Mất, hút và ủ chất xám
1.- Theo ngôn ngữ thông thường, « chất xám » được dùng để chỉ trí tuệ, và ở tầm cỡ quốc gia, ba vấn đề được đặt ra : mất, hút và ủ chất xám. Cụm từ « chảy máu chất xám » dùng để chỉ hiện tượng trí tuệ của một nước bị thất thoát dưới hình thức này hay dưới hình thức nọ. Hiện tượng này thường gắn với hiện tượng « hút chất xám », là hiện tượng một nước, bằng cách này hay cách khác, thu hút được trí tuệ nơi khác vào nước mình để sử dụng có lợi. Còn « ủ chất xám », tôi muốn dùng nó theo nghĩa là tạm nuôi dưỡng ở nước ngoài chất xám của người gốc nước mình mà mình tạm thời chưa sử dụng được, vì lý do này hay lý do khác, nhưng hy vọng là một ngày nào đó sẽ sử dụng được một cách tích cực. Thường là nước giàu hút chất xám của nước nghèo : vì mức sống của nước giàu cao hơn, trả lương hậu hơn, do đó cuộc sống vật chất thoải mái hấp dẫn hơn. Nhưng không chỉ có vậy, mà còn cách đối xử nữa. Thí dụ như ở một số nước giàu đã phát triển cao, người lao động trí óc được tạo điều kiện dễ dàng để làm việc được thoải mái, không những vì họ có được những phương tiện trang bị để hành nghề, mà còn vì họ được trao trách nhiệm một cách tương xứng : cách đây không lâu, một ông bộ trưởng giáo dục một nước Tây Âu (tuy nước này là một nước đã phát triển cao) nhận xét rằng so với Mỹ, điều kiện trang bị và vật chất nước ông ta không chênh lệch ; nhưng ở Mỹ, nhà khoa học trẻ (khi có khả năng) được nhanh chóng trao nhiệm vụ hoàn toàn, trong trường đại học chóng được tự do hành động, chóng trở thành giáo sư, không phải phụ thuộc ai trong việc định hướng các chương trình nghiên cứu, hướng dẫn nghiên cứu, ít bị ràng buộc về cấp bậc vv., điều mà nước ông không thực hiện, cho nên người trí thức nước ông ta vẫn có nguy cơ bỏ đi. Không phải là sự ngẫu nhiên mà ở Mỹ, người ta thấy nhiều nhà bác học danh tiếng đã được đào tạo ở châu Âu (nhất là ở Đông Âu) sang lập nghiệp ở Mỹ.
Nhưng việc hút chất xám của một số nước chỉ có hiệu quả cao khi mà một số nước khác tự mình hất trí tuệ của mình ra ngoài. Thể chế của nước Đức quốc xã hồi 1933-1944, với sự kỳ thị chủng tộc đối với người gốc Do Thái, đã làm cho nhiều nhà bác học buộc phải ra đi (nhà vật lý Einstein, tác giả của « Thuyết tương đối », là một trong những trường hợp đó). Hoặc như một số nước khác sau đó, o ép người trí thức đến mức người ta phải trốn đi sang nơi khác.
Với thời gian, cách hút chất xám ngày càng tinh vi hơn. Thuở trước, người ta hút những trí thức đã thành tài, thậm chí đã nổi danh : thí dụ như xét lý lịch một số giáo sư ở Mỹ, có những người nguyên đã là giáo sư một đại học châu Âu, châu Á. Rồi người ta hút tới những người đã có bằng tiến sĩ, hoặc có bằng kỹ sư ở châu Âu hay ở nơi khác. Rồi tới ngày nay, họ hút tới những sinh viên, học sinh có khả năng.
Mà việc này lại liên quan đến vấn đề du học. Thật vậy, đối với mọi nước, đặc biệt là những nước đang (hay chưa) phát triển mà khả năng đào tạo ở chính nước mình còn rất giới hạn, vấn đề « đào tạo qua hình thức du học » tất nhiên là việc cần thiết và có lợi ích. Đó cũng là trường hợp của nước ta. Dù là du học tự túc, du học với học bổng viện trợ của nước ngoài, hay du học với học bổng của chính Nhà nước cấp, đều góp phần vào việc đào tạo những người có chuyên môn cao, cần thiết cho sự phát triển. Tuy nhiên, vấn đề « trở về nước » của du học sinh cần nên được đặt ra và phải được giải quyết thoả đáng. Theo tôi nghĩ, cũng nên có sự phân biệt : « Du học » tự túc là do gia đình hay đương sự tự mình lo liệu mọi chi phí, hoặc dưới dạng viện trợ cá nhân ; do đó vấn đề chỉ ở chỗ tạo điều kiện hấp dẫn để khi học thành tài và có kinh nghiệm, người du học sinh cảm thấy thoải mái để trở về nước làm việc. Còn « du học » với học bổng, nhất là với học bổng của Nhà nước ta hoặc học bổng của nước ngoài viện trợ cho Nhà nước ta, thì đáng chú ý là học bổng loại này là của cải chung của cả nước, trên nguyên tắc dùng để đào tạo cán bộ cho đất nước. Nếu như không có kèm theo kế hoạch và biện pháp tích cực cho việc « trở về », thì vấn đề « du học » này sẽ là sự tự mình tổ chức có qui mô để làm « chảy máu chất xám » của mình : bởi vì nếu như toàn xã hội Việt Nam nói chung đổ công sức và tiền của chung nuôi nấng, dạy dỗ những người con « ưu tú » của mình ăn học đến một tuổi nào đó, dùng của công gửi họ ra nước ngoài du học, rồi để họ không trở về nữa. Không lẽ lại ưu tiên một hình thức « Tất cả mọi người đóng góp, để cho vài người được hưởng » ? Đứng về mặt cá nhân hay gia đình của những người « ưu tú » đó, có thể đấy là một thuận lợi ; nhưng đứng về mặt một dân tộc, một đất nước, thì sự mất mát rất là lớn. Hình thức vừa kể trên hoàn toàn khác với với quan niệm của thời đầu cách mạng : « Mỗi người đóng góp, để mọi người đều được hưởng chung ».
Có ý cho rằng nên bắt chước một nước lớn: họ ồ ạt gửi người đi du học nước ngoài bằng đủ mọi hình thức. Trước hết, tuy bình quân thu nhập theo đầu người của họ còn thấp, nhưng họ là nước lớn nên khả năng tập trung của cải của họ rất lớn, họ có điều kiện để thực hiện những điều mà ta không thể thực hiện được bây giờ. Sau là, cũng có thể là họ có một chiến lược cài người của họ ở nước ngoài để gây một ảnh hưởng/ thanh thế nào đó. (Còn đối với một nước nhỏ, giả thử như có mơ mộng loại đó, cũng là việc ngoài tầm tay). Nhưng thực ra, họ có những biện pháp tích cực để lôi cuốn các du học sinh trở về, điều mà hiện nay chính sách của ta hình như khá lu mờ.
Lại nhớ tới câu của Mạnh tử đối đáp với vua Huệ vương nước Lương (thời Chiến quốc ở Trung Hoa) : « [...] đại phu viết hà dĩ lợi ngô gia, sĩ, thứ dân viết hà dĩ lợi ngô thân, thượng hạ giao chinh lợi, nhi quốc nguy hĩ » (hiểu thoát nghĩa là : ... quan nói sao kiếm lợi cho gia đình mình, kẻ có học và dân thường nói sao kiếm lợi cho thân mình, trên dưới đều lo kiếm lợi, thì đất nước tất bị nguy vậy). Dù sao, tôi vẫn giữ hy vọng là câu này không áp dụng vào việc « chảy máu chất xám » nói chung và việc « du học » nói riêng này của nước ta .
(Trích bài báo của Bùi Trọng Liễu đăng trong mục Nhịp cầu báo Nông Nghiệp Việt Nam 17/01/2002).
2.- Vậy nên giải quyết vấn đề « trở về nước » của du học sinh như thế nào ? Có ý cho rằng : nếu người du học (có học bổng) không trở về, thì phải hoàn lại tiền học bổng đã hưởng hoặc phải đóng góp thêm chút tài chính, và như vậy là đủ. Nếu lý luận như vậy, thì chưa thoả đáng. (Khác gì như nói rằng: một doanh nhân được trao cho nhiệm vụ và tiền của để xây dựng một cơ sở kinh doanh nhà nước, nhưng khi xây dựng xong, thấy làm ăn ra lãi, thì cứ giữ cơ sở ấy lại làm của riêng của mình, chỉ cần bù lại vốn đầu tư lúc đầu cho Nhà nước là đủ! Chắc ít có Nhà nước nào lại chấp nhận cách làm đó).
Tôi không phủ nhận việc cho phép du học sinh, du nghiên cứu sinh, ở lại nước sở tại để hành nghề-tu nghiệp thêm, nhưng không thể không đặt vấn đề « trở về nước ». Và vấn đề « trở về nước » này của du học sinh chỉ có thể giải quyết bằng cách tạo ra điều kiện hợp lý và hấp dẫn, trong hay ngoài biên chế nhà nước, để người du học sinh tự cảm thấy lợi ích của sự trở về (lợi ích cho cá nhân mình, cũng như lợi ích cho tập thể). Tất nhiên đó là nói chung cho mọi ngành mọi nghề.
Nhưng có một nghề mà tôi xin nêu một khía cạnh cụ thể: giáo dục đào tạo đại học. Có một điều kiện chính để tạo ra hấp dẫn, đó là: được trao cho chức vụ và danh hiệu phù hợp với khả năng tri thức chuyên môn mà người du học sinh đã đạt được trong khi được đào tạo ở nước ngoài. Chính vì vậy mà tôi luôn luôn kiến nghị việc tiếp nhận một cách thoáng sự trở về nước của các du-nghiên-cứu-sinh-đã-trở-thành-tiến-sĩ trong các « chức vụ-danh hiệu giáo sư » của các trường đại học. Tôi thiết tưởng không nên đánh giá một cách « quá nhẹ » lòng tự ái-tự trọng của con người: tiền bạc là một khâu quan trọng trong đời một trí thức (như người xưa nói: « Có thực mới vực được đạo »), nhưng đó không phải là khâu quan trọng duy nhất ; người lao động, và đặc biệt là người lao động trí óc, rất nhạy cảm với vấn đề tài năng của người ta có được công nhận đúng mức hay không. Tôi tin rằng một du nghiên cứu sinh, bảo vệ xong luận án tiến sĩ ở nước ngoài, sẽ dễ dàng quyết định trở về nếu như họ biết rằng một « chức vụ-danh hiệu giáo sư » đang đợi họ trong một trường đại học trong nước. Còn khâu tiền bạc : hiện nay, và trong một thời gian còn dài, nguồn kiếm sống trong nước của người trí thức nói chung chắc còn phải dựa trên sự xoay xở cá nhân, chưa thể hoàn toàn dựa trên đồng lương (dù cho đồng lương được vụt tăng lên gấp bội, họ vẫn tiếp tục kiếm thêm để tích luỹ: tích luỹ cho mình đủ rồi thì lại tích luỹ cho con mình, tích luỹ cho con mình đủ rồi thì lại tích luỹ cho cháu mình,... cho tới khi nào đối với họ, cuộc sống trong xã hội hoàn toàn không còn cảm tưởng bấp bênh nữa). Cho nên « chức vụ-danh hiệu giáo sư » mới là một giải pháp chính của vấn đề. Thiết tưởng ta tiếc làm gì mấy cái « chức vụ-danh hiệu giáo sư », trong khi « học hàm » rởm đang có nguy cơ nở rộ.
Chính vì chính sách của ta về vấn đề « trở về nước » của du học sinh không rõ rệt, cho nên một số người từ nước ngoài, với những động cơ khác nhau, đua nhau vào Việt Nam, tổ chức chọn lọc học sinh, nghiên cứu sinh ưu tú để đưa ra nước ngoài. Mà đưa ra nước ngoài rồi, học xong rồi, được đào tạo xong rồi, thì hậu quả ra sao, xem chừng không mấy ai nghĩ tới. Đứng về mặt cá nhân hay gia đình Việt Nam, có thể đấy là một thuận lợi; nhưng đứng về mặt một dân tộc, một nước, thì sự mất mát rất là lớn, (nặng hơn cả sự thất thoát về tiền bạc của cải trong kinh doanh). Như vậy, đứng về phương diện tập thể, tự mình tổ chức « chảy máu chất xám » của mình, để mang lợi cho ai? Một nền giáo dục, nếu chỉ nhắm đào tạo người ưu tú của mình để « xuất khẩu chất xám không có bồi thường » sang các nước đã phát triển (chất xám hạng trung, nhưng có tiềm lực được đào tạo thêm để thành tài, để họ sử dụng được), hoặc để làm công cho các hãng ngoại quốc ở Việt Nam, thì e không xứng đáng là nền giáo dục của một nước độc lập tự chủ.
Đội ngũ cán bộ nghiên cứu và giảng dạy đại học của ta nói chung hiện nay đã cao tuổi, mà chưa thấy có giải pháp thay thế (theo nghĩa thay thế trong chức vụ, để đảm nhiệm công việc, chứ không phải thay thế nhận danh hiệu để hưởng quyền lợi). Việc đào tạo cao cấp của ta hiện nay chưa thỏa đáng. Nếu tổ chức không tốt việc (đào tạo qua nghiên cứu) ĐTQNC, và không khéo sử dụng những người đã trải qua giai đoạn đào tạo đó, mà « đường về » của du học sinh, du nghiên cứu sinh cũng lại mờ mịt, thì đến một lúc nào, để tiếp tục phát triển, ta thuê người ngoại quốc chăng ? Nhưng phải chăng, thuê người « kỹ thuật viên » ngoại quốc, không tế nhị bằng phải thuê người khoa học ngoại quốc đóng vai trò « đầu đàn » trong một cương vị chỉ huy ?
(Trích bài của Bùi Trọng Liễu đăng trong Tia Sáng số tháng 12/2002).
3.- Trở lại việc thu hút chất xám. Có những nước, với truyền thống nhập cư, đã có chính sách thu hút người ở nơi khác đến, đặc biệt là người có tay nghề cao, có khả năng về trí tuệ. Mà muốn thực hiện được việc đó, tất nhiên là phải có cái nhìn cởi mở đối với người nơi khác, nghĩa là phải có cái nhìn không kỳ thị. Hiện nay, ở ta chưa tới giai đoạn sử dụng những người từ nơi khác. Nhưng thiết tưởng cũng nên đặt vấn đề kỳ thị, ít nhất trong khung cảnh khả năng sử dụng chất xám. (Xin xem thêm tài liệu 6.1 dưới đây ).
4.- Đối với các cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài, trong đó có thể có thêm những người du học xong rồi không hay chưa trở về, vấn đề đóng góp chất xám đối với nước nhà cũng được đặt ra. Sự đóng góp này chỉ hữu hiệu nếu như những cộng đồng này có được những đặc điểm phù hợp. Do đó, tôi thấy cần nêu lên vài điểm liên quan đến cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Trong tài liệu 6.2 dưới đây, tôi chỉ đề cập đến cộng đồng người Việt Nam ở Pháp, là nơi mà tôi được biết phần nào. Bài báo tuy viết cách đây đã mười mấy năm, nhưng thiết tưởng cũng chưa hoàn toàn lỗi thời.
**********
Tài liệu 6.1.
Vài câu hỏi về vấn đề « Kỳ thị »
(Bài của Bùi Trọng Liễu đăng trong
tạp chí Thời Đại số 2, 1998)
I. Lời nói đầu. Ngày nay, chúng ta thường nói đến nhân quyền, đến bình đẳng, tự do, đến dân chủ... Nhưng phải chăng tất cả những điều đó sẽ chỉ là lời suông theo thời thượng, nếu trong khi đó chúng ta che đậy « kỳ thị » ở chính mình hay ở « phe mình ». Mà đã là « kỳ thị », thì chẳng có gì là đẹp, kể cả « kỳ thị tích cực » (discrimination positive, nhằm nâng đỡ một nhóm người nào đó). Vì thế nên tôi muốn xin được nêu một số câu hỏi về vấn đề « kỳ thị », và tất nhiên tôi không có tham vọng đưa ra mọi lời giải đáp phù hợp, có chăng là khơi mào cho một cuộc thảo luận cần thiết, với hy vọng là phản ứng không chỉ là sự lặng im. Tất nhiên, tùy theo môi trường, mỗi nơi có thể ưu tiên trên khía cạnh này hay khía cạnh nọ của vấn đề. Tạm thời, tôi muốn tập trung câu hỏi đối với người Việt Nam hay gốc Việt Nam.
II. Thế nào là « kỳ thị »?
Định cư ở Pháp lâu năm, quen với cách nhìn ở nơi đây, tôi xin tạm lấy Điều 225-1, của bộ Luật hình sự Pháp để làm cơ sở cho một định nghĩa. Điều 225-1 nói trên, định nghĩa « kỳ thị » như sau (tôi dịch thoát nghĩa) (1):
- Là « kỳ thị », tất cả mọi phân biệt giữa các thể nhân, vì nguồn gốc, giới tính, gia cảnh, tình trạng sức khỏe, khuyết tật, phong tục, chính kiến, hoạt động công đoàn của họ, hoặc vì (thực sự hay giả định) họ thuộc hay không thuộc về một tộc người, một quốc gia, một chủng tộc hay một đạo giáo nhất định.
- Cũng là « kỳ thị », tất cả mọi phân biệt giữa các pháp nhân, vì nguồn gốc, giới tính, gia cảnh, tình trạng sức khỏe, khuyết tật, phong tục, chính kiến, hoạt động công đoàn của các thành viên hay một số thành viên của các pháp nhân đó, hoặc vì (thực sự hay giả định) họ thuộc hay không thuộc về một tộc người, một quốc gia, một chủng tộc hay một đạo giáo nhất định.
Tất nhiên, ý tôi không phải là dựa trên định nghĩa kể trên để « kết án ». Có chăng là tìm hiểu phần nào những ý tiềm tàng trong một số thái độ, có ý nghĩa « luân lý » hơn là ý nghĩa « luật pháp ».
Đáng lưu ý, là « kỳ thị » không chỉ khoanh lại trong vấn đề phân biệt theo màu da, lại càng không chỉ khoanh lại trong sự phân biệt giữa da trắng và da màu.
III. Vài câu hỏi:
Khi sự việc đã quá rõ (thí dụ như: apartheid ở Nam Phi, hay kỳ thị theo màu da ở Hoa Kỳ trước đây, hay chém giết gần đây ở Rwanda, hay kỳ thị nam nữ ở Afghanistan trong thời gian qua, ...) thì hà tất phải đặt câu hỏi. Câu hỏi chỉ đáng được đặt ra khi vấn đề thuộc vào những lĩnh vực hay những dạng mù mờ, nhập nhằng, khó phát hiện, hay có thấy nhưng vì lý do này nọ hay vì nể nhau (2), nên nghĩ rằng có thể bỏ qua hay có thể bào chữa.
a) Câu ví của một Việt kiều ở Mỹ, khi than phiền con mình hư hỏng: « Nó như quả chuối ngự: ngoài thì vàng, trong thì trắng », (với ý rằng nó hư như người da trắng), có thể coi là « kỳ thị » không?
b) Một vài vị ở trong nước ghé qua đây, trong những buổi tiếp xúc chung, thường gọi gộp chung « các anh » khi có cả « các anh và các chị ». Đó là trường hợp gần đây của một nhà thơ có tên tuổi. Khi được nhắc là có cả « các chị », thì vị thản nhiên nói sang chuyện khác. Có thể coi là « kỳ thị » được không?
c) Cách đây vài năm, trong một buổi họp (ở Pháp), nhân bàn về việc khuyến khích con cái học tiếng Việt để đừng quên cội rễ, một vị đứng dậy hô hào anh chị em trẻ chớ lập gia đình với người « nước ngoài », để dễ việc dạy con học tiếng Việt. Có thể coi là « kỳ thị » được không?
d) Xin dẫn câu sau đây : « Chúng ta mong muốn các thế hệ trẻ Việt Nam ở Pháp, cũng như mỗi chúng ta, đừng bỏ quên các giá trị được coi là « rất Việt Nam » như tình gia đình, như tình đoàn kết, đoàn kết giữa các thế hệ, đoàn kết trong cộng đồng người Việt (như các cộng đồng người Hoa, hay Do Thái...). Những giá trị này đang trên đà bị hy sinh trước chủ nghĩa cá nhân tột bực đang thịnh hành trong xã hội Pháp ».
Tôi không chê nửa trên của câu thứ nhất. Nhưng đã nhập cư vào xã hội sở tại mà có một sự khẳng định như câu thứ nhì của phát biểu này (3), thì đó là co cụm, mặc cảm hay là đượm màu « kỳ thị », dù là một thứ kỳ thị ngược lại?
d) « Học sinh VN đạt những thành tích xuất sắc trong các trường học ở nước ngoài không chỉ vì cái gien ưu tú của dòng dõi Lạc Hồng, mà còn vì [...] ».
Đây là câu trích ra từ một bài báo. Có thể coi là « kỳ thị » không?
e) « Người Âu Mĩ, khi lớn rồi thì ra ở riêng, cả tháng có khi cả năm không lại thăm cha mẹ một lần; cha mẹ già thì đưa vào nhà dưỡng lão. Một ông già nọ khi bước chân vào nhà dưỡng lão, quay lại nhìn đứa con trai và nghe nó dặn nhỏ: "Ba đừng nói hở tên gia đình mình ra nhé". [...] ».
Mỗi vụ hè, có hàng ngàn người Pháp ở Paris đem cha mẹ gởi ở một bệnh viện rồi hết hè, họ « quên » không tới đón về, bỏ mặc chính quyền làm gì thì làm. [...] ».
Đây là một đoạn trích từ cuốn sách (4). Có thể coi là « kỳ thị » được không?
g) « 300 năm phát triển tư bản đã làm con người phương Tây đứt hết gốc rễ, trở thành những cá nhân năng động, tự lập, tự chủ nhưng cũng khá cô đơn ».
[Cái câu này là câu kết thúc của một đoạn của một bài báo (5), mà tôi xin chép thêm dưới đây phòng xa trường hợp phải xét câu trên trong khung cảnh của nó:
« Một số học giả phương Tây dày công nghiên cứu Khổng Tử. Nhờ tư liệu phong phú, phương pháp phân tích xác đáng, họ đi sâu vào nhiều điểm còn hơn cả các nho sĩ của ta. Nhưng đọc sách vở của họ, thấy vẫn thiếu một cái gì, họ vẫn đứng ngoài mà nhìn vào, hiểu được học thuyết triết lý mà không nắm, không thấm được đạo lý. Họ thiếu cả một chiều dày truyền thống.
Nhờ truyền thống ấy mà, dù có hấp thụ sâu sắc chủ nghĩa tự do cá nhân, tôi vẫn thấy mình nặng nợ với đất nước, với xóm làng, với phố phường, thấy mình có gốc có rễ, một điều mà không ít bạn thân của tôi, người Pháp, nhìn vào thèm muốn mà không đạt được. »]
Nếu không phải là kỳ thị thì có thể coi là « gì » được?
Nêu câu hỏi, mà không đưa câu trả lời, nghĩa là tôi còn mong đợi được những lời giải thích khác: có thể giải thích phần nào bằng sự thiếu hiểu biết người nơi khác? bằng sự mặc cảm? hay sự lên gân (6)? hay sự « trộ » (7)? Hay bằng gì khác nếu không phải là kỳ thị?
Thực ra, qua những « câu hỏi-thí dụ » nêu trên, tôi muốn đặt nền cho những câu hỏi rộng hơn về một số « đề tài » sau đây của vấn đề « kỳ thị »:
1- Vấn đề « kỳ thị » được nêu ra trong trong các hiến pháp, các đạo luật ở những nước nào trên thế giới, và được đề cập tới như thế nào (về mặt tôn giáo, chính trị, đẳng cấp (caste), vv.).
2- Vấn đề bình quyền nam nữ trong phong tục tập quán và đời sống hàng ngày trong các xã hội.
3- « Kỳ thị » trong công ăn việc làm, nhất là trong một nền kinh tế gặp khó khăn.
4- « Kỳ thị » (theo chiều này hay chiều kia) trong khung cảnh nhập cư, định cư.
5- « Kỳ thị », bài ngoại và mặc cảm tự ti-tự tôn.
6- Những cái gọi là « giá trị phương Đông » và « kỳ thị ».
7- « Kỳ thị » có chút cơ sở khoa học nào không (như khi có người vu vơ dẫn « di truyền học »)?
8- Có một cơ sở chính đáng nào, trong một số trường hợp (kể cả trong việc học), cho một hình thức « kỳ thị tích cực » không? Và những hệ quả (tai hại hay « tích cực ») của nó ra sao?
Và những đề tài liên quan khác nếu có...
IV. Thay cho lời kết:
Tôi không ưa « kỳ thị ». Nhưng nêu câu hỏi về vấn đề « kỳ thị » không phải là một chuyện dễ. Và dễ bị chê. Đi sâu ngay vào một khía cạnh của vấn đề, thì bị chê rằng chưa có cái nhìn tổng quát. Nêu những câu hỏi để đặt khung cảnh chung nhập đề cho những thảo luận tương lai, thì lại bị chê rằng chưa đi sâu vào mọi khía cạnh của vấn đề. Không dẫn tài liệu, thì bị chê là nói vu vơ. Dẫn tài liệu thì có thể bị nghi là cố tình phạm đến một số danh nhân... Thậm chí đôi khi có thể bị chê là không biết thông cảm với những phát biểu xuất phát từ lòng yêu nuớc, yêu dân tộc. Nhưng tôi chấp nhận khả năng bị chê này, để hy vọng góp phần mở ra một cuộc thảo luận sâu cần thiết, và đầy đủ về mọi mặt (8). Yêu mình, không có nghĩa là phải ghét người khác. Tạm thời, tôi xin chấm dứt bằng cách dẫn vài danh ngôn:
- Thời Xuân Thu (770-481 trước CN), vua Cung vương nước Sở đi săn, đánh rơi mất cái cung. Các người theo hầu cố tìm. Cung vương bảo: « Người nước Sở mất cung, lại người (khác của) nước Sở nhặt được cung, đi đâu mà thiệt ». Khổng tử nghe thấy chuyện, bảo: « Đáng tiếc. Giá nói "Nguời mất cung, lại người khác nhặt được cung", thì chẳng hơn sao? ».
- Văn hào Alphonse Daudet (1840-1897, Pháp) có câu: « La haine, c'est la colère des faibles », (mà tôi xin tạm dịch là « Lòng căm thù, là sự nổi giận của kẻ yếu »).
- Văn hào Romain Gary (1914-1980, Pháp) có câu: « Le patriotisme, c'est l'amour des siens; le nationalisme, c'est la haine des autres » (mà tôi xin tạm dịch là: « Lòng yêu nước, là lòng yêu người thân của mình; tinh thần quốc gia, là lòng căm thù người khác »).
8/5/1998
______
Chú thích:
(1) Nguyên văn tiếng Pháp:
Article 225-1, Section première « Des discriminations », Chapitre V « Des atteintes à la dignité de la personne », du Nouveau code pénal:
Constitue une discrimination toute distinction opérée entre les personnes physiques à raison de leur origine, de leur sexe, de leur situation de famille, de leur état de santé, de leur handicap, de leurs moeurs, de leurs opinions politiques, de leurs activités syndicales, de leur appartenance ou de leur non-appartenance, vraie ou supposée, à une ethnie, une nation, une race ou une religion déterminée.
Constitue également une discrimination toute distinction opérée entre les personnes morales à raison de leur origine, de leur sexe, de leur situation de famille, de l'état de santé, du handicap, des moeurs, des opinions politiques, des activités syndicales, de l' appartenance ou de la non-appartenance, vraie ou supposée, à une ethnie, une nation, une race ou une religion déterminée des membres ou de certains membres de ces personnes morales.]
(2) Ở một số người Việt Nam, có một truyền thống trọng vọng người có danh, và khi đã trọng vọng ai, thì không chấp nhận rằng danh nhân đó có thể có những khuyết điểm (dù là nhỏ) bên cạnh những thành tựu (lớn). Và ngược lại. Cho nên mới có câu « Yêu thì yêu cả đường đi, ghét thì ghét cả tông chi họ hàng ». Tôi nói vòng vo, rào trước đón sau, để khi dẫn vài đoạn trong bài, mong giảm được phần nào phản ứng bồng bột của vài độc giả.
Nếu cần thì xin kể linh tinh trường hợp của vài nhân vật có tên tuổi trong lịch sử, trong một vài chi tiết:
- Công lao của vua Lê Thái Tổ Lê Lợi trong việc giành lại độc lập tự chủ của nước nhà rất là to lớn, trong sử ít ai sánh kịp. Nhưng cũng có việc bi thảm khủng khiếp đã xảy ra vì mê tín (giả thử là mê tín thật). Cuốn Nghiên cứu chữ húy ở Việt Nam qua các triều đại, của Ngô Đức Thọ, nxb Văn hóa, 1997, trang 99, có kể theo Lam Sơn thực lục, chuyện bà Ngọc Trần, vợ vua, bị giết làm vật tế thần: Trước khi vây đánh thành Nghệ An, (1425), Lê Lợi dừng lại nghỉ tại đền thờ thần Phổ Hộ, đêm chiêm bao thấy thần xin rằng nếu cho thần một người thiếp, thì thần sẽ giúp đánh thắng giặc Minh, lập nên nghiệp đế. Hôm sau, Lê Lợi gọi các bà vợ đến hỏi: « Ai bằng lòng làm thiếp của thần, ta lấy được thiên hạ thì sẽ truyền ngôi thiên tử cho con người ấy? ». Bà Ngọc Trần là mẹ của Nguyên Long (vua Lê Thái Tông sau này) nhận lời. Lê Lợi sai làm lễ tế thần, dùng bà làm vật tế, bà bèn mất. Việc « hối lộ » cho thần này, dù là vì mục đích cao cả, cũng là một tì vết.
- Vua Lê Thánh Tông là vua giỏi, nước ta rất thịnh dưới thời trị vì của vua này. Nhưng ông ta cũng có tì vết: đó là việc giết anh là Cung vương Khắc Xương. Theo Đại Việt sử ký (bản Cao Huy Giu dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, nxb Khoa học Xã hội, 1968, tập III, trang 175): ( năm 1460), khi đã giết Nghi Dân rồi, triều thần đón Cung vương Khắc Xương mời lên ngôi vua, Cung vương cố ý từ chối, triều thần mới đón vua (Lê Thánh tông) lên ngôi. [Theo sách Việt sử thông giám cương mục thì lúc triều thần bàn lập vua mới, Lê Lăng bàn lập Cung vương Khắc Xương, nhưng vì Lê Xí không đồng ý, nên mới đón lập Tư Thành (Lê Thánh tông)]. Sau, có người đổ vu (hay là được gợi ý tố cáo?), Lê Lăng rồi Khắc Xương đều bị tội chết. Lúc còn tranh quyền, giết nhau còn có lý do; nắm được quyền rồi, giết người như vậy đâu có gì là hay.
- Vua Quang Trung thì người Việt Nam nào cũng kính phục và đề cao. Nhưng cũng chẳng nên vì vậy mà bất cứ việc gì làm gì cũng phải cho là hay. Như theo Hoàng Lê nhất thống chí (bản dịch Nguyễn Đức Vân, Kiều Thu Hoạch, nxb Văn học, Hà Nội 1970, trang 131): Trong lúc làm lễ đám ma vua Lê Hiển tông, Bình (Nguyễn Huệ) với tư cách con rể, coi xét nghi lễ. « Lúc đang tế, có viên tả phiên lại hơi có vẻ cười, Bình sai lôi ngay ra chém ». Giết người kiểu ấy thì đâu có gì là hay, mà cũng có người tán dương.
Ba đại danh nhân trong lịch sử Việt Nam cũng còn chỗ để nói, huống hồ ...
(3) Trong bài tham luận đăng trên Đoàn Kết, bộ mới, số 466, tháng ba 1998, trang 29. Tất nhiên, cũng như đối với các tài liệu dẫn dưới đây, tôi cố gắng phân biệt tác giả và tờ báo. Nhân nói đến cá nhân và tập thể, trong vấn đề tương trợ có tổ chức hay không tổ chức trong một xã hội, phải chăng cũng bõ công dẫn vài câu trong bài báo trang II, phần « Le Monde Economie » trong tờ Le Monde ngày 7/4/1998: « L'INSEE à calculé que les ménages français consacrent 3% à 4% de leurs revenus, soit 135 milliards de francs par an, à aider financièrement d'autres ménages. Les trois quarts de ce flux - 100 milliards de francs - se dirigent des ascendants vers les descendants. Certes, ce montant n'est pas au niveau des 1300 milliards qui remontent des jeunes vers les seniors sous forme de pensions ou de remboursements de dépenses de santé, mais ajoute aux 200 milliards de francs de donations et d'héritages annuels, il représente un réel transfert de pouvoir d'achat ».
Xin tạm dịch là:
« INSEE [Viện quốc gia Thống kê và nghiên cứu kinh tế Pháp] đã tính là các hộ gia đình Pháp mỗi năm dành ra từ 3% đến 4% thu nhập của họ, tương đương với 135 tỉ francs, để giúp đỡ về mặt tài chính những hộ gia đình khác. Ba phần tư luồng tiền này - 100 tỉ francs - đi từ cha mẹ xuống con cái. Đương nhiên, số tiền này không ngang tầm với 1300 tỉ francs đi từ người trẻ lên người lớn tuổi, dưới dạng trợ cấp, hay tiền bù vào chi phí cho sức khỏe; nhưng cộng với số tiền 200 tỉ francs hàng năm cho con cái trước khi chết hoặc từ gia tài, nó là một hình thức thực sự chuyển nhượng sức mua ».
(4) Hồi kí Nguyến Hiến Lê, nxb Văn học, 1993, trang 372.
(5) Kẻ sĩ hiện đại, tạp chí « Xưa và Nay », số 36, năm 1997, trang 12.
(6) Cũng có ý cho rằng « phương Đông » mấy thế kỉ gần đây chỉ thua « phương Tây » về kỹ thuật, còn về văn hóa thì vẫn luôn luôn rực rỡ hơn (với nghĩa rằng văn hóa và khoa học kỹ thuật không liên quan với nhau). Loại ý « lên gân » này làm tôi băn khoăn. Chỉ riêng nói về sách, bút, mực, cũng đã thấy là không thể khẳng định đơn giản như vậy:
Thuở xưa ở Trung quốc khoảng 1200 năm trước CN, người ta « viết » bằng cách dùng dao khắc trên mai rùa; sau đó khoảng 1000 trước CN, chuyển sang « viết » trên thẻ gỗ thẻ tre. Viết sách và tàng trữ sách rất khó, nên việc học, đọc « sách » chỉ dành cho quí tộc, người thường không với tới được. Theo truyền thuyết, thẻ gỗ thẻ tre được dùng cho đến thời Hán Vũ Đế (140-87 trước CN). Cùng với thẻ gỗ thẻ tre, người ta còn viết trên lụa bạch (kiêm bạch), một vật liệu rất đắt tiền vì quý hiếm. Đến thời đầu Công nguyên, Gia Quỳ (30-101) chế ra « giản chỉ » bằng phụ phẩm của tơ để thay cho lụa. Nhưng « giản chỉ » còn là một loại vải chứ chưa hẳn phải là giấy. Người sáng chế ra giấy là Sái Luân vào khoảng năm 105, dưới đời Hòa đế (88-105) nhà Hậu Hán: ông ta dùng cỏ cây, sợi đay, lưới đánh cá hỏng để làm giấy. Đến đời Tam quốc (222-265), Tả Bá đã cải tiến đáng kể kỹ thuật làm giấy. Giấy làm bằng tre xuất hiện vào thời Tây Tấn (265-317) là một bước tiến đặc biệt quan trọng...
Về bút, mực, có thuyết cho rằng, thời Chiến quốc (khoảng 403-256 trước CN), có người nước Tề là Tiết Tắc chế ra mực, nhưng cũng có thuyết cho rằng đến thời Ngụy, Tấn, mới có người dùng khói tùng chế ra mực. Vào đời Tần, Mông Điềm chế ra bút (theo cuốn Bách gia chư tử, Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học xb, Tp Hồ Chí Minh, 1991). [Nếu tôi không lầm, thì Mông Điềm đây là chính là tướng Mông Điềm, người phụ tá của thái tử Phù Tô, con cả của Tần Thủy hoàng: Khi Tần Thủy hoàng bắt dân đắp Trường thành, đốt sách cổ (trừ sách thuốc, sách bói, sách trồng cây), chôn học trò (khoảng 460 người là những người phản đối chính sách), Phù Tô can, Tần Thủy hoàng giận, nên đuổi Phù Tô ra giám đốc việc quân của Mông Điềm ở Thượng quận. Khi Tần Thủy hoàng tuần du, bị bệnh, viết chiếu gọi Phù Tô về, chưa kịp gửi đi thì chết. Thừa tướng là Lý Tư và hoạn quan là Triệu Cao làm chiếu giả, bắt Phù Tô và Mông Điềm phải chết, và lập con thứ của Tần Thủy hoàng là Hồ Hợi lên ngôi, là Tần Nhị Thế,...]. Nhưng theo cuốn Trung quốc nhất tuyệt, bản dịch do Văn hóa thông tin xuất bản 1997, thì khi khai quật di chỉ Tiểu Đôn An Dương (khoảng hơn 3000 năm trước đây), người ta đã tìm thấy cả bút lông làm bằng lông thú. Việc chế tạo ra một công cụ, khó có thể gán cho một người, mà là cả một quá trình tập thể. Nhưng điều chắc chắn là nếu kỹ thuật không phát triển, nếu không chế ra giấy, ra mực, nếu nghề in không ra đời,... thì văn hóa chẳng phát triển được. Văn hóa và kỹ thuật liên quan là thế. Ngày nay, các phương tiện truyền thông hiện đại, máy điện tử, ... , không góp phần cho văn hóa phát triển mạnh hay sao ?
(Xin cám ơn nhà dân tộc học Nguyễn Tùng đã chỉ cho tôi thêm một số chi tiết nêu trong chú thích này).
(7) Tôi phân biệt hai từ « khoe » và « trộ ». Theo Từ điển tiếng Việt, nxb Giáo dục, Hà Nội 1994: « khoe » là « cố ý làm cho người ta thấy, biết cái tốt đẹp, cái hay của mình, thường là bằng lời nói » ; « trộ » là « cố ý tỏ ra như mình tài giỏi hơn người, hòng làm cho người khác phải nể phục ».
(8) Những người chủ trương « kỳ thị » đều cố viện « lý do » của họ: thậm chí những người chủ trương apartheid cũng nói là vì phát triển riêng biệt (theo màu da) có kết quả hơn (!); những ngưòi viện cớ tôn giáo bắt phụ nữ phải che mặt, không cho hành nghề vv., họ cũng nói là để che chở người phụ nữ khỏi bị xúc phạm (!); ... Thiết tưởng, cần biết phân biệt đâu là những giá trị chấp nhận được và đâu là những « giá trị » không chấp nhận được. Thêm nữa, đối với người Việt Nam hay gốc Việt Nam, « kỳ thị » trong quá khứ trong một khung cảnh lịch sử đặc biệt, và « kỳ thị » ngày nay, cũng có điểm khác nhau đáng nói...
**********
Tài liệu 6.2
Hoà nhập và Bản sắc
(Bài của Bùi Trọng Liễu đăng trong báo Đoàn Kết số 405-406, 1988 dưới bút hiệu H.B.)
Từ xưa tới nay, tôi chưa từng nghe nói thấy có ai, cá nhân hay tập thể, khi tâm thần không ổn định, khi chưa xác định được mình là ai, khi chưa biết chỗ đứng của mình, vv., mà lại làm được một điều gì ích lợi cho ai, cho người khác, cá nhân hay tập thể, gần hay xa... Người ta có thể có khó khăn trong vật chất (dù cho chọn chỗ đứng đúng hay sai) mà vẫn có thể nghĩ đến người khác, đến (cái mà mình tưởng là) lợi ích chung, chứ khi người ta hoang mang, khủng hoảng tinh thần không biết trôi dạt về đâu, thì chỉ dễ đưa đến những dằn vặt, oán thán, trách móc, tìm nguồn để đổ lỗi, vv.
Mà đối với người Việt định cư ở nước ngoài hiện nay, không thể xác định được mình là ai, xác định được chỗ đứng của mình, tương lai của mình và của con cháu mình, tập thể của mình như thế nào, nếu không đề cập đến các vấn đề « hoà nhập » và « bản sắc » (dù là đồng ý hay không).
I. Hoà nhập, sống cài và đồng hoá.
Để diễn tả ý kiến, tôi xin được dùng môi trường Pháp (nơi mà phong trào Việt kiều đã có từ lâu đời, với nhiều thế hệ...).
Tiếng Pháp hiện nay có ba từ chính, liên quan đến vấn đề nhập cư. Đó là: intégration (hoà nhập hay hội nhập), insertion (mà tôi xin tạm dịch một cách vụng về là sống cài), và assimilation (đồng hoá). (Tôi không phải là nhà ngôn ngữ học, nên xin có lời xin lỗi trước về việc dùng từ ngữ). Về ba từ này - với các quan niệm chúng diễn tả, và tuỳ « phía » (phía « bản xứ » hay phía « nhập cư ») - có thể bị hiểu một cách lẫn lộn:
.I.1- Phía bản xứ, bọn cực hữu chủ trương rằng, để bảo toàn sự an ninh cho quốc gia và « bản sắc dân tộc », chỉ có sự « đồng hoá » mới phù hợp. Do đó, có thể hiểu rằng, đối với họ, loại người-nhập-cư-có-thể-chấp-nhận-được, phải là những người Âu, da trắng, và ưu tiên thuộc phương Bắc, vì dáng vẻ (mắt xanh tóc vàng) và vì văn hoá (culture judéo-chrétienne)... Qua chủ trương này, thấy hiện lên nét kỳ thị chủng tộc, và sự bài ngoại là một sự bài ngoại qua màu da và văn hoá, chứ không hẳn là sự bài ngoại theo nghĩa người nơi khác và người bản xứ (theo nghĩa hành chính, lý lịch lâu đời, gốc gác, sinh quán...).
Phía nhập cư, vì hiểu lẫn lộn « hoà nhập » với « đồng hoá » (nghĩa là mặt nào vô tình trở thành đồng loã với bọn cực hữu bản xứ), nên một số người chủ trương co cụm lại: vì sợ « mất gốc », vì sợ bị « đồng hoá », nên họ chủ trương sống ghép lại với nhau, từ chối không tham gia vào xã hội nhập cư, tự đặt mình sang « bên lề » của xã hội này, và mơ cái cảnh « thân thì ở nơi kẻ địch, mà hồn thì ở cố quốc », cố (giả) tạo ra một thứ hãnh diện (quốc gia) của kẻ bị gian nan mà vẫn cố gắng vẫy vùng, tuy chẳng mang lợi ích gì cho ai, và không có lối thoát cho thế hệ mình cũng như cho những thế hệ mai sau. Điều đáng tiếc là một số người Việt, vì không thoát khỏi được cái gánh nặng của lịch sử để lại (với họ, dân tộc Pháp và thực dân Pháp là một) và vì nhìn thế giới dưới dạng « tĩnh » (tựa hồ như thế giới ngày nay không hề biến chuyển) cho nên tự khép mình trong một thứ intégrisme (tôi tạm dịch là « toàn thủ ») cả về chính trị lẫn văn hoá, vô tình trở thành « đồng minh khách quan » của bọn cực hữu bản xứ mà cứ tưởng rằng mình thực hiện sự thuỷ chung với gốc gác của mình.
.I.2- Một chủ trương khác là chủ trương « sống cài ». Có hai phía nhìn của vấn đề:
Phía bản xứ, hoặc do sự cần thiết phải giải quyết những mắc mứu do tình hình khách quan dẫn tới hoặc do một loại tư tưởng « độ lượng » nào đó, cho nên một số người chủ trương tạo những điều kiện thuận lợi để bình thường hoá cuộc sống cho người nhập cư (giấy tờ hành chính, quốc tịch, học tập, tiếng nói, nghề nghiệp, giúp đỡ về điều kiện xã hội, vv.). Nhưng chủ trương này vẫn không vượt qua khỏi cái sự « họ là họ (nhập cư, thiểu số) và ta là ta (người bản xứ lâu đời) ».
Về phía nhập cư, thì những người chủ trương « sống cài » - dù là « sống cài vì lợi » hay « sống cài vì bó buộc » - cũng có những nhận định và chủ trương tương tự. Và do đó, họ chủ trương « hoà nhập bề ngoài »: cứ nhập quốc tịch để ổn định cuộc sống và hưởng các quyền lợi sở tại, đối với người sở tại thì kệ « sống chết mặc bay », còn chỉ riêng mình mới đáng kể (kẻ-ích-kỉ-lắm thì lo cho thân mình và gia đình; kẻ-ích-kỉ-ít thì lo cho tập thể cộng đồng cùng gốc với mình, cùng lắm là nước gốc của mình).
.I.3- « Hoà nhập » có nghĩa là hoàn toàn tham gia một cách trung thực và toàn diện vào cuộc sống của nước nhập cư, không phân biệt, (tuỳ mức độ, dần dần) trở thành công dân thực sự của nước cư ngụ, có quyền lợi mà cũng có nghĩa vụ. Điều này không trái với việc nhớ cỗi rễ, giữ thuỷ chung với gốc gác của mình (và nước gốc của mình), vun xới và phát huy nền văn hoá gốc của mình theo sự tiến triển của nó. Chính phía bản xứ những người chủ trương « hoà nhập » cũng hoàn toàn bảo vệ ý là sự hoà nhập phải thực sự như vậy thì mới có sự hoà hợp và an ninh, xã hội sẽ « giàu » thêm vì những cái mới (văn hoá, tư tưởng, hiểu biết, cách sống...) từ nơi khác mang lại, vv.
Tôi nghĩ, và xin nhắc lại, là « mô hình lý tưởng » nhất cho người Việt ở nước ngoài, là: « Một cộng đồng "hoà nhập" hài hoà vào nước định cư một cách trung thực và toàn diện nhưng không quên cỗi rễ và giữ được thuỷ chung với gốc Việt Nam ».
Hoà nhập đây cần được hiểu vừa theo nghĩa « hoà nhập cá nhân » (nó thuộc quyền tự do của mỗi người) và theo nghĩa « hoà nhập của một tập thể » (và tôi chỉ luận trên mặt này). Và tôi đã có dịp bày tỏ những lý do hay, dở, lợi, thiệt.
(Xem bài tôi viết trong báo Đoàn Kết số 369, 384, 386, 392, 397, 398, 404).
II. Vài nhận xét.
.II.1- Một cộng đồng nhập cư, định cư lâu dài/vĩnh viễn, luôn luôn đụng phải vấn đề « thiểu số-đa số », tức là đụng phải vấn đề an ninh. Tự ghép mình trong một « biệt khu » theo nghĩa đen (sống tụ tập, buôn bán, trao đổi làm ăn ...) và theo nghĩa bóng (« phô trương » phong tục, văn hoá... một cách thô lỗ, bề ngoài...) là cách gây nên một sự khiêu khích dưới con mắt của đa số. Riêng đối với nước Việt Nam, không phải là một siêu cường, không thể có chủ trương và không có trọng lượng để bảo vệ một cộng đồng kiều bào của mình sống « biệt lập » như vậy trên một nước định cư. Cách an toàn nhất cho một cộng đồng người gốc Việt chỉ có thể là sự « hoà nhập ».
.II.2- Trên thế giới hiện nay, vấn đề chung sống hoà hợp, hay cạnh tranh, tranh chấp, đương đầu, đối địch, vv. ngày càng trở nên phức tạp, tế nhị... Nó không còn thô thiển ở kiểu « hùng hổ đấu ». Không thể để ai hiểu lầm hoặc gán cho mình ý tưởng lăm le dùng một cộng đồng nhập cư như một đạo quân cài vào/thâm nhập vào trong nước người khác, để thực hiện một đường lối quan hệ đôi bên. Do đó, sự hoà nhập phải và chỉ có thể là sự hoà nhập trong « trung thực ».
.II.3- Vấn đề hiểu biết thế giới bên ngoài là việc cần thiết cho sự sống còn của một xã hội. (Kinh nghiệm đau đớn của thế kỉ 19 cho nước Việt Nam còn để lại hậu quả cho đến tận ngày nay). Sự hiểu biết đây, không thể chỉ khoanh lại ở « khoa học kỹ thuật » hay ở « quản lý kinh tế » (như một số người quá đơn giản hoá), mà là một sự hiểu biết đồng bộ và sâu sắc. Trong trường hợp một nước nhỏ như nước Việt Nam, chỉ một số tương đối nhỏ cán bộ có khả năng đi ra ngoài tiếp xúc, tìm hiểu.
Nếu Việt Nam muốn coi cộng đồng người Việt ở ngoài nước như một « cửa sổ » mở ra thế giới, hay hơn thế nữa, nếu muốn dùng cộng đồng này như một « diện môi giới » (interface, theo nghĩa của tin học, chứ không theo nghĩa « diện phân giới » của vật lý) thì không có cách nào tốt hơn là một cộng đồng hoà nhập. Mà một « diện môi giới » như vậy phải được giữ nguyên tính chất của nó.
Mong rằng không còn ai chủ trương lái cộng đồng người Việt ra khỏi cái con đường « hoà nhập » của nó, bởi vì như vậy sẽ là huỷ diệt cái tính chất « diện môi giới » của nó. Một cộng đồng người Việt ở nước ngoài mà là một tập thể người giống y hệt người Việt Nam trong nước thì không có ích lợi gì cho chính mình, cho Việt Nam, cho ai, mà chỉ là nguồn của những khó khăn, những căng thẳng, những hận thù dân tộc, những đổ vỡ...
.II.4- Nên phòng ngừa nguy cơ đi đến tình trạng, nói chung, của một sự « hiểu biết lỏng » (nghe lõm bõm rồi đánh giá lệch, hoặc bỏ qua một số hiện tượng). Ví dụ:
1/ Chưa nghe kỹ những lý do phân tích, rồi lẫn lộn « hoà nhập » và « sống cài », và cứ khăng khăng « đấu tố » (...).
2/ Một cộng đồng « hoà nhập » tất nhiên mang tính đặc trưng của nó (...). Nếu nước Việt Nam khéo biết « khai thác » (có chính sách cởi mở phù hợp, hoà nhã phối hợp,vv.) thì sẽ thu được nhiều lợi ích; nếu không khéo « khai thác » thì mất mát, không sử dụng được, mà lại làm mất tình nghĩa. Vả lại, ngoài tình cảm và « chính sách » ra, có thể lấy lý nào và biện pháp nào để làm sức ép trên một hội đoàn hay một cộng đồng (họ không phải là những cán bộ nhà nước Việt Nam) để họ theo sự « chỉ đạo » từ Việt Nam mãi không?
3/ Có một sự đánh giá sai lệch ở chỗ tự kiêu, tự mãn không đúng chỗ, trong một tinh thần chủng tộc hẹp hòi. Đó là sự đánh giá rằng « người Việt khéo, giỏi, được thiên hạ kính trọng, và vì vậy nên không hề có vấn đề (trong việc nhập cư) ». Nhìn kỹ thì thấy là sự thật không phải vậy:
- Người Việt làm người phục vụ, làm người hầu việc cho chủ, đúng là thường được khen là ngoan ngoãn, dễ bảo.
- Người Việt làm công nhân, đúng là thường được chủ khen là khéo, không đòi hỏi quyền lợi, làm nhiều mà chịu lương ít, ít biểu tình đấu tranh, ít vào công đoàn..., do đó được chủ thích dùng.
- Trẻ em, thanh thiếu niên người Việt đi học, thường được khen là chăm chỉ ít hỗn láo, và học được, thi được.
- Người Việt buôn bán làm ăn thì không hẳn là không có điều ra, tiếng vào...
- Người Việt có bằng cấp, bác sĩ, kỹ sư, giáo viên... ở các địa vị trung cấp, cấp thừa hành, chuyên môn « kỹ thuật », thì tương đối « ít có vấn đề ».
Nhưng khi cạnh tranh vào những chức vụ cao cấp, thì sự khó khăn đầy dẫy: một phần có thể là vì « trình độ » chưa đủ đạt để có thể tranh giành có hiệu quả, một phần thì vì chưa « hoà nhập » thực sự được vào xã hội nhập cư (tự mình, hay bị người ta, loại mình ra « bên lề » xã hội).
Tóm lại là: Nếu lạc quan, thì có thể nói rằng người Việt ở ngoài nước đã đạt đến « phần dưới của cấp trên » (bas du haut de gamme); nếu không lạc quan thì nói rằng chỉ mới đạt đến « phần trên của cấp dưới » (haut du bas de gamme).
4/ Vấn đề « hoà nhập » không chỉ do tự mình (người nhập cư) quyết định, muốn hay không muốn. Thực ra « hoà nhập » được vào một xã hội, (trong đó có khâu « được ngang quyền với người sở tại ») còn tuỳ người sở tại, tuỳ ta; nó đòi hỏi một sự đấu tranh với tư cách một tập thể. (Một trong những ví dụ dễ thấy là cộng đồng người Mỹ đen, họ định cư đã hơn hai thế kỉ, trải qua bao đợt đấu tranh, như những năm 50 với cuộc đấu tranh đòi « quyền công dân », vv., đến nay vẫn chưa hoà nhập hoàn toàn được, và vẫn còn mang nét của một thiểu số sống bên lề xã hội Mỹ).
Tôi thiết tưởng nên thay thế sự tự mãn bằng một « tham vọng » lớn hơn cho cộng đồng người Việt ở ngoài nước: có « hoà nhập » thực sự được vào các xã hội định cư thì mới hy vọng có tầm cỡ lớn (có bề thế để tự bảo vệ, và có ảnh hưởng được đến sự bang giao hoà hợp, hữu nghị, hợp tác mọi mặt...).
III. Vấn đề « bản sắc ».
Gần đây, khi đề cập đến « hoà nhập », có người nêu vấn đề « giữ gìn bản sắc dân tộc ». Trên điểm này, tôi có sự băn khoăn, bởi vì: « bản sắc dân tộc (Việt Nam) » đã được định nghĩa cụ thể là cái gì chưa, (trước khi luận chuyện « giữ gìn »), trong khi chính người Việt Nam trong nước, xã hội Việt Nam, cũng đang thay đổi, tiến triển, để rồi dần dần hoà mình trong cộng đồng quốc tế? Tôi lại càng băn khoăn khi nhận thấy rằng có vài người cắt nghĩa việc « giữ gìn bản sắc » là « giữ gìn huyết thống và giữ gìn phong cách, phong tục, theo cổ lệ ».
Về phần riêng tôi, tôi muốn nghĩ đến « bản sắc văn hoá Việt Nam », mà tôi mong cộng đồng người gốc Việt ở ngoài nước vun xới và phát huy. « Bản sắc văn hoá » này bao gồm: lịch sử chung của người Việt Nam, tiếng nói, vốn văn hoá, vốn nghệ thuật, phong cách sống, vv., tức là những vấn đề thuộc về cỗi rễ của mình. Cái dở thì mình bỏ đi. Cái đẹp, cái hay thì mình làm sáng tỏ thêm, phù hợp hoá nó, không những để giữ gìn cho mình, cho cộng đồng riêng của mình, mà còn làm « giàu » thêm cho xã hội mình đang hoà nhập vào, cũng như cho xã hội cỗi rễ của mình. Nói như vậy, không có nghĩa là phải hùng hục và hùng hổ nhồi vào mỗi cá nhân, nào là học tiếng Việt, nào là học lịch sử Việt Nam, nào là tập dợt văn nghệ Việt Nam, nào là giữ gìn phong tục Việt Nam, vv. Vấn đề vun xới, phát huy « bản sắc văn hoá Việt Nam » đây thuộc về trách nhiệm tập thể hội đoàn, cộng đồng; để cho mỗi cá nhân thấy hấp dẫn, thấy tự hào; và để khi có điều kiện và khi có ý muốn, những cá nhân đó có thể « tham gia » vào một hay nhiều lĩnh vực thuộc vấn đề bản sắc văn hoá này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét