, nhưng khi có người nằm xuống thì tang lễ linh đình, phúng viếng bao bì tốn kém, vòng hoa chất như đống rơm, xe tiễn tắc đường. Ông không muốn những điều đó.

_________



Chú thích :

(1) Có lẽ cuốn sách này là cuốn đã được dịch ra tiếng Pháp : « De la Rc4 à la N4 ; récit d’un combat », Dang Van Viet, édit : Capucin, 2002. Năm 2000, ANAPI (Hội quốc gia cựu tù binh chiến tranh Đông Dương) tổ chức một đoàn du lịch gồm 330 cựu chiến binh sang thăm Việt Nam. Họ có tìm gặp ông Việt. Lần tướng Bigeard sang Việt Nam, cùng với 10 đại tá Pháp, rủ ông Viêt cùng trở lại thăm đường số 4. Họ biết giá trị của người đối thủ năm xưa… Về ông Việt, có thể xem thêm trang 405-406 của cuốn hồi ức « Chiến đấu trong vòng vây » của đại tướng Võ Nguyên Giáp, nxb Quân đội nhân dân 1995.

(2) Theo cuốn « Hai mươi năm qua (1945-1964), sự việc từng ngày » , của Đoàn Thêm, nxb Nam Chi tùng thư, 1966 : ngày 20/7/1947, trong Kháng chiến, Hồ Chủ tịch cải tổ Chính phủ, ông Đặng Văn Hướng là một trong ba bộ trưởng « không giữ bộ nào ».

(3) Theo ông Hoàng Xuân Hãn, chính phủ Trần Trọng Kim thành lập ngày 15/4/1945 sau khi Nhật lật Pháp, không đặt bộ Quốc phòng, vì không muốn Nhật lợi dụng để bắt lính Việt Nam cho chiến tranh của họ. Nhưng chính phủ này có bộ Thanh niên, và trường Thanh niên tiền tuyến là một hình thức trá hình để đào tạo sĩ quan cho quân đội tưong lai.

(4) Lãnh binh là chức quan võ cai quản các lính Bảo An ở các tỉnh thời Chính phủ Trần Trọng Kim. Lính Bảo An, thời Pháp thuộc, còn gọi là « lính khố xanh ».

(5) Có ba nhóm nhảy dù xuống Việt Nam vào thời điểm đó : nhóm Cédille nhảy xuống Nam Bộ, nhóm Castella xuống Trung Bộ và nhóm Messmer (sau này một thời là thủ tướng Pháp) xuống Bắc Bộ, với nhiệm vụ lập lại chính quyền Pháp ở 3 kỳ. Hình như ít sách báo nói đến vụ việc Castella trong chi tiết. Nếu cần, xin đối chiếu với cuốn « Paris-Saigon-Hanoi » của Ph.Devillers, nxb Gallimard 1988 ; theo sách này, trong 6 người Pháp nhảy dù, 4 người bị chết, một trong hai ngưới sống sót tên là Michel de Bourbon-Parme, bị giam ở Vinh đến tháng 6/1946 mới được thả. Không biết người sống sót thứ hai là ai. (Cám ơn anh K.V. đã chỉ giúp tôi chi tiết này, và cho biết thêm là có cuốn sách của David Marr, «Vietnam 1945 / The Quest of Power, University of California Press, Berkeley Los Angeles London, 1995, và 2 cuốn hồi ký : Hoàng Anh, Nhớ lại cuộc khởi nghĩa ; Hoàng Anh, Lê Tự Đồng và một số tác giả, Bình Trị Thiên, có thế nói tới vụ việc này, nhưng tôi chưa được đọc).

(6) Ông Ngô Đình Khôi, (tổng đốc Quảng Nam thời Pháp bảo hộ, không rõ có chức vụ gì trong triều đình Huế trước khởi nghĩa không), là anh ruột của ông Ngô Đình Diệm. Còn ông Phạm Quỳnh sau một thời làm báo Nam Phong, được làm thượng thư, đứng đầu triều đình Huế, thay ông Diệm (cũng thượng thư đầu triều) bị thôi. Ông Phạm Quỳnh đang tại chức khi Nhật đảo chính. Tôi không rõ trong điều kiện nào mấy ông kia bị giết, trừ ông Nguyến Tiến Lãng không bị giết. Người con của ông Ngô Đình Khôi, theo sách ông Đặng Văn Việt, tên là Ngô Đình Hán, theo sách của David Marr là Ngô Đình Huan, không bỏ dấu.

(7) Theo cuốn sách « Hai mươi năm qua (1945-1964), sự việc từng ngày » đã dẫn trên, ngày 8/9/1945, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quyết định tổ chức « Tuần lễ Vàng » để lấy phương tiện mua súng. Trong bài « Tuần lễ vàng ở miến Trung », trong Xưa và Nay số 72B, 2002, ông Phạm Bích Hải, dẫn « Hồ Chí Minh toàn tập » nxb Chính trị Quốc gia, ghi lời thư kêu gọi của Hồ Chủ tịch: « […] Tuần lễ vàng sẽ thu góp số vàng trong nhân dân và nhất là của các nhà giàu có để cúng vào việc cần cấp và quan trọng nhất của chúng ta lúc này là việc quốc phòng ». Theo ông P.B.Hải, tính từ 1/10 đến 22/11/1945, số vàng thu được ở các tỉnh miền Trung là 217 kg. Tôi không biết con số ở những nơi khác. Vào thời kỳ Dân chủ Cộng hòa còn non trẻ, hễ có sự việc gì liên quan đến vàng, thì có lẽ cũng từ « Tuần lễ Vàng » mà có. Tôi xin tóm tắt dưới đây hai câu chuyện tôi đọc được :

Trong cuốn sách « Tạ Quang Bửu, nhà trí thức yêu nước và cách mạng », Hội khoa học lịch sử Việt Nam xb, Hà Nội 1996 vào dịp kỷ niệm 10 năm ngày mất của cố bộ trưởng Tạ Quang Bửu, ông Nguyễn Như Kim viết (trang 231) : [Trong Kháng chiến] « Giữa năm 1948, Bộ Quốc phòng [ông Bửu] giao cho tôi nhiệm vụ đi công tác nước ngoài, với một số vàng rất lớn, để mua phụ tùng máy móc VTĐ [vô tuyến điện] cho đài TNVN [Tiếng nói Việt Nam] và cho quân đội, cùng với thuốc men và sách cho đại học.[…]. Chuyến đi này thực sự là một chuyến đi đời người (xem báo Văn Nghệ số 19, 13/5/1995), tôi đã cùng một số anh em Nam Bộ mang hết sức mình để thực hiện, chỉ còn chút ít nữa thì thành công, cuối cùng bị địch bắt sau khi đã phá hủy cả một con tàu hàng hóa ». Về sự việc này, cũng trong sách đã dẫn (trang 166-168), ông Hà Đồng kể kỹ hơn : ông kể là số vàng mà ông Kim mang đi Thái Lan là 15 kg (nhắc lại là vào thời điểm đó, 1948, chưa một nước nào công nhận Việt Nam ; Việt Nam chưa muốn « ý thức hệ hóa » cuộc chiến tranh còn đang trong « đường lối trung lập công khai » trên chính trường thế giới và Thái Lan là con đường duy nhất mở ra nước ngoài). Ông Kim đã mua được các thứ cần, và đã thuê được một máy bay Catalina định chở về Việt Nam. Nhận được tin đó, ông Bửu trao cho ông Hà Đồng nhiệm vụ vào Khu 4 làm một sân bay. Cùng đi với ông Hà Đồng, có một chuyên viên là phi công người Đức tên là Schulze vốn là hàng binh. Đi qua Quỳnh Lưu, hai ông bị dân quân bắt vì tưởng là Pháp và Việt gian, sau vì có giấy giới thiệu của ông Giáp nên qua được khó khăn. Chọn được địa điểm, làm xong sân bay, thì được tin là người chủ chiếc máy bay mà ông Kim thuê, sợ rủi ro, không cho thuê nữa. Thế là ông Kim phải đi bằng đường thủy. Đến vùng biển Thanh Hóa, bị tàu Pháp vây, ông Kim phải đốt tàu và bị bắt. (Ông Kim bị tù một năm trong vùng tạm chiếm ; sau khi được thả, ông sang Pháp học, rồi năm 1956 được ông Bửu gọi về Hà Nội tham gia xây dựng Đại học Bách khoa vv. Sau, có một thời ông làm tham tán ở Sứ quán ta ở Pháp. Ông Hà Đồng thì năm 1949 được chỉ định là Trưởng Ban Nghiên cứu Không quân, sửa soạn cho tương lai …).

Lại một câu chuyện vàng nữa. Trong cuốn « Nguyễn Bình, huyền thoại và sự thật » của Nguyên Hùng , nxb Văn học, Hà Nội 1995, tác giả viết (trang 117-120) : [về Tuần lễ Vàng ở miền Đông Nam Bộ] Tất cả số vàng lạc quyên của tỉnh nào thì tập trung về Ủy ban kháng chiến của tỉnh đó. Tại miền Đông, Bộ chỉ huy được các tỉnh chuyển vàng về. […]. Tất cả có 32 ký. Có thêm vài chỉ. Anh Ba Bình [Nguyễn Bình] quyết định để vài chỉ lẻ đó lại để văn phòng chi dùng còn trọn 32 ký kia thì đưa ra Bắc nhờ Trung ương mua súng đạn đưa vào Nam đánh Tây. […]. Số vàng được đúc lại thành khối từng ký. Anh [Ngô Văn] Quỹ chỉ huy một tiểu đội đặc biệt với ba tay súng, còn những người tải vàng thì võ trang lựu đạn. […]. Thấm thoát ngày tháng trôi qua, sau cùng tiểu đội tải vàng cũng tới thủ đô Hà Nội. Ngô Văn Quỹ trao thư và vàng tận tay Bộ trưởng Quốc phòng lúc đó là ông Hoàng Văn Hoan (sic). […]. Nghỉ ngơi vài ngày, anh và tiểu đội lại đưa số võ khí Bộ Quốc phòng chi viện cho miền Nam. Trên chuyến trở về có anh Mã Thành Lợi cùng đi với đoàn. Tới Quảng Ngãi, Quỹ và Lợi gặp chuyện bất ngờ. Tướng Nguyễn Sơn, chủ tịch Ủy ban Kháng chiến miền Nam gồm các tỉnh Nam Trung Bộ và cả Nam Bộ tịch thu số võ khí của hai anh. […]. Tất nhiên là Ngô Văn Quỹ không chịu khoanh tay. Anh nhiều lần xin gặp tướng Nguyễn Sơn, nhấn mạnh số súng đạn anh áp tải về Nam là súng đạn của khu trưởng Nguyễn Bình nhờ Trung ương mua với giá 32 ký vàng do chính anh đưa từ Nam ra Bắc. Nhưng không ăn thua gì. Trái lại càng lãnh lấy tai vạ. Quỹ và Lợi bị giam lỏng tại trường Trung học Quảng Ngãi. […] Thế rồi một bất ngờ lại đến. Lần này là một bất ngờ thú vị. Giáo sư bác sĩ Hồ Đắc Di đánh điện gọi Ngô Văn Quỹ ra học năm thứ hai trường Y vừa được mở trong vùng tự do. […]. Tác giả không ghi thời điểm, nhưng đọc thì có thể hình dung rằng khi số vàng kia ra đến Hà nội, Chính phủ còn ở Hà Nội nghĩa là lúc đó chưa là Toàn quốc Kháng chiến (19/12/1946). Tôi đọc, thấy lạ : tôi không nghe nói ông Hoàng Văn Hoan làm bộ trưởng Quốc phòng lúc nào. Các bộ trưởng Quốc phòng thời đầu của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là (chính phủ thành lập 23/8/1945) : ông Chu Văn Tấn ; (chính phủ thành lập 2/3/1946) : ông Phan Anh ; (chính phủ cải tổ 20/7/1947) trong kháng chiến : ông Tạ Quang Bửu, sau đó là ông Võ Nguyên Giáp. Như vậy là lời kể là huyền thoại hay sự thật phần nào ? Xin để các sử gia phân giải.

(8) VAC (vườn, ao, chuồng): mô hình sản xuất nhỏ nhằm cải thiện kinh tế gia đình.




IV. Nhân đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

(Bài của Bùi Trọng Liễu đăng trên Diễn Đàn số 100, tháng 10 năm 2000).



Mấy tập hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp được xuất bản trong những năm gần đây :

[1] Tổng hành dinh trong mùa Xuân toàn thắng, xuất bản năm 2000, vào dịp kỷ niệm 25 năm chấm dứt chiến tranh (nxb Chính trị quốc gia, 374 trang, khổ 15x22 : viết về giai đoạn từ tháng 12/1972 đến mùa Xuân 1975) ,

[2] Điện Biên phủ, điểm hẹn lịch sử, cũng xuất bản năm 2000, (nxb Quân đội nhân dân, 475 trang, khổ 14,5x20,5 : viết về giai đoạn từ cuối tháng 5/1953 đến ngày tiếp quản thủ đô Hà Nội),

[3] Đường tới Điện Biên phủ, xuất bản năm 1999 (nxb Quân đội nhân dân, 475 trang, khổ 14,5x20,5, viết về giai đoạn 1950-1953),

[4] Chiến đấu trong vòng vây, xuất bản năm 1995 (nxb Quân đội nhân dân-nxb Thanh niên, 435 trang, khổ 14,5x20,5, viết về giai đoạn 1946-1950).

Và cũng xin nhắc đến cuốn hồi ức trước đó của ông :

[5] Những chặng đường lịch sử, xuất bản năm 1994, nxb Chính trị quốc gia, 557 trang, khổ 15x22, thật ra là sự tái bản của 2 tập hồi ức Từ nhân dân mà ra (giai đoạn từ chuẩn bị Tổng khới nghĩa đến Tháng 8/1945) và Những năm tháng không thể nào quên (giai đoạn 2/9/1945-19/12/1946).

Là người trực tiếp cầm quân trong cuộc kháng chiến kéo dài 30 năm, cuộc kháng chiến chống ngoại xâm dài nhất, gian khổ nhất trong Lịch sử Việt Nam, tác giả tất nhiên là chứng nhân số một của các sự kiện quân sự đã xảy ra. Bấy nhiêu trang sách cỡ nhỏ để nói về một cuộc chiến đấu dài hơn 30 năm là tương đối ít (trừ quãng 1955-1972 mà các cuốn hồi ức không đề cập tới) nhưng tác giả đã giải thích trong lời đầu cuốn [4] qua câu : « Thời gian không có nhiều, tôi đặt cho mình một yêu cầu chừng mực : cố gắng nói đợc những điều thật cần nói ». Và thật ra, những điều cần nói đó, đã giúp cho người đọc hiểu kỹ thêm một số lý do và sự việc có khi chưa biết.

Tất nhiên, các cuốn hồi ức này chủ yếu đề cập đến những vấn đề lớn về quân sự, những thành tích và chiến công của các chiến trường. Nhưng không chỉ có vậy.

Thuở xa xưa, đã có nhiều cuộc kháng chiến thành công của người Việt Nam chống xâm lược : Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Quang Trung,... nhưng thuở đó (trừ trường hợp đặc biệt của Ngô Quyền dựng nền tự chủ, và của Lê Lợi phải 10 năm chiến đấu khôi phục lại nước đã mất,...), tổ tiên ta đã có Nhà nước, có quân đội, ... ; đối phương chỉ có một kẻ xâm lăng; sự chênh lệch về vũ khí, nếu có, cũng không lớn. Trong cuộc kháng chiến 30 năm vừa qua, tình hình quốc tế phức tạp; đối phương không chỉ có một ; lại tình thế đẩy đưa, muốn hòa mà phải chiến ; lại có vấn đề ý thức hệ ; những khó khăn gian khổ gặp phải không phải chỉ hoàn toàn là do thiếu thốn của mình, do kẻ địch gây ra, mà còn do quan hệ rất phức tạp với phía « bạn » nữa.

Người đọc sách đôi khi hiểu theo ý riêng của mình, chưa chắc đã là ý của tác giả muốn nói. Tôi không có khả năng và tham vọng viết một bài tổng quan, mà chỉ « nhân dịp đọc », muốn lưu ý đến một vài khía cạnh của quan hệ quốc tế. Và để cố giữ được một sự khách quan tương đối, xin trích vài đoạn dưới đây.

Trong cuốn [4], ông Giáp viết :

Đầu năm 1950, Bác [cụ Hồ] ra nước ngoài. [...]. Bác đã đến Bắc Kinh, rồi đi luôn sang Mátxcva. [...]. Qua Liên Xô, Bác gặp đồng chí Xtalin. [... Khi trở về nước...] Buổi tối, khi xung quanh đã yên tĩnh, Bác ngồi trầm ngâm rồi nói với chúng tôi :

- Liên Xô phê bình ta chậm làm cách mạng thổ địa. Đồng chí Xtalin trỏ hai chiếc ghế rồi hỏi mình : «Ghế này là ghế của nông dân, ghế này là của địa chủ, người cách mạng Việt Nam ngồi ghế nào ? » . Tới đây, chúng ta phải làm cách mạng ruộng đất. [...].

Rồi Bác kể thêm, trong một buổi làm việc, thấy có cuốn họa báo Liên Xô đặt trên bàn, Bác cầm đưa Xtalin, đề nghị ký một chữ làm kỷ niệm, Xtalin vui vẻ ký rồi chuyển cho các đồng chí Môlôtốp, Kazanôvích ngồi bên ký tiếp. Bác mang tờ báo về nhà khách. Nhưng hôm sau, không còn thấy tờ báo.

Bác không bình luận gì về những chuyện này. Liên Xô đã công nhận nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhưng có thể còn đang cân nhắc mức độ công khai hóa mối quan hệ mật thiết với ta.

Đọc tới đây, tôi liên tưởng tới bài báo viết về những cuộc tiếp xúc đầu tiên giữa Việt Nam và Liên Xô (1947-1948) (« Những cuộc tiếp xúc đầu tiên giữa Việt Nam và Liên Xô » trong Xưa và Nay số 73, tháng 3/2000, dịch bài của Benoit de Tréglodé trong Approche-Asie số 16/1999) với « ý chí chủ nghĩa » trong đường lối của Liên Xô trong khi phía Việt Nam chưa muốn « ý thức hệ hóa » cuộc chiến tranh còn đang trong « đường lối trung lập công khai » trên chính trường thế giới ; và rốt cục vào thời điểm đó, với sự đánh giá «những người cách mạng Việt Nam thiếu tầm nhìn chính trị », Liên Xô đã lựa chọn sự tăng cường đường lối chính trị của mình ở châu Á « thông qua » những người cộng sản Trung Hoa. Thuở ấy, chưa một nước nào công nhận Việt Nam. Theo tôi hiểu khi đọc cuốn [3], cho đến đầu 1950, mặc dù có sự hết sức cố gắng chế tạo vũ khí tự túc (badôka 60 ; mìn lõm badômin ; súng cối 187mm làm bằng vỏ bình ôxy, đạn 30kg ; súng SKZ 60, đạn lõm 9kg có khả năng xuyên bê tông 60cm, vv.), mặc dù chiến lợi phẩm thu được, vũ khí vẫn không đủ, bộ đội đánh công kiên còn chưa có bộc phá, ngay những chiến sĩ các trung đoàn chủ lực còn phải dùng cây mác xung kích. Cần có sự viện trợ vũ khí để tiếp tục kháng chiến.

Trong cuốn [3], tác giả viết :

Tôi muốn trở lại chuyến đi thăm Trung Quốc và Liên Xô hồi đầu năm (1950) của Bác. [...]. Trong một buổi làm việc ở Mátxcva cùng với Xtalin, có cả Mao Trạch Đông, Bác đề nghị Liên Xô giúp trang bị cho 10 đại đoàn bộ binh và 1 trung đoàn cao xạ. Xtalin nói : «Yêu cầu của Việt Nam không lớn. Nên có sự phân công giữa Trung Quốc và Liên Xô. Liên Xô hiện đang phải lo nhiều cho các nớc Đông Âu. Trung Quốc sẽ giúp Việt Nam những thứ đang cần. Những thứ gì Trung Quốc chưa có, thì hãy lấy trong số hàng Liên Xô đã viện trợ cho Trung Quốc chuyển cho Việt Nam, và sẽ được Liên Xô hoàn trả ». Xtalin nói vui : « Trung Quốc sẽ không thiệt vì trao cho Việt Nam những thứ đã dùng rồi, sẽ nhận lại ở Liên Xô những thứ mới. Trong quan hệ quốc tế phải có đi có lại. Liên Xô viện trợ Trung Quốc một xe tăng , Trung Quốc trả lại một con gà, một khẩu pháo, trả một quả trứng. Việt Nam trả Trung Quốc thế nào, thì tùy... ». Mao Trạch Đông nói : « Việt Nam cần trang bị 10 đại đoàn để đánh thắng Pháp, trớc mắt hãy trang bị cho 6 đại đoàn có mặt ở miền Bắc… ».

[...] Những đơn vị (bộ đội Việt Nam sang Trung Quốc nhận vũ khí), ngoài việc trang bị lại vũ khí còn được bạn huấn luyện thêm về chiến thuật công kiên [...]. Nhiều đồng chí Trung Quốc rất ngạc nhiên khi thấy bộ đội ta, từ cán bộ tới chiến sĩ, nghe giảng bài đều ghi chép rất nhanh, tỏ vẻ nghi ngại là trong quân đội Việt Nam có qua nhiều phần tử trí thức ! Ta phải cố gắng làm cho bạn hiểu số đông cán bộ ta là học sinh, còn hầu hết chiến sĩ là thanh niên nông thôn, nhiều người chỉ bắt đầu học chữ sau khi vào bộ đội .

Nhận viện trợ thì tất phải chấp nhận sự có mặt của cố vấn. Trong cuốn [3], khi ông kể về chuyến kín đáo đi thăm Trung Quốc và Liên Xô của Hồ Chủ tịch năm 1950 :

Những ngày ở Nam Ninh, Bác gặp đồng chí Trần Canh, Phó tư lệnh Đại quân khu Tây Nam, Tư lệnh Quân khu Vân Nam, đi công tác qua đây. Bác biết Trần Canh từ cuối năm 1924, khi [Bác] làm phiên dịch cho phái đoàn cố vấn của Chính phủ Liên Xô, do M.M. Bôrôđin dẫn đầu, đến giúp chính phủ Quốc dân đảng Trung Quốc. Ngày đó, Trần Canh còn là một học viên trẻ tại trường Hoàng Phố ở Quảng Châu. Trần Canh rất xúc động, không ngờ đồng chí Vương thời đó lại là Hồ Chủ tịch. Trần Canh rất quyến luyến, gợi ý Bác đề nghị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc cho mình sang Việt Nam làm cố vấn quân sự. [...]. [Khi ở Liên Xô trở về Bắc Kinh...], Bác gợi ý bạn cử đồng chí Trần Canh [làm cố vấn]. Phía Trung Quốc trả lời đồng chí Trần đã được bố trí công tác rồi, và đưa ra danh sách gồm 4 người : La Quý Ba, Trung ương ủy viên Đảng Cộng sản Trung Quốc, trưởng đoàn cố vấn, Vi Quốc Thanh, trưởng đoàn cố vấn về quân sự, Mai Gia Sinh, cố vấn về công tác tham mưu, Mã Tây Phu, cố vấn về công tác hậu cần.



Ông kể tiếp là trong chiến dịch giải phóng biên giới tháng 9/1950, Trần Canh sang Việt Nam với tư cách là khách mời của Hồ Chủ tịch, chức vị của ông ta cao hơn Vi Quốc Thanh, nên « đồng chí Vi dành quyền phát biểu cho đồng chí Trần Canh ». Có mặt của cố vấn, nhưng không phải là có sự đồng ý về cách đánh. Lúc đó, sau trận Đông Khê đã toàn thắng, chiến dịch vẫn tiếp tục:

Đồng chí Trần Canh nói với tôi :

- Võ Tổng thấy thế nào ? Hay thu quân thôi ! Viện binh địch không lên. Quân địch ở Thất Khê đã tăng lên 4 tiểu đoàn. Bộ đội Việt Nam đánh công kiên quá kém. Không thể đánh Thất Khê. Cũng không thể đánh Cao Bằng. Muốn đánh Cao Bằng phải xây dựng một trận địa chiến hào như Giải phóng quân đánh Hoàng Hải !

Tôi nói :

- Trận Đông Khê ta sử dụng nhiều binh lực, nhưng chọn hướng đột phá chưa đúng, các mũi phối hợp kém nên đánh kéo dài. Hồi tháng năm, chỉ một mình trung đoàn 174 đã nhanh chóng diệt gọn Đông Khê, tổn thất rất ít. Tôi thấy nên kiên trì chờ [đánh diệt] viện, đồng thời chuẩn bị tiêu diệt Thất Khê theo như kế hoạch.

Sau đó chiến dịch tiếp tục và đã tòan thắng. Nhưng « Võ Tổng » vẫn giữ được quan hệ tốt với cố vấn:

Sau đó Trần Canh sang chiến đấu ở Triều Tiên với cương vị Phó tư lệnh Chí nguyện quân Trung Quốc. Khá lâu, đồng chí Trần mới trở lại Việt Nam, đến Hà Nội với những vết bỏng napan trên mặt. Mỗi lần có dịp qua Trung Quốc, tôi thường tới thăm gia đình đồng chí Trần. Đồng chí để lại cho tôi ấn tượng đẹp về một soái tướng trong quân đội cách mạng « trí dũng song toàn », giàu tinh thần quốc tế và luôn luôn lạc quan, yêu đời.

Trong cuốn [3], ông viết :

[1951]... Anh Thanh [tướng Nguyễn Chí Thanh] có nhận xét mấy chiến dịch gần đây, trong chiến sĩ ngày càng xuất hiện nhiều gương chiến đấu anh dũng [...]. Nhưng ở một số cán bộ đã có những dấu hiệu dao động, điều tra địch không đến nơi, bỏ bộ đội khi chiến đấu, tư tưởng ngại gian khổ, ác liệt khá phổ biến. Anh Thanh cho rằng phần lớn cán bộ sơ cấp, trung cấp của ta xuất thân từ tầng lớp tiểu tư sản học sinh, chỉ mới giác ngộ về dân tộc, còn ít giác ngộ giai cấp nên thiếu kiên định. Trọng tâm đợt chỉnh huấn này, nên nhắm vào cán bộ. [... ].

Chỉnh huấn mùa Hè năm 1951 đánh dấu một mốc biến chuyển về nhận thức, tư tưởng bộ đội. [...]. Sự tự giác trình bày khuyết điểm trên cơ sở một nhận thức đúng đắn bao giờ cũng được hoan nghênh. Coi nhận thức là một quá trình, chúng ta biết chờ đợi, không ép buộc. Có điều nên nói là trong chỉnh huấn chúng ta đã tiếp nhận từ những cố vấn về giáo dục chính trị một cách làm khác : coi kiểm điểm tư tưởng là cuộc đấu tranh không khoan nhượng với mọi sai lầm ; những ai không nêu được sai lầm nghiêm trọng sau học tập đều coi như thiếu thành khẩn, và bản tự kiểm điểm không được tập thể thông qua. Những buổi kiểm điểm thường diễn ra căng thẳng với những lời phê phán « đao to búa lớn », nhiều khi gò ép. Có người sợ bị coi là thiếu thành khẩn đã tự nhận những tội lỗi mà mình không hề mắc. Sự động viên, kêu gọi, biểu dương những gương gọi là « thành khẩn » một cách quá đáng trong học tập, đã dẫn tới những hiện tượng kỳ lạ. Ở đại đoàn X, một cán bộ tiểu đoàn rất anh dũng trong chiến đấu, tự nhận mình là gián điệp của địch ! Khi bị truy hỏi, anh khai ra một loạt sự việc có liên quan tới những cán bộ khác. Tổ chức mất rất nhiều thì giờ mới xác định được những điều anh « phản tỉnh » đều là do óc tưởng tượng của một học sinh trước kia đã đọc qua nhiều những truyện trinh thám ! Chỉnh huấn chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn. Nhận thức mới về cách mạng còn đơn giản làm sao có thể thay đổi hoàn toàn tư tưởng con người ? Cách học tập này tuy mang lại kết quả trước mắt nhưng sẽ gây những ảnh hưởng xấu trong cuộc vận động chỉnh đốn tổ chức sau này.

Về Đông-Xuân 1951-1952 , ông viết :

Tôi trao đổi với đồng chí Vi Quốc Thanh [cố vấn quân sự Trung Quốc] về phương hướng mở chiến dịch Đông Xuân. Anh Vi nói trong đoàn cố vấn đã bàn bạc nhiều [...]. Ở Triều Tiên, quân đội Triều Tiên và Chí nguyện quân Trung Quốc có cả máy bay Liên Xô trợ lực, nhưng chủ yếu vẫn thắng địch bằng số đông. Việt Nam không có máy bay cũng chưa có vũ khí phòng không, đánh địch ở đồng bằng khó đối với phi, pháo. Và khó khăn lớn nhất vẫn là Việt Nam ít quân !

Tôi nói :

- Vừa qua ta đã mở những chiến dịch nhỏ cỡ đại đoàn để buộc địch phải phân tán đối phó, hạn chế sức mạnh của máy bay và pháo địch, nhưng ít kết quả. Việt Nam đã có một khối chủ lực 6 đại đoàn, không thể chỉ đánh nhỏ. Đánh nhỏ bộ đội ít tiêu hao, nhưng không tạo được tình hình biến chuyển trong giai đoạn mới.

Ít lâu sau ngày đồng chí Vi về Bắc Kinh, Trung ương Đảng ta nhận được thư của đồng chí La Quý Ba [trưởng đoàn cố vấn Trung Quốc]. Trong thư đồng chí La viết với tình hình hiện nay, tốt nhất là Việt Nam nên quay về chiến tranh du kích, tiến hành chiến tranh nhân dân thật rộng rãi để hạn chế những chỗ mạnh của địch. [...]

Có thể các đồng chí Trung Quốc e ngại sẽ tái diễn ở Việt Nam một tình hình giống như ở Triều Tiên, trong lúc Trung Quốc còn chưa sẵn sàng.

Tôi nghĩ nhiệm vụ của bộ đội chủ lực lúc này là phải chứng minh được : chúng ta có thể chiến thắng trong vận động đánh lớn, cũng như đã từng chiến thắng trong vận động đánh nhỏ, với một kẻ địch bao giờ cũng mạnh hơn ta về trang bị, kỹ thuật .

Trong cuốn [2], ngoài « quyết định khó khăn nhất » của ông, chuyển cách « đánh nhanh thắng nhanh » thành « đánh chắc tiến chắc » vv., người đọc còn thấy mấy dòng này:

Đầu tháng 7 năm 1954, đồng chí Chu Ân Lai từ Giơnevơ trở về Trung Quốc, đề nghị gặp Bác ở Liễu Châu, thuộc tỉnh Qung Tây, không xa biên giới nước ta. Bộ Chính trị cử tôi cùng đi với Bác. [...]. Buổi làm việc đầu tiên, theo ý của Bác, tôi trình bày tình hình quân sự lúc này trên bản đồ. Ở cả miền Bắc và miền Trung Việt Nam hầu như toàn màu đỏ, màu của vùng đất tự do và giải phóng. [...]. Tại Nam Bộ, những khu căn cứ của ta được củng cố và mở rộng. [...].

Hai buổi tiếp theo, đồng chí Chu Ân Lai trình bày về tình hình diễn biến tại Hội nghị Giơnevơ, [...]. Cuối cùng, đồng chí nói trước đây Plêven khăng khăng đòi lấy vĩ tuyến 18 làm ranh giới tạm thời, nhưng trước sự đấu tranh kiên quyết của ta, Măngđét Phrăng và Anh, Mỹ đã đồng ý rút xuống vĩ tuyến 17.

Bác và chúng tôi đều ngỡ ngàng. Phải chăm chú tìm trên bản đồ mới thấy dòng sông nhỏ Bến Hải ở phía Bắc tỉnh Quảng Trị.

Bác nói với so sánh lực lượng trên thực tế chiến trường hiện nay, ta đề ra vĩ tuyến 13 là hợp lý, vĩ tuyến 17 đối với ta là không thể chấp nhận, chí ít cũng phải giành được vĩ tuyến 16. [...].

Thế nhưng ...

Và tôi liên tưởng tới mấy câu ông viết trong cuốn hồi ức Từ nhân dân mà ra, kể lại những ngày gần Tổng khởi nghĩa 1945, vào một đêm trong rừng, cụ Hồ sốt nặng, e mình không qua khỏi, dặn ông : « Thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập ». Cái giá phải trả để giành lại được độc lập thống nhất đắt là thế.

Đọc hồi ức này, điều ngạc nhiên cũng là được biết viện trợ của « bạn » không phải là dồi dào vô tận. Trong cuốn [2], ông viết :

Nhân đây cũng nói thêm, một số nhà nghiên cứu phương Tây đã quá cường điệu số đạn pháo của ta tại Điện Biên phủ [...]. Trong thực tế, về đạn [pháo binh] 105, ta chỉ có tổng số 20000 viên, gồm 11000 viên chiến lợi phẩm [lấy được của Pháp] của chiến dịch Biên Giới, 3600 viên do Trung Quốc viện trợ kèm theo pháo, 440 viên chiến lợi phẩm ở mặt trận Trung Lào, và khoảng 5000 viên thu được của địch thả dù tiếp tế. Sau chiến tranh Triều Tiên, đạn pháo 105 ở Trung Quốc cũng rất khan hiếm. Trước nhu cầu cấp thiết của chiến dịch, bạn đã vét đạn 105 từ các kho chuyển cho ta, nhưng 7400 viên tháng 5 năm 1954 mới tới, khi trận đánh đã kết thúc.

Trong cuốn [1], ông viết :

Việc nghiên cứu chuẩn bị kế hoạch đánh B52 được triển khai gấp rút và đã căn bản hoàn thành vào đầu tháng 9-1972. [...]. Cũng cần nói thêm rằng, mặc dầu sự giúp đỡ của Liên Xô về vũ khí, kỹ thuật là quí báu và có hiệu quả, nhưng từ năm 1969, bạn không viện trợ thêm một quả đạn tên lửa nào. Các bộ khí tài tên lửa, rađa cũng dần dần xuống cấp. Điều đó đòi hỏi cán bộ, chiến sĩ ta phải ra sức phát huy sáng kiến, cải tạo kỹ thuật, nâng cao hiệu suất chiến đấu của vũ khí, khí tài có trong tay.

Để rồi có được cái gọi là « Điện Biên phủ trên không » .

Cũng trong cuốn sách đó, trong phần cuối, ông viết :

Năm 1971, tôi sang Liên Xô khẳng định quyết tâm đánh Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn và đề nghị bạn có sự giúp đỡ đặc biệt. Tại cuộc họp với các đồng chí trong Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô, đồng chí Côxưghin hỏi : « Tôi xin hỏi đồng chí Giáp. Đồng chí nói đánh thắng Mỹ. Tôi muốn biết các đồng chí có bao nhiêu sư đoàn bộ binh cơ giới và Mỹ có bao nhiêu ? Xe tăng, pháo hạng nặng, máy bay chiến đấu..., các đồng chí có bao nhiêu và Mỹ có bao nhiêu ? Khả năng về phòng không, về tên lửa, về thông tin, rađa của các đồng chí như thế nào ? Xin đồng chí nói qua cho tôi biết ». Tôi trả lời : « Tôi hiểu câu hỏi của đồng chí. Đồng chí muốn biết về vấn đề so sánh lực lượng giữa chúng tôi với Mỹ. Theo học thuyết quân sự Xôviết là như vậy. Học thuyết quân sự Xôviết là hết sức ưu việt, đã chiến thắng phát xít Đức. Điều đó rất rõ ràng. Nhưng, tôi xin nói nếu chúng tôi đánh theo cách đánh của các đồng chí thì chúng tôi không đứng nổi được hai tiếng đồng hồ. Chúng tôi đánh theo cách đánh khác, cách đánh của Việt Nam, và chúng tôi sẽ thắng » . Sau ngày toàn thắng, có dịp trở lại Liên Xô, gặp lại đồng chí Côxưghin, tôi cám ơn Liên Xô đã nhiệt tình giúp đỡ Việt Nam đánh Mỹ (*). Đồng chí vui vẻ nói : « Việt Nam thắng to quá, như thế tốt quá ! Xin chúc mừng các đồng chí ! ».

Đọc những đoạn đó rồi, người đọc lại càng thấm thía với những gian khổ đã phải vượt qua, và càng hiểu hơn sự hy sinh của những chiến sĩ, cũng như đánh giá cao hơn những chiến thắng đã đạt được.

Mấy cuốn hồi ức không chỉ nói đến các vấn đề thuần túy quân sự, vì trong các giai đoạn trải qua, các vấn đề quân, dân, chính, đều có liên quan, và cũng vì những chức vụ của tác giả. Trong cuốn [4], ông có nhắc lại lời Hồ Chủ tịch chiều 20/2/1947 ở Rừng Thông trong chuyến thăm Thanh Hóa : « phải làm cho người nghèo thì đủ ăn ; người đủ ăn thì khá, giàu ; người khá, giàu thì giàu thêm. Người nào cũng biết chữ. Người nào cũng biết đoàn kết, yêu nước ».

Khi viết hồi ức, hầu như Đại tướng Giáp không quên ai : công lao của ai, ý kiến của ai thì nói là của người đó ; phần nào của mình, phần nào của người khác, xem ra đều rạch ròi.

Các cuốn sách hầu như không đề cập đến việc riêng tư. Nếu có, cũng là hiếm. Đối với ông Duẩn, trong cuốn [3], ông Giáp kể (lúc đó vào tháng 2/1951):

Anh Lê Duẩn cùng hoạt động với chị Nguyễn Thị Minh Khai ở Nam Kỳ. Chị Minh Khai và chị Quang Thái [chú thích : bà Thái là vợ trước của ông Giáp ; bà mất trong nhà tù Hỏa Lò năm 1943] là hai chị em ruột. Anh Duẩn kể với tôi một câu chuyện về chị Thái. Trước ngày chính quyền thực dân Pháp xét xử những người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Nam kỳ, chị Thái từ Hà Nội vào thăm chị Minh Khai (thời gian này tôi đã qua Trung Quốc). Chị Thái gặp chị Minh Khai và anh Lê Duẩn ở phiên tòa đại hình. Trong khi nói chuyện, chị Minh Khai ném cho anh Duẩn một lá thư gấp nhỏ. Đúng lúc đó viên cảnh sát quay lại. Chị Thái lập tức cúi xuống nhặt mẩu giấy bỏ vào mồm nhai và nuốt luôn. Viên cảnh sát đành chịu. Sau đó, chị Minh Khai bị kết án tử hình. Anh Duẩn nói : « Nếu bữa đó chị Thái không nhanh trí thì tôi khó gặp anh hôm nay ». Sau này cùng làm việc với nhau nhiều năm, anh Lê Duẩn vẫn còn nhắc lại với tôi và một số đồng chí khác chuyện này.

Như đã viết trên đây, tôi không phải là người có khả năng hay thẩm quyền để mà viết một bài tổng quan, phân tích hay tóm tắt mấy cuốn hồi ức này mà dư luận chung đánh giá là « trung thực, công bằng và độ lượng». Ai muốn tìm hiểu thêm giai đoạn lịch sử vừa qua, nên tìm đọc. Có điều lạ là số lượng các bản in khá ít (3 nghìn bản cuốn [1], 7 nghìn bản cuốn [3], 8 nghìn bản cho các cuốn [2] và [4]). Không hiểu tìm mua có dễ không. May mắn được tác giả gửi cho và đề tặng, tôi đã đọc với cảm tình riêng nên muốn để vài dòng viết về ông.

Vừa qua, Báo Tiền Phong (số 12-17, Xuân 2000) có đăng bài của một phóng viên với đầu đề «Tổng tư lệnh biết quí từng giọt máu của chiến binh ». Phóng viên đó ghi lại lời thượng tướng Trần Văn Trà cách đây 8 năm (4 năm trước khi ông mất), với lời căn dặn chỉ đăng vào thời điểm nào thích hợp. Ông Trà đã nêu 5 «điều lớn » về ông Giáp. Trong điều thứ ba, ông Trà nói: « Suốt hai cuộc kháng chiến, tôi chưa hề thấy Bí thư Quân ủy Trung ương kiêm Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp mắc một sai lầm nào về chiến lược và chiến thuật quân sự ; tôi chỉ thấy anh Văn [bí danh của ông Giáp] đi những nớc cờ bậc thầy vây hãm và tiến công quân địch ». Trong điều thứ tư, theo ông Trà : « Có những trường hợp, chiến thắng tuy lớn hoặc rất lớn nhưng xương máu bộ đội bị mất mát quá nhiều. Những trường hợp này, nếu thực hiện cách đánh thận trọng hơn theo quan điểm của anh Văn thì chắc chắn số lượng thương binh và tử sĩ sẽ ít hơn, và vì thế, chiến thắng sẽ lớn hơn nữa ». Trong điều thứ năm, theo ông Trà : « Trong những giai đoạn quyết liệt bậc nhất của cuộc chống Mỹ, Bí thư Quân ủy Trung ương kiêm Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp bao giờ cũng đứng vững ở quan điểm cốt tử nói trên. Nhưng buồn bực biết bao, vì những lý do nào đó, sự kiên định và sáng suốt này đã bị một vài người hiểu lầm là đồng nghĩa với sự nhút nhát và thiếu tinh thần cách mạng tiến công (!?). Tuy nhiên điều đáng kính phục nơi anh Văn là trong quan hệ với những người hiểu lầm mình, anh vẫn tiếp tục cư xử một cách nhã nhặn và bình thản ! ».

Lại nhắc ngày 20/1/1948, trong rừng Việt Bắc, Hồ Chủ tịch ký sắc lệnh phong quân hàm tướng tá cho một số cán bộ quân đội. Ông Giáp được trao quân hàm Đại tướng. Lúc đó một phóng viên phương Tây hỏi Hồ Chủ tịch việc phong cấp này được tiến hành dựa theo những tiêu chuẩn nào. Hồ Chủ tịch trả lời giản dị và đích đáng : « Đánh thắng đại tá phong đại tá ; đánh thắng thiếu tướng phong thiếu tướng ; thắng trung tướng phong trung tướng ; thắng đại tướng phong đại tướng».

Về quân sự, những người dưới quyền chỉ huy của Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, cũng như không ít nhân vật đối phương, đã đánh giá ông một cách trân trọng. Nếu tôi có muốn tán dương cá nhân cũng không làm ông thêm vinh ; cho nên tôi chỉ xin được ghi lại đây 6 trong 8 câu thơ về thành quả, mà tôi đã tặng ông cách đây mấy năm nhân ngày kỷ niệm thành lập Quân đội Việt Nam:

Trời Nam đâu được mấy ai,

Thư sinh mà lại sẵn tài lược thao !

Ra quân dưới ngọn cờ đào,

Điện Biên sấm sét thuở nào còn vang.

Sao vàng chói lọi hào quang,

Mùa Xuân toàn thắng Sử vàng ghi công.

.........

________

Chú thích:

(*) Đọc đến đây, tôi không khỏi liên tưởng đến quan hệ Việt-Mỹ lúc ban đầu tương đối khả quan : trước Tổng khởi nghĩa 1945 Mỹ coi Việt Minh là một tổ chức chính trị có thế lực gồm những người có tinh thần dân tộc ; một số phi công Đồng Minh sang đánh Nhật bị nạn được Việt Minh cứu thoát ; Đồng Minh thả dù một số vũ khí xuống Khu giải phóng ; bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam 2-9-1945 dẫn bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ 1776; cảm tình của viên sĩ quan Mỹ Patti ; sự có mặt của tướng Mỹ Gallagher đại diện Đồng minh trong những ngày đầu của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa... Cũng liên tưởng đến những gì đã đẩy đến “cây muốn lặng mà gió chẳng đừng », và liên tưởng đến quan hệ ngày nay mà đa số đều mong cho tốt đẹp.






http://buitronglieu.net

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét