24/11/08

Chương 6 Vài nhân vật và sự kiện chính trị

Chương 6

Vài nhân vật và sự kiện chính trị







Chương này viết về vài nhân vật và những sự việc liên quan đến hai cuộc chiến tranh ở Việt Nam.





1. Cố nhân

(Nguyễn Đình Ngọc)



(Một phần bài viết về anh Nguyễn Đình Ngọc này đã đăng trên ZIDOL:

http://www.diendan.org/nhung-con-nguoi/co-nhan/



http://www.viet-studies.org/BTLieu_NDNgoc.htm

VietNamNet trích đăng 8 và 10/8/2006 : http://vietnamnet.vn/psks/2006/08/599695/)



Bùi Trọng Liễu



Trả lời một phỏng vấn (xem http://vietnam.vnagency.com.vn/VNP ), Thiếu tướng Giáo sư Nguyễn Đình Ngọc đã nói : « Tôi không muốn nói về tôi mà đơn giản chỉ là tâm sự của một thế hệ. Thế hệ những người như tôi đã đi trọn cuộc kháng chiến trong đó không ít người đã vĩnh viễn nằm xuống ». Anh Ngọc đã nói thế, tôi cũng nghĩ rằng khi kể chuyện về anh, tôi không chỉ kể về một cá nhân, một « cố nhân », mà kể rộng hơn thế ; không phải là tôi vô tình lạc đề. Anh Ngọc là ai : điệp viên với bí danh «Ziệp Sơn », người cán bộ công an, nhà khoa học?

Tối 2/5/2006, vợ chồng tôi đang ăn cơm, thì có chuông gọi cổng : chị T. vợ anh, lại tìm chúng tôi, báo tin cho biết là anh Ngọc vừa mất sáng hôm đó, và chị và cháu H. (con trai duy nhất của anh chị) sửa soạn lên đường về dự đám tang. (Xin nói ngay là ở đây, tôi nói tới chị T., vợ có cưới hỏi chính thức và còn định cư ở Pháp, chứ tôi không nói tới người khác, cụ thể là người mà có nhà báo viết là « người bạn đời » của anh Ngọc mà tôi không biết). Mấy ngày sau, tôi được đọc một số bài báo trên mạng do bạn bè gửi cho. Có những tin đưa chính xác, có những tin đúng nhưng khó hiểu, có những tin đưa không đúng, qua những gì tôi đã được biết hoặc chứng kiến.

Bản tin của Ban chấp hành Hội Tin học Việt Nam, các Hội Tin học thành viên và gia đình, đăng 5/5/2006 trên http://www.tinhoc-doisong.net viết như sau :

Thiếu tướng, Giáo sư, Tiến sĩ khoa học: NGUYỄN ĐÌNH NGỌC, Nguyên Phó Chủ tịch Hội Tin học Việt Nam, Trưởng Ban Kiểm tra Hội Tin học Việt Nam, sinh ngày 13 tháng 8 năm 1932, quê quán xã Phượng Dực, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây, thường trú tại Phòng 402, nhà D3, Tập thể Trung Tự, Đống Đa, Hà Nội; nguyên Bí thư Đảng uỷ, Cục trưởng Cục Khoa học Viễn thông – Tin học, Bộ Công An, Phó trưởng ban chỉ đạo chương trình quốc gia về công nghệ thông tin (BCĐ49), Bí thư Chi bộ Trường Đại học dân lập Thăng Long; Phó Chủ tịch Hội Vô tuyến – Điện tử Việt Nam, Hiệu trưởng Trường Đại học Dân Lập Tây Đô - Cần Thơ; Huân chương Quân công hạng Ba, Huân chương chiến công hạng Nhì, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất, Huy chương Vì An Ninh Tổ Quốc, Huy chương vì sự nghiệp các hội KHKT, Huy chương vì thế hệ trẻ; sau một thời gian lâm bệnh, […] đã từ trần hồi 8 giờ 56 phút ngày 2 tháng 5 năm 2006 ( tức ngày 5 tháng 4 Bính Tuất) tại Bệnh viện 198 - Bộ Công an. Lễ viếng đã tổ chức từ 9 giờ 30 ngày 8 tháng 5 năm 2006 tại Nhà tang lễ số 5 Trần Thánh Tông, Hà Nội. Lễ truy điệu hồi 12 giờ 30 cùng ngày. Điện táng tại Đài hoá thân hoàn vũ, Hà Nội.

Điều quan trọng nhất đáng biết về anh Ngọc, tất nhiên là kết quả công tác điệp báo của anh, dưới bí danh « Ziệp Sơn » (Diệp là tên ông thân sinh ra anh, và Sơn là tên một người em trai mất sớm), nhưng tiếc thay, các bản tin đều chỉ nói lướt qua. Thí dụ như có bản tin viết : « Trong vai trò một điệp báo viên, những tin tức ông cung cấp luôn chính xác, kịp thời và vô cùng quan trọng – thông tin về cuộc tập kích vào Trung ương cục Miền Nam, về việc năm 1975 Mỹ sẽ không quay lại…chỉ là một vài trong số rất nhiều những chiến công thầm lặng của điệp viên tài ba này ». « Vô cùng quan trọng » mà chỉ vọn vẹn được mấy dòng đó sao ? Hay là vì thời điểm hiện nay còn quá sớm để công bố chi tiết toàn bộ ? Hay là những chi tiết này nằm trong các bản tuyên dương mà tôi không được đọc? Biết bao câu hỏi còn chưa được trả lời. Hẳn là vào tháng 4 năm 1975, đã có nhiều nguồn tin trái ngược về khả năng Mỹ quay lại can thiệp hay không ; và những người chuyển những loại tin này gánh một trách nhiệm rất nặng vì nó ít nhiều liên quan đến quyết định cuối cùng của Bộ Chính trị mở chiến dịch Hồ Chí Minh. Tôi tò mò và mong một ngày nào được biết hết …

Trong khi chờ đợi, tôi xin được kể những gì tôi được biết về anh : vì ở anh, sau người điệp viên còn có người công an, sau người công an còn có nhà khoa học; khi người điệp viên đã chấm dứt công tác, người công an ở anh vẫn còn tiếp tục nhiệm vụ – như có người phóng viên đã viết về anh : «Có ai đó đã từng nói, bộ đội còn thời chiến thời bình chứ công an chẳng lúc nào ngơi nghỉ » – và khi người công an đã nghỉ hưu, nhà khoa học vẫn còn đeo đuổi công việc.

Về việc anh đam mê học hành, nghiên cứu khoa học, cũng trong cuộc phỏng vấn dẫn trên (http://vietnam.vnagency.com.vn/VNP), anh nói : « Năm đó [1947] tôi còn rất nhỏ, cả hai bố con cùng bị giặc Pháp bắt. Biết mình sẽ bị đem đi hành hình, thay vì nói con trả thù cho bố, ông nói: “Con cố học và giúp người khác học, còn thiếu tri thức dân mình khổ đừng trách ai, chỉ nên tự trách mình”. Khi đất nước cho phép ngơi nghỉ thì tôi lại làm điều cha tôi đã dạy. Dạy học, nghiên cứu khoa học... tôi hiểu rằng, cuộc chiến giành lấy hạnh phúc, phồn vinh không thể thiếu tri thức». Rồi với câu hỏi của phóng viên: « Phải chăng thế hệ ông còn nhiều nỗi lo khi đã làm tròn sứ mệnh của mình với đất nước? », anh đã trả lời: «Phải. Nó như cuộc chạy tiếp sức, thế hệ bố tôi đã làm tốt trọng trách đầu tiên tức là cuộc kháng chiến chống Pháp nhưng để lại trên vai chúng tôi cả một gánh nặng. Và tất cả vẫn chưa kết thúc, sau 1975 tất cả những ai may mắn còn sống phải đi tiếp cuộc kháng chiến mới: cuộc kháng chiến chống sự tụt hậu về khoa học và công nghệ đòi hỏi các bạn trẻ cũng phải ghé vai gánh vác ». Tôi không biết người phóng viên khi kể lại mấy lời này có lý tưởng hóa khung cảnh không, nhưng rõ ràng là nội dung của mấy câu trả lời của anh Ngọc là chí lý, và tôi hoàn toàn tâm đắc: mất nước ở thế kỉ 19, cũng vì thiếu tri thức; những năm đói rách, cùng cực, cũng vì thiếu tri thức; những đợt làm khổ nhau, cũng vì thiếu tri thức; giáo dục đào tạo bê bối, cũng vì thiếu tri thức; tham nhũng và để tham nhũng, cũng vì thiếu tri thức, vv. và vv.

Tôi đã có dịp kể trong cuốn sách « Tự sự của người xa quê hương » (1) : tôi bị bệnh lao ngay mấy tháng sau khi đến Pháp, nên tôi « lê la » gần 7 năm trong các sanatoria và dưỡng đường cho các sinh viên ở Pháp. Vào khoảng năm 1955-56, trong lúc tôi ở dưỡng đường ở Sceaux, thì anh Nguyễn Đình Ngọc cũng ở đó, và vì thế nên quen biết. Những điều như : về ông thân sinh anh ấy bị quân viễn chinh Pháp bắt và giết (1947), tôi có nghe anh kể thuở đó. Nhưng tất nhiên, việc anh làm điệp viên thì sau ngày giải phóng, tôi mới được biết.

Ở đây, chủ yếu tôi chỉ nói đến những gì tôi đã nghe kể và/hoặc chứng kiến:

Lúc sang Pháp, thì anh Ngọc đã có vợ, chị T., và ở Pháp anh chị ấy sinh một con trai, cháu H. Theo như tôi được biết, chị T. thuộc một vọng tộc : mẹ chị T. là cháu nội hoàng giáp Đặng Văn Thụy, con gái phó bảng Đặng Văn Hướng – quan to của triều đình Huế, sau đi kháng chiến và một thời là bộ trưởng của chính phủ cụ Hồ trong kháng chiến, nhưng chết trong đợt Cải cách ruộng đất. Như vậy là chị T. là cháu gọi ông Đặng Văn Việt bằng cậu – ông Đặng Văn Việt một người chỉ huy bộ đội vùng biên giới, người của con « đường số 4 anh hùng », và của chiến dịch biên giới phá các binh đoàn Lepage và Charton vv. Mẹ chị T. lại là cháu ngoại của cử nhân Hoàng Đạo Phương, là một thương gia giàu có ở Hà Nội thuở xưa; ông Phương lại đồng thời là anh của ông Hoàng Đạo Thúy (người anh cả của Hướng đạo Việt Nam, một lúc là giám đốc trường võ bị Trần Quốc Tuấn thời Dân chủ Cộng hòa, rồi chủ nhiệm Truyền tin, quân hàm đại tá quân đội nhân dân) (2) . Mẹ chị T. mất sớm, bố chị T. đi kháng chiến – trước ông là công chức bưu điện thời Pháp thuộc, sau Cách mạng là cán bộ cao cấp ngành công an – sáu chị em chị T. sống với ông bà nội Trịnh Hữu Thăng, tiến sĩ tại gia (không ra làm quan) ở quê, vùng Nam Định ; đến khoảng năm 1951 quân viễn chinh Pháp càn quét dữ quá, gia đình mới gửi chị em chị T. vào Hà Nội sống với một bà dì (em mẹ chị T.), bà này là vợ ông Phan Huy Quát. Ông Quát từng làm tổng trưởng giáo dục (1949), quốc phòng (1950, 1954), ngoại giao (1964) của chính quyền Bảo Đại trong vùng tạm chiếm (3) , thủ tướng mấy tháng năm 1965 ..., sau 1975 chết trong trại cải tạo (4) .

Anh Ngọc học trường trung học Chu Văn An ở Hà Nội, là học sinh giỏi, cùng học với ông Phan Huy Lương và do đó quen với gia đình ông Phan Huy Quát (ông Lương là em ông Quát). Vào giai đoạn từ cuối năm 1951 đến 1954, do tướng De Lattre de Tassigny, tổng tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp, kiêm cao ủy Pháp ở Đông Dương, bắt đầu có lệnh động viên trong vùng tạm chiếm (5)



. Anh Ngọc tránh quân dịch, nên ra vùng kháng chiến, rồi tại đó, năm 1952, anh học lớp «điệp báo ở sở công an Liên khu IV» (như chính anh viết trong bài đăng trong cuốn sách «Giáo sư Lê Văn Thiêm », nxb Đại học Quốc gia , Hà Nội 2003), rồi : « […] Bắt đầu từ Giám đốc Công an Liên khu 4, Nguyễn Hữu Khiếu, [anh] được [Bộ trưởng Bộ Công an sau này] Trần Quốc Hoàn để mắt tới và quyết định đào tạo "đánh" anh vào lòng địch tại miền Nam dưới sự điều khiển đơn tuyến từ miền Bắc tới Ban An ninh Trung ương Cục miền Nam », như một đoạn bài báo «Thiếu tướng, GS, TSKH Nguyễn Đình Ngọc : Vinh quang là lặng lẽ » đăng trên báo Công An Nhân Dân trên mạng, viết ngày 9/5/2006. Anh vào Nam, theo học ở Đại học Sài Gòn và cưới chị T. vào năm 1955. Anh sang Pháp cuối 1955 vì có được học bổng để sang học về Khí tượng, rồi chị T. cũng sang Pháp đầu 1956 ; cuối năm chị sinh cháu H. ở Pháp.

Ở Pháp, anh Ngọc học lấy được 3 bằng kỹ sư và bằng tiến sỹ cấp ba (doctorat 3ème cycle) về Vật lý địa cầu, Khí tượng. Mấy năm sau, anh và tôi soạn luận án tiến sĩ nhà nước về Toán, ở Đại học Paris cùng thời, nhưng không cùng ngành. Anh bảo vệ luận án dưới sự hướng dẫn của giáo sư Ehresmann, dưới đề tài « Sur les espaces fibrés et les prolongements » (Về không gian phân thớ và thác triển), thuộc ngành tô-pô và hình học vi phân. Tôi bảo vệ luận án năm 1962, anh Ngọc bảo vệ năm 1963 và anh có làm giáo sư ở Đại học Poitiers, rồi ở Đại học Brest ở Pháp một thời gian. Cái thuở còn soạn luận án, rồi đi dạy ấy, chúng tôi khá thân, nhưng tất nhiên tôi không biết anh là điệp viên. Anh chị Ngọc và vợ chồng tôi thời ấy cùng sống ở Antony, ngoại ô nam Paris, nhà ở chỉ cách nhau nửa cây số, gặp nhau luôn. Đi dạy ở địa phương xa hàng mấy trăm cây số – tôi dạy ở Lille cách Paris 200 km, anh ấy dạy ở Brest cách Paris 600 km – nhưng nhà vẫn ở vùng Paris, vì thuở ấy sinh hoạt khoa học phần lớn tập trung ở thủ đô Paris; các giáo sư đại học lại chỉ phải giảng bài 3 giờ/một tuần ; lèo tèo hướng dẫn vài ba nghiên cứu sinh mà họ đồng thời cũng lại là phụ giảng viên của mình ở đại học địa phương ; ngành Toán lại không có phòng thí nghiệm, mình chỉ cần tập trung có mặt ở đó độ hai, ba ngày là đủ. Cho nên thuở đó có cái tên gọi các giáo sư không cư ngụ tại chỗ là « turbo-prof » – (anh KV. đề nghị tôi dịch là « giáo sư vù » : chợt đến rồi lại «vù» đi nhanh). Ai không sống trong khung cảnh đó thì dễ bị lẫn lộn và hiểu lầm : anh Ngọc không hề giảng dạy ở những nơi mà anh ấy học ở Pháp (trường Viễn thông, trường Hải công, Đại học Paris) như có phóng viên khẳng định. Về cái việc anh Ngọc học « dàn hàng ngang », chuyên môn này rồi chuyên môn nọ, tôi muốn nói một cách công bằng : theo tôi, không phải tại anh mắc cái tật của một số người Việt Nam, ưa học lấy càng nhiều bằng « là là » lại càng tự cho là oai, chứ không chịu (hay không có khả năng) học cao học sâu. Anh Ngọc có chủ ý khác. Có lần anh tâm sự với tôi là : nước mình lạc hậu, thay vì cá nhân mình bỏ hết hơi sức « rặn » ra thêm được vài định lý để đăng nhiều bài báo, chẳng có ích gì thực sự ; mình nên để công sức « nhập » những môn mới vào nước mình để giúp cho thế hệ sau mình có điều kiện tiến lên, còn tốt hơn. Về lý luận này, tôi có phần chia sẻ.

Phóng viên tác giả của bài báo trên Công An Nhân Dân trên mạng 9/5/2006 đã dẫn trên, còn viết : « Có lần ông kể với tôi, vì ông tự ái, tại sao người Việt Nam lại không thể giảng bài ở Pháp mà không nhìn vào giáo án. Thế là suốt nhiều đêm ông đã đọc và thuộc lòng giáo án đại học. Sáng hôm sau vào lớp, ông chỉ cầm một chiếc bút và thao giảng những kiến thức cao siêu trước sự ngạc nhiên của sinh viên nước ngoài ». Xuất phát câu chuyện chi tiết là như thế này : Vốn là thuở anh Ngọc và tôi còn học và soạn luận án, thì có một ông giáo sư ở Đại học Paris tên là ông G. Choquet, là một trong những « tổ sư » của ngành tô-pô. Xin nói qua về ông Choquet này. Ông ta vốn là bạn đồng khóa với ông L. Schwartz – người bạn thân thiết của Việt Nam mà tôi có dịp nói tới trong cuốn sách ( 6) – thuở trẻ ông Choquet học rất giỏi, thi vào thi ra, đều đỗ thủ khoa còn ông Schwartz thì lần nào cũng đỗ á nguyên, thứ nhì sau ông này ; điều này ông Schwartz có kể trong cuốn hồi ký của ông (7) . Nhưng ông Schwartz thì được huy chương Fields, nhưng ông Choquet thì không, tuy ông cũng là một cự phách trong làng Toán. Ông Choquet có một cách giảng bài khá đặc biệt, đó là vào giảng đường « tay không », không có giấy tờ, hồ sơ sách vở, tay trái bỏ vào túi quần, tay phải cầm phấn viết trên bảng, cả buổi không cần nhìn giáo án gì cả, rất gây ấn tượng cho sinh viên. Theo tôi, thì vị cũng có ý « trộ » thiên hạ. Bởi vì trí nhớ dù tốt đến đâu, cũng có giới hạn của nó, và tất nhiên đã nhiều lần vị nhớ lộn, giảng bài không trôi, phải xin lỗi lần sau giảng lại… Ông Ngọc nhà ta cũng muốn làm như vậy, và tất nhiên « đi đêm có ngày gặp ma »; một bữa, cũng giảng bài lộn, bí không tìm ra đầu đuôi, phải khất sinh viên lần sau giảng lại. Nếu vì ngành điệp viên cần luyện trí nhớ – và đó là một cách luyện trí nhớ – thì tôi thông cảm, chứ coi đó là cách giảng dạy có tính thuyết phục, thì tôi không tin. Thuở ấy, cái lần giảng lộn bài phải khất sinh viên, anh Ngọc có thú thật khi kể lại cho tôi nghe, và chúng tôi cười với nhau mãi. Thời đó, tôi chưa biết anh là điệp viên, nên chúng tôi có thảo luận về cách giảng dạy. Tôi thì cho rằng mình có bổn phận tôn trọng và nâng đỡ sinh viên – nhất là thời đó sinh viên còn chưa có phụ đạo, ít sách vở tài liệu, ít người có học bổng, một phần không nhỏ sinh viên lại là những người đã đi làm kiếm sống (giáo viên tiểu học, trung học, viên chức, vv.) tới học thêm để tiến thân, mình không nên vì lòng tự ái cá nhân mà gây thiệt thòi cho họ. Bởi vì, theo tôi, có bài giảng soạn sẵn kỹ càng, đánh số thứ tự, định nghĩa hay định lý đọc ra phải chính xác từng chữ, từng ký hiệu, thì sinh viên mới tiếp thu dễ dàng, và như vậy họ dành được nhiều thì giờ để tham khảo thêm ngoài bài giảng. Nhưng đó là lý luận của người giảng dạy, không phải là lý luận trong khung cảnh của một … điệp viên.

Trở lại chuyện anh Ngọc và cái sứ mạng điệp viên của anh ấy ; tôi chỉ nhớ là anh ấy thỉnh thoảng đi Thụy Sĩ « thăm bạn » (anh chị có một cặp bạn thân ở Thụy Sĩ ; mãi sau này, khi gặp lại anh ấy ở Thành phố Hồ Chí Minh năm 1977, anh ấy mới kể cho tôi là Thụy Sĩ là đường dây liên lạc của anh ấy). Kể ra thuở ấy, tôi ngay thật không nghi ngờ gì, tuy bao nhiêu bài nhạc, bài hát miền Bắc mà tôi có được là do anh ấy cho mượn để thu vào máy, vv. Nhưng tôi đoán, thời ở Pháp là cái thời sửa soạn cho anh một cái vỏ, một địa vị cao để sau đó dễ lọt sâu ; công tác của anh có lẽ chỉ thực sự bắt đầu khi anh đã trở về Sài Gòn, chứ ở Pháp có gì đâu mà tìm hiểu, có lẽ ngoại trừ việc anh tìm ra tung tích của người sĩ quan Pháp đã hạ lệnh giết cha anh.

Lại nhớ đã có lần (vào khoảng cuối 1959, đầu 1960) tôi hỏi anh ấy là tại sao anh ấy lại tham gia cái « hội ông Quân » mà không tham gia « hội ông Quế », anh chỉ cuời lảng mà không trả lời. Đầu đuôi câu chuyện như sau, tuy tôi không nhớ hết chi tiết, và có hỏi thăm những người cùng thời, nhưng cũng không ai nhớ rõ hết. Trước hết xin nói vài lời về hai ông này, đều là nhà toán học. Ông Phạm Mậu Quân bảo vệ luận án tiến sĩ nhà nước năm 1954 ở Đại học Paris. Ông Ngô Văn Quế, bảo vệ luận án tiến sĩ nhà nước năm 1966 cũng ở Đại học Paris. Ông Quế thì tôi có quen sơ sơ, ông Quân thì tôi biết nhiều hơn vì có lúc là đồng nghiệp ở Đại học Lille trong vài năm. Hội ông Quân lập ra – lâu ngày tôi không nhớ, nay hỏi thăm, có người bảo là hội đó mang tên « Science et Culture pour le Vietnam » (Hội Khoa học và Văn hóa cho Việt Nam) – thuở ấy bị/được coi là một hội phái hữu, một phần vì ông Quân lúc đó không ủng hộ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một phần có lẽ tại ông lấy em gái ông Phạm Khắc Hy, đại sứ của của chính quyền ông Diệm ở Pháp (sau này ông bà ly dị). Hội do ông Quế làm hội trưởng, mang tên là « Association des Etudiants Vietnamiens en Science et Technique », (Hội sinh viên Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam tại Pháp), gần phong trào Việt kiều – nghĩa là nếu dùng đúng ngôn ngữ một thời, đó là một « tổ chức quần chúng » của Nhóm Việt Ngữ – được thành lập khoảng cuối năm 59, đầu năm 60, sau khi hội Liên hiệp Việt kiều bị chính phủ Pháp của ông De Gaulle cấm (8) . Còn Nhóm Việt Ngữ (sau này đã giải tán), là nhóm cốt cán của phong trào Việt kiều ở Pháp ; tôi không tham gia nhóm này, nhưng có được nghe nói tới ; sự tích của nhóm này có được kể trong cuốn hồi ký của đại sứ Võ Văn Sung (9) . Vì thế « Hội ông Quế » được coi là hội phái tả. Tôi không tham gia hội ông Quân vì tôi coi chính quyền Bảo Đại do Pháp dựng nên và chính quyền ông Diệm nối theo là không « chính thống/đáng » (légitime) (10) ; tôi cũng không tham gia hội ông Quế vì lúc đó tôi nghĩ rằng tôi đã đi làm, không phải là sinh viên. Tôi hỏi anh Ngọc tại sao anh chọn tham gia hội ông Quân mà không tham gia hội ông Quế, vì lúc đó vấn đề ý thức hệ đặt ra rất nặng. Sau này tôi mới biết là anh Ngọc cần củng cố cái vỏ cho công tác của anh ấy sau này.

Cũng có một câu chuyện tình cờ xảy ra, làm anh chị ấy bị nghi oan. Có một lần, anh ấy để chị và cháu đi « trại hè » do phong trào Việt kiều ở Pháp tổ chức. Chẳng may vào dịp đó, có mấy sinh viên du học ở Pháp bị chính quyền ông Diệm cắt chuyển ngân. Từ đó, có sự suy luận là anh chị ấy làm «chỉ điểm cho địch ». Thực ra đó chỉ là một sự trùng khớp ngẫu nhiên, nó không nằm trong sự cố tình tạo ra cái vỏ chống cộng, bởi vì có cái đạo lý « không gây hại cho cá nhân người khác ». Còn tôi thì đã có một lần tới sứ quán ông Diệm ở Paris để … phản đối việc cắt chuyển ngân của sinh viên du học (11) .

Đến năm 1963, sau cuộc đảo chính lật ông Diệm, ông Phạm Hoàng Hộ (12) làm tổng trưởng (bộ trưởng) Giáo dục trong chính phủ Nguyễn Ngọc Thơ ở Sài Gòn ; ông có lời kêu gọi sự hợp tác của trí thức Việt kiều. Nhân chuyến công du sang Pháp của ông Hộ, có một buổi gặp gỡ (một bữa ăn) với một số trí thức Việt kiều, tôi không nhớ anh Ngọc có dự hay không, hình như là có. Riêng tôi có được ông Phạm Mậu Quân rủ đi – lúc đó tôi đang là đồng nghiệp của ông Quân ở Đại học Lille – nhưng tôi từ chối vì lẽ đã kể trên, vả lại thêm vào đó, ông Quân còn bảo tôi là buổi dự chỉ có những người « ở trên », nên tôi thấy « không ổn », vì tôi không nghĩ rằng có bằng cấp và có địa vị xã hội nào đó, là « ở trên » người khác. Ông Quân vốn là người Việt Nam đầu tiên làm luận án dưới sự hướng dẫn của ông A.Lichnérowicz, giáo sư ở Collège de France (13) , nên ông ấy cho cảm tưởng là ông muốn đóng một vai trò « trưởng tràng » nào đó đối với những người Việt Nam làm luận án với nhóm ông Lichnérowicz. Anh Ngọc và tôi là ngoại đạo, nên không liên quan.

Thời còn ở Pháp, anh Ngọc cũng quen biết nhiều người Việt Nam, và anh cũng có cái tài nhẫn nhục làm quen. Vào khoảng 1965-66 có ông NVH ở Huế cũng sang Paris soạn luận án tiến sĩ nhà nước dưới trướng ông Lichnérowicz kể trên. Ông NVH này cũng là một nhân vật đặc biệt, không gây thiện cảm, nên trong đám những người Việt Nam làm Toán, ít ai làm quen với ông ta, trừ anh Ngọc, làm thân được với ông này. Khoảng cuối 1968, sang 1969 (tôi không nhớ kỹ thời điểm) có một lá thư kêu gọi trí thức Việt kiều về hợp tác ở miền Nam do ông NVH viết ; và để gây tính thuyết phục hơn, ông ấy kể trong thư rằng ông ấy có được sự nhận lời của giáo sư R. Thom, sẽ sang thỉnh giảng ở Đại học Huế, « mà không nhận thù lao ». (Ông Thom, huy chương Fields, giáo sư ở Institut des Hautes Etudes Scientifiques, Pháp). Lúc đó tôi lấy làm lạ, vì hầu hết các nhà khoa học đặc biệt là các nhà toán học ở Pháp nói chung đều ủng hộ miền Bắc ; tôi hỏi ông Thom là có đúng là ông nhận lời đi Huế thỉnh giảng không, thì ông ta cười trả lời tôi rằng : « Tôi có biết người này là ai đâu, mà bảo rằng tôi nhận lời đi dạy Huế ! ». Có những người Việt Nam « bạo » khiếp, dám khẳng định những điều nghe tưởng như thật.

Tháng 2 năm 1966, bỗng nhiên anh Ngọc lấy quyết định về Sài Gòn (sau này mới biết là anh ấy được trao nhiệm vụ như vậy). Tôi thì hết sức can, lại nhân dịp có cậu họ tôi là người trong ngành ngoại giao của chính quyền Sài Gòn đi qua Pháp, tôi có mời cơm để cậu tôi khuyên anh ấy đừng về ; anh ấy chỉ cười và cảm ơn. Bài báo Công An Nhân Dân trên mạng 9/5/2006 đã dẫn, cũng là bài báo duy nhất trong nước mà tôi đọc thấy, viết lướt về vợ con anh Ngọc : « Chiến tranh và nhiệm vụ cách mạng vô cùng cam go, có thể hy sinh bất cứ lúc nào, ông cũng không ngờ chuyến trở về tạm biệt vợ con ngày đó... trở nên xa vời mãi mãi... », nhưng bài báo không nói tại sao lại xa vời mãi mãi – trong khi một vài bài báo khác lại chỉ viết về một « người bạn đời » của anh. Tôi thấy cần công bằng nên xin nói thêm những điều tôi biết. Thuở anh Ngọc rời Pháp về Sài Gòn, tôi không hiểu vì lý do gì chị ấy và cháu không về, mà ở lại Pháp ; sau này tôi mới nghe kể là – trái với lời đồn một thuở – chị T. biết công tác điệp viên của anh ấy ngay từ ngày vợ chồng mới lấy nhau. Anh Ngọc lấy quyết định về một mình, vì sợ nguy hiểm cho chị T. và cháu, có thể bị bắt làm con tin, nếu công tác bí mật của anh ấy bị lộ. Rồi anh ấy về giảng dạy ở Đại học Sài Gòn. Có những điệp viên đóng vai thượng lưu, chơi chim chơi chó, cà phê, sâm banh; còn anh Ngọc đóng vai một ông trí thức gàn dở, vốn đã có sẵn có khi còn ở Pháp, nhưng lại càng lộ cái gàn dở hơn nữa khi về Sài Gòn. Đôi khi tôi cũng tự hỏi : khi phải đóng một vai trò gàn dở, con người dần dần có thể biến thành cái nhân vật mình đóng, tựa hồ như luôn luôn phải « tự quất » mình (autoflagellation) không ? Anh thường để lại hình ảnh một con người khắc khổ, ít hưởng thụ, không thích ăn ngon mặc đẹp, ngày ăn một bữa, làm việc đến kiệt sức té xỉu, rất chặt chẽ trong việc chấm điểm bài vở cho sinh viên, vv. Ngó anh, tôi không khỏi nghĩ tới hai câu thơ Nguyễn Khuyến trong bài « Mẹ Mốc » : « Ngoại mạo bất cầu như mỹ ngọc. Tâm trung thường thủ tự kiên kim », (nghĩa là : mặt ngoài không cần đẹp như ngọc ; nhưng trong lòng hằng giữ bền như vàng). Nhưng, theo tôi nghĩ, ngoài cái vỏ cứng nhắc ấy, thực ra anh là một con người tận tụy, khắc nghiệt với chính mình mà khoan dung hơn với người khác, và tôi nghe đồn là anh đã che chở, nâng đỡ cho nhiều người trong phạm vi có thể, trong những ngày khó khăn nào đó. Hơn thế nữa, trong anh là một tâm hồn lãng mạn : không chỉ « lãng mạn cách mạng », mà còn lãng mạn theo nghĩa … thông thường. Không quen biết thì khó hình dung được con người ấy lại rất mê nhạc lãng mạn phương tây. Tôi còn nhớ một kỷ niệm nhỏ : vào dịp cưới vợ chồng tôi, trong mớ quà mừng của anh chị, anh chọn tặng tôi đĩa bản concerto pour piano của Grieg, và đĩa bản nhạc concerto pour violon của Brahms, trong khi tôi lại ưa nhạc baroque hay xưa hơn nữa. Có điều nữa là anh Ngọc rất ghét nhạc Offenbach ; lý do là theo anh, nhạc Offenbach dính liền với French Cancan (14) , với vui chơi đùa giỡn. Nhưng thực ra, nhạc Offenbach đâu chỉ có vậy : tính nhạo báng, giễu cợt và « bất kính » cũng không loại trừ vẻ đẹp của âm điệu. Nhưng vào thời điểm mà nước nhà đang khói lửa, thái độ của anh cũng dễ hiểu.

Bên gia đình chị T. ở Sài Gòn có những người có địa vị cao cấp, ngay cả trong quân đội, mà anh Ngọc rất thân thiết. Anh ấy về Sài Gòn rồi, chị T. ở lại lo việc làm ăn, nuôi con và tiếp tế cho gia đình của chị và của anh còn ở miền Bắc. Có một khoảng thời gian, chị T. nhờ vợ tôi dạy học thêm cho cháu H. chủ yếu là về Toán vì chị không có khả năng ấy. Rồi sau đó đến lượt ông A. Grothendieck, thay vợ tôi, đảm nhiệm việc này. Ông Grothendieck, huy chương Fields, thuở ấy là giáo sư tại Institut des Hautes Etudes scientifiques, tổ sư của ngành Hình học Đại số, được đa số giới toán học coi là một nhà toán học lớn nhất của thế kỉ 20. Thuở ấy cũng là chỗ quen biết thân thiết. Nhà ông bà Grothendieck cũng gần, ông bà rất có cảm tình với Việt Nam, đã có lúc chứa những người Mỹ trốn lính ; ông là một trong những nhà khoa học tích cực ủng hộ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tôi đã có dịp nói lướt về ông, trong bài tôi viết về ông L. Schwartz trong cuốn sách (6) đã dẫn. Năm 1967, ông có sang Hà Nội, giảng dạy làm xê-mi-na trong vùng sơ tán. Nhưng ông cũng là người khá kỳ dị, từ cách ăn mặc, đến cách cư xử, rất ngay thật, tận tụy, nhưng hoàn toàn không nhân nhượng, làm cho nhiều người không hiểu được. Sau này, ông ta dứt bỏ Toán học – có giả thuyết cho rằng tại ông thất vọng không giải được mấy bài Toán khó còn đang mở – cắt đứt quan hệ với mọi người kể cả gia đình, ở ẩn nơi nào, không ai biết điạ chỉ nữa.

Trở lại câu chuyện anh Ngọc về Sài Gòn, tôi không có dịp liên lạc. Sau Tết Mậu Thân 1968, ông Phạm Mậu Quân có về thỉnh giảng ở Đại học Sài Gòn ; lúc trở lại Pháp – lúc đó ông ấy và tôi còn cùng đang dạy ở Đại học Lille – ông kể cho tôi biết là ông ấy giận anh Ngọc lắm. Lý do ông nêu là đúng vào bữa ông thuyết trình, anh Ngọc cũng làm một buổi thuyết trình cùng ngày cùng giờ cùng đề tài, làm giảm số người đến nghe ông ấy. Thêm vào đó, ông lại càng giận vì bà khoa trưởng (có lẽ là bà giáo sư TNT ?) bữa đó có con ốm không tới giới thiệu ông ấy với cử tọa được. Thời đó, mấy người giáo sư đại học đều ở trong cái tòa nhà, số 274 đường Công Lý (sau gọi là Nam Kỳ Khởi nghĩa), chả biết ông Quân có nghi sự trùng khớp đó là « không ngẫu nhiên » không (15) .

Về Sài Gòn rồi, tôi có nghe kể là anh Ngọc quay ra « nghiên cứu » chiêm tinh, và có lời đồn đại về tài nghệ bói tử vi của anh, điều mà tôi không thấy anh nói tới khi còn ở Pháp. Một trong những lý do được giải thích sau này là anh sử dụng cái vỏ đó để làm công tác điệp viên, như bài báo trên Công An Nhân Dân trên mạng 9/5/2006 đã dẫn, viết : « Nghe đâu, Giáo sư, TSKH Nguyễn Đình Ngọc là người được giới chính trị cấp cao chính quyền Sài Gòn [chú thích của BTL : có lẽ là gia đình họ] hay cậy nhờ xem về hậu vận, ở một vị trí với uy tín vỏ bọc thuận lợi như thế, những tin tức tình báo chuyển về An ninh Trung ương Cục sẽ vô cùng có giá trị ». Có điều là sau ngày thống nhất, rồi ngay cả khi đã trở ra Hà Nội nhận công tác mới, anh còn tiếp tục bói tử vi ; có người còn khen tài nghệ của anh là « quỷ khốc thần sầu » (anh HTB cho biết rằng ở Hà Nội thuở ấy có dư luận cho là có 3 vị xem tử vi hay: nhạc sĩ Hồng Đăng, ông Trần Quốc Vượng, và anh Nguyễn Đình Ngọc). Anh muốn gây ảnh hưởng với ai, hay là chính anh cũng đâm ra tin ? Đọc trong cuốn sổ lưu niệm đám tang anh, tôi thấy có một ông thiếu tướng, tiến sĩ KHKT quân sự, chủ nhiệm Bộ môn Cận Tâm lý thuộc Trung tâm nghiên cứu tài năng con người, khi nhắc đến sự trao đổi với anh, viết : «[...] cố gắng tìm hiểu một số vấn đề bí ẩn mà chính chúng ta cũng chưa giải thích ». Nhưng xem chừng như « Bụt chùa nhà không thiêng », nghe nói anh quyết anh sẽ còn sống thêm mấy tháng nữa, nhưng bệnh tật đã làm cho lời đoán không nghiệm. Nhưng đó là chuyện phụ.

Sau chiến tranh, năm 1977, nhân một dịp về nước, tôi vào Thành phố Hồ Chí Minh, mới gặp lại anh trong một bữa cơm riêng tại nhà người bà con, ở ngôi nhà 274 Nam Kỳ Khởi nghĩa đã kể trên. Khi ấy anh chưa ra Bắc nhận công tác mới. Lại nghe nói là anh còn trong đợt « chờ đợi kiểm tra ». Điều này, bài báo trên Công An Nhân Dân trên mạng 9/5/2006, cũng có viết lướt : « Càng leo cao, người tình báo như ông càng cô đơn trong thực hiện nhiệm vụ, đó sẽ là điều dường như Giáo sư Nguyễn Đình Ngọc muốn gửi gắm cho đồng nghiệp trẻ. Bởi có thời gian, do hoạt động đơn tuyến, ông cũng bị đặt nhiều dấu hỏi; thậm chí đến sau giải phóng miền Nam năm 1975, nhiều người trong lực lượng Công an còn chưa biết Nguyễn Đình Ngọc là ai, cả khi năm 1988, ông được bổ nhiệm chức vụ Phó Cục trưởng Cục Khoa học và Kỹ thuật và tháng 10/1994 được phong hàm Thiếu tướng ». Tối hôm đó, khi chở tôi về khách sạn Bông Sen đường Đồng Khởi bằng xe đạp, tôi có hỏi anh về chuyện gia đình, anh có tâm sự một số điều. Về những lý do gì để cặp vợ chồng anh bị rạn nứt, anh có lời giải thích riêng. Tôi cũng đã nghe chị T. giải thích và tôi biết là sau 1975, Bộ Nội vụ nhiều lần cố gắng tạo điều kiện để chắp nối lại, nhưng việc không thành. Tôi biết nói gì hơn, khi tôi biết chị đã khóc cạn nước mắt trong nhiều năm, và dường như từ lâu nước mắt của anh đã chỉ « chảy vào bên trong ». Lời đồn và sự thật ? Anh và tôi vốn đều không ưa để lộ tình cảm, nhưng tối hôm đó hình như anh nhận thấy tôi lén chùi khóe mắt, anh im lặng nắm vai tôi hồi lâu trước khi chia tay.

Rồi đến năm 1981, lần cuối cùng tôi về nước, trong buổi « Đoàn trí thức » tụi tôi trình bày về « hồ sơ Việt kiều : tiềm năng trí thức, kinh tế, vv. » (16) ở Ủy Ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước, anh có lại nghe, nhưng bữa đó đông người và tôi rất bận, nên chỉ kịp nói với nhau mấy câu chào hỏi. Rồi giữa anh và tôi cũng không có dịp liên lạc gì trực tiếp.

Mấy năm sau (tôi không nhớ kỹ thời điểm), tình cờ trong một buổi chiêu đãi ở Sứ quán ta ở Paris, vợ chồng tôi thấy anh Ngọc lại tìm tụi tôi : anh đi trong phái đoàn ông Bùi Thiện Ngộ (Bộ trưởng bộ Nội vụ, thuở ấy hình như chưa tách ra bộ Công An) sang hợp tác với Pháp về Interpol, và mua trang bị cho Bộ Nội vụ. Nhìn thấy anh mặc bộ « đồ lớn » complet-veston có cả gilet, tôi cười hỏi rằng có phải là bộ đồ của ông thân sinh anh thuở xưa không ? Anh cũng cười và ngạc nhiên là tôi vẫn còn nhớ : vốn là thuở còn ở trong dưỡng đường ở Sceaux, một buổi tối, tôi ghé qua phòng anh, thấy anh đang dùng bút mực xanh để « chấm » các sợi chỉ đỏ trên bộ quần áo của ông thân sinh anh, thuở ông còn làm y sĩ trước thời cách mạng, bộ quần áo mà anh mang theo sang Pháp thời còn là sinh viên – anh không ưa các sợi chỉ đỏ trên bộ áo mầu xanh đậm, nên phải bỏ ra mấy đêm mới « chấm » hết các sợi chỉ đỏ đó trên bộ áo. Kể vậy để thấy tính con người anh như thế nào. Lần đó, tôi có nhắc nhở đến chuyện gia đình, nhưng anh vẫn không muốn gặp lại vợ con. Lúc ấy có tin đồn anh đã có « người bạn đời » từ một thời gian.

Anh Ngọc có lẽ cũng do nghề nghiệp điệp viên, ít khi nhắc kỹ đến gốc gác thời mình còn học ở Pháp. Tôi nhớ câu chuyện sau đây : Giới khoa học Pháp – trong đó có các nhà Toán học – thuở chiến tranh và ngay sau chiến tranh, có nhiều cảm tình với Việt Nam, nên nhiều người tự nguyện đi Việt Nam giảng bài, làm xêmina, vv. Có một lần ông F. Bruhat, giáo sư Đại học Paris 7, cũng là nhà toán học có tiếng, đi Việt Nam về, bảo tôi : « Lúc làm thuyết trình, tôi có được một người phiên dịch tuyệt vời, rất uyên bác, tên là Ngọc, anh có quen không ? ». Tôi hỏi lại: « Anh ta không nói gì với anh về những năm anh ta ở Pháp à ? Và anh cũng quên hết về anh ta rồi sao ? Chính anh là thành viên của ban giám khảo luận án của anh ta, và chính anh là người đã ra cái đầu đề « luận án thứ hai » cho anh ấy đấy mà ! ». Cần nói thêm cho dễ hiểu : thời đó, khi bảo vệ luận án tiến sĩ nhà nước ở Pháp, ngoài việc bảo vệ cái luận án « chính », có lệ là ban giám khảo còn buộc thí sinh phải trình bày một giáo án trên một đề tài mà ban giám khảo trao cho, trong một lĩnh vực xa lạ với đề tài của cái luận án « chính », và chỉ được soạn giáo án này trong một thời gian giới hạn (vài ba tháng), để kiểm tra khả năng tiếp thu của thí sinh. Không nói gì với ông Bruhat là cố nhân, phải chăng cũng là một thứ méo mó nghề nghiệp điệp viên ? Ngay cả năm ngoái, khi con nhớn của tôi cùng đồng nghiệp ở nước ngoài về tổ chức Hội nghị về Tin học RIVF'05 (Research, Innovation and Vision for the Future) ở Cần Thơ, anh có lại dự, và tự giới thiệu mình nay là « phóng viên khoa học ».

Tôi cũng nghe anh HTB kể : Tháng 2/2006 sau hội nghị RIVF'06 ở Thành phố Hồ Chí Minh có cuộc họp mấy người phụ trách RIVF bàn làm sao đưa Việt Nam và RIVF vào thành một section của IEEE (Institute of Electrical and Electronics Engineers). Bữa đó anh Ngọc cũng dự, rất yếu nhưng vẫn góp ý say sưa, nhanh lẹ như thường lệ.

Thuở xưa có ông Phan Kế Bính viết cuốn « Nam Hải dị nhân », kể sự tích về những nhân vật như Hai Bà Trưng, Bố Cái đại vương, Lý thường Kiệt, …, và Lê Như Hổ ngày ăn nổi một nồi ba mươi cơm, vv. Sau này, nếu ai có ý định viết một cuốn « Nam Hải dị nhân » mới, xin đừng quên nhân vật Nguyễn Đình Ngọc …

Trở lại chuyện gia đình, mãi những năm gần đây, mới có sự « liên lạc » trở lại giữa anh ấy và chị T. và cháu H. (từ lâu đã trưởng thành), sau mấy chục năm gián đoạn, có lẽ vì chị T. kiên trì tìm nối lại, nhưng sự hàn gắn thì không có. Chuyện đời tư của một « thường nhân » thì không nên nói tới, nhưng khi một nhân vật đã có danh (tôi muốn nói : « homme public ») , thì trái lại cũng cần biết thêm để soi rõ hoàn cảnh của thời cuộc. Về anh Ngọc thì công lao tất nhiên là nhiều ; nhưng hy sinh và đau đớn thì cũng rất lớn, có thể nói là anh ít may mắn hơn một số người khác. Người ta đồn đại nhiều về anh ấy, nhưng mấy ai biết được sự thật ở chỗ nào ? Anh đã có lời phát biểu với một phóng viên : « […] người cán bộ điệp báo như một ngọn đèn dù công suất có lớn đến đâu thì cũng không có giá trị tự thân. Phải có một sợi dây liên lạc, một cách thức để truyền thông tin, không có điều này thông tin mà người điệp báo thu thập được không có giá trị gì cả ». Tôi đoán rằng tuy anh không nói tiếp ý của anh, có thể anh cũng đã không quên rằng có những người khác đã góp phần tạo điều kiện cho anh thực hiện được sứ mạng của anh. Chị T. bảo tôi rằng nếu vào những giai đoạn cuối, chị và cháu nhiều lần về thăm anh những ngày bệnh anh đã nguy kịch – anh như « sống lại » mỗi lần gặp lại cháu – là vì chị nhớ tới lời ước mong của anh thuở công tác tính mạng còn như treo sợi tóc (sợ chị và cháu bị kẻ địch bắt làm làm con tin vì công tác của anh) : ước mong có chị và cháu ngồi cạnh anh khi anh nhắm mắt. Điều mong ước ấy, có thể giờ chót anh còn nhớ chăng.

Tôi có được chị T. cho xem mấy tấm hình đám tang anh, do Bộ Công An tổ chức. Thấy có tấm trướng đề « Vô cùng thương tiếc … », linh cữu phủ quốc kỳ, có hàng chữ « vì anh ninh tổ quốc », có đội túc trực danh dự, có dàn nhạc mặc binh lễ phục trắng, có hàng trăm vòng hoa, có hình ảnh mấy ông tướng công an tới viếng … Thấy bà « bạn đời » chít khăn đen cùng anh em bà và « cậu con nuôi » đứng ở đầu linh cữu, rồi đến cháu H. và chị T. cùng thân quyến chít khăn trắng, thấy cháu H. mang bát cơm có cắm hai chiếc đũa « chẻ » – một tập quán từ thuở xa xưa mà tôi đã bẵng quên – thấy cậu con nuôi mang bát nhang. Rồi lại thấy lọ tro sau hỏa táng ; nghe nói anh mong được chôn cạnh mộ cha mẹ anh (mộ ông thân sinh anh là mộ « tượng trưng », vì không tìm thấy xác). Lại đọc cuốn sổ tang, thấy ghi lời lưu niệm của bạn đồng học thuở trường trung học Chu Văn An, của đồng nghiệp sau này, của học trò anh, … ; cũng thấy có lời ghi nhắc đến một vài sĩ quan cao cấp của chính quyền Sài Gòn, lại thấy có cả lời ghi của một người nước ngoài bằng tiếng Pháp mà cảm tình chắc là phải lớn : « Chào tạm biệt và hẹn tái ngộ một ngày sắp tới » (Au revoir et à bientôt).

Những người thuộc thế hệ anh Ngọc đã phải trải qua những cảnh éo le, có thể nói là rất đau khổ. Có người tham gia cuộc chiến vì lý tưởng, vì bổn phận, có người vì thời cuộc đẩy đưa , chắc chẳng có mấy ai vì công danh như lời thơ « Chinh phụ ngâm » :

Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt,

Xếp bút nghiên theo việc đao cung …

Nhiều hoàn cảnh cũng không hẳn như lời bài ca « Quand un soldat » (« Khi người lính ») – có lẽ phải gọi là bài thơ tự phổ nhạc – của Francis Lemarque, năm 1952, ở Pháp. Thuở ấy, tôi nghe mà thấy dửng dưng ; nay đọc lại lời thơ, cũng thấy rung cảm. Tất nhiên, tác giả chỉ nói cảnh người lính đi chiến đấu không lý tưởng, nằm ngoài khuôn khổ của những lý do « chính đáng » vv. Tôi không phải là « dịch giả », mà là « dịch dở », nên xin chỉ tạm tóm lược đại ý vài câu, rồi chép nguyên văn bài thơ tiếng Pháp trong chú thích (17) dưới đây:
Chàng đi chiến chinh ; trở thành nguyên soái, đó là mong ước.
Trên đường về, quần áo bẩn đeo vai, chân chàng bước.

Theo cuốn « Từ điển của Quỉ » (Dictionnaire du Diable) của Ambrose Bierce (1842-1914), dẫn trong cuốn « Les Miscellanées de Mr. Schott », nxb Allia 2005, « sự khâm phục [của mình đối với một người] » được định nghĩa là « cách lịch sự để công nhận sự giống nhau giữa mình và người đó ». Vì tôi hiểu như thế nên tôi không biết tán dương ; tôi chỉ biết kể những điều tôi được biết, với cảm tình và lòng thân ái.

Và tôi nhớ tới câu chuyện : thuở trước ngày Tổng khởi nghĩa tháng tám 1945, trong rừng Việt Bắc, cụ Hồ ốm nặng, nghĩ mình không sống được, có dặn dò ông Võ Nguyên Giáp : « Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập » (18) . Vì phải giành cho được độc lập thống nhất, những đau khổ chồng chất trong mấy chục năm, trải qua ngoại xâm, giết chóc, càn quét, chia lìa, ý thức hệ, cải cách ruộng đất, cuộc chiến Nam Bắc, vv. cộng lại, xem ra cũng xứng với cái hình ảnh tượng trưng « đốt cháy Trường Sơn » đấy chăng ?





Chú thích :

(1) Tự sự của người xa quê hương, (tên gốc của sách là « Chuyện gia đình và ngoài đời »), Bùi Trọng Liễu, nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004.

(2) Người lính già Đặng Văn Việt, chiến sĩ đường số 4 anh hùng, Đặng Văn Việt, nxb Trẻ, Hà Nội 2002.

(3) Hai mươi năm qua : 1945-1964, Đoàn Thêm, nxb Nam Chi Tùng thư, Sài Gòn 1965.

(4) Nhắc lại là tướng Dương Văn Minh đảo chính hạ ông Ngô Đình Diệm 2-11-1963 ; nhóm tướng Nguyễn Khánh lật tướng Dương Văn Minh 30-1-1964 ; khi tướng Khánh bị khó khăn, mới đành đưa ông Phan Huy Quát lên làm thủ tướng chính phủ Cộng hòa Việt Nam (chính quyền Sài Gòn). Trong cuốn « Gọng kìm Lịch sử », hồi ký chính trị của Bùi Diễm, cơ sở xuất bản Phạm Quang Khai 2000 – tác giả lúc đó là bộ trưởng phủ thủ tướng, sau này là đại sứ ở Washington thời tướng Nguyễn Cao Kỳ, thời tướng Nguyễn Văn Thiệu, , rồi là đại sứ lưu động, ông Diễm viết [trích]:

« Chính phủ Phan Huy Quát thành lập ngày 18 tháng 2 1965, ba ngày sau khi kế hoạch Rolling Thunder được thi hành. Cùng Không Lực Hoa Kỳ, một số máy bay chiến đấu của Việt Nam Cộng Hòa cũng tham gia các phi vụ nhằm phá hủy một số mục tiêu quân sự ở miền Bắc [trang 220]. Ngoài chiến dịch Rolling Thunder, Hoa Kỳ còn sử dụng không quân trên không phận miền Nam. Quan trọng hơn nữa, với tầm mức lịch sử, là việc đổ bộ lên Đà Nẵng ngày 8 tháng 3, 1965 của hai tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến Mỹ [trang 221]. Sáng sớm ngày 8 tháng 3, 1965, tôi vừa mở mắt thì có điện thoại của Thủ tướng Quát. Với giọng vội vàng, ông bảo tôi phải đến gặp ông ngay tại nhà riêng vì có việc cần. Vừa đến nơi, tôi đã thấy sứ thần Manfull tại đó. Tôi chưa kịp hỏi ông Manfull câu nào thì bác sĩ Quát đã cho tôi biết là Thủy Quân Lục Chiến Hoa Ký đáng đổ bộ vào Đà Nẵng và yêu cầu tôi cũng với ông Manfull soạn thảo bản thông cáo chung loan báo việc này [trang 222]. Tôi kéo bác sĩ Quát sang phòng khác và hỏi ông : « Có gì đặc biệt về phương diện quân sự mà chúng ta không được biết, đến độ họ phải hành động một cách vội vàng như vậy ? » Bác sĩ Quát cố giữ bình tĩnh nhưng giọng nói hơi gắt gỏng : « Lúc này họ đang đổ bộ lên Đà Nẵng, anh hãy làm xong bản thông cáo rồi chúng ta sẽ bàn sau » [trang 223]. Bác sĩ Quát và tôi đã từ lâu không muốn có Hoa Kỳ can thiệp trực tiếp, nhưng làm thế nào để sử dụng được hữu hiệu sự giúp đỡ của một đồng minh lớn mà vẫn tránh được những hậu quả chính trị bất lợi ? Lúc đó chúng tôi có cảm tưởng là đi trong sương mù [trang 229] ». (Hết trích).

Nói kỹ hơn, trong suốt chương 17 của cuốn sách mang đầu đề là « Hoa Kỳ can thiệp trực tiếp và đổ bộ quân vào Việt Nam », tác giả kể việc Mỹ trực tiếp quyết định việc đưa quân vào miền Nam, và ông Quát và cộng tác viên của ông ta chỉ được thông báo sau và phải ra thông cáo chung, mà như vậy cũng chẳng phải một lần : « Cực chẳng đã, bác sĩ Quát một lần nữa phải miễn cưỡng "thỏa thuận" » [trang 230], vv.

Điều kể trên làm tôi liên tưởng đến cuốn sách của bà Nguyễn Thị Bình và tập thể tác giả : Mặt trận Dân tộc Giải phóng, Chính phủ Cách mạng lâm thời, tại Hội nghị Paris về Việt Nam, nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2001, trong đó ông Lý Văn Sáu, nguyên là người phát ngôn của đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng - Chính phủ Cách mạng lâm thời tại Hội nghị Paris về Việt Nam, có nhắc đến chuyện bộ trưởng Xuân Thủy phê phán chính quyền Thiệu là những kẻ « rước voi về giày mả Tổ » [trang 202]. Câu này tôi cũng nghe thấy bà Bình dùng trong một buổi nói chuyện thời đó, khi nói về chính quyền Sài Gòn. Có lẽ hơi « oan » cho họ : « voi » nó tự rước nó vào, chứ mấy người kia có thế gì mà rước ?

Theo ông Bùi Diễm, ông Quát chết trong khám Chí Hòa năm 1979.

(5) Theo sách đã dẫn (3), chế độ quân dịch trong vùng Pháp tạm chiếm được ban bố ngày 15/7/1951 ; lệnh cấm thanh niên xuất ngoại ban hành ngày 7/8/1951 ; tới ngày 16/10/1951, có 15000 thanh niên bị nhập ngũ ; 1000 thanh niên có bằng « Trung học đệ nhất cấp » trở lên theo học trường sĩ quan Nam Định và trường sĩ quan Thủ Đức ; ngày 1/12/1952, gọi nhập ngũ các thanh niên từ 20 đến 28 tuổi có bằng « Cao đẳng tiểu học » để theo học các lớp sĩ quan.

(6) Chung quanh việc Học, Bùi Trọng Liễu, nxb Thanh Niên, Hà Nội 2004.

(7) Un mathématicien dans le siècle, Laurent Schwartz, nxb Odile Jacob, Paris 1997.

(8) Trách nhiệm của ông De Gaulle trong việc khởi đầu chiến tranh (của Pháp) ở Việt Nam là rất nặng. Nhưng từ năm 1963, ông ta nêu đề nghị trung lập hóa miền Nam Việt Nam, và năm 1964, kêu gọi chấm dứt mọi sự can thiệp cửa nước ngoài vào miền Nam Việt Nam. Trong thư gửi Hồ Chủ tịch, ngày 2/8/1966, Tổng thống De Gaulle viết : « Giá có một sự hiểu biết nhau tốt hơn giữa người Việt Nam và người Pháp ngay sau đại chiến thế giới thì đã có thể tránh được những sự biến tai ác đang giằng xé đất nước Ngài hôm nay ». Trong ngôn ngữ của một chính khách lão luyện, đó phần nào là sự nhìn nhận (tuy muộn màng) trách nhiệm của ông ta trong chính sách của Pháp ở Đông Dương giai đoạn 1945-1946. (Nguồn : Ngoại giao Việt Nam (1945-2000), do ông Nguyễn Đình Bin chủ biên, với sự tham gia của các ông Nguyễn Xuân, Lưu Văn Lợi, Nguyễn Ngọc Trường, Nguyễn Khắc Huỳnh, Nguyễn Ngọc Diên, vv., nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002).

(9) Chiến dịch Hồ Chí Minh giữa lòng Paris, Võ Văn Sung, nxb Quân đội Nhân dân, 2005.

(10) Khác với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, từ Cách mạng Tháng tám 1945 mà ra, lại có sự thoái vị của vua Bảo Đại, trao lại quyền chính, thể hiện tượng trưng qua việc trao ấn kiếm ở Huế, trước ngày Tuyên ngôn độc lập 2/9/1945. Rồi sau đó lại có ngày Tổng tuyển cử ngày 6/1/1946, bàu lên Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam. Ở đây, tôi chỉ nói về mặt chính quyền, không luận đến vấn đề ý thức hệ.

(11) Lại nhớ tới một giai đoạn của du học sinh Việt Nam tại Pháp, tôi muốn nói tới cái khoảng những năm trước và sau 1950 ít lâu. Cuộc sống cũng cơ cực lắm, chứ không « phây phây » như có người tưởng. Ngoại trừ những con em gia đình thật khá giả, một số gia đình gửi được con đi Pháp du học tự túc thuở ấy, là nhờ ở việc đổi tiền. Theo cuốn sách (3) đã dẫn, từ ngày 25/12/1945 tới ngày 10/5/1953, giá hối đoái 1 đồng bạc Đông Dương (piastre) là 17 francs Pháp – nhắc lại là đây là franc cũ, chưa phải là franc « nặng » thời ông De Gaulle trở lại cầm quyền thời Cộng hòa thứ V (franc « nặng » tồn tại từ 1960 đến 2002) – cho đến ngày 11/5/1953, chính phủ Pháp « đơn phương » phá giá đồng bạc Đông Dương, 1 đồng bạc Đông Dương chỉ còn bằng 10 francs Pháp, mà không hỏi ý các chính phủ các Quốc gia Liên Kết (Etats Associés) trong Liên hiệp Pháp (Union française) – nghĩa là các chính phủ Việt Nam của « quốc trưởng » Bảo Đại (tiền thân của chính quyền Cộng hòa Việt Nam của ông Ngô Đình Diệm), và Miên, và Lào do Pháp dựng nên trong các vùng tạm chiếm – mặc dù theo các Thỏa ước ký với các chính phủ này, Pháp phải hỏi ý họ trước. Theo hai cuốn sách « Le trafic des piastres » của Jacques Despuech , nxb Deux Rives Paris, 1953, và « La guerre française en Indochine, 1945-1954 » của Alain Ruscio, nxb Editions Complexes, 1992 (cám ơn anh Vũ Ngọc Quỳnh đã cho tôi thông tin về hai cuốn sách này), trong khoảng 1945-1953 kể trên, do giá hối đoái được thặng lên – giá thực của đồng bạc Đông Dương lúc đó được ước lượng khoảng giữa 8,50 và 10 francs – có việc buôn lậu tiền. Một số chính khách và người thường, trở nên giàu to. Thí dụ như cuốn sách của Despuech kể là năm 1949, cựu hoàng Bảo Đại và vợ là bà Nam Phương chuyển sang Pháp 176.500.000 frs trên tổng số tiền chuyển 426.700.000 frs ; hoặc chuyện con gái của E. Bollaert (Cao ủy Pháp ở Đông Dương từ tháng 4/1947 đến tháng 10/1948) bị nhân viên hải quan khám ở sân bay Tân Sơn Nhứt thấy mang một bị đựng 50000 đô-la. Có mấy kiểu buôn tiền :

a) Chuyển đồng bạc Đông Dương thành tiền franc sang Pháp ;

b) Chuyển đồng bạc Đông Dương thành franc, dùng franc mua lậu đôla, dùng đôla mua bạc Đông Dương, chuyển đồng bạc Đông Dương thành franc (quay vòng như vậy).

c) Dùng franc mua đồng bạc Đông Dương ở Bangkok, HongKong, với giá 1 đồng bạc Đông Dương ăn 8 francs, mang tiền bạc Đông Dương đó về một trong ba nước Đông Dương (Việt, Mên, Lào), dùng tiền đó chuyển sang Pháp với giá 1 đồng bạc Đông Dương ăn 17 francs (quay vòng như vậy).

Nhưng cũng nhờ sự buôn tiền này mà một số gia đình nghèo gửi được con sang Pháp học. Và tôi cũng được anh KV. cho biết là theo ông Hoàng Xuân Hãn kể : Nhờ có sự hối đoái thặng giá này mà nhà xuất bản Minh Tân (do ông Nguyễn Ngọc Bích thành lập) sống được và làm được mấy việc ích lợi : in lại các cuốn « Từ điển Hán Việt và Pháp Việt » của Đào Duy Anh với lời tựa ca ngợi kháng chiến, phổ biến ở vùng bị tạm chiếm ; « Danh Từ khoa học », « La Sơn phu tử » của Hoàng Xuân Hãn ; xuất bản « Từ điển thực vật học » của Đào Văn Tiến, và « Phénoménologie et matérialisme dialectique » của Trần Đức Thảo, vv. [Về tiểu sử ông Hoàng Xuân Hãn, tôi có viết một chút trong cuốn (1) đã dẫn. Còn ông Nguyễn Ngọc Bích : ông là « bạn học » của ông Hãn ở Ecole Polytechnique sau đó một hay hai khóa (hình như khoảng năm 1930) và sau đó trường Cầu Đường Ponts et Chaussées ; những năm đầu kháng chiến, ông hoạt động ở Khu 9 (Tây Nam Bộ) ; bị bắt sau một trận càn, và bị Pháp đưa sang Pháp ; sau ông lại học đại học y khoa và tốt nghiệp bác sĩ y khoa cuối 50, đầu 60 ; khoảng năm 1964 (sau đảo chính lật Diệm) ông về Sài Gòn, ra ứng cử tổng thống (danh sách Cao Đài) ; hình như mất ở Sài Gòn vào cuối những năm 60). Có một giai thoại : việc phá cầu trong kháng chiến, chỉ cần một khối lượng nhỏ chất nổ, đặt đúng chỗ là phá sập những cái cầu lớn mà người thiết kế lại là một kĩ sư cầu đường người Pháp học cùng trường (chuyện kể là cùng khóa), ông này từng nhận xét : "Biết phá như vậy phải là người biết xây, chắc chắn là Nguyễn Ngọc Bích". Đó lời tôi nghe anh KV. cho biết theo lời kể của ông Hãn. Nhưng tôi đọc trong cuốn sách « Nguyễn Bình, huyền thoại và sự thật », nxb Văn hóa, Hà Nội 1995, thấy kể câu chuyện phá cầu tương tự là công của ông Lê Tâm – kỹ sư Cầu đường ở Pháp về kháng chiến, mà tôi sẽ có dịp nói tới ở chú thích (14) dưới đây. Vậy tôi xin ghi luôn cả ra đây].

Trở lại vụ buôn tiền và một số gia đình nghèo gửi được con sang Pháp học: vì hàng tháng mỗi người (thường dân) chỉ được chuyển một số tiền giới hạn, có những nhà nghèo huy động cả gia đình họ hàng gửi hộ tiền cho nhà giàu (bằng bưu phiếu, mandat-poste), rồi được trả lãi và dùng cái tiền lãi đó mà gửi cho con em mình du học ở Pháp sống. Thuở ấy, những du học sinh sống bằng cách này cơ cực lắm, có cảnh sống chung năm, sáu người trong một buồng trọ – thuở ấy ở Pháp còn đầy dãy những khách sạn cho thuê phòng ngủ hàng tháng, không có nước ; vòi nước và cầu tiêu chung ở cầu thang ; có khi không có sưởi – ăn uống rất kham khổ, một tuần mới đi tắm gội một lần ở các hiệu tắm công cộng lúc đó còn tồn tại. Nghèo đến cái mức đi thi còn có trường hợp không có đồng hồ đeo tay, phải mang theo trong cặp cái đồng hồ báo thức to bằng cái bát ! Cũng có trường hợp tối về phải giặt áo phơi cho kịp khô để ngày mai còn mặc, vì chỉ có một cái áo, nếu áo không khô thì đành mặc rồi đợi cho nó khô trên chính thân mình. (Cái khoảng những năm ấy, còn nhiều chuyện buôn bán lậu vặt ; hàng rào thuế quan trong ngay mấy nước châu Âu chưa bỏ, có những người Việt Nam hoặc một vài tiệm ăn ở Paris, như một tiệm ăn gần kế Collège de France, bán lén đô-la hay đồng hồ Thụy-sỹ lậu, vv.). Kham khổ là một phần lý do tại sao có nhiều người bị bệnh lao. Học sinh ở ký túc xá trong trường cũng còn tương đối khá hơn. Sinh viên được ở trong Cité universitaire de Paris như « Nhà Đông Dương » (trong ký túc xá đại học), được coi là hạng sinh viên « bảnh ». Cái cảnh sinh viên ngồi quán cà phê tán gẫu bàn thế sự, là chuyện hãn hữu, đôi khi là khoe hão hoặc là do sự tưởng tượng của người kể. Những năm sau, khi chính quyền Bảo Đại được Pháp nhả cho thêm một chút quyền, thì cũng có những học bổng cho sinh viên, và có những sinh viên có học bổng loại ấy để ăn học, nhưng « trái tim thì vẫn ở bên trái » ; đó là khởi thuỷ của cái câu « ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản ».

Vì tôi đã trải qua những thời khó khăn như vậy, nên tôi nhạy cảm với việc du học sinh trông đợi tiền của gia đình gửi sang để ăn học. Thời ông Diệm, đã hết chuyện buôn lậu tiền rồi, nhưng các gia đình có con đi học tự túc phải có sổ chuyển ngân mới được phép gửi tiền từ miền Nam sang Pháp. Ai mà có triệu chứng ủng hộ miền Bắc thì bị cắt sổ chuyển ngân. Tôi không nhớ cái việc chị T. bị nghi sau khi đi trại hè của phong trào Việt kiều, xảy ra năm nào. Nhưng cái lần mà tôi tới Tòa đại sứ của chính quyền ông Diệm để phản đối việc cắt sổ chuyển ngân của một số sinh viên, là vào khoảng cuối 1959 hay đầu năm 1960. Có anh C. của phong trào Việt kiều ở Pháp rủ tôi đi, thì tôi đi, và chỉ hai người chúng tôi ; có người khác được rủ nhưng không dám đi vì có gia đình ở miền Nam sợ bị khủng bố. Tôi không có ràng buộc ấy, và lúc ấy để mưu sống để tiếp tục soạn luận án, tôi đã tìm được việc làm ở Trung tâm nghiên cứu (Direction des Etudes et Recherches) của Electricité de France, nên chẳng sợ sức ép. Vả lại cái người nhân viên (cố vấn tòa đại sứ, mà nay ta gọi là tham tán sứ quán) tiếp chúng tôi hôm đó cũng chẳng phải là hoàn toàn xa lạ gì đối với tôi : người này, NTH, là con một bạn đồng liêu với bố tôi thuở còn làm quan ; em người này lại là bạn học với anh tôi thời chúng tôi còn học ở trường trung học Nguyễn Khuyến ở Yên Mô trong vùng kháng chiến từ 1947 đến 1949. Bữa đó, người nào nói thì người nấy nghe, xong rồi thì hồn ai nấy giữ…

Còn những du học sinh mà gia đình ở lại miền Bắc thì đành phải tự lo liệu. Trong rất nhiều năm sau đó, không có du học sinh từ miền Bắc sang Pháp, hiếm hoi mới có một vài thực tập sinh sang tu nghiệp…

Vì đã phải trải qua và chứng kiến những giai đoạn đó và những giai đoạn khó khăn khác, nên tôi rất thông cảm với những ai không gặp may trong việc học hành và trong địa vị xã hội ; đồng thời tôi cũng rất trân trọng với những ai đã may mắn thành công ; khi người ta phải sống, ăn, ở, học trong những hoàn cảnh như kể trên, thì đi thi đỗ được cũng là chuyện mừng rồi, nói gì đến chuyện tranh đua với người khác.


(12) Nhân đây xin nói thêm, tôi không quen ông Phạm Hoàng Hộ, nhưng có nghe tiếng. Tôi chỉ thấy ông ấy có một lần, nhưng là sau này, trong một trường hợp đặc biệt : Vào tháng 11/1984, ông Võ Văn Kiệt lúc ấy đang là Phó Thủ tướng, nhân chuyến công du ở An-giê-ri, trên đường về, ghé qua Pháp; vì ông ít thì giờ, Hội người Việt Nam tại Pháp tổ chức một bữa ăn trên thuyền máy đi chơi (bateau Mouche) trên sông Seine, để vừa được tiếp ông, vừa để ông thăm phong cảnh Paris luôn thể. Anh chị em chỉ định tôi ngồi cạnh ông Kiệt để khi thuyền đi qua, tôi giới thiệu với ông những thắng cảnh và di tích lịch sử cổ dọc bờ sông : tháp Eiffel, điện Louvre, Viện Hàn Lâm, vết cũ của Tour de Nesle, Palais de Justice xưa là cố cung, Hôtel de Ville, Nhà thờ Notre-Dame, vv. Bữa hôm đó, còn có hai người (ngoài Hội người Việt Nam) cũng được mời : một người là kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, một người nữa là ông Phạm Hoàng Hộ (lúc ấy được phép từ Việt Nam sang làm việc một thời gian ngắn ở Museum d’histoire naturelle thuộc Đại học Paris, hình như sắp hết hạn). Tôi có nghe kể là ông Hộ sau ngày Giải phóng được chính quyền coi như là nhân sĩ, nhưng cũng gặp khó khăn trong công việc, và đời sống rất cơ cực ; lúc ông ở Pháp như kể trên, thì hình như một phần gia đình ông đã định cư ở Ca-na-đa ; vì thế ở thời điểm nói trên có tin đồn là ông ở lại không về ; có lẽ vì vậy mà ông Kiệt mời chăng, tôi không biết thực hư thế nào. Ông Hộ có mặt bữa đó nhưng ít nói, hầu như lặng im suốt buổi (tôi chỉ thấy ông ta có một lần ấy thôi).
Dưới đây là lời chứng của anh HMĐ gửi cho tôi qua e-mail ngày 19/7/2006, tôi xin chép lại, nhưng không có lời bình vì tôi không biết : Ông Hộ là tác giả của quyển “Cây Cỏ Miền Nam” hiện chỉnh biên thành Cây Cỏ Việt Nam và sắp tới sẽ được in sau hằng chục năm chờ đợi. Năm 1961 ông có viết thư gửi Tòa Đại sứ Mỹ phản đối việc sử dụng chất khai quang và năm 1970 cùng với Meselson & al. tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của Agent Orange trên môi trường sinh thái ở miền Nam Việt Nam. Ông cũng đã góp sức lực xây dựng cơ sở vật chất và lực lượng giảng dạy và nghiên cứu cho Viện Đại học Cần Thơ. Sau 1975 ông được bổ nhiệm hiệu phó Đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh ; ông chống lại việc tuyển sinh theo lý lịch và từ chức hiệu phó…

(13) Collège de France là một cơ sở nghiên cứu bậc nhất của Pháp ; tôi đã có dịp giới thiệu một chút về cơ sở này trong bài « Giáo dục đại học : Những vấn đề chưa được giải quyết thỏa đáng », đăng trên báo mạng « Thời Đại Mới » số tháng 11-2005 :

http://www.thoidai.info/ThoiDai6/200506_BTLieu.htm

Vì chữ Collège nên có một số người Việt Nam hiểu lầm, và có câu chuyện vui sau đây : vào năm 1950, lúc tôi tới Pháp, có cậu học sinh tìm đến cơ sở này để xin vào học classe de seconde (lớp 10 của ta hiện nay) vì thấy chữ Collège nên ngỡ là trường trung học.

Lại có câu chuyện này nữa : Ông G. Poitou, giáo sư Toán Đại học Paris-Sud, hiệu trưởng Ecole Normale Supérieure rue d’Ulm, có một lần « tâm sự » với tôi rằng ông Lichnérowicz là một nhà khoa học lớn, hướng dẫn nhiều luận án (tiến sĩ nhà nước), nhưng không có luận án nào xếp « hạng nhất » cả. Nói xong, ông ta lại tủm tỉm cười, nói tiếp rằng ông ta tự đánh giá luận án của ông ta chỉ vào « hạng ba » thôi. Tôi nghĩ thầm : sao ông lại nói với tôi như vậy, hay là ông cho rằng mấy ông Việt Nam ưa xếp hạng ngôi thứ ? Lúc đó, tôi cười trả lời ông ta rằng : tôi không ưa xếp ngôi thứ, luận án của tôi xếp vào hạng thứ bao nhiêu cũng được, miễn là « được việc » thì tôi mừng rồi. Tôi nói như vậy vì lúc đó ông Poitou đang nhờ tôi giải quyết một việc mà ông ấy không tự giải quyết nổi.

Câu chuyện chi tiết là như thế này : Khi nhậm chức hiệu trưởng Ecole Normale Supérieure rue d’Ulm – mà nhiệm kỳ là 5 năm, và theo truyền thống thì cứ luân phiên : nếu hiệu trưởng lần trước là giáo sư ngành văn-khoa học xã hội, thì lần sau là giáo sư ngành khoa học, và quay vòng như thế – ông Poitou có đề án cải cách trường. Nhưng như ông ta đã nhận xét thuở đó : trường như cái nhà « trống » – không có bằng cấp riêng (học sinh thi bằng cấp của Université), không có giáo sư riêng (giáo sư là giáo sư Université) – chỉ có cái « tiếng » thôi. Có điều mà mà ông không nói, đó là vì cái « tiếng » mà cựu học sinh tương trợ, bênh vực nhau lắm ; tôi là kẻ « ngoại đạo », nên biết thân phận. Vì trường như cái nhà « trống », nên ông không có « quân ». Để lo cái đề án cải cách trường, ông chỉ có thể trông cậy vào sự « tự nguyện » của một vài cộng tác viên không công. Trong đám đó, kẻ đắc lực nhất là một tay giáo sư ở một đại học địa phương ; y cũng là cựu học sinh xuất sắc của trường và đã là giáo sư bậc cao. Y « tự nguyện » làm việc, nhưng lại … có ẩn ý : y cũng là « giáo sư vù » như kể trên ; nhà y ở Paris chỉ cách trường có độ trăm mét, vì thế nên sau một thời gian giúp ông, y muốn được chuyển về Paris. Y năn nỉ với ông giúp y, lại viện cớ y có cha già bệnh tật phải trông nom, vv. Ông đã trót « nhận sự giúp đỡ » của y, nên phải đành trả nợ – đây là một nét đàng hoàng của ông – nhưng ông giải quyết không được, nên phải nhờ tôi.

Để tôi kể cặn kẽ một chút, kẻo ai không hiểu thủ tục nơi đây, lại tưởng là tôi kể chuyện hoang đường. Nhắc lại là ở Pháp, tuyệt đại đa số các đại học đều là công lập, và đội ngũ nhà giáo cơ hữu đều là công chức, nhưng cách tuyển dụng thì khác với các loại công chức khác. Cũng nhắc lại là ở nơi đây, cũng như ở nhiều nước khác, giáo sư đại học là một « chức vụ » gắn liền với một « chỗ làm (giáo sư) » (emploi de professeur) ở một đại học ; muốn có chức danh giáo sư thì phải đợi có một « chỗ làm » ở một đại học nào đó : hoặc là « chỗ làm trống » do người đảm nhiệm về hưu hay thuyên chuyển đi nơi khác (emploi vacant) , hoặc là có « chỗ làm mới » mới do Chính phủ, qua Bộ Giáo dục, đặt ra (emploi créé). Mỗi năm, tùy theo ngân quĩ nhà nước gia giảm, Bộ báo cho mỗi trường đại học biết có bao nhiêu « chỗ làm trống » hoặc « chỗ làm mới ». Rồi mới đến lượt Hội đồng tuyển chọn của nhà trường (commision de spécialistes) xét hồ sơ các ứng viên, và bàu chọn để tuyển một người vào mỗi « chỗ làm » đang có : kiểu bàu tuyển chọn như vậy, tiếng Pháp gọi là « cooptation ». Có hai loại ứng viên vào một « chỗ làm (giáo sư) » ở một đại học :

(i) Hoặc là đang là giáo sư đang tại chức ở một đại học Pháp nơi khác, nộp đơn để ứng cử vào chỗ làm đó ; (tuyển chọn trường hợp này gọi là « mutation » , tạm dịch là « đổi chỗ »).

(ii) Hoặc là ứng viên chưa phải là giáo sư ở một đại học Pháp. Trong trường hợp này, người ứng viên phải : a) có bằng cấp tối thiểu – thuở trước, trong ngành Toán, là tiến sĩ nhà nước (Doctorat d’Etat) ; bây giờ là tiến sĩ + HDR (Habilitation à Diriger des Recherches) ; b) phải được Hội đồng khoa học toàn quốc (ngày xưa gọi là Comité Consultatif des Universités, ngày này gọi là Conseil National des Universités) xét hồ sơ và công nhận « khả năng trở thành giáo sư đại học » (tiếng Pháp gọi là được ghi tên trên « liste d’aptitude aux fonctions de professeur des universités ») .

Vì các ứng viên đã được chọn lọc trước như thế để bảo đảm mức độ chung cho cả nước (nước Pháp là nước có chính quyền tập trung !), Hội đồng tuyển chọn của nhà trường khi bàu chọn một ứng viên nào đó, thì trên nguyên tắc, cũng không sợ bị phê phán là chọn người dốt. Còn lại là vấn đề hễ đông người thuận trong hội đồng tuyển chọn thì được tuyển. Việc bổ nhiệm (do Tổng thống Pháp ký sắc lệnh) chỉ là hình thức long trọng và hợp pháp hóa (vì giáo sư đại học là công chức), chứ trên thực tế chính quyền không can thiệp vào việc tuyển chọn.

Thuở ấy, chỗ giáo sư ở đại học Paris còn « đắt », rất đông người ham, tranh rất khó. Cái tay cộng tác viên của ông Poitou, bình thường mà nói, rất ít khả năng chen chân được, vì thế ông Poitou mới nhờ tôi, vì ông biết tôi là chủ tịch hội đồng tuyển chọn của trường tôi (vì tình hình đặc biệt – các đồng nghiệp nghĩ [đúng hay sai (?)] rằng tôi không bè phái – nên họ trao cho tôi trách nhiệm này trong 7 khóa liền : 21 năm, đến tận ngày tôi nghỉ hưu !). Có điều là phù thủy dù có cao tay ấn, cũng khó trị âm binh, bởi vì Hội đồng tuyển chọn cũng như cái rọ chứa vừa cua, vừa cá, vừa tôm : cua thì bò ngang, cá thì bơi thẳng, tôm thì bơi lùi. Vì thế nên tôi mới bàn với ông Poitou là phải sử dụng « ngoại lệ » – bởi vì có « ngoại lệ » không viết trong văn bản qui định , đó là hình thức « transfert » (tạm dịch là thuyên chuyển mang theo « chỗ làm ») : ứng viên xin chuyển về trường mới, mang theo « chỗ làm » của mình ở trường cũ về trường mới, và Bộ « đền » cho trường cũ một « chỗ làm » mới. Nếu được vậy, thì ứng viên không phải cạnh tranh với ứng viên nào khác cả. Nhưng cách làm « ngoại lệ » này có 2 khó khăn, mà bình thường rất khó vượt qua : (a) phải được Hội đồng tuyển chọn của trường « mới » chấp nhận ; (b) phải được Bộ chấp nhận « đền » một « chỗ làm » cho trường cũ. Phải giải quyết khâu (a) trước, và tôi đã mất nhiều nước bọt mỏi miệng mới thuyết phục được Hội đồng tuyển chọn của trường. Rồi đến lượt ông Poitou thuyết phục Bộ « đền ». Rốt cục là giải quyết xong. Có điều là trước khi việc giải quyết thành công, tuy chẳng có đòi hỏi gì, tay cộng tác viên của ông thề thốt đủ điều ; nhưng khi việc đã thành công thì lời thề cũng như mây khói!

Chuyện y đã vậy, nhưng còn có trường hợp tệ hơn. Tôi cũng đã giúp một cách tương tự một thằng bạn học cũ thời còn soạn luận án, đưa được nó về trường tôi. Đến khi chỗ « trưởng Khoa » trống, và tôi dứt khoát từ chối không nhận làm, thì thằng này xung phong vì nó thích làm quản lý để khỏi làm nghiên cứu ; tôi cũng giúp hắn. Được làm « trưởng Khoa » rồi – mà chủ yếu là quản lý những công việc điều hành hành chính sự vụ, tiền bạc, thời khóa biểu, phòng ốc, sinh viên, vv. – hắn bị đồng nghiệp chê là trở thành một « tiểu độc tài » (petit dictateur). Một bữa hắn làm quá, tôi giận mới đem một tích xưa ra mắng hắn ; đó là câu : « Qui t’a fait roi ? » (dịch thoát nghĩa và cho hợp với ngữ cảnh, là : « Mi có nhớ ai đưa mi lên tới địa vị này không ? » ; tôi sẽ giải thích, dưới đây, gốc gác của cái tích lịch sử Pháp này). Nhưng hắn cậy là bạn cũ của tôi, và vì cái mặt của hắn còn trơ hơn cái mặt thớt, nên hắn nhăn nhở cười và cũng đem chữ nghĩa ra trả lời tôi bằng câu : « On n’est jamais trahi que par les siens » (dịch thoát nghĩa là : « Chỉ có người cùng cánh mới có thể phản nhau », bởi vì – ít nhất là trong tiếng Pháp – khi đối phương, kẻ địch hại nhau, thì không thể dùng chữ « phản » được).

Bây giờ tôi xin kể lịch sử của cái câu : « Qui t’a fait roi ? » nói trên đây. Năm 987, vua Louis V chết không có con nối. Thuở ấy, nhà vua yếu, nhiều nhà quyền quí cai trị đất đai của mình như những « sứ quân ». Một trong những người đó, Hughes Capet, được bàu làm vua – mà dòng họ trị vì kéo dài đến tận cách mạng 1789, cộng thêm đoạn « tái lập » quân quyền (Restauration) 1815-1848, vv. Lên ngôi, nhưng trên thực tế, nhà vua cũng chỉ là một thứ « sứ quân », thế lực còn yếu hơn vài « sứ quân » khác – nhà vua chỉ thực sự cai quản được một vùng đất đai trải quanh thủ đô Paris và kéo dài tới Orléans cách khoảng 200 km phía nam. Nhưng nhà vua khác với các « sứ quân » khác ở chỗ là, với sự ủng hộ của giáo hội Thiên chúa giáo đang là quốc giáo, khi được các « sứ quân cử tri » bàu lên, họ công nhận nhà vua có « thiên mệnh » trị vì để mang lại hòa bình và an cư lạc nghiệp cho dân cư trên toàn lãnh thổ. Tuy vậy, vua yếu nên phải nương nhẹ các « sứ quân ». Vào một dịp tranh chấp đất đai, nhà vua mắng « sứ quân » Adalbert de Périgord, (mà nhà vua đã phong cho tước bá trước đó), rằng : « Qui t’a fait comte ? » (nghĩa là « [Ngươi không nhớ] ai đã phong cho ngươi tước bá[à] ?), viên này trả lời bốp chát : « Qui t’a fait roi ? » (nghĩa là « [Ngươi không nhớ] ai đã [bàu] cho ngươi làm vua [à] ? »). Dịch chữ « t’ » tiếng Pháp ở đây rất khó, bởi vì tiếng Việt phân biệt ngôi thứ trên dưới ; tôi đành tạm dịch thoát nghĩa là « ngươi », nghe hơi xấc, nhưng không quan trọng, bởi vì với thời gian, người Pháp ngày nay chỉ nhớ câu « Qui t’a fait roi ? » theo nghĩa : « Mi vô ơn, mi đã quên ai đã đưa mi lên tới địa vị ngày nay à ? ».

Nhân nói đến trường Ecole Normale Supérieure rue d’Ulm, mà trong giới đại học, (thường gọi tắt là Normale ; cựu học sinh của trường này thì gọi tắt là normalien) tôi cũng xin kể một giai thoại sau đây : vào cuối thập niên 60, có một ca sĩ một thời khá nổi danh, có thể là vì sự thích bông đùa của anh ta. Tay này vốn có học thức, có bằng tiến sĩ cấp ba (docteur 3ème cycle) về Vật lý lý thuyết. Ca sĩ mà có bằng cấp thì cũng là chuyện hơi hiếm. Có vài nhà báo, quen bốc đồng, đồng thời chẳng hiểu đầu đuôi, mới tán rằng anh ca sĩ này là cựu học sinh của trường Normale. Có người hỏi vặn anh ta ; anh ta nhanh trí trả lời rằng : Có lẽ tại tôi nói [có lúc] tôi « anormal » (nghĩa là « bất bình thường, loạn trí »), nên nhà báo hiểu nhầm là tôi [thuở trước] « à Normale » (nghĩa là học trường Normale). Cũng vui, đặc biệt cho người khoe mẽ và cho người tán dương. Còn ai muốn biết anh này là ai (tên « nghệ sĩ » của anh ta là gì), thì cứ tìm « tên » (tiếng Pháp gọi là prénom, tiếng Anh/Mỹ gọi là given name hay first name) của nhà toán học Galois (1811-1832) thì rõ (ông này chết sau một cuộc đấu tay đôi (duel) vì một phụ nữ ; và số phận ông ta cũng hẩm hiu lắm).

Nếu tôi kể những chuyện linh tinh như thế này, cũng là để nói rằng ở cái nước tôi định cư này, việc học, việc làm, vất vả gian lao lắm, phải vật lộn hàng ngày, hàng giờ, chứ không phải là « phây phây » như một số Việt kiều huêng hoang. Những chuyện mà họ kể – kiểu như : học giỏi đến nỗi khi thi đỗ, trường phải trưng tên họ trên bảng ở cổng trường (ai đỗ mà không có tên trên bảng ?!) ; hoặc tài ba đến mức mà trường này trường kia phải « mời » đến làm giáo sư (!) – chỉ là những chuyện hoang tưởng dựa trên những thành tích ảo, đáng ghi vào sổ chẩn bệnh của những bệnh viện thần kinh. Còn phóng viên trong nước mà ghi những lời phát biểu loại đó lên mặt báo, thì là họ không hiểu tình hình bên ngoài, nên cả tin, trừ phi tự họ chế biến ra những chuyện giật gân loại đó. Ở những nước có truyền thống nhập cư như Mỹ, Ca-na-đa, Úc, vv., thì tôi không biết, nhưng ở nước tôi định cư, và ở thuở tôi còn trẻ, thì như kể trên, tôi không nói là có sự kỳ thị nhưng hình như họ « không quen » với người « lạ » : tên lạ, diện mạo khác số đông thì họ đắn đo trong việc lựa chọn.

Mà cũng không cứ riêng với đồng nghiệp ; ngay trong công việc hàng ngày luôn luôn phải có sự rào trước đón sau, nếu không thì sợ có thể có những sự cố « đáng tiếc » xảy ra. Tôi xin kể thí dụ : Thuở xưa, trong đại học Pháp, có một loại nhân viên, tiếng Pháp gọi là « appariteur » mà một trong những nhiệm vụ là dẫn đường và sự « xuất hiện » một cách im lặng có nghĩa là thông báo với sinh viên là giáo sư bước vào giảng đường. Khi thấy nhân viên này « xuất hiện », thì sinh viên đứng dậy, và vỗ tay khi giáo sư bước vào giảng đường, và ngồi xuống nghe bài giảng ; và vỗ tay khi bài giảng của giáo sư chấm dứt. Như vậy nhân viên này là một thứ « xuất hiện viên », nhưng nhiệm vụ của họ không chỉ có vậy : họ còn phải lo liệu việc chăm coi trường sở ; góp phần cùng với các giám thị để như kiểm tra thẻ sinh viên, phát giấy, phát đầu bài, coi thi, trong các buổi thi cử, vv. Khi tôi mới được bổ nhiệm ở Đại học Lille, thay thế cho một bà giáo sư từ chức để theo chồng đi Thụy Điển, tôi bị rơi vào một ngoại lệ : bà này bỏ chức vụ trước thời hạn, và không chịu chấm thi kỳ thi tháng 9. Do đó, ông Khoa trưởng (Doyen) nhờ tôi thay bà ta để chủ tọa kỳ thi, tuy đó lẽ ra chưa phải là nhiệm vụ của tôi vì niên học mới chưa bắt đầu. Tôi tử tế nên nhận lời. Vì sợ tôi chưa quen thể lệ của trường, ông dặn tôi là nên đến 5 phút sau giờ bắt đầu thi. Tôi theo đúng lời dặn. Khi tôi tới giảng đường thì người « appariteur » già ngăn lại, bảo tôi : « Sao giờ này mới tới ? Lẽ ra sinh viên đến chậm thì không được phép thi ; nhưng tôi tử tế, anh mau mau vào chỗ ngồi… ». Tôi tự gíới thiệu tôi là ai, ông ta xin lỗi mấy lần, và bảo : « Tại ông giáo sư trông trẻ quá nên tôi không biết, tôi tưởng ông là sinh viên ; người gốc châu Á luôn luôn có vẻ trẻ hơn tuổi ». Mà có lẽ đúng thế thật.

Một thí dụ khác : Bằng tú tài của Pháp (baccalauréat) ra đời năm 1808 dưới thời hoàng đế Napoléon I, có đặc điểm sau đây : vừa là bằng kết thúc Trung học, đồng thời được « định nghĩa » là bằng cấp đầu tiên của đại học (premier grade universitaire). Vì thế mà từ thuở xưa, người có bằng tú tài Pháp được ghi tên vào học đại học Pháp (Université) mà không phải thi tuyển gì hết. Ở đây, tôi không luận đến sự thay đổi theo thời gian, hay sự thuận lý hay nghịch lý của cái bằng này, mà chỉ để kể cái đặc điểm của nó là « bằng cấp đầu tiên của đại học (premier grade universitaire) » và hệ quả của nó : ban giám khảo của nó phải đặt dưới sự chủ tọa của một giáo sư đại học. Trên thực tế, người giáo sư đại học chẳng phải làm gì cụ thể cả – mọi việc đều do người « phó chủ tọa » (vice-président du jury), một giáo viên Trung học, thường đã lớn tuổi, đảm nhiệm – giáo sư đại học có mặt chỉ để « hiệu chỉnh » việc mất cân bằng lúc lấy đỗ hay đánh trượt, và để ký biên bản cho hợp pháp. Vì công việc này làm mất thì giờ, chẳng có gì lý thú cả, nên giáo sư đại học thường « lẩn như chạch », ma cũ đùn cho ma mới, phải bắt như bắt phu. Hồi tôi mới vào nghề, là « giáo sư vù » ở Lille, may tôi kiếm cớ này cớ nọ, trốn thoát được 6 năm. Đến lúc chuyển về Paris, tôi nể mấy ông bà giáo sư già, nên tôi đành nhận đi chủ tọa một lần, nhưng tôi yêu cầu chọn cho tôi một trung tâm giám khảo « thuận lợi ». May mắn, lần đó tôi được chỉ định chủ tọa ban giám khảo tại trường trung học Lavoisier, cách Sorbonne có vài trăm mét. Tuy đã có công văn báo trước, tôi cũng cẩn thận viết thư cho ông hiệu trưởng trường trung học này, để ông ra đón và giới thiệu cẩn thận với ban giám khảo ; rồi lại ăn mặc chỉnh tề khi đến, để tránh tình huống ngộ nhận. Vậy mà cũng rơi vào một bà già « phó chủ tọa » khó tính cứ cằn nhằn là mấy giáo sư đại học chẳng làm gì khác là « ngồi chờ ký biên bản ». Tôi bực mình nên trả lời là : nếu bà thuyết phục được chính quyền và dư luận để định nghĩa lại cái bằng tú tài và bỏ đi cái khoản « premier grade universitaire » thì những giáo sư đại học chẳng phải mất thì giờ đến « ngồi chờ ». Tôi chỉ đi chủ tọa thi tú tài có một lần đó, rồi sau kiếm cớ trốn biệt. Tôi biết một số người, trong đó có anh Ngọc, đã gặp những khó khăn trong loại công việc này.

(14) Nói tóm tắt, French Cancan là một điệu nhảy, chế ra khoảng năm 1850, lâu tám phút, với nhạc của Offenbach, bắt nguồn từ các điệu nhảy của các cô thợ giặt ở xóm Montmartre ở Paris giải trí trong những ngày chủ nhật sau những ngày làm việc vất vả. Khi nhảy thì tốc váy, dơ cẳng cao đến tận đầu. Quán hộp đêm Le Moulin Rouge có một đội nhảy nổi tiếng. Tôi ở Pháp lâu năm mà cũng chưa có dịp đi xem tận mắt. Có thuyết cho rằng khởi thủy đấy không phải là điệu nhảy để khêu gợi hay khiêu khích giới trưởng giả thượng lưu, đó chỉ cách diễn tả lộ liễu của sự vui chơi giải trí của giới bình dân, trước khi biến thể… Ai muốn hiểu sao thì tùy.

(15) Nói nốt vài lời về ông Quân. Năm 1969, khi tôi chuyển về Paris, thì ông Quân cũng chuyển về Paris, nhưng không cùng trường – tôi ở trung tâm Sorbonne, còn ông Quân ở trung tâm Villetanneuse ở ngoại ô Bắc Paris – nên không gặp nhau nữa. Chỉ có vào mùa xuân 1970, nhân dịp có một đoàn trí thức khoa học của Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa từ Hà Nội sang thăm Pháp, tôi có mời ông Quân và đoàn ăn cơm ở nhà tôi, vì lẽ sau đây : đoàn gồm 3 thành viên, trưởng đoàn là ông Ngụy Như Kontum (lúc ấy đang là hiệu trưởng Đại học tổng hợp Hà Nội), ông Lê Tâm và một ông thứ ba mà nay tôi quên tên. (Mở ngoặc để nói 1 chút về ông Lê Tâm, tên thật là ông Nguyễn Hy Hiền, Việt Kiều cũ, tốt nghiệp trường Kỹ sư Cầu đường Paris, thời kháng chiến chống Pháp, ông là cố vấn khoa học kỹ thuật cho trung tướng Nguyễn Bình trong vùng kháng chiến Nam Bộ (xem cuốn « Nguyễn Bình, huyền thoại và sự thật », của Nguyên Hùng, nxb Văn học, Hà Nội 1995); nghe nói ông cũng là người chế ra ba-zô-min cho kháng chiến Nam Bộ, vì thời đó trong Nam không đủ phương tiện để chế ba-zô-ka như ngoài Bắc; sau ông ra Bắc có lẽ là vào lúc tập kết sau Genève. Ông rất vui tính ; ông kể cho tôi nghe một câu chuyện vặt, nhưng nó cũng là lời chứng cho một thời đầy khó khăn : Anh Lựu tôi, sau mấy năm du học Bách Khoa Grenoble ở Pháp, về nước năm 1956, tham gia vào nhóm đầu tiên giảng dạy Đại học Bách khoa Hà Nội. Thời ấy, nhà ở còn rất chật chội ; ít lâu sau khi về, cưới vợ, anh tôi được ông bà nhạc cho mượn một mẩu vườn để xây « nhà » ; gọi là nhà cho oai vì ở nội thành thủ đô, chứ kỳ thật đó chỉ là một « túp », có một gian lợp mái nứa, cửa sổ không kính, ghim bằng mấy tấm ni-lông. Không có tiền thuê thợ, mấy anh em bạn bè xúm lại « xây » giúp. Anh Lê Tâm kể là xây xong, thì « hạ cờ tây ». Thấy tôi ngơ ngác không hiểu, anh mới giải thích : « cờ tây » là « cầy tơ », nghĩa là liên hoan một bữa thịt chó!).

Trở lại chuyện ông Quân : sở dĩ tôi mời ông Quân với đoàn là vì ông Ngụy Như Kontum, xưa cũng là Việt Kiều ở Pháp, agrégé ngành lý-hóa, khi về nước khoảng năm 1939-40 dạy ở trường Bưởi lúc ông Quân học thi tú tài ở đó, nghĩa là ông Kontum là thày cũ của ông Quân. Vào cái năm 1970 đó, đang Hội nghị Paris, cần « thêm bạn, ít thù », nên tôi đã cố làm điều đó. Rồi bẵng tin ông Quân. Mãi đến năm 1975, khi chiến tranh đã chấm dứt, có một lần ông gọi điện cho tôi : ông kể cho tôi nghe là trước đó, ông có xin được của chính quyền Pháp một số tiền để trang bị sách vở, tài liệu vv. cho miền Nam, nhưng nay việc đó không thành, ông muốn tôi làm trung gian để chuyển cho chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa. Lúc ấy tôi từ chối, vì tôi nghĩ rằng (và cũng e rằng có người cho rằng) « khó nhận của thừa » ; vả lại số tiền ấy rồi chính quyền Pháp cũng phải dành cho nước Việt Nam thống nhất mà thôi. Sau này nghĩ lại, tôi thấy « ân hận » vì tôi đã không đủ mềm dẻo khi giang sơn đã thu về một mối và ông Quân lại tỏ thiện chí ; nhưng quả thật là ngay sau 30/4/75, tình hình còn căng lắm, và rất khó cho tôi. (Nghe nói sau đó ông có đặt lại vấn đề này với bác Hoàng Xuân Hãn, nhưng tôi không biết kết cục ra sao). Rồi tôi không còn dịp liên lạc với ông nữa. Mãi sau này, có lẽ là vào cuối thập niên 80, khi ông Nguyễn Như Kim sang làm tham tán Khoa học và Kỹ thuật ở Sứ quán ta ở Paris, ông nhờ tôi liên lạc với ông Quân, vì ông Kim và ông Quân vốn là bạn học cũ ở trường Bưởi. Nhưng lúc đó nghe tin ông Quân đã ốm nặng và ít lâu sau, đọc báo « Le Monde », tôi thấy cáo phó của trường của ông báo tin ông đã mất.

Nhân đây cũng xin nhắc một chút về ông Kim : một thành tích của ông trong kháng chiến là chuyến mang vàng đi mua trang bị cho kháng chiến chống Pháp. Trong cuốn sách « Tạ Quang Bửu, nhà trí thức yêu nước và cách mạng », Hội khoa học lịch sử Việt Nam xb, Hà Nội 1996, ông Nguyễn Như Kim viết (trang 231) : [Trong Kháng chiến] « Giữa năm 1948, Bộ Quốc phòng [ông Bửu] giao cho tôi nhiệm vụ đi công tác nước ngoài, với một số vàng rất lớn, để mua phụ tùng máy móc VTĐ [vô tuyến điện] cho đài TNVN [Tiếng nói Việt Nam] và cho quân đội, cùng với thuốc men và sách cho đại học.[…]. Chuyến đi này thực sự là một chuyến đi đời người (xem báo Văn Nghệ số 19, 13/5/1995), tôi đã cùng một số anh em Nam Bộ mang hết sức mình để thực hiện, chỉ còn chút ít nữa thì thành công, cuối cùng bị địch bắt sau khi đã phá hủy cả một con tàu hàng hóa ». Về sự việc này, cũng trong sách đã dẫn (trang 166-168), ông Hà Đổng kể kỹ hơn : ông kể là số vàng mà ông Kim mang đi Thái Lan là 15 kg (nhắc lại là vào thời điểm đó, 1948, chưa một nước nào công nhận Việt Nam ; Việt Nam chưa muốn « ý thức hệ hóa » cuộc chiến tranh còn đang trong « đường lối trung lập công khai » trên chính trường thế giới và Thái Lan là con đường duy nhất mở ra nước ngoài). Ông Kim đã mua được các thứ cần, và đã thuê được một máy bay Catalina định chở về Việt Nam. Nhận được tin đó, ông Bửu trao cho ông Hà Đổng nhiệm vụ vào Khu 4 làm một sân bay. Cùng đi với ông Hà Đổng, có một chuyên viên là phi công người Đức tên là Schulze vốn là hàng binh. Đi qua Quỳnh Lưu, hai ông bị dân quân bắt vì tưởng là Pháp và Việt gian, sau vì có giấy giới thiệu của ông Giáp nên qua được khó khăn. Chọn được địa điểm, làm xong sân bay, thì được tin là người chủ chiếc máy bay mà ông Kim thuê, sợ rủi ro, không cho thuê nữa. Thế là ông Kim phải đi bằng đường thủy. Đến vùng biển Thanh Hóa, bị tàu Pháp vây, ông Kim phải đốt tàu và bị bắt. Ông Kim bị tù một năm trong vùng tạm chiếm ; sau khi được thả, ông sang Pháp học, rồi năm 1956 được ông Bửu gọi về Hà Nội tham gia xây dựng Đại học Bách khoa vv. . Sau ông phụ trách Viện thông tin Khoa học Kỹ thuật, trước khi sang Pháp làm tham tán.


(16) Tôi nhớ lần gặp anh Ngọc đó, vì dịp ấy, tôi vấp một chuyện « kỳ ». Dịp đó, « Đoàn trí thức (ở Pháp) » chúng tôi về nước do lời mời của Phó chủ tịch Hội đồng bộ trưởngVõ Nguyên Giáp để nghe và trình bày ý kiến của mình về chính sách khoa học và kỹ thuật của đất nước, đồng thời đặt cơ sở cho việc đóng góp chuyên môn sao cho có hiệu quả, có năng suất của trí thức Việt Nam ở nước ngoài, với nước nhà. Thuở ấy, Trưởng ban Việt kiều trung ương là ông Đặng Thí, Tổng thư ký Hội đồng bộ trưởng (tên gọi của Chính phủ thời đó). Sau buổi trình bày ở Ủy Ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà Nước kể trên, có một buổi tối ông Đặng Thí tiếp chung đoàn chúng tôi, cùng với « đoàn » những vị lãnh đạo các hội Việt kiều ở nhiều nước về hội họp gì đó. Chắc vì bận công việc quan trọng khác của ông, và vì thế không đọc hồ sơ và không nghe báo cáo của cộng tác viên của ông, nên ông Trưởng ban Việt kiều Trung ương có vẻ không nắm vấn đề Việt kiều. Bữa đó, tôi bắt đắc dĩ phải nói vài lời về « hồ sơ Việt kiều » mà chúng tôi đã trình bày. Nhưng không biết « ma đưa lối quỉ đưa đường » thế nào, mà tôi lại nói một câu đại khái là « cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài có một tiềm năng về kinh tế, về chất xám, mà nước nhà nên khai thác ». Vì hai chữ « khai thác » mà ông Trưởng ban không đồng ý, ông trả lời đại ý : « Chế độ ta không khai thác con người » ; thật là đúng lập trường ! Tôi vốn không biết lý lịch của ông. Sau này đọc tài liệu đâu đó, thấy viết là thời cải cách ruộng đất, có mấy ông cán bộ cao cấp chỉ đạo rất đắc lực như ông Hồ Viết Thắng, ông Chu Văn Biên, ông Đặng Thí,… ; tôi không biết có phải là người trùng tên không.
(17) Nguyên văn tiếng Pháp:
Quand un soldat

Fleur au fusil tambour battant il va
Il a vingt ans un coeur d'amant qui bat
Un adjudant pour surveiller ses pas
Et son barda contre son flanc qui bat

Quand un soldat s'en va t-en guerre il a
Dans sa musette son baton d'maréchal
Quand un soldat revient de guerre il a
Dans sa musette un peu de linge sale

Partir pour mourir un peu
A la guerre à la guerre
C'est un drôle de petit jeu
Qui n'va guère aux amoureux

Pourtant c'est presque toujours
Quand revient l'été qu'il faut s'en aller
Le ciel regarde partir ceux qui vont mourir
Au pas cadencé

Des hommes il en faut toujours
Car la guerre car la guerre
Se fout des serments d'amour
Elle n'aime que l'son du tambour

Quand un soldat s'en va-t-en guerre il a
Des tas d'chansons et des fleurs sous ses pas
Quand un soldat revient de guerre il a
Simplement eu d'la veine et puis voilà.

(18) « Những chặng đường lịch sử », Võ Nguyên Giáp, nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội, 1994.

photoc6.jpg



Nguyễn Đình Ngọc (bên phải tấm hình) và Bùi Trọng Liễu, năm, 1961, khi cả hai còn đang soạn luận án Tiến sĩ Nhà nước về Toán ở Faculté des Sciences de Paris.







2. Lucie Aubrac,

người bạn lớn của Việt Nam.



(Đã đăng một phần trên Vietnamnet ngày 20 /3/2007 :

http ://vietnamnet.vn/thegioi/2007/03/675468/



Bùi Trọng Liễu



Bà Lucie Aubrac, nữ anh hùng của Kháng chiến Pháp chống Đức quốc xã trong Thế chiến thứ hai, một chiến sỹ đấu tranh cho những lý tưởng công bằng, tự do và bác ái, chống bạo quyền, đã từ trần ngày 15-3-2007, thọ 94 tuổi. Aubrac là bí danh của vợ chồng bà trong thời Kháng chiến của Pháp chống Đức (1940-1944). Xuất thân từ một gia đình làm nghề trồng nho, học sinh giỏi trúng tuyển cao vào trường sư phạm đào tạo giáo viên tiểu học, năm 17 tuổi, bà bỏ lên Paris, làm nghề rửa bát để có tiền ăn học, tốt nghiệp cử nhân sử địa rồi đỗ kỳ thi tuyển agrégée sử địa. Dạy trường trung học tại Strasbourg, Lucie gặp, yêu và kết hôn với Raymond một kĩ sư cầu đường gốc Do Thái. Quân Đức quốc xã chiếm đóng nước Pháp khi cặp vợ chồng Aubrac đang sống và làm việc ở Lyon. Tại đây, ông bà đã tham gia kháng chiến, thành lập tổ chức « Libération Sud ». Bà cầm súng chiến đấu và lập nên nhiều chiến công, trong đó có chiến tích thần kỳ : tháng 6 năm 1943, bà đã tổ chức cuộc tấn công vào đoàn xe chở tù, giải cứu chồng bà và những đồng chí bị Gestapo của Đức bắt. Đời bà đã là chủ đề của mấy bộ phim nổi tiếng đặc biệt là Ils partiront dans l'ivresse (Họ say sưa lên đường) và Lucie Aubrac.

Đầu năm 1944, phong trào kháng chiến Pháp cử ông bà Aubrac sang London tham gia Nghị viện tư vấn của La France Libre (Nước Pháp Tự Do) của tướng De Gaulle. Khi nước Pháp đã được giải phóng, bà Aubrac từ chối mọi chức vị, đặc quyền, và trở lại công việc bình thường của nhà giáo, nhưng tiếp tục tham gia tích cực những cuộc vận động đòi bình đẳng, bình quyền, tự do, bác ái. (Sau này khi đã cao tuổi, về hưu bà còn tiếp tục tới thăm các trường, để nói chuyện với học sinh, kể lại giai đoạn đã sống, nhằm truyền lại cho thế hệ trẻ tinh thần dám "nói không" với bất công và bạo quyền). Còn ông Aubrac, năm 1944, ông được cử làm « ủy viên cộng hòa » vùng Marseille, và tại nơi đây, ông đã chăm lo giúp cải thiện đời sống của hàng ngàn « lính thợ » Việt Nam, tạo điều kiện để « lính thợ » bầu ra ban đại diện, một trong những hạt nhân của phong trào yêu nước của Việt kiều tại Pháp. Và từ đó, bắt đầu mối liên quan của vợ chồng Aubrac với Việt Nam.

Cách mạng Tháng tám thành công. Ngày 2-9-1945, Hồ chủ tịch đọc bản Tuyên ngôn độc lập. Từ đó cho đến cuối 1946, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã cố gắng điều đình với Pháp để bảo vệ một cách hòa bình nền độc lập tự chủ non trẻ của mình. Trong khung cảnh đó, cuộc đàm phán Việt-Pháp được mở tại Fontainebleau. Song song với hội nghị này, chủ tịch Hồ Chí Minh tới Pháp theo lời mời của Chính quyền Pháp. Trong thời gian này, kể từ giữa tháng 7 cho đến giữa tháng 9 năm 1946, Hồ chủ tịch ở nhà ông bà Aubrac tại ở Soisy-sous-Montmorency (ngoại ô bắc Paris). Cũng vào khoảng thời gian đó, khi bà Aubrac sinh người con gái út là Elisabeth, Hồ chủ tịch đã nhận là « người đỡ đầu » của Babette, tên gọi âu yếm bé mới sinh. Từ ngày đó cho đến khi cụ mất, năm nào vào ngày sinh nhật Babette cũng nhận được quà của cụ Chủ tịch ; rồi một lần, khi ông Aubrac gặp lại cụ tại Hà Nội đang trong khói lửa thời chống Mỹ (1967), Cụ cũng trao cho ông một tấm lụa thêu, dặn dành cho ngày Babette lấy chồng. Trong cuốn hồi ức Où la mémoire s'attarde, nxb Odile Jacob, 1996 của mình, ông Aubrac kể những điều này, cũng như ông kể những giai đoạn trước đó, sau đó, (giai đoạn Pháp, giai đoạn Mỹ), liên quan đến tình hình hòa hay chiến, tiếp tục chiến tranh hay đàm phán, mà ông bà là những chứng nhân hoặc góp phần tham gia. Theo http://www.vonews.fr/article_595, cũng tại ngôi nhà ở Soisy-sous-Montmorency này, ngày 12-9-1946, tướng Salan – (sau đó một thời là tổng tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp trong chiến tranh Việt-Pháp) – lại thăm để cảnh báo Hồ chủ tịch về việc chiến tranh có thể xảy ra nếu phía Việt Nam tiếp tục có những đòi hỏi về quyền tự chủ của mình.

Trước, trong và sau hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, bà Lucie và ông Raymond Aubrac luôn luôn tích cực hỗ trợ cuộc đấu tranh giành độc lập, giải phóng dân tộc và kiến thiết của Việt Nam, và bỏ công làm cả những việc cụ thể như việc bảo tồn và tìm lại những tài liệu trong thư khố liên quan đến Việt Nam, hoặc việc ông Aubrac cùng ông J. Luguern (chargé de mission ở Fondation France-Libertés của phu nhân [cố] tổng thống Mitterrand) thành lập công ty LCV (tên tắt của Laos-Cambodge-Vietnam/Livres-Cassettes-Vidéos) để chuyển những tài liệu về Việt Nam và hai nước kia. Hoặc như việc ông tham gia sinh hoạt của CID-VietNam (Centre d’Information et de Documentation sur le Vietnam, Trung tâm Thông tin và Tài liệu về Việt Nam, với mục tiêu tập hợp, sắp xếp, lựa chọn các tài liệu về Việt Nam đương đại, để những ai muốn tìm hiểu về Việt Nam dễ sử dụng), mà ông và tôi đều trong nhóm những thành viên sáng lập. Theo lời chứng của cựu bộ trưởng Pháp J-P. Chevènement (trong

http://www.chevenement.fr/16/3/2007) :

Qua ông bà Aubrac, khi ông đang làm bộ trưởng Quốc phòng (1988-1991), ông đã giúp tìm lại những bản đồ các bãi mìn cũ trong chiến tranh ở Việt Nam để góp phần cho việc tháo gỡ những mìn còn bỏ sót.

Lại nhớ đến một ngày tháng 4-2003, vợ chồng tôi được mời ăn cơm trưa với ông bà Aubrac ở nhà ông bà Luguern. Bà Lucie lúc ấy mắt đã không còn nhìn rõ, nhưng trí tuệ vẫn hoàn toàn minh mẫn. Tôi có nhắc lại chuyện ngôi nhà xưa ở Soisy-sous-Montmorency – ngôi nhà cũ ấy bán đi, ngày nay không còn nữa và thửa đất đã thuộc nhiều chủ khác ; căn nhà xây sau này 18 avenue de Paris trên góc phố hiện nay là sở hữu của một hãng xe cứu thương – và tôi tỏ lòng mong muốn một ngày nào đó, sẽ có một tấm biển kỷ niệm đặt ở nơi đây. Ngày nào đây (vì tôi đã thử gợi ý nhiều nơi nhưng vô hiệu quả)?

Thứ tư 21-3-2007, phủ Tổng thống Pháp đã tổ chức một buổi truy điệu long trọng bà Lucie Aubrac tại quảng trường Les Invalides ở Paris, Đại sứ nước ta Nguyễn Đình Bin có mang vòng hoa viếng và tới dự, và đã chuyển tới ông Aubrac bức điện chia buồn của Chủ tịch nước ta ; và tiếp đó là lễ hỏa táng trong vòng thân gia đình tại nghĩa trang Père Lachaise.

Nghe nói vào dịp Quốc khánh 2-9-2007, chính quyền đã mời ông Aubrac và cô Elisabeth, sang dự lễ, và ông Aubrac đã có buổi hội kiến với đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Nhắc lại tình bạn sâu sắc của bà Lucie và ông Raymond Aubrac với Việt Nam, cũng là một cách nói lên rằng người Việt Nam ta, điển hình là Hồ chủ tịch, biết ăn ở thủy chung.







3. Thuở ấy



(Bài này đã đăng trên báo mạng ZIDOL 8/5/07

http://www.diendan.org/nhu ng-con-nguoi/nhan-111am-tang-ba-renee-nguyen-manh-ha )



Bùi Trọng Liễu



(Bài này viết về ông bà Nguyễn Mạnh Hà, vào dịp đáng tang bà Hà. Mười lăm năm sau ông Nguyễn Mạnh Hà (từ trần 15 năm trước, vào ngày 4 tháng 5-1992), bà Renée nhũ danh Marrane đã từ trần ngày 27 tháng 4-2007 tại Ivry-sur-Seine (Pháp), thọ 91 tuổi. Bà là con gái nghị sĩ cộng sản Georges Marrane (1888-1976), đã làm thị trưởng từ 1925 đến 1965, gần suốt 40 năm trời (trừ thời kì Đức chiếm đóng). Bà luôn luôn sát cánh với chồng trong các hoạt động xã hội - tôn giáo (thành lập tổ chức Thanh Lao Công đầu tiên ở Việt Nam, tổ chức cứu đói năm 1945), chính trị cũng như các hoạt động yêu nước và thúc đẩy đối thoại, hợp tác giữa giáo hội Công giao và chính quyền cách mạng. Ông bà có 6 người con gái).



Trong bài này, tôi kể lại quan hệ giữa gia đình ông Nguyễn Mạnh Hà và gia đình tôi, mục đích không phải là viết về chuyện riêng tư, mà mong rằng qua một số sự việc, góp phần làm sáng tỏ thêm một giai đoạn của lịch sử nước nhà. Tuy nhiên, tôi viết theo trí nhớ lời kể của bố mẹ tôi và của ông bà Hà, cộng với những điều chính tôi được thấy. Nếu có chỗ nào khiếm khuyết hay đôi chút lầm lẫn, thì không do chủ ý, và tôi mong được sự thông cảm và khoan dung của người đọc. Một phần nội dung đã được kể trong cuốn sách của tôi : « Chuyện gia đình và ngoài đời », tái bản dưới đầu đề « Tự sự của người xa quê hương », nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004, nhưng cuốn sách in ra chủ yếu để biếu tặng, nên ít ai biết.

Ông ngoại tôi, thuở đầu lúc mới ra làm quan, có lúc làm Giáo thụ ở huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, rồi làm Tri huyện Kim Sơn, cũng thuộc tỉnh Ninh Bình. Làng Nhuận Ốc quê bố tôi (tên gọi thuở xưa), thuộc huyện Yên Khánh. Ông nội tôi, tuy có đi thi Hán học nhưng chỉ vào được đến « nhị trường », vốn là « phú » nông, nhưng lại muốn làm dâu gia với nhà quan. Thời đó, do việc trên huyện, trên tỉnh, hai ông nội ngoại tôi đều quen một người, gọi là cụ ký Năng, họ Nguyễn, lúc đó làm chức thông ngôn (phiên dịch), mà thời đó chức thông ngôn lại quan trọng vì quan lại Nam triều phần đông không biết tiếng Pháp. Do tình cờ quen biết, mà cụ ký Năng làm mối giao ước đôi bên. (Thuở ấy, hôn nhân đều qua việc làm mối, chưa có tự do yêu đương như thời nay). Lúc đó bố mẹ tôi đều còn nhỏ tuổi. Bố tôi kể là khi được gọi lại gặp mặt, còn thấy mẹ tôi đang ngậm kẹo mạch nha. Trong đám các anh em bố tôi còn đang trọ học ở tỉnh lỵ Ninh Bình thuở đó, cũng không hiểu sao mà cụ ký Năng lại có cảm tình riêng với bố tôi mà từ đó cụ coi như một người con nuôi, và gửi gắm việc gia đình sau này. Mẹ tôi thì kể lại là ông ngoại tôi, gặp buổi giao thời, cũng ngán chuyện lố lăng đương thời, nên thuận gả con gái nhớn cho con nhà nông (hay là cũng đã nhận xét thấy ở bố tôi, lúc đó còn nhỏ, một vài cá tính nào đó ?). Hai nhà giao ước với nhau, nhưng đến năm mẹ tôi 14 tuổi, và bố tôi 16 tuổi, mới cưới. Nhưng cũng là cưới hình thức, cưới xong thì mẹ tôi vẫn ở nhà ông bà ngoại, và bố tôi lại về đi học, cho mãi năm mẹ tôi 18 tuổi mới thực sự chung sống. Cuộc sống của bố mẹ gắn liền kể từ ngày ấy.

Cụ ký Năng và cụ bà là người Công giáo, rất mộ đạo, quê ở Hưng Yên. Kỷ niệm mà thuở nhỏ tôi giữ về hai cụ là cái bánh « cake » mà hai cụ thường gửi cho gia đình, cái bánh quá « tây » mà lúc đó tôi chưa biết ăn, khác thời sau này sang Pháp. Hai cụ có người con duy nhất là ông Mai, sang Pháp du học đỗ bác sỹ y khoa, cho nên gọi là ông đốc Mai – « đốc » đây là « đốc tờ » (docteur) theo kiểu gọi nửa đầu thế kỉ 20. Hai cụ coi bố tôi như con, ông Mai cũng quí bố tôi coi như là em, tuy bố tôi không phải là người Công giáo. Thuở trẻ, hai cụ có cưới cho ông Mai một người vợ ở quê, nhưng ông không thuận ; các cụ là người ngoan đạo, không cho bỏ, cho nên trong gia đình có sự bất hoà. Trong đại chiến thế giới lần thứ nhất 1914-1918, ông Mai bỏ đi đầu quân sang Pháp, bị quân Đức bỏ khí độc, trúng bệnh về Việt Nam ít lâu thì chết. Trước khi chết, có điện cho bố tôi từ địa phương lên Hà Nội gặp để gửi gắm việc gia đình.

Cũng xin kể thêm « dây mơ rễ má » linh tinh bên lề, cũng là một cách ghi lại một số sự việc của một thời đã qua : Như đã nói trên, hai cụ ký Năng không chấp thuận việc ông Mai ly dị bà vợ ở quê, nhưng ông vẫn bỏ, và cưới một bà vợ khác, là con ông Hoàng Trọng Phu, thời đó gọi là cụ Võ, vì ông Hoàng Trọng Phu được phong là Võ Hiển điện đại học sĩ, làm Tổng đốc Hà Đông trong 30 năm, lại là con thứ của ông Hoàng Cao Khải, Kinh lược Bắc Kỳ khoảng những năm 1889, tước Diên Mậu quận công, trước kia giúp Pháp dẹp phong trào Cần vương. (Xin xem thêm chi tiết về gia đình họ Hoàng và quan hệ thông gia với họ hàng ông Phan Đình Phùng trong mấy bài báo « Cố Điện » của ông Hoàng Xuân Hãn đăng trong báo Diễn Đàn số 28,29,30 (1994) : vợ cả ông Hoàng Cao Khải là chị con bác ông Phan Đình Phùng, vợ cả ông Hoàng Trọng Phu ở quê là con em giai ông Phan Đình Phùng, lại là người cùng quê, nhưng vì « việc nước », họ đã đi hai con đường khác nhau, mà sử còn ghi ... )

Trở lại chuyện ông Mai : ông lấy bà con gái ông Hoàng Trọng Phu, nhưng chỉ ít lâu hai ông bà bỏ nhau. Rồi một lần ông Mai « đi xa » về, mang theo một người con giai nhỏ, người con duy nhất của ông, để lại cho hai cụ ký Năng. Người con trai đó là ông Nguyễn Mạnh Hà. Ông Hà đi Pháp học, đỗ tiến sĩ Luật, lấy vợ Pháp là con gái ông nghị sĩ cộng sản Marrane. Sau này, ông Hà kể lại với tôi rằng: khi ông ở Pháp về, Thống sứ Bắc Kỳ là Chatel, vốn là bạn cũ của ông Mai, hỏi ông muốn làm việc ở đâu, và chiểu theo nguyện vọng của ông, bổ ông làm Thanh tra lao động ở Hải Phòng. Khi về Việt Nam, bà Hà thời đó có tiếng là người cháu thảo đối với hai cụ ký Năng, nói tiếng Việt Nam thạo và theo phong tục lễ nghi Việt Nam. Bà kể có một lần bà đang ngồi nhổ cỏ ở quê, thì cụ Vi Văn Định lúc ấy còn đang là tổng đốc Thái Bình, tình cờ đến thăm cụ ký Năng, đã ngạc nhiên sao lại có « bà đầm » ngồi nhổ cỏ.

Khi Cách mạng Tháng Tám thành công, năm 1945-46, cụ Hồ Chí Minh chủ trương đoàn kết dân tộc, không câu nệ quá khứ, cho nên mới có việc mời cựu hoàng Bảo Đại làm Cố vấn tối cao, mời sự cộng tác của cựu Thượng thư Bùi Bằng Đoàn, cựu Ngự tiền Văn phòng Tổng lý Phạm Khắc Hoè, cựu Khâm sai Phan Kế Toại, cựu Tổng đốc Hồ Đắc Điềm và là rể của Hoàng Trọng Phu, của cựu Bộ trưởng Phan Anh của Chính phủ Trần Trọng Kim, của con rể và cháu rể của cựu Tổng đốc An Phước Nam Vi Văn Định là Tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên, Bác sĩ Hồ Đắc Di và Bác sĩ Tôn Thất Tùng, vv. Lúc ấy ông Hà được cử làm Bộ trưởng Kinh tế của Chính phủ Lâm thời thành lập ngày 23/8/1945 do cụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch kiêm Bộ trưởng Ngoại giao. Ông Hà kể là thuở ấy, các bộ trưởng của Chính phủ đầu tiên này của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa làm việc không có lương, ai có phương tiện thì tự xoay sở, ai thiếu thì được trao cho một số tiền để sống. Thời đó, Chính phủ rất gần người thường dân, ít nhất là ở Hà Nội, ai xin gặp nhà cầm quyền cũng dễ, không như sau này. Nhà ông bà Hà ở gần Bắc Bộ phủ (lúc đó dùng làm phủ Chủ tịch Chính phủ), cụ Hồ thỉnh thoảng lại thăm. Ông bà nhắc lại câu chuyện một lần gia đình sắp ăn cơm, thì cụ Hồ và một bộ trưởng đi cùng chợt đến thăm ; sau khi thăm hỏi, cụ ngó bàn ăn thấy chỉ có đĩa rau và đĩa tép, cụ nói đùa, bảo bộ trưởng kia : thôi ta đi « du kích cơm » nơi khác vậy. Lại một lần, có lẽ là vào dịp lễ Giáng sinh, ông Hà kể với cụ là ông đi lễ ở nhà thờ Lớn ; cụ bảo : « Vậy thì tôi đi với chú », rồi cụ tới dự buổi lễ, ngồi cạnh ông, không câu nệ gì. (Ông Hà kể chuyện này, không liên quan gì đến bài báo « Tăng Tuyết Minh, người vợ Trung Quốc [mộ đạo Công giáo] của Nguyễn Ái Quốc » của tác giả Hoàng Tranh (Huang Zheng), sử gia, viện phó Viện Khoa học Xã hội Quảng Tây, đăng trong tạp chí Đông Nam Á tung hoành, số tháng 11/2001, xuất bản tại Nam Ninh, Trung Quốc ; Diễn Đàn số 121, tháng 9/2002 đăng lại bản dịch tiếng Việt).

Chính phủ Lâm thời tồn tại đến ngày 2/3/1946 thì được thay thế bằng một Chính phủ Liên hiệp, do Quốc hội (do Tổng tuyển cử 6/1/1946) cử ra. Vì phải nhường 4 bộ cho Việt Quốc và Việt Cách (tuy hai đảng này không chịu tham gia Tổng tuyển cử và được dành 50 ghế cho Việt Quốc và 20 ghế cho Việt Cách trong Quốc hội – lúc đó quân Tàu Tưởng còn đang đóng từ vĩ tuyến 16 trở lên), ông Hà thôi làm bộ trưởng. Sau Hiệp định Sơ bộ Việt-Pháp 6/3/1946, quân đội viễn chinh Pháp đổ bộ vào miền Bắc, và sau khi quân đội Tàu Tưởng rút đi, quan hệ Việt Pháp càng ngày càng căng thẳng. Phía Việt Nam cố sức điều đình : Hội nghị Đà Lạt (17/4/1946- 12/5/1946) thất bại ; 27/5/1946 Hồ Chủ tịch lên đường sang Pháp để mở cuộc đàm phán với Pháp. Vì ông Hà là người Công giáo, lại có quan hệ về phía bố vợ, nên cụ Hồ cử ông tham dự hội nghị Fontainebleau (khai mạc ngày 6/7/1946), bà cũng đi cùng. Theo ông Hà kể, cụ Hồ bảo ông liên lạc với Bidault, (một trong những thủ lãnh đảng M.R.P. cũng là phái Công giáo, có lúc làm Thủ tướng Pháp) thuyết phục ông ta chấp nhận nguyện vọng độc lập thống nhất của Việt Nam, nhưng việc không thành. Tôi còn nhớ ông bà Hà đi Pháp về có lại thăm và biếu bố mẹ tôi một lọ nước hoa.

Khi Toàn quốc kháng chiến (19/12/1946), ông bà Hà ở lại Hà Nội trong vùng Pháp tạm chiếm, nhưng vẫn ủng hộ cụ Hồ và Kháng chiến. Năm 1950/1951, tướng De Lattre de Tassigny sang làm Cao uỷ kiêm Tổng tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp, « trục xuất » ông bà Hà về Pháp .Vì ông Hà có quốc tịch Pháp và vì bà Hà là người Pháp, con gái ông nghị sĩ Pháp, lại có thế lực công giáo, cho nên chính quyền Pháp trong vùng tạm chiếm cũng không dám hành hung.

Về Pháp, ông bà Hà và bố mẹ tôi có một thời góp vốn làm ăn chung để có nguồn sinh sống : mua một hiệu giặt ở phố Roquette ở quận 11, Paris, làm việc chân tay để mưu sống. Cũng có lúc, có người quen ông bà Hà đến tạm làm công ở đó, đặc biệt là anh Trần Th. (hình như nay đã mất), vừa làm vừa đi học, sau này là giáo sư ở Đại học Paris X. Cũng có một lúc ông Hà đi Lào để lo việc chính trị.

Nhân nói đến ông Hà có lẽ cũng nhắc thêm đến một câu chuyện : trong một khoảng thời gian sau năm 1954, một số nguời thắc mắc về việc tại sao ông lại « đi với Trần Văn Hữu » để tìm một giải pháp « trung lập », trong lúc đất nước có khả năng bị chia đôi lâu dài.

Có lẽ cần nhắc tóm tắt lại ông Trần Văn Hữu là ai, qua một số sự việc : Sau khi Pháp muốn lập lại chủ quyền ở Việt Nam và chiến tranh bùng nổ, khi Pháp bắt đầu điều đình với cựu hoàng Bảo Đại, và lập ra một chính quyền « quốc gia » trong vùng họ tạm chiếm, thì ông Trần Văn Hữu tham gia « Chánh phủ lâm thời » quốc gia này (tháng 6/1948) với tư cách là phó Chủ tịch Hội đồng Tổng trưởng, kiêm Tổng trấn « Nam phần ». Khi Thoả ước Elysée giữa Pháp và cựu hoàng Bảo Đại được ký ngày 8/3/1949, thì có sự tham dự của ông Trần Văn Hữu. Ngày 9/1/1950, khi học sinh biểu tình ở Sài Gòn trong vùng tạm chiếm, và học sinh Trần Văn Ơn bị cảnh binh bắn chết, thì ông Trần Văn Hữu đang làm Thủ hiến « Nam Việt ». Từ tháng 5/1950 cho đến tháng 6/1952, ông Trần Văn Hữu làm Thủ tướng « Chánh phủ quốc gia » trong vùng tạm chiếm.

Cho đến lúc ông Hà mất, tôi không nghe thấy ông Hà kể chi tiết gì khác về việc ông « đi » với ông Trần Văn Hữu, ngoài lòng mong muốn của ông thuở ấy là có một giải pháp làm sao chóng thấy nước nhà độc lập thống nhất. Khi ông Hoàng Xuân Hãn mất (tháng 3/1996), trong bài báo « Hoàng Xuân Hãn, con người và chính trị » đăng trên Diễn Đàn, số 53 và số 54, 1/6/1996 và 1/7/1996, tác giả Nguyễn Ngọc Giao có viết lại sự việc sau đây xảy ra khi quân đội Pháp đã thua ở Điện Biên Phủ, và khi hội nghị Genève đã nhóm họp. Anh Giao dẫn lời chứng của bác Hãn, theo các chi tiết đã thu vào băng cát-xét nghe-nhìn, trong một phần cuộc phỏng vấn bác Hãn kéo dài hai ngày, do đạo diễn Trần Văn Thuỷ quay ; hai người đặt câu hỏi là anh Nguyễn Tùng và anh Giao. (Tôi trích) :

[...] Ở đây, có thể kể lại một sự việc không mấy người biết, liên quan tới một phương án rốt cuộc đã không thành (nên không có gì phải biện minh). [...] Miền Nam sẽ ra sao? Thống nhất thế nào? [...] Tháng 7/1954 tại Genève, trưởng đoàn chính phủ kháng chiến Phạm Văn Đồng đề nghị hai ông Hoàng Xuân Hãn và Nguyễn Mạnh Hà tham gia một nội các Trần Văn Hữu ở miền Nam nếu chính phủ Pháp Mendès-France thực hiện được ý đồ này, nhằm ngăn chặn ảnh hưởng của Mỹ (lúc đó viện trợ Mỹ đã lên tới 80% ngân sách chiến tranh Pháp ở Đông Dương, và Mỹ đã ép được Pháp đưa ông Ngô Đình Diệm về làm thủ tướng một tháng trước)...(Gặp riêng hai ông Hoàng Xuân Hãn và Nguyễn Mạnh Hà, trưởng đoàn Phạm Văn Đồng đề nghị: « Nếu Trần Văn Hữu lập nội các, tôi nghĩ hai anh phải tham gia. Giữa mình với nhau, thượng lượng sẽ dễ »). Hai ông Hãn và Hà đã nhận lời. [...] Câu chuyện (chú thích: thành lập chính phủ Trần Văn Hữu 1954), như mọi người đều biết, không thành. [...]

Cũng nhân nói về ông Trần Văn Hữu, tôi xin trích lại đây vài dòng của bài « Vài kỷ niệm về lễ truy điệu Bác Hồ ỏ Pa-ri » của ông Hồ Nam, lúc đó là cán bộ ngoại giao của Cơ quan Tổng Đại Diện Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Pháp, đăng trong tạp chí Sông Hương số 3 (42), 1990, trang 4-9, để thấy sự phức tạp của tình cảm:

[...] Giữa lúc tang gia bối rối như vậy thì khoảng xế chiều [...], có ba tiếng chuông dè dặt gọi cổng. Đ/c thường trực mở cửa đón khách. Trước mắt chúng tôi lúc bấy giờ là một ông cụ già chừng 70 tuổi, mái tóc bạc phơ [...]. Sau vài lời chào hỏi xã giao, ông chủ động xin phép tự giới thiệu: « Tôi là Trần Văn Hữu, cựu Thủ tướng chính phủ quốc gia ». [...], ông Hữu nói rõ mục đích của mình: « Trước hết xin cáo lỗi cùng các ông về việc tôi đường đột đến mà không lấy giờ hẹn trước. Sau nữa, tôi xin được chính thức xác nhận tin cụ Chủ tịch qua đời mà tôi vừa nghe một cách đột ngột. Nếu là sự thật thì xin phép tôi được chia buồn cùng quý Toà và xin trân trọng được phép kính viếng Cụ ». [... Hôm sau] Đúng 9 giờ, cơ quan Tổng Đại Diện mở cửa đón khách. Cánh cửa vừa mở, một đoàn người cả Việt lẫn Pháp đã xếp thành hàng dài trên vệ đường từ bao giờ. Người đứng ở hàng đầu chính là ông khách đã đến hôm trước: ông Trần Văn Hữu. Hôm nay, ông đến trong bộ Âu phục màu đen, thái độ trầm mặc hơn, dáng vẻ buồn rầu hơn. Ông nghiêm nghị, từ tốn đến trước bàn thờ tưởng niệm Bác lạy bốn lạy, mỗi lạy ông đều phủ phục sát đất trong giây lát. Lễ xong, ông đi lùi mấy bước rồi đến chiếc bàn ghi cảm tưởng vào sổ tang. Ông ghi đại ý là: « Xin nghiêng mình trước anh linh của Cụ, người Việt Nam yêu nước, yêu hoà bình, yêu chuộng công lý thế giới ».

Đến năm 1977, nhân chuyến thăm Pháp của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, mới có sự « chính thức » nối lại quan hệ của chính quyền trong nước với ông Hà, qua buổi Thủ tướng Phạm Văn Đồng tiếp riêng ông, trong buổi chiêu đãi chung tại Sứ quán Việt Nam.

Vào những năm cuối thập kỉ 80, đầu thập kỉ 90 của thế kỉ trước, do công tác hội đoàn, vận động đóng góp và hợp tác với Việt Nam, hoặc ở các buổi hội họp, chiêu đãi, ông bà Hà và vợ chồng tôi có dịp gặp nhau luôn. Lúc này, bố mẹ tôi đã mất, ông bà thường nhắc lại mối quan hệ thuở xưa giữa hai gia đình, mà điểm chính là sự thân ái giữa những người đã mất.

Lại nhớ đến hai buổi cuối cùng gặp lại ông bà, cách đây có lẽ đã 16 năm, một thời gian trước khi ông Hà mất. Vợ chồng tôi mời ông bà lại nhà dùng cơm, bữa đó có anh Nguyễn Ngọc Giao, và ông Gaston Phạm Ngọc Thuần, nguyên đại sứ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở Cộng hòa Dân chủ Đức, (ông Thuần là anh ruột của đại tá « nằm vùng » Albert Phạm Ngọc Thảo trong quân lực Cộng hòa Việt Nam, sau bị chính quyền Thiệu-Kỳ giết chết vào tháng 7/1965 – ông Thảo được coi là một trong mấy tình báo viên xuất sắc nhất, tác giả của hai vụ đảo chính hụt năm 1963 và 1965 ; năm 1987, ông Thảo được truy tặng danh hiệu Anh hùng lục lượng vũ trang Nhân Dân). Bữa đó trong tình thân mật ông bà Hà còn rủ một bạn Công giáo của ông, luật sư Dương Văn Đàm, mới từ Hà Nội sang thăm con (ông Đàm, sau ngày đổi mới, là người đầu tỉên mở lại văn phòng luật sư tư nhân ở Hà Nội), cùng đến. Chủ yếu để nghe ông Hà kể chuyện về chuyến trở về thăm Hà Nội của ông. Ít ngày sau, đến lượt ông bà Hà rủ vợ chồng tôi đến nhà ông bà ăn « bữa cơm gia đình », lần này để nhắc chuyện ngày xưa.

Ông bảo là tôi [Liễu] chỉ nuối tiếc « thời hoàng kim » của chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa những năm 1945-1946. Tôi thì nghĩ : ông cũng vậy, khác gì đâu ! Nếu như nhà cầm quyền Pháp đừng gây chiến tranh « thuở ấy »…









4. Cách đây 61, 62 năm.

Lời nói đầu :

Để làm sáng tỏ thêm một số điểm viết trong 3 bài kể trên, tôi chép lại đây bài tôi viết nhân dịp 60 Toàn quốc kháng chiến. Một số nhà báo và sử gia nước ngoài đánh giá sự việc theo cách suy luận của họ. Tôi có cái nhìn khác. Do đó, tôi đã viết bài « Những sự việc dẫn tới 19/12/1946 », đăng gần trọn vẹn trên ZIDOL : www.diendan.org . (Xem chú thích (12) trong bài dưới đây).

Rồi mới đây, nhân cái chết của cựu thủ tướng Pháp P. Messmer (1916-2007), tôi có viết bài « Cách đây 61 năm » nhắc lại vài tình tiết về quan hệ Pháp-Việt năm 1945, cũng đăng trên đăng gần trọn vẹn trên ZIDOL : www.diendan.org . Trong bài đó, tôi có viết một đoạn như thế này:

Ngày 29/8/2007, báo chí đưa tin cựu thủ tướng Pháp Pierre Messmer từ trần, thọ 91 tuổi. Nhà báo nói nhiều đến sự nghiệp của ông ta ở đất Pháp (một trong những người đầu tiên kháng chiến chống Đức quốc xã, người của phái tướng De Gaulle, cựu thủ tướng (1972-1974), cựu bộ trưởng quốc phòng, viện sĩ viện hàn lâm Académie française,…) nhưng hầu như không đả động nhắc gì đến vai trò của ông ta trong mối quan hệ Việt-Pháp vào năm 1945 và những năm sau đó. Ông ta là một người đã giữ những chức vụ quan trọng liên quan đến việc người Pháp trở lại Đông Dương lúc đó : trưởng đoàn quân sự liên lạc về hành chính ở Viễn Đông (chef de la mission militaire de liaison administrative en Extrême Orient), nhảy dù xuống Bắc Bộ vào tháng năm 1945, đoàn viên « đắc lực » của phái đoàn Pháp ở hội nghị Đà Lạt (10/4-11/5/1945) và hội nghị Fontainebleau (6/7-10/9/1946), đoàn viên của phái đoàn bộ trưởng Pháp quốc hải ngoại Marius Moutet đi thị sát Đông Dương (27/12/1946 tám ngày sau ngày toàn quốc kháng chiến), chánh văn phòng của cao ủy Đông Dương Bollaert bốn tháng sau…Tất nhiên, tôi không có ý viết một điếu văn về ông. Tôi chỉ muốn nhân dịp này nhắc lại vài điều mà chính ông ta là một trong những « chứng nhân », phần nào tôi coi ông như là một trong những nhà chính trị Pháp lương thiện nhất, đã công nhận lầm lỗi của Chính quyền Pháp, đặc biệt là của ông De Gaulle trong việc để xảy ra chiến tranh Việt-Pháp năm 1946. (Xem chú thích (2) trong bài dưới đây).

Bùi Trọng Liễu





Trong thư gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 8 /2/1966, [Tổng thống Pháp] Charles De Gaulle viết : « Giá có một sự hiểu biết nhau tốt hơn giữa người Việt Nam và người Pháp ngay sau đại chiến thế giới thì đã có thể tránh được những sự biến tai ác đang giằng xé đất nước Ngài hôm nay ». Trong ngôn ngữ của một chính khách lão luyện, đó phần nào là sự nhìn nhận (tuy muộn màng) trách nhiệm của ông ta trong chính sách của Pháp ở Đông Dương giai đoạn 1945-1946. (Nguồn : sách « Ngoại giao Việt Nam 1945-2000 », nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, trang 91). Bởi vì chiến tranh Pháp-Việt xảy ra thuở đó, khởi đầu chính vì đường lối do ông De Gaulle vạch ra thuở 1945 (và được các chính khách Pháp có đầu óc thực dân nối tiếp). Ông ta đã đổi ý (trở thành thuận) về nền độc lập thống nhất của Việt Nam vào lúc nào, để đi tới bài diễn văn của ông đọc tại Phnôm Pênh ngày 2/9/1966, thời Mỹ đang can thiệp ở Việt Nam?

Dưới đây là tóm tắt các sự việc theo thứ tự thời gian. (1)

-9/3/1945 : Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương

-10/3/1945 : Nhật tuyên bố giúp Việt Nam thực hiện độc lập (kỳ thật Nhật vẫn nắm thực quyền, và chỉ nhả những gì họ muốn nhả).

-11/3/1945 : Triều đình Huế tuyên bố bãi bỏ hiệp ước 1884 (hiệp ước nhận nền bảo hộ của Pháp) và khôi phục chủ quyền Việt Nam : Việt Nam « độc lập ».

-24/3/1945 : Tướng Charles De Gaulle (Chủ tịch chính phủ lâm thời Cộng hòa Pháp, président du gouvernement provisoire de la République française từ 3/6/1944) tuyên bố : 5 xứ trong Liên bang Đông Dương (Bắc kỳ, Trung Kỳ, Nam kỳ, Mên, Lào) trong khối Liên hiệp Pháp sẽ có một chính phủ liên bang đứng đầu là một viên toàn quyền Pháp và những bộ trưởng do viên này bổ nhiệm (2) ...

-17/4/1945 : Thành lập chính phủ Trần Trọng Kim. Tổng đốc Phan Kế Toại được cử làm Khâm sai Bắc Bộ.

- 20/7/1945 : Nhật trao trả cho Việt Nam các nhượng địa Pháp (Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng) và sau đó là Nam Bộ (14/8/1945). Ông Nguyễn Văn Sâm được cử làm Khâm sai Nam Bộ.

-15/8/1945 : Nhật đầu hàng Đồng Minh. Theo quyết định của Hội nghị Potsdam của tam cuờng (Mỹ, Anh, Liên Xô), thì (ở Việt Nam) nửa trên vĩ tuyến 16 sẽ do quân Trung Quốc (lúc đó còn dưới chế độ của Tưởng Giới Thạch; gọi tắt là Tàu Tưởng) kéo sang, và nửa dưới vĩ tuyến 16 sẽ do quân Anh kéo vào, trên nguyên tắc là để giải giáp quân Nhật. (Còn nguyện vọng chung của người Việt Nam, nghĩa là độc lập thống nhất, thì các cường quốc không chú ý đúng mức tới). Cũng khoảng ngày đó, De Gaulle cử đô đốc D'Argenlieu làm cao uỷ kiêm tổng tư lệnh quân đội Pháp ở Đông Dương, với nhiệm vụ thực hiện điều tuyên bố ngày 24/3/1945 kể trên. Ngày 17/8/1945, tướng Leclerc được cử làm tư lệnh cao cấp quân đội Pháp ở Viễn Đông (commandant supérieur des troupes françaises en Extrême-Orient).

-19/8/1945 : Cách mạng Tháng tám, Mặt trận Việt Minh giành chính quyền.

-23/8/1945. Chính phủ lâm thời được thành lập. Cụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.

- Cuối tháng 8 (khoảng 22/8/1945 hay sau đó ?), 3 toán sĩ quan Pháp nhẩy dù xuống Việt Nam : toán Messmer (3) xuống Bắc Bộ, toán Castella (4) xuống Trung Bộ (gần Huế), toán Cédile xuống Nam Bộ với nhiệm vụ lập lại chính quyền Pháp.

-24/8/1945 : Vua Bảo Đại thoái vị, và sau trở thành Cố vấn tối cao của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

-2/9/1945 : Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập.

-9/9/1945 : Quân Tàu bắt đầu tới Hà Nội.

-12/9/1945 : Quân Anh-Ấn của tướng Gracey, tới Sài Gòn.

-18/9/1945 : Tướng Lư Hán, tư lệnh quân đội Trung Hoa vào Việt Nam (tổng quân số khoảng 20 vạn) tới Hà Nội.

- 22/9/1945 : Tướng Gracey ra lệnh giới nghiêm tại Sai Gòn-Chợ Lớn, và bắt đầu võ trang lại lính Pháp cũ ở Đông Dương, và giúp cho quân đội viễn chinh Pháp tới Sài Gòn (tướng Leclerc và một số quân tới Sài Gòn ngày 5/10/1945 và tuyên bố sẽ bình định Nam Bộ), và đổ bộ lên Vũng Tàu (6/10/1945), vv.

-9/10/1945 : Quân Pháp chiếm đóng Tây Ninh.

-11/10/1945 : Bevin, ngoại trưởng Anh, tuyên bố thừa nhận chủ quyền của Pháp tại Đông Dương.

-12/10/1945 : Quân Anh-Ấn tới đóng ở Gia Định và Gò Vấp, và 22/10/1945, tới đóng ở Thủ Dầu Một và Biên Hòa.

-25/10/1945 : Quân Pháp chiếm đóng Mỹ Tho, 28/10/1945, chiếm đóng Gò Công, 29/10/1945 chiếm đóng Vĩnh Long, 30/10/1945 chiếm đóng Cần Thơ.

-31/10/1945 : D’Argenlieu tới Sài Gòn cùng với tùy tùng và nhân viên phủ Cao ủy. Lúc đó ông De Gaulle muốn sử dụng giải pháp Vĩnh San (cựu hoàng Duy Tân).

-14/12/1945 : ông De Gaulle tiếp cựu hoàng Duy Tân và dự tính đưa ông ta về nước.

-24/12/1945 : cựu hoàng Duy Tân bị tai nạn máy bay chết. (5)

-6/1/1946 : Bàu cử Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Hai đảng đối lập là Việt Nam Cách mệnh đồng minh hội (Việt Cách) và Việt Nam Quốc dân đảng và Đại Việt (Việt Quốc) không chịu tham gia tổng tuyển cử, nhưng được dành cho một số đại biểu trong Quốc Hội : 20 ghế cho Việt Cách, 50 ghế cho Việt Quốc ; ngoài ra, còn dành 18 ghế cho Nam Bộ vì đang bị Pháp đánh phá, không tổ chức tổng tuyển cử được.

-9/1/1946 : Quân Pháp chiếm đóng Long Xuyên và Sa Đéc.

-20/1/946, do thời cuộc ở Pháp, ông De Gaulle từ chức (và chỉ trở lại cầm quyền 13 năm sau, vào tháng 5/1958).

-20/1/1946 : Quân Pháp chiếm đóng Châu Đốc, Hà Tiên, 26/1/1946, chiếm đóng Rạch Giá.

-28/1/1946 : Tướng Anh Gracey chuyển giao quyền hành cho quân đội Pháp và rời khỏi Sài Gòn.

-4/2/1946 : Quân Pháp chiếm đóng Cà Mau. D’Argenlieu lập Hội đồng tư vấn Nam Kỳ, do ủy viên cộng hòa Pháp ở Nam Kỳ chủ tọa, với 4 hội viên Pháp và 9 hội viên Việt.

-5/2/1946 : Quân Pháp chiếm đóng các tỉnh lị Cao Nguyên miền Trung Bộ và Nam Bộ từ vĩ tuyến 16 trở xuống.

-28/2/1946 : Pháp và Tàu Tưởng ký một hiệp ước (một thứ thoả thuận « trên lưng » Việt Nam): Pháp trả cho Tàu Tưởng các tô giới ở Thượng Hải, Quảng Châu, vv. (mà Trung quốc đã mất từ thế kỉ 19), bán rẻ cho Tàu Tưởng đoạn đường xe lửa Vân Nam nối với Việt Nam, trả cho Tàu Tưởng 60 triệu đồng/tháng tiền chi phí cho quân đội Tàu đang đóng ở Việt Nam. Ngược lại Tàu Tưởng sẽ để cho quân đội Pháp kéo vào trên vĩ tuyến 16, để thay thế quân Tàu Tưởng đang đóng trên đó. (6)

-2/3/1946 : Thành lập Chính phủ Liên hiệp ở Hà Nội. Chủ tịch: Hồ Chí Minh ; Phó chủ tịch: Nguyễn Hải Thần (Việt Cách) ; Cố vấn tối cao: Vĩnh Thuỵ (cựu hoàng Bảo Đại) ; với một số bộ trưởng gồm nhiều đảng phái như Nguyễn Tường Tam (Đại Việt), Chu Bá Phượng (Việt Quốc), vv.

-6/3/1946 : Quân Pháp đổ bộ lên Hải Phòng.

Cùng ngày ấy, ký Hiệp định sơ bộ Việt-Pháp ; phía Việt Nam, hai người ký là Hồ Chủ tịch và ông Vũ Hồng Khanh lãnh tụ Việt Quốc lúc đó đang là phó chủ tịch Quân sự uỷ viên hội mà chủ tịch là ông Võ Nguyên Giáp ; phía Pháp người ký là Sainteny: Pháp thừa nhận Việt Nam là một « quốc gia tự do » (Pháp không chấp nhận chữ « độc lập ») trong Liên bang Đông Dương và trong Liên hiệp Pháp. Sự thống nhất 3 kỳ (Bắc, Trung, Nam) sẽ tuỳ cuộc trưng cầu dân ý. Có thêm một phụ lục: Quân đội Pháp đóng ở Việt Nam (quân số 15000) sẽ dần dần rút hết trong vòng 5 năm. (7)

-16/3/1946 : Cụ Hồ gửi một « phái đoàn thân thiện » sang Trùng Khánh (thủ đô lúc bấy giờ của Tàu Tưởng) gặp Tưởng Giới Thạch; trưởng đoàn là Nghiêm Kế Tổ, một lãnh tụ của Việt Quốc, thứ trưởng ngoại giao trong Chính phủ Liên hiệp. Cùng đi với đoàn, có cựu hoàng Bảo Đại. Có lẽ là để làm nhẹ trọng lượng của sự « đồng loã » giữa Pháp và Tàu Tưởng, đồng thời để tránh việc Pháp có thể dùng cựu hoàng Bảo Đại. Tưởng Giới Thạch tiếp đoàn, nhưng không có kết quả. Ít ngày sau, phái đoàn trở về, nhưng cựu hoàng Bảo Đại ở lại Trung quốc (theo ông ta, thì có điện của Hồ chủ tịch bảo ông ta tạm ở lại đợi lệnh mới). Sau ông ta sang Hồng Kông.

-18/3/1946 : Quân Pháp của tướng Leclerc tới Hà Nội.

-20/3/1946 : Cédile, uỷ viên cộng hòa Pháp ở Nam Bộ (Commissaire de la République) muốn « điều đình » với Kháng chiến Nam Bộ với điều kiện là phía Kháng chiến phải nộp toàn bộ vũ khí. Phía Việt Nam không chịu.

-22/3/1946 : Hồ chủ tịch ra vịnh Hạ Long gặp D’Argenlieu.

-26/3/1946 : Bác sỹ Nguyễn Văn Thinh được Hội đồng tư vấn Nam Kỳ cử ra lập chánh phủ « nước Cộng hòa Nam Kỳ ». (8)

-29/3/1946 : Quân Pháp kéo tới Huế.

-7/4/1946 : Quân Pháp đến Nam Định.

-10/4/1946 : Các viên chỉ huy quân sự của Pháp nhận thông tri mật : « tới đóng nơi nào, phải lập ngay kế hoạch phòng thủ và kiểm soát, rồi sắp đặt để biến dần các hoạt động quân sự thành một cuộc đảo chính (nguyên văn tiếng Pháp : étude d’une série de mesures qui doivent avoir effet de modifier progressivement et transformer le scénario qui est celui d’une opération purement militaire en scénario de coup d’Etat). (Bản thông tri mật này, phía Việt Nam chỉ lấy được trong cuộc chiến đấu ở Hải Phòng 7 tháng sau).

-17/4/1946 : Hội nghị Việt-Pháp họp ở Đà Lạt để bàn về các vấn đề dự trù trong Hiệp định sơ bộ 6/3/46. Trưởng đoàn VN là Nguyễn Tường Tam (Đại Việt), lúc đó là bộ trưởng Ngoại giao trong chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Trong đoàn, gồm có những người như các ông Võ Nguyên Giáp, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Mạnh Tường, vv.

-23/4/1946 : Một phái đoàn Quốc hội Việt Nam do ông Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn, sang Paris tiếp xúc với Quốc hội Pháp. Một phái đoàn khác ở Nam Kỳ, do Cédile, uỷ viên cộng hòa Pháp ở Nam Kỳ chỉ định, cũng sang Paris vận động cho Nam Kỳ tự trị.

-12/5/1946 : Hội nghị Đà Lạt chấm dứt (thất bại vì Pháp vẫn muốn chi phối về mọi mặt).

-14/5/1946 : D’Argenlieu tổ chức lễ tuyên thệ trung thành của một số đại diện các dân tộc thiểu số miền núi tại Ban Mê Thuật.

-16/5/1946 : Phái đoàn Phạm Văn Đồng về nước.

-19/5/1946 : D’Argenlieu tới Hà Nội gặp Hồ chủ tịch.

-27/5/1946 : Hồ chủ tịch lên đường sang Pháp để mở cuộc đàm phán với chính phủ Pháp.

Cùng ngày ấy, D'Argenlieu, cao uỷ Pháp, thành lập một phủ uỷ viên phụ trách « Tây Kỳ », tức là « Khối dân tộc thiểu số miền Nam Đông Dương » (Commissariat pour les Populations Montagnardes du Sud-Indochinois : PMSI) (9) .

-1/6/1946 : « Chánh phủ nước Cộng hòa Nam Kỳ » ra trình diện trước nhà thờ Đức Bà ở Sài Gòn. Pháp thừa nhận « nước này » là một quốc gia tự do, song việc bổ nhiệm các công chức cao cấp phải được sự đồng ý của ủy viên Cộng hòa Pháp.

-8/6/1946 : Biểu tình lớn ở Hà Nội đòi Việt Nam thống nhất (ngày Nam Bộ).

-10/6/1946 : Quân đội Tàu Tưởng bắt đầu rút khỏi Hà Nội, đem theo nhiều của cải hôi được.

-18/6/1946 : Lính Pháp đột nhập đồn tự vệ ở Hải Phòng đòi thả một số nhân viên Pháp đã bị bắt giam.

-21/6/1946 : Quân Pháp chiếm đóng Pleiku và Kontum.

-25/6/1946 : Tướng Lư Hán và bộ hạ về Tàu. Một hai ngày sau, Nguyễn Hải Thần và một số lãnh tụ Việt Cách, Việt Quốc, trở sang Tàu.

Quân Pháp chiếm dinh toàn quyền cũ ở Hà Nội, sau khi Lư Hán ra đi.

-27/6/1946 : Tổng bãi thị, tổng đình công ở Hà Nội để phản đối Pháp chiếm đóng dinh toàn quyền cũ.

-6/7/1946 : Hội nghị Việt-Pháp ở Fontainebleau khai mạc. Trưởng phái đoàn Việt Nam là ông Phạm Văn Đồng. Chương trình nghị sự: Việt Nam và Liên hiệp Pháp, tổ chức Liên bang Đông Dương, sự thống nhất của 3 kỳ và trưng cầu dân ý, ...

-8/7/1946 : Quân Pháp chiếm đóng Lạng Sơn ; 17/7/1946, chiếm đóng Đồng Đăng

-23/7/1946 : Trong khi hội nghị Fontainebleau đang họp, thì D'Argenlieu, cao uỷ Pháp, triệu tập ở Việt Nam một Hội nghị liên bang, gồm các đại biểu « Việt Nam »(!?), Nam Kỳ quốc(!), Tây Kỳ(!), Lào và Miên. Đại biểu do cao uỷ chỉ định! (Phải chăng đối với D'Argenlieu, Việt Nam nghĩa là Bắc Kỳ+Trung Kỳ, vì xưa kia triều đình vua Tự Đức đã ký nhường Nam Kỳ cho Pháp?).

-10/9/1946 : Tại Hội nghị Fontainebleau, Pháp không chịu dứt khoát về vấn đề Nam Bộ. Hội nghị thất bại.

Cùng ngày, tại Hải Phòng, Pháp lập ban kiểm soát thuế quan.

-14/9/1946 : Ở Paris, để cứu vãn tình thế, Hồ chủ tịch đang đêm, đến nhà riêng của Moutet, bộ trưởng Pháp quốc hải ngoại (nghĩa là bộ thuộc địa cũ), để ký Thỏa ước tạm thời (Modus vivendi).

-18/9/1946 : Đội quân cuối cùng của Tàu Tưởng ở Hải Phòng xuống tàu về nước.

-18/10/1946 : Trên đường từ Pháp về, Hồ chủ tịch gặp lại D'Argenlieu ở vịnh Cam Ranh.

-30/10/1946 : Lệnh ngưng bắn nhau được ban hành ở Nam Bộ.

-11/11/1946 : Hồ chủ tịch gửi cho thủ tướng Pháp Bidault lời phản kháng về việc Pháp đơn phương tổ chức phòng thuế quan và kiểm soát ngoại thương tại Hải Phòng.

-20/11/1946 : Xung đột ở Hải Phòng giữa quân Pháp và tự vệ, lý do đưa ra là vì có một vụ việc kiểm soát thuế quan.

-23/11/1946 : Đại tá Dèbes, chỉ huy quân Pháp ở Hải Phòng, đòi phía Việt Nam rút hết quân ra khỏi thành phố. Pháp bắn trọng pháo và dùng cả không quân ném bom, phá hủy nhiều nhà, rất nhiều người chết và bị thương. Con số người chết phía Việt Nam sau này có nguồn ước lượng là 6000, hay hơn thế.

-27/11/1946 : Tướng Valluy, quyền cao ủy và quyền tổng tư lệnh quân viễn chinh Pháp (tạm thay D'Argenlieu về Pháp ít ngày), ra lệnh cho quân Pháp chiếm toàn bộ Hải Phòng và kiểm soát thuế quan.

-30/11/1946 : Quân Pháp và tự vệ xung đột ở Đồ Sơn.

Quốc hội Việt Nam kêu gọi Quốc hội Pháp can thiệp để dàn xếp ổn thỏa các vụ xung đột ở Việt Nam.

-3/12/1946 : Lính dù Pháp (lính mũ đỏ) phá Phòng thông tin ở Hà Nội, và có những hành động khiêu khích, như dàn hàng ngang đi giữa đường trêu ghẹo người đi đường.

-8/12/1946 : Các đoàn thể kêu gọi dân chúng đoàn kết ủng hộ Chính phủ, ở Hà Nội đào hầm, đục tường xuyên nhà nọ qua nhà kia cho dễ di chuyển, và tản cư ra khỏi thành phố.

-15/12/1946 : Hồ chủ tịch gửi thông điệp cho Léon Blum, lãnh tụ đảng Xã hội, vừa được Quốc hội Pháp chỉ định làm thủ tướng mới, đề ra một số điều cụ thể để giải quyết tình hình bế tắc trước mắt. (Bức điện này cũng như các bức điện trước đó, bị Bộ chỉ huy của quân đội viễn chinh Pháp giữ lại ở Sài Gòn, và chỉ được chuyển về Paris, 11 ngày sau, khi chiến tranh đã lan rộng).

Cùng ngày, quân Pháp nổ súng, bắn vào công an tại vườn hoa Hàng Đậu , ném lựu đạn ở phố Hàm Long, khiêu khích tự vệ ở phố Trần Quốc Toản.

-17/12/1946 : Léon Blum lập xong chính phủ mới. Moutet vẫn làm bộ trưởng Pháp quốc hải ngoại, và tuyên bố là « có cảm giác là chưa bao giờ đô đốc D’Argenlieu tỏ dấu hiệu bất đồng với tôi về chính sách mà chúng tôi vẫn thi hành… », cái chính sách đó đã được D’Argenlieu khẳng định trước đông đảo nhà báo : « Phải cho dân Đông Dương biết rằng nước Pháp muốn có mặt ở Đông Dương. Nếu nước Pháp lưỡng lự hay trù trừ thì sẽ mất lòng tin ấy. Chúng ta phải đánh dấu ý muốn bằng cách duy trì lực lượng của ta ở đó ». (10)

Cũng ngày đó ở Hà Nội, lính Pháp và tự vệ xung đột phố Hàng Bún, 17 thường dân Việt Nam bị chết. Lính Pháp bắt cóc một số phụ nữ. Tại nhà máy điện Yên Phụ, nơi có tổ canh gác hỗn hợp Việt-Pháp, một lính Pháp bất thần nổ súng bắn chết một vệ quốc quân cùng đứng gác.

-18/12/1946 : Thủ tướng Pháp Léon Blum cử bộ trưởng Moutet sửa soạn sang Đông Dương xem xét tình hình. (11)

Buổi trưa cùng ngày, bộ chỉ huy Pháp hạ tối hậu thư thứ nhất : « Bộ chỉ huy quân đội Pháp ở đây sẽ bắt buộc phải dùng những phương tiện để bảo đảm sự an toàn của quân đội, của thường dân Pháp và của ngoại kiều. […] Những thứ gì có thể làm cản trở sự đi lại của quân đội Pháp sẽ phải phá hủy, nếu không thì quân đội Pháp sẽ tự phá lấy ». Buổi chiều cùng ngày, Bộ chỉ huy quân đội Pháp gửi tối hậu thư thứ nhì : « Trong ngày 18/12/1946, công an thành phố Hà Nội đã không làm tròn nhiệm vụ. Nếu tình trạng đó kéo dài thì quân đội Pháp sẽ tự mình đảm nhiệm việc trị an ở Hà Nội chậm nhất là vào sáng 20/12/1946 ».

-19/12/1946 : Sáng sớm, Bộ chỉ huy quân đội Pháp hạ tối hậu thư thứ ba : « Phải tước vũ khí của tự vệ tại Hà Nội. Phải đình chỉ mọi hoạt động chuẩn bị kháng chiến. Phải trao cho quân đội Pháp việc duy trì an ninh trong thành phố ».

Kiều dân Pháp được Bộ tư lệnh Pháp cho mật lệnh tập trung ở vài khu gần trại lính Pháp để dễ bảo vệ. Lính Pháp bị cấm trại.

Khoảng 20 giờ, nổ súng. Toàn quốc Kháng chiến bắt đầu... (12)

Chú thích :


(1) Nguồn : « Hai mươi năm qua: 1945-1964, sự việc từng ngày », Đoàn Thêm, nxb Nam-Chi Tùng-Thư, Sài Gòn 1966 ; « Leclerc et l’Indochine/Chronologie », trang trên mạng http//www.v1.paris.fr ; « Những chặng đường lịch sử», Võ Nguyên Giáp, nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1994 ; và các tài liệu khác dẫn trong chú thích dưới đây.


(2) Trong cuốn sách Les Blancs s’en vont (Người da trắng ra đi), nxb Albin Michel, Paris 1998, trang 35-39, ông Pierre Messmer tuy tự bào chữa cho mình, nhưng thú nhận rằng « Bản tuyên bố của Chính phủ lâm thời Cộng hòa Pháp », ngày 24/3/1945 (Déclaration du gouvernement provisoire de la République française, đây là chính phủ của tướng De Gaulle vào thời gian mới giải phóng nước Pháp sau khi bị Đức Quốc xã chiếm đóng 1940-1944), là một kế hoạch không-thể-chấp-nhận-được nhằm tái lập thuộc địa (un programme inacceptable de recolonisation). […] . Chính ông Messmer viết rằng: từ ngày đảo chính Nhật 9/3/1945, không một người Việt Nam nào chấp nhận sự trở lại đô hộ của Pháp như thuở trước, và ông [Messmer] không bao giờ hiểu được tại sao tướng De Gaulle thuở ấy lại chấp nhận một Bản tuyên bố tai hại như vậy (une telle déclaration calamiteuse). Theo ông Messmer, tác giả của Bản tuyên bố này là toàn quyền (gouverneur) Laurentie, lúc đó là vụ trưởng vụ chính trị ở bộ Pháp quốc hải ngoại tức là Bộ thuộc địa (directeur des affaires politiques au ministère de la France d’outre-mer) ; nhưng chính ông này sau đó rất ân hận, và tìm cách « diễn giải » văn bản này theo một hướng tiến bộ hơn vào tháng 9 năm 1945, và do đó đã bị ông De Gaulle khiển trách nặng nề. Rồi ông kết luận rằng, rốt cục, ông chỉ thở phào hoàn toàn đồng ý với ông De Gaulle [về thái độ của nước Pháp đối với Đông Dương] ngày 2/9/1966, khi ông De Gaulle tuyên bố tại Pnom Pênh : « […] không có khả năng là các dân tộc châu Á chấp nhận sự áp đặt của người ngoài đến từ bên kia bờ biển Thái Bình Dương [nghĩa là Mỹ], dù cho với ý định nào và với vũ lực nào ». [Nguyên văn : […] il n’y a, d’autre part, aucune chance pour que les peuples d’Asie se soumettent à la loi de l’étranger venu de l’autre rive du Pacifique, quelles que puissent être ses intentions et si puissantes que soient ses armes]. Nghe ông Messmer kể như vậy, thì ông là người thức thời, nhất là khi ông luận về việc những người Pháp thời 1945-46 mù quáng từ chối cái từ « độc lập » mà mọi người Việt Nam ai ai cũng tha thiết.

Trong một buổi trả lời phỏng vấn của đài TV « Histoire » (Lịch sử) cách đây đã một hai năm (tôi không nhớ rõ thời điểm), ông còn phát biểu rõ hơn : theo ông, có một đống nhà chính trị tả hay hữu thuở ấy đều là bọn thực dân (ông nói đích danh Marius Moutet, đảng xã hội SFIO, Letourneau,…), tôi không nhớ ông có nói tới Bidault đảng lãnh tụ đảng MRP không (xem thêm bài tôi viết « Thuở ấy » về lời chứng của ông Nguyễn Mạnh Hà, trên www.diendan.org)… Nhận xét như vậy là « lương thiện », cũng như ông De Gaulle sau này , như đã kẻ ở đầu bài.

Có thuyết cho rằng là đảng Cộng sản Pháp thuở ấy cũng chưa mặn mà gì với nền độc lập của Việt Nam ; họ còn ưu tiên cho cuộc đấu tranh giai cấp ở chính quốc và các thuộc địa ; có lời ông tổng bí thư Maurice Thorez lúc đang tham gia chính quyền nói với đô đốc D’Argenlieu vào đầu năm 1946, rằng […] nếu phải nện [Việt Minh] thì cứ nện, nện cho mạnh (cognez, cognez dur). Nguyên văn câu nói là : « Amiral, étant donné le parti auquel j'appartiens, je souhaite naturellement que tout se règle au mieux avec le Viet Minh mais nos couleurs avant tout ! Et donc s'il faut cogner, cognez et cognez dur » (Đô đốc à, đảng tôi là thế, tất nhiên tôi mong rằng mọi sự giải quyết êm thấm với Việt Minh, nhưng màu cờ của chúng ta trên hết ! Vậy nếu phải nện, thì cứ nện, nện cho mạnh !), trích từ cuốn Chronique d'Indochine của Amiral Thierry d'Argenlieu (nxb Albin Michel). Không có lý do gì để không tin lời kể này. Theo thuyết đó, đảng Cộng sản Pháp chỉ chính thức ủng hộ kháng chiến Việt Nam khi Quốc tế cộng sản chú ý đến Việt Nam hơn, và sau khi họ đã gửi Léo Figuère, đầu năm 1950, sang khu Kháng chiến để kiểm tra. Người Pháp có câu : « A quelque chose, malheur est bon » (hiểu theo nghĩa : trong đại họa, cũng có sự may mắn cho ai đó). Đại hoạ đây là dân tộc Việt Nam phải chịu đựng hai cuộc chiến tranh kéo dài 30 năm với bao nhiêu máu, mồ hôi và nước mắt, và những hậu quả của chúng. Còn về sự may mắn, thì có ý cho rằng trải qua những gian khổ đó, đảng Cộng sản Việt Nam, năm 1945 mới chỉ có khoảng 5 nghìn đảng viên, chưa nắm toàn bộ Mặt trận Việt Minh và bộ máy chính quyền, đã trở thành một lực lượng vô song, trách nhiệm hầu hết các sự việc xảy ra, trong đó có cuộc Toàn thắng mùa Xuân 1975, thống nhất lãnh thổ, và tình hình đất nước ngày nay.


(3) đã kể trong chú thích (2).


(4) Về việc toán Castella (thiếu tá đặc phái viên của De Gaulle, nhảy dù xuống Hiền Sĩ cách Huế 25 km về phía Bắc vào cuối tháng 8/1945) bị bắt, có thể xem thêm trong cuốn “Người lính già Đặng Văn Việt, chiến sĩ đường số 4 anh hùng”, nxb Trẻ, 2004, (trang 88-94), ông Việt viết : Ngày 26/8/1945, đồng chí Hoàng Anh (nguyên bí thư tỉnh ủy Thừa Thiên) cùng anh Phan Tử Lăng và một số cán bộ ra tận nơi xem xét tình hình.[…]. Chúng tự xưng là phái bộ của Đồng Minh, nhảy dù xuống để thi hành một sứ mệnh. Chưa phân biệt thực hư, đồng chí Hoàng Anh vẫn để bọn quân nhảy dù ở nguyên khu nhà chúng chiếm đóng […]. Linh tính cho một nguy cơ lớn sắp xảy đến, nếu hành động chậm trễ […]. Anh em đều thống nhất chủ trương mời một cuộc họp khẩn cấp toàn bộ lớp Thanh niên tiền tuyến. Anh em bàn tán rất sôi nổi và cử ngay một nhóm chỉ huy […]. Vì phải hành động hết sức khẩn trương, bí mật, nên không xin ý kiến hay phép của bất cứ ai.[…]. Anh em Thanh niên tiền tuyến biên chế thành 3 tiểu đội […], đi đều bước thẳng vào nơi đồn trú của tốp nhảy dù. […]. Ba đại diện tiến lên. […] tên quan tư [thiếu tá Castella] tiến lên như để đón tiếp quân ta. Khi giáp mặt, anh Lê Thiệu Huy dõng dạc nói to bằng tiếng Pháp : « Nhân danh Ủy Ban khởi nghĩa Trung Bộ, tôi chuyển đến ông một bức thư ». Khi tên quan tư kính cẩn đưa hai tay ra nhận thư, thì có một phát súng Mousqueton nổ ầm vang, làm chấn động cả bầu không khí. Lập tức anh Nguyễn Thế Lương rút khẩu súng lục từ trong túi, hét lên : « Đưa tay lên ! Các anh là tù binh ! ». Cùng lúc ấy, tôi và cả phân đội xông lên, bao vây kín bọn lính nhảy dù […]. Trong cặp của tên quan tư Castella […] tôi tìm ra một mật lệnh hết sức quan trọng , mà đến nay, tôi còn nhớ rành rọt từng câu chữ : [dịch] « Quan tư Castella có nhiệm vụ bắt liên lạc với Ngô Đình Khôi, Phạm Quỳnh, với các lực lượng Pháp hải ngoại (FFE) và các lực lượng Pháp nội địa (FFI), để tổ chức chiếm lĩnh các công sở và thành lập [lại] chính quyền thuộc địa [bảo hộ] ở miền Trung Việt Nam. Tất cả các FFE và FFI đều phải đặt dưới quyền chỉ huy của quan tư Castella. [Ký] De Gaulle ». (Những chữ thẳng trong ngoặc [.] là của tôi (BTL) thêm vào cho rõ nghĩa). « Đồng chí Trần Hữu Dực hết sức vui mừng và hết lời khen ngợi chiến công vừa mới đạt được. Đồng chí nhận xét : Chỉ cần ta bị chậm một, hai ngày là bọn Pháp nhảy dù [này] có thể liên lạc được với Ngô Đình Khôi, Phạm Quỳnh, các lực lượng Pháp ở hải ngoại, ở nội địa […]. Nếu lúc ấy mà ta phát động tổng khởi nghĩa cướp chính quyền, thì có thể hàng ngàn, vạn sinh mệnh đồng bào sẽ ngã gục dưới họng súng quân thù. [Hết phần trích].

Về việc bắt các ông Ngô Đình Khôi và Phạm Quỳnh, ông Việt viết (trang 107-108) [trích]: Tôi và anh Nguyễn Thế Lương phụ trách bắt Ngô Đình Khôi. Anh Phan Hàm và Hà Đồng phụ trách bắt Phạm Quỳnh.[…] Tôi còn nhớ lúc ấy khoảng 11 giờ, bố con ông Ngô Đình Khôi đang ngồi bàn ăn cơm. […] Hai bố con đứng dậy ra đón. Tôi đưa tay chào nhà binh, đưa một phong bì thư và nói : « Vâng lệnh Ủy ban khởi nghĩa Thừa Thiên-Huế, tôi đến mời hai ông lên gặp Ủy ban khởi nghĩa. Xin mời, xe đã sẵn sàng ». [Đáp] : « Dạ dạ, xin vâng, vì đang ăn dở, xin phép ăn nốt bát cơm ». Tôi đồng ý ngay và mời cứ ăn. Sau bữa cơm, hai bố con vào mặc áo the, khăn xếp chỉnh tề. Tôi mời ra xe. Trên đường về, xe không đến Tòa Khâm, trụ sở lúc ấy của Ủy ban khởi nghĩa, mà theo kế hoạch về thẳng nhà giam Phủ Doãn. Đến nơi, tôi bàn giao hai vị khách quý, ký vào giấy giao nhận rồi ra về. Số phận của hai cha con ông Ngô Đình Khôi về sau ra sao hoàn toàn tôi không hay biết. Tôi chỉ làm nhiệm vụ của người lính. Nhóm anh Phan Hàm cũng hoàn thành nhiệm vụ bắt ông Phạm Quỳnh và Nguyễn Tiến Lãng về tập trung ở nhà giam Phủ Doãn. [Hết phần trích].


(5) Về chi tiết sự việc này, xin xem bài « Nhân việc đưa hài cốt cựu hoàng Duy Tân về nước » mà tôi đăng trong báo Đoàn Kết (bộ cũ) số 393, 1987, dưới bút hiệu H.B., và báo Tổ quốc đăng lại trong số tháng 4/1988. Tôi có bổ sung sau đó và đăng lại trong cuốn sách của tôi « Tự sự của người xa quê hương », nxb Đại học Quốc gia Hà Nội 2004. Trong « Mémoires de guerre (1940-1945) », tập 3, nxb Plon, 1959, trang 230 và 231, ông De Gaulle viết: « Aux fins qui pourraient être utiles, je nourris un dessein secret. Il s'agit de donner à l'ancien empereur Duy-Tan les moyens de reparaitre, si son successeur et parent Bao-Dai se montre, en définitive, dépassé par les évènements.[...]. C'est une personnalité forte. [...]. Le 14 décembre, je le recevrai pour voir avec lui, d'homme à homme, ce que nous pourrons faire ensemble. Mais quelles que soient les personnes avec qui mon gouvernement sera amené à conclure les accords, je projette d'aller moi-même les sceller en Indochine dans l'appareil le plus solennel, quand le moment sera venu ».


(6) Có thể xem thêm cuốn sách « Chiang Kai-Shek, De Gaulle contre Hô Chi Minh », Viêt-Nam 1945-1946, của Lin Hua, nxb l'Harmattan 1994.


(7) Thuở đó, Hồ chủ tịch có câu nói tiếng Pháp : « Plutôt flairer la crotte des Français pendant 5 ans, que flairer celle des Chinois pendant mille ans » (Thà ngửi phân Pháp trong 5 năm, còn hơn ngửi phân Tàu trong ngàn năm). Câu này, các sách và tài liệu ở Việt Nam nay không ghi lại vì những lý do dễ hiểu, nhưng ông Messmer có nhắc lại trong cuốn sách đã dẫn trên của ông ta, và ông ta dùng chữ « merde » (cứt) khiễm nhã hơn chữ « crotte » (phân) nhiều. Riêng tôi, thuở ấy còn nhỏ (chưa đầy 12 tuổi), nhưng tôi còn nhớ rõ ở Hà Nội thiên hạ kháo nhau về câu nói tiếng Pháp ấy và đa số cho là Hồ chủ tịch có lý. Tất nhiên, trong khung cảnh lúc ấy, « Tàu » đây là Tàu Tưởng, chưa phải là « anh em môi [hở] răng [lạnh] » sau này, nhưng gì gì đi nữa, vẫn có câu hỏi giả thử như lúc ấy mấy chính khách quốc gia theo « Hoa quân nhập Việt » mà thành lập chính phủ, liệu nước Việt Nam ngày nay có là một thứ Tây Tạng không ?


(8) Hình như lá cờ của « Nam kỳ quốc » này là màu vàng với 3 sọc màu lam chạy suốt chiều dài. Nếu đúng vậy thì nó khác với lá cờ « quẻ càn » , màu vàng với 3 sọc đỏ chạy suốt chiều dài, của « Quốc gia Việt Nam » thời ông Bảo Đại trở lại ký kết với Pháp trong vùng tạm chiếm, và sau này là cái cờ của « Cộng hòa Việt Nam » của chế độ ông Ngô Đình Diệm và sau đó.


(9) Vài câu về « Tây kỳ » : Theo DALAT Du lịch Lâm Đồng, 1986, Số 4, thì gốc gác câu chuyện là như thế này : Mặc dù theo Hòa ước bảo hộ 1884, Pháp công nhận đất Trung kỳ thuộc quyền cai trị của triều đình nhà Nguyễn, năm 1896, khâm sứ Pháp ở Trung kỳ đề nghị Cơ mật viện (triều đinh Huế) giao cho Pháp trực tiếp phụ trách an ninh các cao nguyên Trung kỳ. Năm 1900, toàn quyền Doumer quyết định chọn Đà Lạt làm thành phố nghỉ mát và đặt Tây nguyên (cao nguyên Trung kỳ) dưới quyền cai trị trực tiếp của Pháp, độc quyền khai thác tài nguyên nơi đây, cấm người Kinh lên cao nguyên lập nghiệp, hoặc trao đổi mua bán, trừ một số phu do người Pháp tuyển mộ. Năm 1946, D’Argenlieu lập ra « Tây kỳ » để chỉ vùng đất này, nhằm tách rời vùng này ra khỏi Việt Nam. Trong thời Kháng chiến chống Pháp, khi Pháp đã ký kết với Bảo Đại, ông ta cho chuyển gọi là « Hoàng triều cương thổ », và sau đó, năm 1951, ra qui chế riêng gồm 9 điểm cho người (các dân tộc Thượng) vùng này. Năm 1955, sau khi đã lật được Bảo Đại, Ngô Đình Diệm sát nhập "Hoàng triều cương thổ" vào "Trung phần" do một đại biểu chính phủ đảm trách. "Hoàng triều cương thổ" trở lại với tên "Cao nguyên miền Thượng".


(10) Về thái độ và cách cư xử của Léon Blum trong những ngày này, có thể xem thêm lời chứng của ông Raymond Aubrac trong cuốn hồi ký của ông : « Où la mémoire s’attarde », nxb Odile Jacob, 1996. Ông Aubrac cũng kể lại chuyện, khi toàn quốc kháng chiến sắp xảy ra (19/12/46), thủ tướng Pháp Léon Blum [đảng xã hội] có mời ông ta lên hỏi ý, [vì lo lắng vì chiến tranh có thể xảy ra], khi ông ta khuyên nên ngăn không cho đô đốc d'Argenlieu trở lại Việt Nam, thì Blum trả lời là không thể ngăn được vì sợ khủng hoảng chính trị, mà lâu rồi, đảng xã hội mới có dịp cầm quyền, không thể bỏ lỡ... Ông Aubrac cũng kể là sau này khi gặp lại cụ Hồ trong thời kháng chiến chống Mỹ, khi ông ta nhắc lại trách nhiệm của ông De Gaulle về chiến tranh Đông Dương, và sự thay đổi thái độ của ông De Gaulle năm 1963 và diễn văn ông ta đọc ở Pnom Penh 1966, và hỏi cụ nghĩ gì, thì theo ông ta, cụ trả lời rằng VN có câu : « Đồ tể về già [có thể] thành Phật » ; câu này ông Aubrac dịch ra tiếng Pháp theo trí nhớ, có lẽ không chính xác, tôi không biết câu này thực sự tiếng ta là gì, nên có hỏi thăm hai anh bạn. Được tạm trả lời là hình như đó là một câu trong kinh Niết Bàn (?) : « Đồ tể buông dao, lập tức thành Phật » và thường thì câu đó là một « Thiền ngữ», ám chỉ ý là khi từ bỏ « vọng tưởng » thì hành giả thấy ngay « Sự thực », chứ Sự thực không nằm đâu xa xôi. Đợi kiểm chứng.
(11) Ngày 22/12/1946 Moutet mới lên đường, và 26/12/1946 đến Sài Gòn. Dù sao, Moutet cũng là một trong đám người đẩy Việt Nam vào thế cùng. Ngày nay cũng còn có người cả tin nghĩ rằng giá phía Việt Nam « kiên nhẫn » đợi thêm vài ngày (vì ông Léon Blum đã lập chính phủ mới) thì không xảy ra chiến tranh !


(12) Những năm gần đây, có những sử gia hoặc nhà báo, nhà văn nước ngoài đặt mốc khởi đầu chiến tranh Pháp-Việt vào thời điểm khác, thí dụ như vào ngày 23/11/1946 khi quân đội Pháp nã pháo vào Hải Phòng. Nhưng những lý luận loại này có phần khiên cưỡng, bởi vì : Hoặc là chiến tranh bắt đầu khi có đụng độ chết người, thì sự đó đã xảy ra ở thời điểm khác rồi, hoặc là chiến tranh chỉ kể bắt đầu từ lúc nổ súng ở khắp mọi nơi (như vậy chiến tranh chỉ có thể kể từ 19/12/1946), còn nếu kể chiến tranh bắt đầu từ lúc có cuộc « đụng độ chết nhiều người », vậy thì đặt cái « chỉ tiêu » con số người chết là bao nhiêu để có thể kể là chiến tranh bắt đầu từ vụ việc Hải Phòng ? Hay là chiến tranh Pháp-Việt thực ra đã bắt đầu từ ngày quân viễn chinh Pháp đổ bộ vào Nam Bộ (nếu coi Nam Bộ hoàn toàn là đất của Việt Nam, theo cách nhìn của người Việt Nam), hoặc là chiến tranh Pháp-Việt đã bắt đầu từ ngày quân Tàu Tưởng rút hết đi phía Bắc để cho quân Pháp vào thay thế, nghĩa là từ ngày 25/6/1946 khi tướng Lư Hán và bộ hạ rút về Tàu (nếu coi Nam Kỳ – đất mà triều đình nhà Nguyễn đã ký nhường cho Pháp làm thuộc địa – « hơi » khác Bắc Kỳ và Trung Kỳ là đất bảo hộ) ?


Ngoài ra, cũng có những tác giả, thí dụ như nhà văn Antoine Audouard, trong bài « L'Indochine, ni gloire ni honte » (Đông Dương, không vinh quang mà cũng không hổ thẹn ), đăng trên báo Le Monde ngày 27/11/2006, cho tôi cảm tưởng là ông ta đem chuyện sau, để giảm trách nhiệm của chuyện trước, khi ông ta viết : « Avec cynisme, l'excellent démocrate qu'est le président Abdelaziz Bouteflika l'a bien compris, qui nous force au silence sur ses crimes présents au nom de nos crimes passés ; les Vietnamiens n'agissent pas autrement, signant avec leurs ennemis d'hier des pactes économiques ou financiers qui enterrent non seulement un regard sur des millions de victimes de ce qui fut aussi une guerre civile, mais aussi les droits politiques fondamentaux de leurs citoyens d'aujourd'hui » (tóm tắt đại ý là Việt Nam – cũng như tổng thống Bouteflika nước Algérie ngày nay – dùng chuyện những tội ác ngày xưa của chúng ta [Pháp] để buộc chúng ta phải im lặng về những tội ác ngày nay [của Việt Nam] đối với hàng triệu nạn nhân của một cuộc chiến tranh, mà cũng là một cuộc nội chiến, và đối với những quyền chính trị cơ bản của công dân họ). Viết vậy, khác nào như « viết lại lịch sử », hay là « viết sử-giả-tưởng (histoire-fiction) ». Vậy thì cũng có thể nào viết : « Nếu » Pháp và Việt Nam thuở đó mà cộng tác thành thực, thì đã chẳng có quốc trưởng Bảo Đại, đã chẳng có việc 1950 cụ Hồ phải đi Trung Quốc, Liên Xô để gặp Mao và Staline, rồi đã chẳng có chỉnh quân, chỉnh huấn, chẳng có Cải cách ruộng đất, chẳng có hiệp định Genève chia cắt, chẳng có chế độ ông Diệm, chẳng có thuyền nhân, và biết đâu cũng chẳng có cả CHXHCNVN, và như vậy thì chẳng có hàng triệu nạn nhân của một cuộc chiến tranh và chẳng có vấn đề trù dập những quyền chính trị cơ bản ? Ai đáng trách ai ?

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét